Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Văn phần Thơ và truyện năm 2024

Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn phần thơ và truyện giới thiệu tới các em nội dung chính, những kiến thức cơ bản trọng tâm nhất của các tác phẩm văn xuôi cũng như thơ thời kì trung đại và hiện đại. Hi vọng tài liệu Ngữ văn này sẽ giúp các em học sinh ôn tập và củng cố kiến thức hiệu quả môn Ngữ văn 9, từ đó chuẩn bị tốt nhất cho kì thi vào lớp 10 sắp tới.

A. DANH MỤC CÁC VĂN BẢN TRỌNG TÂM 


THƠ

TRUYỆN

Trung đại

Truyện Kiều của Nguyễn Du

Chuyện người con gái Nam Xương

Cảnh ngày xuân

Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh

Chị em Thúy Kiều

Hoàng Lê nhất thống chí

Kiều ở lầu Ngưng Bích

Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

Hiện đại

Đồng chí

Làng

Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Đoàn thuyền đánh cá

Lặng lẽ Sa Pa

Bếp lửa

Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ

Chiếc lược ngà

Ánh trăng

Con cò

Bến quê

Mùa xuân nho nhỏ

Viếng Lăng Bác

Những ngôi sao xa xôi

Sang thu

Nói với con

B. NỘI DUNG  

Văn bản 1: Truyện Kiều của Nguyễn Du 

I.  Những nét chính về tác giả Nguyễn Du

1. Thời đại

- Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong một thời đại lịch sử (cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX) đầy những biến động dữ dội.

+ Chế độ phong kiến rơi vào khủng hoảng sâu sắc, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực dẫn đến Lê - Trịnh suy tàn

+ Phong trào nông dân nổ ra khắp nơi, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, đã đánh đổ các tập đoàn phong kiến thống trị và đánh tan hai mươi vạn quân xâm lược nhà Thanh.

+ Nhà Tây Sơn tồn tại khoảng 24 năm thì sụp đổ, nhà Nguyễn lên trị vì.

    Tất cả những biến động đó đã ảnh hưởng lớn đến cuộc đời và con người của Nguyễn Du.

2. Tác giả Nguyễn Du

a. Cuộc đời

- Nguyễn Du (1765 - 1820), tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

- Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống hiếu học.

+ Cha ông là Nguyễn Nghiễm, từng làm tể tướng 15 năm.

+ Anh trai cùng cha khác mẹ - Nguyễn Khản cũng làm đến chức Tham Tụng (ngang với Tể Tướng).

- Ông sinh ra và lớn lên ở kinh đô Thăng Long sầm uất, phồn hoa, đô thị.

    Ngay từ rất sớm Nguyễn Du đã được tiếp nhận một nền giáo dục tiến bộ của thời đại, cũng như kế thừa được truyền thống văn hóa thi thư của gia đình.

- Song tuổi thơ của Nguyền Du không hẳn là bình yên, êm ả mà trái qua khá nhiều những thăng trầm, mất mát.

+ Năm 10 tuổi ông mồ côi cha.

+ Năm 12 tuổi ông tuổi mồ côi mẹ.

+ Nguyễn Du phải sống cùng người anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản.

- Do những xoay vần, biến động dữ dội của lịch sử, gia đình Nguyễn Du cũng sớm rơi vào sa sút.

+ Khi triều Lê - Trịnh sụp đổ, nhà Tây Sơn lên thay, Nguyễn Du phải phiêu bạt 10 năm nơi đất Bắc (10 năm gió bụi), rồi về ở ẩn tại Hà Tĩnh. Đây là những năm tháng ông sống trong cảnh nghèo đói, túng bấn và tủi nhục.

+ Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, Nguyễn Du bất đắc chí phải ra làm quan và giữ nhiều trọng trách quan trọng. Ông hai lần được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc nhưng lần thứ hai, chưa kịp đi thì lâm bệnh nặng rồi mất tại Huế năm 1820. 

    Cuộc đời Nguyễn Du kinh qua đầy những thăng trầm, biến động. Song, tất cả góp phần tạo nên dấu ấn cho những tác phẩm nổi tiếng và có giá trị sâu sắc của ông.

b. Con người

- Nguyễn Du là người thông minh, tài trí, có hiểu biết sâu rộng, có vốn sống phong phú, lại sinh ra và lớn lên ở những nơi được coi là cái nôi văn hóa của đất nước.

- Sớm phải chịu cảnh mồ côi, nên cuộc đời ông trải qua nhiều gian truân, trôi dạt, long đong. Đặc biệt là “mười năm gió bụi”, được tiếp xúc với nhiều kiểu người, chứng kiến nhiều cảnh đời và nhiều số phận khác nhau. Chính những vốn sống thực tế phong phúniềm cảm thông sâu sắc đó đã tạo cho ông cảm hứng để sáng tác nên nhiều tác phẩm văn học giá trị.

- Truyền thống thi thư của gia đình đã cho ông nàng khiếu văn chương. Nhưng hơn tất cả, Nguyễn Du còn là người có một trái tim giàu yêu thương và một tầm hồn nhạy cảm, tinh tế luôn cảm thông cho những đau thương, cực khổ của nhân dân.

- Ông là người thanh liêm và có nhân cách sống cao thượng. Trước tình hình rối ren, nhũng nhiễu của bọn quan lại, chỉ biết vinh thân phì gia, ông đã hết sức khinh bỉ.

c. Sự nghiệp văn chương

- Nguyễn Du - Đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, ông đã có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của văn học dân tộc.

- Sự nghiệp vàn chương của Nguyễn Du gồm những tác phẩm được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm và đều đạt đến trình độ cổ điển.

+ Các tập thơ chữ Hán: Có 3 tập, gồm 243 bài: Thanh Hiên thi tập; Nam trung thi tập; Bắc hành tạp lục.

+ Các tác phẩm chữ Nôm: Có 2 kiệt tác: Văn tế thập loại chúng sinh và Đoạn trường tán thanh (“Truyện Kiều”).

    Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du không phải quá đồ sộ về mặt số lượng, song nó đã kết tinh được những tinh hoa văn hóa thời đại để trở thành đỉnh cao của văn học dân tộc nói riêng và nhân loại nói chung.

II. Những nét chính về tác phẩm “Truyện Kiều”

1. Nguồn gốc và sự sáng tạo của Nguyễn Du

- “Truyện Kiều” được Nguyễn Du viết vào khoảng đầu thế kỉ XIX (1805 - 1809). Nó là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại thơ Nôm được viết bằng thơ lục bát, gồm 3254 câu.

- “Truyện Kiều” có nguồn gốc từ một truyện bên Trung Quốc: “Kim Vân Kiều Truyện” của tác giá Thanh Tâm Tài Nhân - một tác phẩm văn xuôi viết chữ Hán, có kết cấu chương hồi. Lúc đầu truyện có tên là “Đoạn trường tân thanh” (Tiếng kêu mới về nỗi đau đứt ruột).

- Với cảm hứng nhân đạo cao cả và xuất phát từ thực tế cuộc sống, xã hội, con người Việt Nam, Nguyễn Du đã có những sáng tạo độc đáo cho tác phẩm. Phần sáng tạo của Nguyễn Du là hết sức to lớn: viết nên một tác phẩm trữ tình bằng chữ Nôm; sử dụng thể thơ của dân tộc; nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tài tình;...

    “Truyện Kiều” xứng đáng là đỉnh cao của văn học dân tộc, là tinh hoa văn hóa ánh mãi ngàn đời. Và đúng như Giáo sư Đào Duy Anh viết: “Nếu Nguyên Trãi với “Quốc âm thi tập" là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học dân tộc thì Nguyễn Du với “Truyện Kiều” lại là người đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta”.

2. Tóm tắt

a. Phần thứ nhất: Gặp gỡ và đính ước.

    Gia đình Vương viên ngoại thuộc tầng lớp trung lưu có ba người con: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Thúy Kiều là chị, nàng nổi tiếng là người con gái tài sắc vẹn toàn. Trong buổi du xuân nhân tiết thanh minh, nàng gặp Kim Trọng - một con người hào hoa, phong nhã. Giữa hai người nhanh chóng nảy sinh những tình cảm tốt đẹp. Sau đó, hai người chủ động thề nguyện đính ước nguyện chung thủy với nhau suốt đời.

b. Phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc

    Đúng lúc đó, Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, gia đình Kiều bị mắc oan. Nàng phải dứt tình với Kim Trọng, bán mình cứu cha và em. Nàng rơi vào tay Mã Giám Sinh, Tú Bà, bọn trùm lầu xanh. Đau khổ, Kiều tự vẫn nhưng không thành rồi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Nàng bị Sở Khanh lừa, bị bắt, bị đánh đập và phải chịu tiếp khách làng chơi. Nàng gặp Thúc Sinh, một người buôn bán giàu có, chuộc nàng về làm vợ lẽ. Nhưng nàng lại bị Hoạn Thư bày mưu bắt về đánh đập, bắt làm con ở để hầu đàn, hầu rượu. Kiều lại bỏ trốn khỏi nhà Hoạn Thư và nương nhờ nơi cửa Phật. Song sư Giác Duyên lại vô tình gửi nàng cho Bạc Bà – kẻ buôn người, để lần thứ hai Kiều lại rơi vào lầu xanh. Lần này Kiều gặp Từ Hải, người anh hùng trí dũng song toàn. Nhờ uy Từ Hải, Kiều đã báo được ân, trả được oán. Chẳng bao lâu, Từ Hải mắc mưu Hồ Tôn Hiến mà chết. Kiều bị làm nhục, bị ép gả cho Thổ Quan. Quá tủi cực, Kiều tự vẫn ở sông Tiền Đường nhưng được Giác Duyên cứu sống và lần thứ hai nàng nương nhờ cửa Phật.

c. Phần thứ ba: Đoàn tụ

    Sau khi đỗ đạt làm quan, Kim Trọng đã cất công ròng rã đi tìm Kiều. Đến sông Tiền Đường, biết nàng tự vẫn, Kim Trọng đã lập đàn giải oan cho nàng. Tình cờ sư Giác Duyên đi qua mà Kim, Kiều tìm được nhau và đoàn tụ với gia đình.

3. Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật

3.1. Giá trị nội dung

a. Giá trị hiện thực

- Truyện Kiều là bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội bất công, tàn bạo. Nơi mà các tầng lớp thống trị và các thế lực hắc ám sẵn sàng chà đạp lên quyền sống của con người.

+ Đó là một xã hội đảo điên, nơi mà đồng tiền lên ngôi và có giá trị vạn năng. Trong tác phẩm, đã 17 lần Nguyễn Du tập trung để nói về sự hung hiểm, hai mặt của đồng tiền, trong đó có thể kể đến câu: “Trong tay đã có đồng tiền/ Giàu lòng đổi trắng thay đen khó gì?”...

+ Đó là một xã hội đầy rẫy nhưng kẻ lưu manh, côn đồ, đội lốt người để ức hiếp, bóc lột, chà đạp không thương tiếc lên nhân phẩm của những người hiền lành, lương thiện: Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Hồ Tôn Hiến, Hoạn Thư, Ưng Khuyển,...

+ Đó là xã hội mà bọn quan lại ngang ngược, tham lam, lật lọng, là nguồn gốc cho mọi sự xấu xa, bất công, bỉ ổi: Tổng đốc Đại thần Hồ Tôn Hiến, đại diện cho triều đình, nhưng lại hèn hạ, phản trắc, lừa giết một người đã quy hàng (Từ Hải).

+ Đó là một xã hội không có công lí, pháp luật hay sự công bằng. Nó dễ dàng bị đồng tiền mua chuộc, dễ dàng đổi trắng thay đen và tiếp tay cho mọi sự xấu xa hoành hành: Gia đình Kiều bị đổ oan, bị bắt bớ, tra tấn nhưng công lí chỉ xuất hiện khi “Có ba trăm lạng việc này mới xong”.

- “Truyện Kiều” còn là bức tranh hiện thực về số phận những con người bị chà đạp, áp bức, đau khổ, đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ thông qua nhân vật Thúy Kiều.

+ Bị tước đoạt những quyền cơ bản nhất của con người: Quyền được yêu, quyền được sống, quyền được hưởng hạnh phúc gia đình.

+ Nhân phẩm bị chà đạp một cách thô bạo và tàn nhẫn: Kiều bị coi như một món hàng, có thể mua đi bán lại và bị đánh đập tàn nhẫn: “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” là sự tổng kết đau đớn về cuộc đời Kiều sau 15 năm đoạn trường.

b. Giá trị nhân đạo

Đây là giá trị cơ bản của tác phẩm, được thể hiện trên các phương diện sau:

- “Truyện Kiều” là tiếng nói đề cao tình yêu tự do, khát vọng công lí và ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người.

+ Thể hiện ước mơ đẹp đẽ về một tình yêu tự do, hồn nhiên, trong sáng, thủy chung trong một xã hội mà quan niệm về tình yêu và hạnh phúc gia đình còn khắc nghiệt: Kim Trọng và Thúy Kiều đã dám bước qua bức tường phong kiến kiên cố để tiến đến một tình yêu tự do: họ gặp gỡ và chủ động thề nguyền, đính ước.

+ Thế hiện khát vọng về một xã hội công bàng, dân chủ, tự do không còn bất công, tù túng, ngột ngạt: Người anh hùng Từ Hải chính là đại diện cho khát vọng tự do, công lí đã dám đứng lên để chống lại cá một xà hội cũ kĩ, thối nát, tàn bạo.

+ Ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người: vẻ đẹp của tài sắc, trí thông minh, sự chung thủy, lòng hiếu thảo, đức vị tha... mà Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải là hiện thân cho những vẻ đẹp đó.

- “Truyện Kiều” là tiếng nói xót thương, cảm thông với nỗi đau khổ của con người mà đặc biệt là người phụ nữ: Trước hết là ông dành cho Thúy Kiều bằng cái lòng cảm thương sâu sắc nhất; sau đó là ông dành cho tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến niềm cảm thương lớn lao: "Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời răng bạc mệnh cũng là lời chung”.

- “Truyện Kiều” là tiếng nói tố cáo, lên án chế độ phong kiến, các thế lực xấu xa, tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người.

    “Truyện Kiều" đã truyền tải được những tư tưởng nhân đạo sâu sắc, tiến bộ và giàu tính chiến đấu để xứng đáng trở thành kiệt tác ngàn đời.

3.2 Giá trị nghệ thuật

Truyện Kiều” là sự kết tinh của những thành tựu văn học dân tộc trên các phương diện:

a. Nghệ thuật tự sự có bước phát triển vượt bậc: Nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật tả cảnh.

Nghệ thuật kể chuyện đa dạng: Trực tiếp (lời nhân vật), gián tiếp (lời tác giả), nửa trực tiếp (lời tác giả nhưng mang suy nghĩ, giọng điệu nhân vật).

Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Hệ thống nhân vật phong phú, đa dạng với cách xây dựng nhân vật điển hình, có tính cách riêng độc đáo, sinh động.

- Miêu tả ngoại hình nhân vật bằng thủ pháp nghệ thuật:

+ Nhân vật chính diện xây dựng theo lối lí tưởng hóa bằng thủ pháp ước lệ: Miêu tả nhân vật Thúy Vân, Nguyễn Du viết: “Vân xem trang trọng khác vời/Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”; còn nhân vật Từ Hải:Râu hùm, hàm én, mày ngài/ Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.

+ Nhân vật phản diện được xây dựng theo lối hiện thực bằng biện pháp cụ thể: Miêu tả nhân vật Tú Bà, Nguyễn Du viết: “Thoắt trông nhờn nhợt màu da/ Ăn gì cao lớn đây đã làm sao?”.

- Miêu tả ngoại hình để tái hiện lên tính cách nhân vật:

+ Ngoại hình Thúy Vân: “Vân xem trang trọng khác vời/Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang" gợi lên sự trầm tĩnh, dịu dàng, đoan trang, quý phái.

+ Ngoại hình Thúy Kiều: “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh" gợi một tâm hồn qua đôi mắt đa sầu, đa cảm.

- Miêu tả ngoại hình để tiên đoán về số phận nhân vật:

+ Miêu tả Thúy Vân: “Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da" đã tiên đoán về một cuộc đời êm đềm, ít sóng gió.

+ Miêu tả Thúy Kiều: “Làn thu thủy nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh" cho thấy sự hậm hực, “ghen", “hờn" cua tạo hóa trong câu thơ đã dự báo một cuộc đời đầy sóng gió, gian truân phía trước đang chờ Kiều.

- Miêu tả ngôn ngữ, hành động để gợi tính cách nhân vật:

+ Miêu tả Từ Hải: “Quyết lời dứt áo ra đi/ Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi", hành động dứt khoát, mạnh mẽ của một đấng trượng phu.

+ Miêu tả Mã Giám Sinh: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng", hành động huênh hoang, thô lỗ, hợm hĩnh của “quân buôn thịt, bán người".

- Miêu tả nhân vật qua diễn biến nội tâm: Tâm trạng cô đơn, buồn tủi của Kiều trước lầu Ngưng Bích: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”...

* Nghệ thuật tả cảnh độc đáo

- Nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên:

+ Tả cảnh thiên nhiên bằng các chỉ tiết tạo hình:Ngày xuân con én đưa thoi/ Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.

+ Tả cảnh thiên nhiên bằng cách điểm nhấn: Chỉ tả một vài chi tiết đặc sắc nhưng vẽ lên một khung cảnh tuyệt đẹp: “Cỏ non xanh tận chân trời/ Cành lê trăng điểm một vài bông hoa”.

+ Tả cảnh thiên nhiên trong những thời gian và không gian khác nhau: Tà tà bóng ngả về tây/ Chị em thơ thẩn dan tay ra về”.

- Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình:

+ Mượn và tả cảnh thiên nhiên để nói lên tâm trạng, cảm xúc của nhân vật:Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi".

+ Khung cảnh thiên nhiên được tả qua tâm trạng của nhân vật: Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh".

b. Nghệ thuật ngôn từ và thế loại đạt đến đỉnh cao

- Ngôn từ “Truyện Kiều" là ngôn ngữ tinh hoa của dân tộc nên trong sáng, mĩ lệ và dồi dào sắc thái biểu cảm.

- Ngôn ngữ “Truyện Kiều" không chỉ có chức năng biểu đạt (phản ánh), biểu cảm (bộc lộ cảm xúc) mà còn có chức năng thẩm mĩ (vẻ đẹp của ngôn từ).

- Ngôn ngữ “Truyện Kiều" kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, tạo thành thứ ngôn ngữ thơ ca vừa hàm súc vừa trang nhã, giản dị.

- Sử dụng thể thơ lục bát - thể thơ của dân tộc Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao.

    “Truyện Kiều” xứng đáng trở thành kiệt tác số một, là “quốc hồn quốc túy" của nền văn học dân tộc.

II. Tổng kết

- Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Ông đã có đóng góp to lớn đối với sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.

- “Truyện Kiều” đạt đến đỉnh cao về mặt nghệ thuật để xứng đáng là kiệt tác của muôn đời.

Văn bản 2: Cảnh ngày xuân 

I. Những nét chính về tác phẩm

1. Vị trí và nội dung đoạn trích

- Vị trí: Nằm trong phần I của tác phẩm, sau đoạn tả tài sắc chị em Thúy Kiều - “Gặp gỡ và đính ước”.

- Nội dung: Đoạn trích là một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp về cảnh ngày xuân trong tiết thanh minh. Đó là bối cảnh để Thúy Kiều gặp gỡ Kim Trọng và khóc thương trước số phận của Đạm Tiên. Đồng thời nó cũng bộc lộ nhiều tâm trạng của cả hai chị em trong chuyến du xuân ấy.

2. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 4 câu đầu: Cảnh thiên nhiên ngày xuân.

- Phần hai: 8 câu tiếp: Cảnh lễ hội trong tiết thanh minh.

- Phần ba: 6 câu cuối: Cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảnh thiên nhiên ngày xuân (bốn câu đầu)

• Không gian và thời gian của khung cảnh thiên nhiên ngày xuân được Nguyễn Du phác họa ở ngay hai câu thơ đầu:

Ngày xuân con én đưa thoi,

Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.”

- Tác giả lựa chọn một hình ảnh ẩn dụ rất quen thuộc cho cảnh ngày xuân: “con én đưa thoi”.

+ Tả thực những cánh én bay lượn, chao liệng như thoi đưa trên bầu trời xuân.

+ Gợi không gian cao rộng của bầu trời và một luồng không khí ấm áp.

+ Gợi những bước đi nhanh, vội của thời gian như những cánh chim vụt bay.

- Khung cảnh ngày xuân tiếp tục được phác họa qua các nét vẽ ở những vần thơ: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”.

+ Từ “thiều quang” tả thực những tia nắng lấp lánh cua ngày xuân.

+ Gợi một không gian ngày xuân tươi đẹp, rực rỡ, trong lành.

+ Gợi thời điểm vào tháng ba của mùa xuân, tháng mà thiên nhiên đạt đến độ viên mãn nhất, rực rỡ nhất.

    Những hình ảnh thơ gợi về sự chuyển động nhanh, vội của thời gian đồng thời nói nên tâm trạng có chút tiếc nuối của chị em Thúy Kiều.

    Nguyễn Du đã phác họa được một bức tranh thiên nhiên của một ngày xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Qua đó, đã gợi tả được bao nỗi niềm, tâm trạng của nhân vật trữ tình.

• Hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã tái hiện một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với hai gam màu chủ đạo là xanh, trắng:

“Cỏ non xanh tận chân trời,

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”

- Chỉ cần đơn giản là hình ảnh “cỏ non" song lại tả, gợi được rất nhiều cho bức tranh xuân:

+ Tả một không gian mênh mông một màu xanh non của cỏ.

+ Gợi chúng ta liên tưởng đến sức sống tràn trề của mùa xuân.

+ Từ “tận" đã làm cho không gian xuân như được mở rộng bao la, bát ngát.

- Hình ảnh “cành lê trắng điểm” cho thấy sự tài tình trong bút pháp chấm phá của Nguyễn Du.

+ Trên nền màu xanh non ấy điếm xuyết một vài bông hoa lê trắng làm cho không gian như thoáng đạt, nhẹ nhàng và thanh khiết hơn.

+ Từ “điểm” gợi sự thanh thoát, như đôi tay của người họa sĩ, khiến cảnh vật như sống động, có hồn chứ không tĩnh tại.

+ Tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ: đảo từ “trắng" lên trước làm cho sắc trắng hoa lê thêm tinh khôi, như kết tinh những tinh hoa của trời đất.

- Trong bức tranh xuân ấy, tác giả đã sử dụng những gam màu hòa phối rất đỗi hài hòa: màu xanh của cỏ, sắc trắng của hoa lê.

    Với bút pháp chấm phá tài tình, Nguyễn Du đã rất thành công khi phác họa một bức tranh ngày xuân khoáng đạt, tinh khôi, trong trẻo và tràn trề sức sống. Đồng thời, qua đó còn gợi lên được bao cảm xúc tươi vui, phấn chấn cũng như chút bâng khuâng, tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình.

2. Khung cảnh lễ hội trong tiết thanh minh (tám câu tiếp)

a. Những hoạt động trong tiết thanh minh (hai câu thơ dầu)

Hai câu thơ giới thiệu về những hoạt động trong tiết thanh minh cho thấy Nguyễn Du xứng đáng là bậc thầy về nghệ thuật sử dụng ngôn từ:

“Thanh minh trong tiết tháng ba,

Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh.”

- Sử dụng nghệ thuật tiểu đối: Tách hai từ “lễ hội” ra làm đôi để gợi tả hai hoạt động diễn ra cùng một lúc trong tiết thanh minh:

+ “Lễ tảo mộ”. Đi viếng và sửa sang phần mộ của người thân, gia đình, tổ tiên. Gợi sự tri ân của những nam thanh, nữ tú trong ngày đi chơi xuân.

+ “Hội đạp thanh”: Đi chơi xuân ở chốn đồng quê và giẫm lên cỏ xanh. Gợi ngày hội vui mùa xuân của nam thanh nữ tú để có thể tìm đến những sợi tơ hồng của mai sau.

    “Lễ” và “hội” trong tiết thanh minh là hai hoạt động văn hóa khác biệt nhưng trong thơ Nguyễn Du lại có một sự giao hòa độc đáo.

b. Không khí của ngày hội xuân (sáu câu thơ tiếp)

• Không khí tưng bừng, tấp nập của lễ hội được gợi lên qua hàng loạt từ hai âm tiết giàu sắc thái biểu cảm:

“Gần xa nô nức yến anh,

Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.

Dập dìu tài tử giai nhân,

Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”

- Các danh từ:yến anh”, “chị em”, “tài tử”, “giai nhân” gợi tả sự đông vui, tấp nập trong ngày hội xuân.

- Các động từ:sắm sửa”, “dập dìu” gợi tả không khí rộn ràng, náo nhiệt trong ngày hội.

- Các tính từ:gần xa”, “nô nức” gợi tả tâm trạng hồ hởi, phấn khởi của người đi hội.

• Không khí lễ hội được tô đậm hơn qua một số biện pháp tu từ:

- Hình ảnh ẩn dụ: nô nức yến anh

+ Gợi từng đoàn người đi chơi xuân, đông đúc, dập dìu như những bầy chim yến, chim oanh ríu rít.

+ Gợi những cuộc chuyện trò xôn xao, tình tứ của những đôi uyên ương trong ngày xuân.

- Hình ảnh so sánh:ngựa xe như nước, áo quần như nêm” gợi cho người đọc hình dung được sự đông đúc của từng dòng người đi trẩy hội.

• Bên cạnh không khí tưng bừng, náo nhiệt ấy, Nguyễn Du đã khéo léo đan cài một khoảng lặng, khiến cho không gian cũng như tâm trạng con người như chùng xuống:

“Ngổn ngang gò đống kéo lên,

Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay.”

- Hình ảnh “ngổn ngang gò đống", “tro tiền giấy bay" gợi không gian tĩnh lặng, lạnh lẽo, linh thiêng. Và trong không gian ấy, có sự xuất hiện của những nam thanh, nữ tú đang sửa sang, rắc vàng vó, hóa tiền giấy cho những người đã khuất.

- Gợi truyền thống văn hóa, đạo líuống nước nhớ nguồn” tốt đẹp của người Việt. Một lối sống ân nghĩa thủy chung.

    Thông qua buổi du xuân của hai chị em Thúy Kiều, có thể khẳng định: Nguyễn Du là người am hiểu, trân trọng và gìn giữ những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

3. Khung cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về (sáu câu thơ cuối)

Thời gian không ngừng chuyển động, mọi cuộc vui đã đến hồi kết thúc, hai chị em Kiều trở về trên một nền chiều xuân thật đẹp, thanh khiết song đã nhuốm màu tâm trạng:

“Tà tà bóng ngả về tây,

Chị em thơ thẩn đan tay ra về.

Bước lần theo ngọn tiểu khê,

Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.

Nao nao dòng nước uốn quanh,

Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”

- Mọi chuyển động đều nhẹ nhàng:  mặt trời từ từ khuất bóng, bước chân thơ thẩn, dòng nước uốn quanh.

- Hình ảnh “tà tà bóng ngả về tây”:

+ Diễn tả cảnh mặt trời đang lặn, ánh nắng cuối ngày đang tắt dần, không gian đang mờ tối.

+ Gợi không gian buồn vẳng, tĩnh lặng.

+ Gợi tâm trạng bâng khuâng tiếc nuối trong lòng con người.

- Hình ảnh “tiểu khê”, “cầu nho nhỏ” gợi khung cảnh nhỏ bé, thân thuộc, không còn mênh mông, khoáng đạt.

- Hệ thống từ láy được trái đều trong các câu thơ rất giàu giá trị biểu cảm: “tà tà”, “thơ thẩn”, “nho nhỏ”, “thanh thanh”, “nao nao”.

+ Từ láy “thơ thẩn” gợi cảnh chị em Thúy Kiều ra về trong sự bần thần, nuối tiếc, lặng buồn.

+ Đặc biệt, từ lảy “nao nao” gợi nét buồn rất khó tả, thể hiện tâm trạng con người như nhuốm lên cảnh vật.

    Cảnh vật như có linh hồn, phảng phất một nỗi u buồn và mang một vẻ đẹp riêng: xinh xắn và rất đỗi tao nhã của cảnh vật.

    Đoạn thơ không chỉ hay bởi Nguyễn Du sử dụng thành công những biện pháp nghệ thuật, hệ thống từ láy mà còn bởi cái tài tình trong bút pháp cổ điển: tả cảnh ngụ tình.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một bức tranh thiên nhiên sống động, tuyệt đẹp với lễ hội truyền thống đông vui, nhộn nhịp. Thông qua bức tranh ấy, người đọc cảm nhận được một thế giới nội tâm phong phú của nhân vật.

2. Nghệ thuật

- Tài nghệ sử dụng ngôn ngữ bậc thầy: hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm,...

- Bút pháp tả cảnh ngụ tình đạt đến mức độ điêu luyện.

- Biện pháp nghệ thuật: so sánh, ẩn dụ,... đạt đến độ nhuần nhuyễn.

Văn bản 3: Chị em Thúy Kiều 

I. Những nét chính về đoạn trích

1. Vị trí, nội dung đoạn trích

- Vị trí: Nằm ở phần I của tác phẩm, “Gặp gỡ và đính ước”.

- Đoạn trích miêu tả hai bức chân dung xinh đẹp của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều (đặc biệt Thúy Kiều).

- Đồng thời cũng dự báo tương lai, số phận của hai nàng Kiều.

2. Bố cục: Bốn phần

- Phần một: 4 câu đầu: Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều.

- Phần hai: 4 câu tiếp: Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân.

- Phần ba: 12 câu tiếp theo: Gợi tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều.

- Phần bốn: 4 câu cuối: Nhận xét chung về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều (bốn câu đầu)

• Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ, cổ điển để giới thiệu về lai lịch, vị trí trong gia đình và vẻ đẹp của hai chị em:

“Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân

Mai cốt cách tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”

- Lai lịch: Họ là hai người con gái đầu trong gia đình họ Vương.

- Vị trí trong gia đình: Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em.

- Vẻ đẹp của hai chị em:

+ “Mai cốt cách”: Cốt cách thì thanh cao như hoa mai. Đó là một loài hoa mà sắc thì rực rỡ, hương thì quý phái.

+ “Tuyết tinh thần”: Phong thái, tinh thần thì trong trắng, tinh khiết như hoa tuyết.

* Nhịp điệu 4/4, 3/3 ở câu thơ thứ hai, ba nhịp nhàng, đối xứng, làm nổi bật được vẻ đẹp đến độ hoàn mĩ của cả hai chị em.

• Tác giả sử dụng lời bình, để khép lại bốn câu thơ đầu:

- “Mỗi người một vẻ”, cho thấy nét riêng từ nhan sắc, tính cách, tâm hồn của mỗi nhân vật.

- “Mười phân vẹn mười”, đã tô đậm được vẻ đẹp đến độ toàn diện, hoàn hảo của hai chị em.

    Lời giới thiệu vô cùng ngắn gọn, nhưng đã mang đến cho chúng ta nhiều thông tin phong phú và những ấn tượng đậm nét nhất về vẻ đẹp của hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều. Đồng thời, cũng bộc lộ được cảm hứng ca ngợi cái tài hoa, nhan sắc của con người qua nghệ thuật điêu luyện, tài hoa của Nguyễn Du.

2. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân (bốn câu tiếp)

Chỉ bằng bốn câu thơ, Nguyền Du đã tả được một cách đầy đủ, trọn vẹn những đặc điểm của nhân vật Thúy Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.’’

- Câu thơ đầu tiên giới thiệu khái quát phong thái của Thúy Vân:

+ Từ “xem” thể hiện sự đánh giá mang tính chủ quan của người miêu tả.

+ Từ “trang trọng” cho thấy sự xuất hiện của nhân vật Thúy Vân với vẻ đẹp mang phong thái đoan trang, cao sang, quý phái.

     Gợi ấn tượng tốt đẹp về một người phụ nữ trong khuôn khổ, lễ giáo của xã hội phong kiến.

- Tiếp đó, tác giả miêu tả một cách chi tiết, trọn vẹn bức chân dung tuyệt đẹp của nhân vật Thúy Vân qua bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng kết hợp thủ pháp ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, liệt kê và đi kèm những từ ngữ giàu sức gợi:

+ Hình ảnh ẩn dụ:khuôn trăng đầy đặn” đã vẽ nên một khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp, sáng trong như mặt trăng rằm; “nét ngài nở nang” gợi tả một đôi lông mày cong, sắc nét như mày ngài. Cặp lông mày ấy tạo nên vẻ cân xứng, hài hòa trên khuôn mặt trẻ trung của Vân.

+ Hình ảnh nhân hóa:hoa cười ngọc thốt” gợi tả khuôn miệng cười tươi tẳn như hoa nở và tiếng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà; “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” đã gợi tả mái tóc óng ả, nhẹ hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết.

+ Những từ ngữ giàu sức gợi: “đầy đặn”, “nở nang”, “đoan trang” làm nổi bật, nhấn mạnh vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu, quý phái của Vân.

+ Vẻ đẹp đoan trang của Thúy Vân được so sánh với những hình tượng đẹp nhất của thiên nhiên: trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết.

- Nguyễn Du đã sử dụng rất có chọn lọc hai động từ là “thua” và “nhường”. “Mây” và “tuyết” là của thiên nhiên, tạo hóa, hay đó còn là cả một xã hội phong kiến. Và với vẻ đẹp phúc hậu, hài hòa trong khuôn khổ của xã hội phong kiến, thì dẫu cho Vân có đẹp hơn những cái đẹp nhất của thiên nhiên thì nàng vẫn được đón nhận, bao học và yêu thương.

- Đặc biệt, từ bức chân dung ngoại hình của Thúy Vân, ta thấy được tính cách và số phận của nàng: tính cách rất trầm tĩnh, dịu dàng, đoan trang, phúc hậu. Đó là hình mẫu lí tưởng của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Nó dự đoán một số phận, tương lai êm ấm và bình lặng đang chờ đón nàng.

     Bằng bút pháp cổ điển ước lệ, tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc họa thành công bức chân dung của nhân vật Thúy Vân để từ đó gợi cho người đọc thấy được tính cách, và số phận của nàng.

3. Gợi tả vẻ đẹp nhan sắc và tài năng của Thúy Kiều (mười hai câu tiếp)

- Tiếp đó, tác giả miêu tả một cách chi tiết, trọn vẹn bức chân dung tuyệt đẹp của nhân vật Thúy Vân qua bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng kết hợp thủ pháp ẩn dụ, nhân hóa, so sánh, liệt kê và đi kèm những từ ngữ giàu sức gợi:

+ Hình ảnh ẩn dụ:khuôn trăng đầy đặn” đã vẽ nến một khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, xinh đẹp, sáng trong như mặt trăng rằm; “nét ngài nở nang” gợi tả một đôi lông mày cong, sắc nét như mày ngài. Cặp lông mày ấy tạo nên vẻ cân xứng, hài hòa trên khuôn mặt trẻ trung của Vân.

+ Hỉnh ảnh nhân hóa: “hoa cười ngọc thốt” gợi tả khuôn miệng cười tươi tắn như hoa nở và tiếng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà; “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” đã gợi tả mái tóc óng ả, nhẹ hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết.

- Nếu như miêu tả bức chân dung của Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ dùng có bốn câu thì đến Thúy Kiều ông dùng đến mười hai câu. Chứng tỏ, tác giả đã ưu ái, dùng nhiều bút lực và sự yêu mến đặc biệt cho nhân vật này.

- Sự yêu mến đó càng được khẳng định khi Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật đòn bẩy một cách tài tình: Ông miêu tả nhân vật Thúy Vân trước như một tuyệt sắc giai nhân đế làm nổi bật cho vẻ đẹp của Thúy Kiều:

“Kiều càng sắc sáo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.”

- Từ “càng” đứng trước hai từ láy liên tiếp: “sắc sảo”, “mặn mà” để tô đậm vẻ đẹp “sắc sảo” về trí tuệ và vẻ “mặn mà” về tâm hồn của Thúy Kiều.

    Không tả một cách cụ thể nhưng Nguyễn Du đã khắc sâu trong tâm trí người đọc một ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp vượt trội của Thúy Kiều. Lối miêu tả giúp tác giả tránh được sự trùng lặp nhàm chán và phát huy được trí tưởng tượng của độc giả. Đây chính là sự tài hoa và tài tình của Nguyễn Du.

a. Vẻ đẹp nhan sắc

- Khác với Thúy Vân, tác giả không miêu tả cụ thể, chi tiết mà chỉ đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhãn”, tức là vẽ hồn chân dung bằng những hình ảnh mang tính ước lệ:

“Làn thu thủy nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”

+ “Làn thu thủy” là đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng, sâu thẳm, huyền ảo như làn nước mùa thu.

+ “Nét xuân sơn” là đôi lông mày thì thanh tú, xinh đẹp như dáng núi mùa xuân. 

    Không cần phải nhiều nét, nhưng bức chân của nhân vật Thúy Kiều vẫn hiện lên với những gì hoàn mĩ nhất. Đôi mắt, nó không chỉ mang vẻ đẹp của bên ngoài mà đó còn là cửa sổ thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ. Đó cũng chính là cách tả truyền thống trong văn học trung đại: nét đậm đan xen với nét nhạt, chỗ tỉ mỉ, chỗ chấm phá.

- Hình ảnh nhân hóahoa ghen” và “liễu hờn” thể hiện thái độ của thiên nhiên trước vẻ đẹp của Kiều. Ông không tả trực tiếp vẻ đẹp ấy mà tả sự đố kị, ghen ghét để thêm khẳng định cho vẻ đẹp ấy. Và để khách quan, ông đã để cho tạo hóa đánh giá vẻ đẹp nhan sắc của Thúy Kiều.

- Vẻ đẹp của Kiều không chỉ khiến cho hoa phái “ghen”, liều phải “hờn” mà còn khiến cho nước phải nghiêng, thành phải đổ. Một sức ngưỡng mộ, mê say đến điên đảo cho vẻ đẹp của Kiều.

- “Nghiêng nước nghiêng thành'" còn là cách nói sáng tạo từ điển cốnhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc" (ngoảnh lại nhìn một lần thì làm nghiêng thành người, ngoảnh lại nhìn lần nữa thì làm nghiêng nước người) để cực tả vẻ đẹp của bậc tuyệt sắc giai nhân.

- Vẻ đẹp, chân dung của Thúy Kiều cũng dự báo về tính cách và số phận của nàng: Cái đẹp của Kiều không hài hòa mà vượt qua mọi khuôn khổ, chuẩn mực, phép tắc của tạo hóa, xã hội. Vì vậy khiến cho các vẻ đẹp khác phải ghen ghét, oán hận, đố kị và chứa đựng ý muốn trả thù. Nó dự báo về một tính cách, tâm hồn đa sầu, đa cảm, một số phận sóng gió.

    Vẻ đẹp nhan sắc của Thúy Kiều mang một ấn tượng mạnh và sức gợi lớn cho người đọc. Đó là vẻ đẹp tuyệt thế giai nhân, vẻ đẹp của chiều sâu, hơn những gì đẹp nhất.

b. Vẻ đẹp của tài năng và tâm hồn

- Không chỉ miêu tả Kiều là một giai nhân tuyệt thế, Nguyễn Du còn cho thấy nàng là người phụ nữ thông minh, có trí tuệ thiên bẩm và rất đa tài:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương lâu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.”

    Đây là một sự táo bạo của Nguyễn Du khi ông coi trí tuệ của người phụ nữ cũng là một phương diện để ca ngợi. Người phụ nữ trong khuôn khổ của xã hội phong kiến là “tam tòng, tứ đức”, là “công, dung, ngôn, hạnh", là “cầm, kì, thi, họa" và không hề có phương diện thông minh. Cho nên sự thông minh của Kiều được đặt trong bối cảnh của xã hội phong kiến lúc bấy giờ là một sự bứt phá, dũng cảm và táo bạo của Nguyễn Du. Ông đã đưa Kiều vượt khỏi những khuôn mẫu chuẩn mực của xã hội phong kiến.

- Nàng là người con gái đa tài, đủ cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), hoạ (vẽ) và tài nào cũng đạt đến độ xuất chúng. Đặc biệt, tài đàn đã được Nguyễn Du tập trung miêu tả:

+ Đó là năng khiếu, là sở trường của nàng, tài đàn của nàng điêu luyện và vượt lên trên mọi người: “Làu bậc ngũ âm”, “ăn đứt hồ cầm”.

+ Không chỉ vậy, nàng còn giỏi cả sáng tác. “Bạc mệnh" chính là khúc nhạc mà nàng tự viết, khi cất lên, ai ai cũng xúc động.

- Miêu tả tài đàn là một cách mà Nguyễn Du tập trung gợi lên một thế giới tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, đa sầu, đa cảm của Thúy Kiều.

- Đặc biệt cung “Bạc mệnh” như dự báo trước cuộc đời hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố khó tránh khỏi của nàng.

    Qua mười hai câu thơ, chúng ta thấy được vẻ đẹp hội tụ sắc - tài - tình, tất cả đều đến mức lí tưởng, xuất chúng của Thúy Kiều. Đồng thời, cho thấy sự tài hoa của Nguyễn Du trong nghệ thuật miêu tả nhân vật.

4. Nhận xét chung về cuộc sống và phẩm hạnh của hai chị em (bốn câu cuối)

- Hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều không chỉ là những bậc tuyệt thế giai nhân mà họ còn là những người đức hạnh và sống có khuôn phép:

“Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê

Êm đềm trướng ru màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

+ Gia cảnh: Họ sống trong một gia đình “phong lưu”, khuôn phép, nề nếp.

+ Cuộc sống: Êm đềm, bình lặng, kín đáo trong “trướng rủ màn che".

+ “Xuân xanh xấp xỉ”, “tuần cập kê” gợi đến cái tuổi “tóc búi, trâm cài" của cả hai chị em. Song họ vẫn sống một cuộc sống kín đáo, gia giáo sau bốn bức tường khép kín chưa từng biết đến chuyện nam nữ.

    Hai chị em họ vẫn là những thiếu nữ có tâm hồn trong trắng như hai bông hoa vẫn còn trong nhụy, sống trong cảnh êm đềm và chưa một lần hương tỏa vì ai, đúng với khuôn phép, mẫu mực của lễ giáo phong kiến.

5. Cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du qua đoạn trích

- Gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao những giá trị, vẻ đẹp của con người như nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh, khát vọng ý thức về thân phận, nhân phẩm cá nhân.

- Bên cạnh việc trân trọng cái đẹp là những dự cảm đầy xót thương về kiếp người hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố của Nguyễn Du. Đó chính là biểu hiện của tấm lòng thương cảm sâu sắc, tràn đầy cảm hứng nhân văn với con người của Nguyễn Du.

III. Tổng kết

1. Nội dung

    Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã khắc họa rõ nét bức chân dung chị em Thúy Vân và Thúy Kiều. Qua đó ca ngợi vẻ đẹp tài năng của con người và dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh.

2. Nghệ thuật

- Bút pháp ước lệ tượng trưng tạo được sức gợi.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật tinh tế: xây dựng được những bức chân dung đa dạng, linh hoạt, thu hút.

- Nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo, đặc biệt là lựa chọn những từ ngữ có giá trị gợi tả cao.

Văn bản 4: Kiều ở lầu Ngưng Bích

I. Những nét chính về tác phẩm

1. Vị trí, nội dung đoạn trích

- Vị trí: Đoạn trích nằm trong phần II: “Gia biến và lưu lạc”.

- Nội dung đoạn trích: Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, Kiều đau đớn, phẫn uất, toan tự tử, nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi. Tú Bà sợ mất “cả chì lẫn chài” bèn lấy lời ngon ngọt khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Mụ đưa Kiều giam lỏng ở lầu Ngưng Bích song thực chất là để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn.

- Sống trong cảnh cô tịch chỉ có nước với trời đã khiến cho nỗi cô đơn của Kiều thăng hoa, dệt thành những câu thơ tả cảnh ngụ tình tuyệt tác.

2. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 6 cầu đầu: Cảnh ngộ và nỗi niềm của Kiều.

- Phần hai: 8 câu tiếp: Nỗi nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều.

- Phần ba: 8 câu cuối: Tâm trạng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảnh ngộ và nỗi niềm của Thúy Kiều (sáu câu thơ đầu)

• Sau bao sóng gió dập vùi, lầu Ngưng Bích là chốn yên thân tạm thời của Thúy Kiều:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”

- Hai chữ “khóa xuân” đã nói lên hoàn cảnh đáng thương đang bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích của Kiều.

- Đặc biệt, từ “khóa xuân” thường được sử dụng để chỉ người con gái đẹp trong gia đình quyền quý thời xa xưa bị khóa kín tuổi xuân trong những khuôn khổ, phép tắc của gia đình và xã hội. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng từ “khóa xuân” với hàm ý mỉa mai để nói về cảnh ngộ xót xa, trớ trêu của Kiều.

• Quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích hiện lên mênh mông, hoang vắng và lạnh lẽo:

“Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hông dặm kia.”

- Không gian vô cùng rộng lớn, mênh mông, bát ngát:

+ Hình ảnh “non xa”, “trăng gần” gợi không gian dài, rộng, cao, sâu vô tận. Đồng thời, gợi sự chơ vơ, chênh vênh, trơ trọi của lầu Ngưng Bích.

+ Từ láy “bát ngát” càng tô đậm hơn cái vô cùng, vô tận của không gian.

- Không gian vô cùng trống trải, hoang vắng, không có dấu hiệu của sự sống: 

+ Hình ảnh liệt kê “cát vàng”, “bụi hông" đã nói đến sự phai nhạt của sự sống và ngổn ngang của cảnh vật.

+ Cặp tiểu đối “mây sớm”“đèn khuya” gợi nỗi hắt hiu, trống vắng mênh mông của thiên nhiên.

    Quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích cô liêu, thiếu vắng sự sống, gợi nỗi buồn cho thân phận nhân vật.

• Quang cảnh đó đã gợi ở Kiều bao nồi niềm tâm trạng:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

- Sự cô đơn, lẻ loi đến cùng cực:

+ Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người và để khắc sâu thêm nỗi cô đơn.

+ Trong khung cảnh “bốn bề bát ngát” đó, Kiều chỉ biết bầu bạn với những vật vô tri, vô giác.

- Sự ngổn ngang trăm mối, day dứt, âu lo:

+ Xa trông” gợi lên sự trông ngóng của Thúy Kiều hướng về một dấu hiệu của sự sống hay quen biết nào đó.

+ Hình ảnh liệt kê “cát vàng, “cồn nọ”, “bụi hồng”,... trải đều ở các câu thơ đã gợi lên sự ngổn ngang trong lòng Thúy Kiều.

- Nỗi chua xót, “bẽ bàng” cho thân phận:

+ Bị đày đọa trong không gian vô cùng và thời gian vô tận lại càng khắc sâu nỗi cô đơn cùng cực khiến nàng cảm thấy “bẽ bàng”.

+ Cụm từ “như chia tấm lòng” diễn tả nồi niềm chua xót, nỗi lòng tan nát của Kiều.

    Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp hệ thống hình ảnh ước lệ, ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm, Nguyễn Du đã khắc họa bức tranh thiên nhiên mênh mông, vắng lặng. Và trên nền của khung cảnh ấy là hình ảnh nàng Kiều lẻ loi, cô độc với bao nỗi niềm tâm sự đau thương.

2. Nỗi nhớ chàng Kim và nỗi nhớ cha mẹ (tám câu thơ tiếp)

a. Nỗi nhớ chàng Kim

• Trong cảnh ngộ cô đơn nơi chân trời góc bể, Kiều đau đớn nhớ tới chàng Kim, mối tình đầu mãnh liệt mà trong sáng của nàng:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.”

- Tại sao nỗi nhớ chàng Kim là nỗi nhớ đến trước mà không phải là cha mẹ? Bởi khi Kiều bán mình chuộc cha là nàng đã làm tròn chữ hiếu mà dang dở chữ tình. Cái mặc cảm của một kẻ phụ tình luôn thường trực trong suy nghĩ của nàng nên nó đã xuất hiện trước.

- Nói về nỗi nhớ người yêu của Thúy Kiều, Nguyền Du không dùng từ “nhớ” mà dùng từ “tưởng”:

+ Từ “tưởng” vừa là nhớ, vừa là hình dung, tưởng tượng ra người mình yêu.

+ Kiều “tưởng” như thấy lại đêm trăng đẹp nhất của cuộc đời mình. Cái đêm mà nàng cùng với Kim Trọng thề nguyền đính ước bên nhau.

+ Thúy Kiều như tưởng tượng thấy, ở nơi xa kia, người yêu cũng đang hướng về mình, đang ngày đêm đau đáu chờ tin nàng: “Tin sương luống những rày trông mai chờ”.

• Càng nhớ chàng Kim, càng nuối tiếc mối tình đầu, Kiều càng thấm thìa tình cảnh của mình:

“Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.”

+ Kiều tủi nhục khi tấm lòng son sắc đã bị vùi dập, hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa được.

+ Dẫu vậy, tấm lòng thủy chung, son sắt của nàng vẫn không nguôi nhớ về Kim Trọng.

    Tấm lòng vị tha, thủy chung son sắt trước sau như một của Thúy Kiều thật đáng trân trọng.

b. Nỗi nhớ cha mẹ ở nơi xa

Tâm trạng đau đớn, thương nhớ người yêu hẳn chưa nguôi, Kiều lại chồng chất thêm nỗi nhớ thương cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nông ấp lạnh những ai đó giờ

Sân lai cách mấy nắng mưa,

Cỏ khi gốc tử đã vừa người ôm.”

- Chữ “xót” diễn tả một cách chính xác tấm lòng của Kiều dành cho cha mẹ.

- Nàng xót xa khi hình dung ra chốn quê nhà cha mẹ vẫn ngày đêm tựa cửa ngóng trông, lo lắng cho nàng.

- Nàng tự trách bản thân vì chưa làm tròn chữ hiếu:

+ Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh” cho thấy sự day dứt khôn nguôi vì không thể tự hầu hạ, chăm sóc, nâng giấc cho cha mẹ.

+ Nàng lo lắng không biết giờ đây ai là người chăm sóc cha mẹ khi thời tiết đổi thay.

+ Nàng tưởng tượng nơi quê nhà đã đổi thay, “góc tử đã vừa người ôm”, thời gian trôi đi mẹ ngày càng già yếu mà mình thì không thể phụng dường.

- Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói được sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa gợi sự tàn phá của thời gian đối với cảnh vật của con người, làm cho cha mẹ ngày càng già yếu, và cần bàn tay chăm sóc của nàng.

- Nỗi nhớ được bộc lộ qua ngôn ngữ độc thoại nội tâm nên càng chân thực, cảm động.

    Nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng và cha mẹ đã nói lên nhân cách đáng trân trọng của nàng. Trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích, nàng mới là người đáng thương nhất. Nhưng quên đi cảnh ngộ của bản thân, nàng đã hướng yêu thương vào những người thân yêu nhất. Nàng thật sự là một người tình thủy chung, một người con hiếu thảo, một con người có tấm lòng vị tha, cao cả.

3. Tâm trạng của Kiều qua cách nhìn cảnh vật (tám câu thơ cuối)

- Mọi cảnh vật qua con mắt Kiều đều gợi lên những nét buồn da diết:

+ Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại và điệp từ: Mỗi cặp lục bát làm thành một cảnh và đều được tác giả khắc họa, liên kết qua điệp từ “buồn trông”.

+ “Buồn trông” có nghĩa là buồn mà nhìn ra xa trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay hiện tại, nhưng trông mà vô vọng.

+ “Buồn trông” có cả cái thảng thốt lo âu, có cái xa lạ cuốn hút tầm nhìn của người con gái ngây thơ, lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang trái, mang tính dự cảm hãi hùng.

- Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đó đã diễn tả nỗi buồn ngày càng tăng với nhiều sắc độ khác nhau như những con sóng lòng không sao chịu nổi, những nồi buồn vô vọng, vô tận:

• Cảnh đầu tiên:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

+ Là bức tranh của cảnh chiều hôm nhớ nhà. Thời gian “chiều hôm” khiến cho nỗi buồn thân phận trở nên thấm thía.

+ Hình ảnh ẩn dụ “cánh buồm” là hình ảnh rất đắt để thể hiện ngoại cảnh và nội tâm nhân vật. Cánh buồm nhỏ nhoi đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng lẻ lói cuối cùng của mặt trời sắp tắt. Con thuyền mỗi lúc một xa, rồi gần như mất hút, biết bao giờ mới tim được bến bờ neo đậu; cũng như Kiều còn lênh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những người thân yêu.

    Cảnh ấy gợi trong lòng người lưu lạc nỗi buồn nhớ da diết về quê nhà xa cách.

• Cảnh thứ hai:

“Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

+ Cùng với hình ảnh “cánh buồm”, hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi" cũng thế hiện cho nỗi buồn, cho thân phận lênh đênh, nổi chìm giữa dòng đời của Thúy Kiều.

+ Câu hỏi tu từ cho thấy sự mất phương hướng, gợi một nỗi băn khoăn, thấp thỏm.

+ Tạo dựng được một bức tranh tương phản: Một bên là không gian của cửa bể lúc thủy triều lên và một bên là hình ảnh những cánh hoa tàn trôi man mác trên mặt nước. Tác giả đã tô đậm sự nhỏ bé, lênh đênh, trôi dạt của con thuyền, của những cánh hoa đã tàn, đã rụng.

    Câu thơ ẩn dụ cho thân phận nổi chìm giữa dòng đời của Thúy Kiều rồi sẽ trôi dạt, bị vùi dập nơi nao.

• Cảnh thứ ba:

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

+ Đây là cảnh khá ấn tượng, dễ gợi liên tưởng đến cảnh xuân hôm nào trong tiết thanh minh. Tuy nhiên, không phải là “cỏ non xanh tận chân trời" đầy sức sống mà là “nội cỏ rầu rầu" với sắc xanh héo úa, nhàn nhạt trải dài từ mặt đất đến chân mây.

+ Nét vẽ không gian: “nội cỏ”, “chân mây”, “mặt đất” gợi một không gian vô cùng rộng lớn đang đầy ải nàng Kiều.

+ Từ láy “rầu rầu” vẽ nên cả một vùng cỏ cây tàn héo, và gợi nỗi sầu thương cô lẻ. 

+ Từ láy “xanh xanh” gợi một sắc xanh nhạt nhòa, xa cách, nhạt phai.

     Cảnh mờ mịt như tương lai mờ mịt, Thúy Kiều càng cảm nhận rõ sự cô đơn, nhỏ nhoi của thân phận.

• Cảnh cuối:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

+ Bức tranh thiên nhiên dữ dội và đầy biến động: Gió cuốn mặt duềnh đầy giận dữ; sóng thì ầm ầm kêu réo khi thúy triều lên; thậm chí Kiều còn có cảm giác những con sóng dữ dội kia đang bủa vây ngay sát bên mình.

+ Thiên nhiên là một ẩn dụ cho những biến cố kinh hoàng sắp sửa ập xuống cuộc đời nàng; ẩn dụ cho những con sóng của số phận sắp sửa chôn vùi nàng; ẩn dụ cho một tương lai đầy sóng gió.

    Thiên nhiên hiện lên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật: “Cảnh nào cảnh cảnh chẳng đeo sầu/ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

- Cảnh được nhìn từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn từ man mác, mông lung để lo âu kinh sợ, dồn đến bão táp của nội tâm.

    Tám câu cuối là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Du. Đó là cách biểu hiện “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”, là thực cảnh mà cũng là tâm cảnh.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tiêu biểu cho giá trị nhân đạo của tác phẩm Truyện Kiều. Nguyễn Du đã bộc lộ lòng cảm thương xót xa với cảnh ngộ thân phận và nỗi niềm của nhân vật.

2. Nghệ thuật

-Tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc.

- Nghệ thuật dùng từ rất tài hoa và đặc biệt là hệ thống từ láy ở tám câu thơ cuối.

Văn bản 5: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm.

1. Tác giả

- Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), sinh ra ở làng Tân Thới, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định.

- Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu có nhiều đau khổ, bất hạnh:

+ Sinh ra là một cậu ấm con quan, song chẳng bao lâu thì cha bị cách chức, tuổi thơ sớm phải lận đận.

+ Năm hai sáu tuổi, ông bị mù, khiến đường công danh nghẽn lối, đường tình duyên trắc trở. Bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ tan vỡ, ông về quê dạy học, làm thuốc và sống cảnh nghèo nàn, thanh bạch.

- Ông là người có nghị lực sống phi thường, không chịu gục ngã trước số phận oan nghiệt. Ông can đảm ghé vai nhiều trọng trách:

+ Là một thầy thuốc, ông không tiếc sức mình cứu nhân độ thế.

+ Là một thầy giáo, ông đặt việc dạy người cao hơn dạy chữ và danh tiếng cụ đồ Chiểu vang khắp miền lục tỉnh.

+ Là một nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu để lại cho đời bao áng thơ bất hủ, hướng cho con người đến những giá trị chân - thiện - mĩ.

+ Là một nhà quân sự, ông tích cực tham gia kháng chiến với vai trò là người tham mưu và kiên quyết không bị giặc mua chuộc.

     Dù ở cương vị nào ông cũng làm việc hết mình và để lại một tấm gương sáng cho đời.

- Sự nghiệp văn học: Bao gồm hai đề tài chính:

+ Đề tài đạo lí: “Truyện Lục Văn Tiên ”, “Ngư tiều y thuật vấn đáp ”...

+ Đề tài yêu nước: “Chạy giặc”, “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc”, “Văn tế Trương Định”...

    Trong các nhà văn Việt Nam xưa và nay, Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà văn có nhiều đau khổ, bất hạnh nhất nhưng ông đã sống một cuộc đời thanh bạch, cao cả, đầy nghị lực, khí phách và để lại cho đời một sự nghiệp văn chương có giá trị lớn.

2. Tác phẩm

a. Tóm tắt “Truyện Lục Vân Tiên”

    Lục Vân Tiên là con một gia đình thường dân ở quận Đông Thành. Chàng là một học trò nghèo khôi ngô, văn võ song toàn. Trên đường lên kinh dự thi, chàng đánh tan bọn cướp và cứu Kiều Nguyệt Nga.

    Cảm ân cứu mạng, Nguyệt Nga đã tay vẽ một bức chân dung chàng và luôn giữ bên mình. Sau đó Nguyệt Nga theo cha về quê, còn Vân Tiên ghé thăm gia đình Võ Công là người đã hứa gả con gái cho chàng và gặp những người bạn tốt là Hớn Minh, Vương Tử Trực, những kẻ xấu là Trịnh Hâm và Bùi Kiệm.

    Sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất liền vội vã bỏ thi về chịu tang. Chàng quá khóc thương mẹ đến nỗi mù cả hai mắt. Sau đó chàng bị bọn lang băm, phù thủy lừa gạt lấy hết tiền, bị Trịnh Hâm đẩy xuống sông nhưng được con Gia Long và vợ chồng Ngư Ông cứu giúp.

    Vân Tiên tìm đến nhà Võ Công thì bị từ hôn và bị bỏ vào hang sâu. Vân Tiên lại được thần núi và ông Tiên cứu giúp, rồi chàng lại được gặp Hớn Minh vì chống cường quyền phải bỏ chốn vào rừng. Họ sống với nhau trong một ngôi chùa.

    Về phần Kiều Nguyệt Nga, từ ngày được Vân Tiên cứu khỏi tay bọn cướp đã tự thề nguyện thủy chung, gắn bó với chàng. Cho nên, khi quan Thái sư trong triều muốn hỏi nàng cho con trai hắn thì nàng đã từ chối, để rồi bị bắt đi cống giặc Ô Qua. Vì thế, Kiều Nguyệt Nga nhảy xuống sông tự vẫn nhưng nàng được Phật bà quan âm cứu giúp rồi trôi dạt vào vườn nhà Bùi Kiệm. Bùi Kiệm ép nàng lấy hắn nhưng nàng bỏ trốn và được một bà lão trong rừng đưa về nuôi.

    Lại nói về Vân Tiên ở chùa với Hớn Minh, nhờ thuốc tiên lại sáng mắt ra. Chàng trở về quê nhà, gặp gia đình mình và gia đình Kiều Nguyệt Nga. Rồi chàng đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Thắng trận trở về, chàng gặp lại Kiều Nguyệt Nga. Từ đấy hai người nên duyên vợ chồng sống một cuộc đời hạnh phúc. Còn bọn giặc ác đều bị trừng trị.

b. Kết cấu của truyện

- Truyện có kết cấu theo kiểu truyền thống của loại truyện Phương Đông, xoay quanh cuộc đời nhân vật chính là Lục Vân Tiên.

- Kết cấu có tinh ước lệ: Người tốt thường gặp nhiều gian truân, trắc trở, bị kẻ xấu hãm hại, lừa gạt. Nhưng họ vẫn được phù trợ, cưu mang (nhờ người hoặc thần linh), cuối cùng được đền trả xứng đáng, còn kẻ xấu bị trừng trị.

    Kiểu kết cấu này vừa phản ánh chân thực cuộc đời vốn đầy rẫy những bất công, vô lí; vừa nói lên khát vọng ngàn đời của nhân dân: Thiện thắng ác, ở hiền thì gặp lành.

c. Xuất xứ đoạn trích

- Vị trí đoạn trích: Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” nằm ở phần đầu “Truyện Lục Vân Tiên”

- Tác phẩm được viết khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, dài hơn hai nghìn câu thơ (2082) được viết theo thể thơ lục bát.

- Nội dung của truyện nhằm truyền dạy những đạo lí tốt đẹp để làm người:

+ Đề cao tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội: tình cảm vợ chồng, tình nghĩa anh em, tình cảm bạn bè,...

+ Nêu cao tinh thần hiệp nghĩa, sẵn sàng cứu khổ phò nguy.

+ Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và nhưng điều tốt đẹp trong cuộc đời: Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà,...

- Đặc điểm thể loại: Đây là truyện thơ Nôm mang tính chất truyện để kể hơn để đọc, để xem. Vì thế, nó dễ biến thành những hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian như “kể thơ”, “nói thơ”, “hát”. Nó chú trọng hành động của nhân vật hơn là nội tâm.

d. Bố cục: Hai phần

- Phần một: 14 câu đầu: Lục Vân Tiên đánh cướp Phong Lai để cứu Kiều Nguyệt Nga.

- Phần hai: Còn lại: Cuộc chuyện trò giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.

I. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Lục Vân Tiên

- Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc họa theo mô típ của truyện Nôm truyền thống: Một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, tài giỏi, nghĩa hiệp ra tay giải cứu cho một cô gái xinh đẹp thoát nạn, rồi từ ân nghĩa đến tình yêu.

    Mô típ này thể hiện khát vọng, mong ước của nhân dân và tác giả về một xã hội có những con người tài đức, luôn sẵn sàng ra tay giúp người, giúp đời.

a. Khi đánh cướp Phong Lai

• Như một vị hảo hán mang tinh thần nghĩa hiệp:

“Vân Tiên ghé lại bên đàng

Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.

Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ!

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”

- Hành động “ghé lại bên đàng" cho thấy chàng không băn khoăn, do dự khi đánh cướp Phong Lai. Nó phù hợp với tinh thần hăm hở của chàng trai trẻ vừa rời ghế nhà trường muốn lập công danh, thi thố tài năng để giúp đời, giúp người. Gặp bọn cướp Phong Lai là một thử thách, song là một cơ hội cho chàng hành động.

- Hành động gan góc, mau lẹ “bẻ cây làm gậy” chứng tỏ chàng không màng an nguy của bản thân.

- Hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên được xuất phát:

+ Từ tinh thần chính trực, thái độ bất bình, trước những điều xấu xa, tàn ác.

+ Từ tấm lòng nhân nghĩa, giàu tình yêu thương, luôn sẵn sàng bênh vực cho những kẻ yếu đuối và bảo vệ cho lẽ phải.

• Một vị anh hùng quả cảm có võ nghệ cao cường:

“Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:

Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây

Trước gây việc dữ tại mầy

Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng

Vân Tiên tả đột hữu xông,

Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.”

- Nguyễn Đình Chiểu đã đặt chàng vào một trận đánh không cân sức: một bên là tướng cướp hùng hổ, hung dữ, đông đúc, được trang bị đầy đủ vũ khí với một bên là thân cô, thế cô.

    Nghệ thuật tương phản đã được tác giả sử dụng để tô đậm sự quả cảm của Lục Vân Tiên.

- Hình ảnh Lục Vân Tiên xung trận được miên tả như một dũng tướng với khí thế áp đảo:

+ Cụm từ “tả đột hữu xông”, rất giàu giá trị tạo hình, cho thấy chàng đang làm chủ tình thế và tung hoành giữa đáng cướp.

+ Tác giả so sánh Lục Vân Tiên với một chiến tướng vào loại bậc nhất trong Tam Quốc là Triệu Tử Long.

+ Nhịp điệu thơ nhanh, mạnh đã tạo nên cho trận đánh một khí thế hào hùng, sôi động.

    Lục Vân Tiên mang tầm vóc của người anh hùng mạnh mẽ, phi thường.

- Cuối cùng, chàng đã giành được chiến thắng vẻ vang trước đả cướp Phong Lai:

“Lâu la bốn phía vỡ tan

Đều quăng gươm giảo tìm đàng chạy ngay

Phong Lai trở chẳng kịp tay

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.”

+ Chính nghĩa đã chiến thắng, cả một đảng cướp vỡ tan, hoảng sợ bỏ chạy.

+ Tướng cướp Phong Lai “trở chẳng kịp tay” bỏ mạng dưới cây gậy của người anh hùng.

    Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh kết tinh của nhân dân, của chính nghĩa nên nó chiến thắng tuyệt đối.

    Hành động mạnh mẽ của Vân Tiên thể hiện được khát vọng của nhân dân về một người anh hùng có sức mạnh phi thường, võ nghệ cao cường luôn bênh vực kẻ yếu, chiến thắng thế lực tàn bạo

b. Khi trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga

- Lục Vân Tiên thế hiện là một con người giàu lòng nhân hậu:

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,

Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe nầy?”

+ Chàng tìm cách trấn an nỗi sợ hãi của họ bằng cách khẳng định lũ cướp đã bị tiêu diệt.

+ Sau đó, chàng hỏi han rất ân cần và khiêm nhường để họ vơi đi nỗi sợ hãi.

- Một con người biết trọng lễ nghĩa qua lối ứng xử và xưng hô:

“Khoan khoan ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái, ta là phận trai.”

+ Đàng hoàng, chững chạc một mực giữ gìn lễ nghĩa, khuôn phép của xã hội phong kiến khi khuyên Kiều Nguyệt Nga không xuống xe.

+ Lối xưng hô “nàng” - “ta” cho thấy tấm lòng trân trọng mà Lục Vân Tiên dành cho Kiều Nguyệt Nga, cũng như thái độ lịch sự của một con người có học, có đọc sách thánh hiền.

- Một con người hào hiệp, nghĩa khí, chính trực:

Vân Tiên nghe nói liên cười:

“Làm ơn há để trông người trả ơn

Nay đã rõ đặng nguồn cơn

Nào ai tính thiệt so hơn làm gì

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”

+ Thể hiện qua tiếng cười rất vô tư, sảng khoái khi nghe Kiều Nguyệt Nga nói đến ơn huệ. Nhưng Vân Tiên làm ơn không màng đến sự đền ơn.

+ Thể hiện trong quan niệm về người anh hùng của Lục Vân Tiên: Người anh hùng phải làm việc nghĩa như là lẽ tự nhiên của một con người chân chính.

Học đạo phái đi đôi với hành đạo. Đó là lối sống rất cao đẹp của Lục Vân Tiên.

    Lục Vân Tiên là một con người văn võ toàn tài, hào hiệp và nhân hậu. Chàng là hình mẫu trọn vẹn cho người quân tử trong xã hội phong kiến.

    Hình ảnh của Lục Vân Tiên là một hình ảnh đẹp, lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm niềm tin và mong ước của mình.

2. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga

a. Một tiểu thư khuê các, nề nếp, gia giáo và có học thức

- Thể hiện qua những lời giới thiệu về bản thân của nàng:

“Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga

Con nầy tì tất tên là Kim Liên.

Quê nhà ở quận Tây Xuyên

Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.”

+ Nàng xuất thân trong một gia đình quyền quý, là tiểu thư khuê các, lá ngọc cành vàng, trâm anh thế phiệt - con quan tri phủ Hà Khê.

+ Lời giới thiệu rất đầy đủ, chân thành, không khoa trương, kênh kiệu đài các. Đã đáp ứng đầy đủ những lời thăm hỏi ân cần của Lục Vân Tiên, vừa bộc lộ chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình.

- Thể hiện qua lối xưng hô của nàng với Lục Vân Tiên:

“Trước xe quân tử tạm ngôi

Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”

+ Cách xưng hô “quân tử’’, “tiện thiếp” kết hợp với hành động “lạy” và “thưa” cho thấy sự khiêm nhường, thùy mị, nết na.

+ Thể hiện sự thông minh, mực thước của nàng trong lời ăn tiếng nói.

- Thể hiện qua lời chia sẻ về hành động hiếu nghĩa nàng làm:

“Sai quân đem bức thơ về

Rước tôi qua đó định bề nghi gia

Làm con đâu dám cãi cha

Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành.”

+ Nàng không quản đường xa, thân gái dặm trường với bao nguy hiểm bất trắc, từ Tây Xuyên đến Hà Khê vì vâng theo lời cha để định bề nghi gia, nghi thất.

+ Nàng là người con hiếu thảo, sống đúng với khuôn phép gia đình và với lễ giáo phong kiến. Đó cũng chính là điểm gặp gỡ giữa nàng và Lục Vân Tiên.

    Kiều Nguyệt Nga để lại một ấn tượng tốt đẹp: thùy mị, nết na, gia giáo, thông minh, sắc sảo, có học thức.

b. Một con người có tấm lòng thủy chung, ân nghĩa

- Qua cử chỉ, lời nói với ân nhân cứu mạng:

“Trong xe chật hẹp khôn phô,

Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng.”

+ Mặc dù ý thức rất rõ về lễ giáo và hoàn cảnh của mình, song nàng vẫn định xuống xe để tạ ơn Lục Vân Tiên.

+ Nàng cất lên với những lời thật da diết, tha thiết: “cúi đầu trăm lạy”.

     Hành động đó đã phản chiếu tấm lòng sâu sắc của nàng dành cho Lục Vân Tiên.

- Trong lời cảm kích công lao cao cả của Lục Văn Tiên:

“Lâm nguy chăng gặp giải nguy

Tiết trăm năm cùng bỏ đi một hồi”

+ Trước hết, Vân Tiên đã giải vây để cứu mạng sống cho nàng.

+ Quan trọng hơn, Vân Tiên đã cứu được sự trong trắng và danh dự của nàng. 

    Ân nghĩa đó khiến nàng day dứt và không thể không báo đáp.

- Nàng băn khoăn tìm cách để trả ơn Lục Vân Tiên:

“Hà Khê qua đó cũng gần,

Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng

Gặp đây đương lúc giữa đàng

Của tiền chẳng có, bạc vàng thì không

Gẫm câu báo đức thù công

Lấy chi cho phí tâm lòng cùng ngươi.”

+ Nàng mời Lục Vân Tiên về Hà Khê để cha mình tạ ơn.

+ Nàng ý thức rằng: không gì có thể sánh bằng công ơn của Lục Vân Tiên. Bởi Nguyệt Nga là người rất coi trọng tình nghĩa và coi tình nghĩa là vô giá.

    Kiều Nguyệt Nga kết tinh cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ truyền thống. Nàng không chỉ gia giáo, nết na, có học thức mà còn rất đằm thắm nghĩa tình, cư xử có trước có sau. Bởi thế, nàng đã nguyện gắn bó cuộc đời với chàng để giữ trọn tấm lòng ân nghĩa thủy chung.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của nhân dân và tác giả. Đồng thời, đã khắc họa thành công những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.

2. Nghệ thuật

- Nhân vật được miêu tả qua hành động, cử chỉ, lời nói, ít khắc họa ngoại hình, cũng ít đi sâu vào diễn biến nội tâm, mang tính chất của văn học dân gian.

- Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, gần với lời ăn tiếng nói thường ngày và mang tính chất địa phương Nam Bộ; phù hợp với ngôn ngữ người kể chuyện: ngôn ngữ thơ đa dạng, phù hợp với diễn biến tình tiết và tính cách nhân vật.

Văn bản 6: Chuyện người con gái Nam Xương 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, khi triều đình nhà Lê bắt đầu rơi vào khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền binh và gây ra những cuộc nội chiến kéo dài.

- Quê ở Trường Tân - Thanh Miện - Hải Dương.

- Về con người:

+ Nguyễn Dữ nổi tiếng là con người học rộng tài cao. Ông là học trò xuất sắc nhất của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.

+ Là một “kẻ sĩ” có nhân cách cao thượng. Chứng kiến những mục nát của chế độ đương triều, ông chỉ làm quan có một năm rồi lui về sống ẩn dật, viết sách và phụng dưỡng mẹ già.

+ Dù vậy, qua các sáng tác, ông vẫn tỏ ra là một người luôn đau đáu đến vận mệnh của giang sơn xã tắc.

2. Tác phẩm

a. Thể loại - nguồn gốc xuất xứ

- Truyện truyền kì:

+ Là loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ Trung Quốc và thịnh hành từ thời Đường. 

+ Truyện truyền kì thường mô phỏng những cắt truyện từ dân gian hoặc dã sử. Sau đó được tác giả sắp xếp lại tình tiết, bồi đắp thêm cho đời sống các nhân vật, đặc biệt là xen kẽ các yếu tố kì ảo...

- Truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ:

+ Truyện ra đời vào khoảng đầu thế kỉ XVI, đó là thời kì xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong: những mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ.

+ “Truyền kì mạn lục” gồm 20 truyện, ghi chép lại những câu chuyện được lưu truyền tản mạn trong dân gian và thường có yếu tố kì ảo, đề tài phong phú.

+ Truyện mang đậm giá trị nhân văn và được đánh giá là áng “thiên cổ tùy bút” (tức áng văn hay ngàn đời).

- Chuyện người con gái Nam Xương:

+ Xuất xứ: là thiên truyện thứ 16 trong 20 thiên truyện của “Truyền kì mạn lục”. 

+ Nguồn gốc: truyện viết bằng chữ Hán, có nguồn gốc từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”, sau đó được Nguyễn Dữ tái tạo, sắp xếp lại một số tình tiết và thêm vào yếu tố kì ảo.

+ Ngôi kể: truyện được kể theo ngôi thứ 3.

b. Phương thức biểu đạt: Tự sự có kết hợp yếu tố biểu cảm.

c. Tóm tắt

Truyện kể về Vũ Thị Thiết (Vũ Nương), người huyện Nam Xương, xinh đẹp nết na được Trương Sinh - một người ít học, có tính đa nghi, cưới về làm vợ.

Gia đình đang yên ấm, hạnh phúc thì chàng Trương phải rời nhà đi lính. Ở nhà, Vũ Nương sinh con trai, đặt tên là Đản. Nàng hay đùa với con bằng cách chỉ cái bóng của mình lên vách và nói là cha Đản. Mẹ Trương Sinh vì thương nhớ con mà sinh bệnh, nàng hết lòng chăm sóc, phụng dưỡng, song ít lâu sau bà qua đời.

Khi Trương Sinh trở về, nghe theo lời con trẻ nghi ngờ vợ thất tiết. Vũ Nương một mực kêu oan, song Trương Sinh không nghe mà đánh mắng, đuổi vợ đi. Vũ Nương không tự minh oan được bèn trầm mình xuống sông tự vẫn. Một đêm thấy bóng cha trên tường, bé Đản gọi cha. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ nhưng đã muộn.

Ít lâu sau, Vũ Nương gặp Phan Lang dưới thủy cung - người cùng làng bị chết đuối, được Linh Phi cứu giúp. Khi Phan Lang trở về, Vũ Nương nhờ gửi chiếc thoa và nhắn chàng Trương lập đàn giải oan cho nàng. Trương Sinh nghe theo, lập đàn giải oan cho nàng ở bến sông ấy. Vũ Nương trở về ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào bờ vài lời tạ từ rồi biến mất.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Vũ Nương

- Ngay từ đầu thiên truyện, Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, “tính tình thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”,

- Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “tam tòng, tứ đức”, “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong đó, dung chính là vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ. Và vì cảm kích trước “tư dung” - vẻ đẹp bên ngoài của nàng mà Trương Sinh đã xin mẹ “đem 100 lạng nàng cưới về”. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng.

Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc họa với những nét chân dung về người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong xã hội phong kiến.

Song để có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chúng ta cần phải đặt nhân vật trong những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau:

a. Trong mối quan hệ với chồng: Nàng là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực.

Ÿ Trong cuộc sống vợ chồng bình thường:

- Nàng hiểu chồng “có tính đa nghi”, “đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Vũ Nương khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép nên không để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.

    Vũ Nương là người phụ nữ đức hạnh, nết na, khôn khéo, hiểu chồng. Đồng thời nó đã hé lộ sự mâu thuẫn trong tính cách giữa hai người và đầy tính dự báo.

• Khi tiễn chồng đi lính:

- Nàng dặn dò chồng với những lời thiết tha, tình nghĩa:

+ Nàng đặt hạnh phúc gia đình lên trên tất cả mà xem thường những thứ vinh hoa phù phiếm: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”.

+ Nàng như thấy trước và cảm thông cho những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng ở nơi chiến trận: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao”.

+ Nàng bộc lộ sự khắc khoải, xa nhớ của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoan, lại thổn thức tâm tình”.

    Đó là những lời nói ân tình, đằm thắm, đầy ắp những yêu thương. Qua đó, cho chúng ta thấy Vũ Nương thực sự là một người vợ dịu dàng, hết mực thương chồng, thương con và thật đáng trân trọng.

• Khi xa chồng:

- Vũ Nương tỏ ra là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực. Nỗi nhớ chồng cứ đi cùng năm tháng: “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi”, nàng lại “thổn thức tâm tình, buồn thương da diết”.

- Nàng mơ về một tương lai gần sẽ lại bên chồng như hình với bóng: Dỗ con, nàng chỉ cái bóng của mình trên vách mà rằng cha Đản.

- Tiết hạnh ấy được khẳng định trong câu nói thanh minh, phân trần sau này của nàng với chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phần từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.

    Qua tâm trạng bâng khuâng, nhớ thương, đau buồn của Vũ Nương, Nguyễn Dữ vừa cảm thông vừa ca ngợi tấm lòng son sắc, thủy chung của nàng. Và nỗi nhớ ấy, tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng chung của những người phụ nữ trong thời loạn lạc, chiến tranh.

• Khi bị chồng nghi oan:

- Nàng đã hết sức phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng trinh bạch của mình:

+ Trước hết, nàng nhắc đến thân phận của mình để có được tình nghĩa vợ chồng: “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”.

+ Tiếp theo, nàng khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, vẹn nguyên chờ chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”.

+ Cuối cùng, nàng cầu xin chồng đừng nghi oan: “Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.

Nàng đã hết lời tha thiết, hết lòng nhún nhường để cứu vãn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Qua những lời nói tha thiết đó, nó còn cho thấy thái độ trân trọng chồng và gia đình nhà chồng của nàng.

- Không còn hi vọng, nàng nói trong đau đớn và thất vọng:

+ Hạnh phúc gia đình, “thú vui nghi gia, nghi thất” là niềm khao khát và tôn thờ cả đời giờ đã tan vỡ.

+ Tình yêu giờ đây của nàng được cụ thể bằng những hình ảnh ước lệ: "bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió".

+ Đen nỗi đau chờ chồng đến hóa đá của “cổ nhân" nàng cũng không có được: “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa".

Vậy là tình yêu, hạnh phúc gia đình vốn là cơ sở tồn tại của người vợ trẻ giờ đã không còn ý nghĩa.

- Cuối cùng, bị cự tuyệt quyền yêu, quyền hạnh phúc cũng đồng nghĩa với việc nàng bị cự tuyệt quyền tồn tại.

+ Vũ Nương mượn bến Hoàng Giang để giãi tỏ tấm lòng trong trắng mà minh oan cho mình: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mì. Nhược bằng lòng chim dạ cả, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho tôm cá, trên xin làm cơm cho diều quạ

+ Nàng tìm đến cái chết sau mọi sự cố gắng không thành.

    Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo vệ phẩm giá. Đối với người con gái đức hạnh và giàu đức hi sinh ấy, phẩm giá còn cao hơn sự sống.

• Những năm tháng sống dưới thủy cung:

- Ở chốn làn mây, cung nước nhưng nàng vẫn một lòng hướng về chồng con, quê hương và khao khát được đoàn tụ.

+ Nàng nhận ra Phan Lang người cùng làng.

+ Nghe Phan Lang kể về chuyện gia đình mà ứa nước mắt xót thương.

- Nàng khao khát được trả lại phẩm giá, danh dự:  Gửi chiếc thoa vàng, nhờ Phan Lang nói với Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình.

- Nàng là người trọng tình, trọng nghĩa: Dù thương nhớ chồng con, khao khát được đoàn tụ nhưng vẫn quyết giữ lời hứa sống chết bên Linh Phi.

    Với vai trò là một người vợ, Vũ Nương là một người phụ nữ chung thủy, mẫu mực, lí tưởng trong xã hội phong kiến. Trong trái tim của người phụ nữ ấy chỉ có tình yêu, lòng bao dung và sự vị tha.

b. Trong mối quan hệ với mẹ chồng: Nàng là một người con dâu hiếu thảo.

-Vũ Nương đã thay Trương Sinh làm tròn bổn phận người con, người trụ cột đối với gia đình nhà chồng: Chăm sóc mẹ chồng khi già yếu, ốm đau. “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”.

- Mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, lo liệu ma chay chu đáo như đối với cha mẹ đẻ mình.

- Lời trăng trối của bà mẹ chồng trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành và công lao to lớn của Vũ Nương:Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

    “Đói lòng ăn khế ăn sung/ Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi” là một trong những câu ca dao nói về mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong xã hội phong kiến xưa. Song lời cảm tạ, động viên của bà mẹ đã cho thấy Vũ Nương là một người con dâu hiếu thảo. Đó là sự đánh giá xác đáng và khách quan nhất.

c. Trong mối quan hệ với con: Nàng là người mẹ yêu thương con hết mực.

- Thiếu vắng chồng, nàng vẫn một mình sinh con, và nuôi dạy con khôn lớn.

- Không chỉ trong vai trò là một người mẹ, nàng còn đóng vai trò là một người cha hết lòng yêu thương con, không để con phải thiếu thốn tình cảm.

- Nàng còn là một người mẹ tâm lí, không chỉ chăm lo cho con về mật vật chất, mà con cả về mặt tinh thần: Bé Đản sinh ra chưa biết mặt cha, lo con thiếu thốn tình cảm của cha nên chỉ vào cái bóng của mình trên vách mà bảo cha Đản. Hơn hết, nàng sớm định hình cho con về một mái ấm, một gia đình hoàn chỉnh.

Vũ Nương đã không chỉ hoàn thành tốt trách nhiệm của một người vợ, người con, người mẹ, người cha mà còn là một người trụ cột của gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng những gì hạnh phúc, tuyệt vời nhất. Thế nhưng trớ trêu thay hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng.

2. Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương

a. Nguyên nhân trực tiếp

- Chiếc bóng trên vách khiến bé Đản ngộ nhận đó là cha mình, khi người cha thật trở về thì không chịu nhận và ngây thơ, vô tình đưa ra những thông tin khiến mẹ bị oan.

    Những lời nói thật của con đã làm thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông trong lòng Trương Sinh.

b. Nguyên nhân gián tiếp

- Do cuộc hôn nhân không bình đẳng và tính cách của Trương Sinh: Vũ Nương là “con kẻ khó” được Trương Sinh đem trăm lạng vàng để cưới về. Sự đối lập giàu nghèo cộng với tính cách “đa nghi” của Trương Sinh đã sản sinh ra sự hồ đồ, độc đoán, gia trưởng sẵn sàng thô bạo với Vũ Nương.

- Trong cách cư xử với vợ, Trương Sinh đã thiếu cả lòng tin và cả tình thương.

- Do lễ giáo phong kiến hà khắc: Chế độ nam quyền đã dung túng, cổ vũ cho thói độc đoán, gia trưởng của người đàn ông, cho họ cái quyền tàn phá hạnh phúc mong manh cua người phụ nữ.

-Vũ Nương không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Trương Sinh phải đi lính, thời gian xa cách như ngọn lửa âm ỉ để thổi bùng lên trong con người vốn đa nghi, độc đoán và vô học.

3. Những chi tiết đặc sắc

a. Những chi tiết kì ảo cuối truyện

- Chi tiết kì ảo thứ nhất: Phan Lang chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến xin tha mạng, sáng hôm sau ông được người phường chài đem biếu con rùa mai xanh thì liền thả.

- Chi tiết kì ảo thứ hai: Phan Lang chết đuối vì có công nên được Linh Phi cứu sống, gặp Vũ Nương, rồi được rẽ nước đưa về dương thế.

- Chi tiết kì ảo thứ ba: Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói lời từ biệt rồi biến mất.

    Chi tiết kì ảo là sự sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ trong tác phẩm, thể hiện tính chất truyền kì của truyện và tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới mà truyện cố tích “Vợ chàng Trương” không có.

b. Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo cuối truyện

- Làm nên đặc trưng của thể loại truyền kì,

- Yếu tố thực đan xen yếu tố kì ảo làm cho câu chuyện thêm li kì, hấp dẫn, kích thích trí tưởng tượng của người đọc.

- Làm tăng thêm giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn cho tác phẩm.

- Tạo nên một kết thúc có hậu ở một ý nghĩa nào đó:

+ Một mặt, thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp. Thể hiện nỗi khát khao cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ.

+ Mặt khác, những chi tiết ấy có tác dụng hoàn chỉnh thêm nét đẹp trong tính cách của Vũ Nương:  Dù ở một thế giới khác, nhưng nàng vẫn tha thiết hướng về gia đình, quê hương và khát khao được minh oan.

- Tuy nhiên, yếu tố kì ảo chỉ làm giảm chứ không làm mất đi tính bi kịch của thiên truyện: Vũ Nương hiện về rực rỡ, uy nghi nhưng chỉ là một sự hiển linh trong thoáng chốc. Tất cả chỉ là ảo ảnh “loang loáng mờ nhạt” trên sông mà dần biến đi mất. Tức là vẫn còn xa cách, vẫn là sự chia li âm dương đôi ngả. Hạnh phúc, sự đoàn tụ là những điều lớn lao cuối cùng của Vũ Nương cũng không dành được, mà đã vĩnh viễn trôi xuôi. Vũ Nương không trở về, cái lí mà nàng đưa ra là vì ân đức của Linh Phi, nhưng chủ yếu là vì xã hội ấy đâu có đất cho những người tốt như nàng, đặc biệt là những người phụ nữ. Chi tiết Phan Lang được rẽ nước trở về nhân gian còn Vũ Nương thì không thể là một minh chứng đanh thép.

4. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo

a. Giá trị hiện thực

+ Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực số phận bất hạnh của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến qua hình tượng nhân vật Vũ Nương.

+ Lên án hiện thực xã hội phong kiến với đầy những bất công, vô lí. Xã hội ấy đã dung túng chế độ nam quyền hà khắc, trọng nam khinh nữ, cho người đàn ông cái quyền chà đạp lên số phận người phụ nữ. Ở xã hội đó, người phụ nữ không thể đứng ra để bảo vệ giá trị nhân phẩm của mình.

+ Phản ánh xã hội phong kiến với những mâu thuẫn gây ra những cuộc chiến tranh phi nghĩa liên miên, làm cho đời sống người dân rơi vào bi kịch, bế tắc.

b. Giá trị nhân đạo

+ Khám phá, bênh vực, trân trọng những vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương.

+ Thể hiện niềm tin vào một tương lai tốt đẹp: Đề cao giáo trị nhân văn “ở hiền thì gặp lành” và gửi gắm những ước mơ tốt đẹp ngàn đời của nhân dân ta.

+ Qua số phận đầy ngang trái, thiệt thòi, bất công của nhân vật Vũ Nương, tác phẩm thể hiện sự thấu hiểu, xót xa và niềm cảm thông sâu sắc của tác giả.

+ Lên tiếng tố cáo chế độ độ phong kiến, chế độ nam quyền đã chà đạp lên quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người. Đó cũng chính là giá trị nhân văn muôn thuở của nhân loại.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- “Chuyện người con gái Nam Xương” đã thể hiện niềm cảm thương sâu sắc đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Qua đó khẳng định những vẻ đẹp phẩm chất quý báu của họ.

- Tác phẩm còn như một thông điệp vượt thời gian: Tất cả mọi người đều có quyền sống và quyền hạnh phúc. Đặc biệt là những người phụ nữ, họ có quyền bình đẳng để phát huy tài năng và phẩm chất của mình. Đó cũng chính là những biểu hiện của một xã hội hiện đại, văn minh.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo: xoay quanh sự ngộ nhận, hiểu lầm lời nói của bé Đản. Chi tiết cái bóng trở thành điểm mấu chốt của tình huống truyện khiến cốt truyện được thắt nút, mơ nút, thay đổi sau khi nó xuất hiện.

- Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: Dẫn dắt tình huống hợp lí; xây dựng lời thoại của nhân vật, đan xen với lời kể của tác giả. Đặc biệt là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực và kì ảo.

- Có sự kết hợp hài hòa các phương thức biểu đạt: tự sự, biểu cảm.

Văn bản 7: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), người làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương.

- Ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra là một người có chí hướng: “Làm người con trai phải lập thân hành đạo... Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời

- Là một người có nhân cách cao thượng, sống trong thời buổi đất nước loạn lạc, nhiễu nhương, nên dù nhiều lần được vua vời ra làm quan, nhưng được ít lâu lại xin về ẩn dật.

- Ông để lại nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc đủ các lĩnh vực: văn học, triết học, lịch sử, địa lí,... tất cả đều viết bằng chữ Hán.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ

- Đoạn trích nằm trong tác phẩm “Vũ Trung tùy bút” (tùy bút viết trong những ngày mưa) được viết khoảng đầu đời Nguyễn (thế kỉ XIX). Tác phẩm gồm 88 mẩu truyện nhỏ, ghi chép lại hiện thực đen tối của lịch sử nước ta.

- Tác phẩm vừa có giá trị văn chương đặc sắc, vừa là những tài liệu quý về sử học, địa lí và xã hội học.

b. Thể loại

- Tùy bút là thể loại ghi chép một cách chân thực, sinh động về những người, sự kiện cụ thể có thực. Trong đó, tác giả bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại.

- Tùy bút ghi chép một cách tản mạn, tùy theo cảm hứng chủ quan của tác giả, bởi vậy cấu trúc không bị ràng buộc, song vẫn theo một tư tưởng, cảm xúc chủ đạo, và vì thế nó cũng giàu chất trữ tình.

c. Bố cục: hai phần

- Phần một: Từ đầu đến “biết đó là triệu bất tường”: Những thú ăn chơi của Chúa Trịnh.

- Phần hai: Còn lại: Sự tham lam, nhũng nhiễu của quan lại trong phủ Chúa.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Thói ăn chơi của Chúa Trịnh và các quan lại cận thần trong phủ Chúa

- Thú chơi đèn đuốc:

+ Chúa cho xây dựng thật nhiều cung điện, đình đài để thỏa thú “chơi đèn đuốc”, ngắm cảnh đẹp. Vì vậy “xây dựng đình đài cứ liên miên”, dần đến hao tiền tốn của.

+ Chúa bày ra nhiều cuộc dạo chơi tốn kém ở các li cung. Đó là những cung điện, lâu đài xa chốn kinh thành.

+ Đặc biệt, chúa thường xuyên tổ chức những cuộc dạo chơi ở Hồ Tây “tháng ba bốn lần" huy động động người hầu kẻ hạ, các nội thần, các quan hộ giá, nhạc công... bày ra nhiều trò giải trí lố lăng, tốn kém.

- Thú chơi cây cảnh:

+ Chúa dùng quyền lực để cưỡng đoạt, vơ vét những của quý trong thiên hạ như “trân cầm, dị thú”, “cơ mộc quái thạch”. Đó không phải là sự hưởng thụ cái đẹp chính đáng mà là sự chiếm đoạt.

+ Quang cảnh phủ Chúa được gợi ra bằng những cảnh tượng rùng rợn, bí hiểm, ma quái. “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ đổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Nó không phải là một cuộc sống bình thường, vì nó gợi nên sự chết chóc - một sự sống cận kề cái chết, với ngày tận thế.

    Có thể thấy cách sống của các vua chúa thời phong kiến suy tàn là chỉ lo ăn chơi xa xỉ, không lo việc nước, ăn chơi bằng quyền lực thiếu văn hóa. Nó như dự báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại.

2. Sự tham lam, nhũng nhiễu của bọn quan lại trong phủ Chúa

-Tác giả đã vạch trần thủ đoạn “mượn gió bẻ măng” của bọn hoạn quan, cung giám: Lợi dụng uy quyền của các chúa để vơ vét của cải trong thiên hạ: vừa ăn cướp, vừa la làng.

- Thủ đoạn này đã nhiều lần gây tai họa cho dân lành: các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết".

    Vua nào, tôi ấy, tham lam, nham hiểm, mặc sức vơ vét của dân

    Tác giả đã kết thúc bài tùy bút bằng cách ghi lại một sự việc có thực đã từng xảy ra ngay trong nhà mình. Điều đó khiến người đọc tin vào sự chân thực của câu chuyện; thấy được sự thật thối nát trong phủ chúa là điều không thể chối cãi. Đồng thời, Phạm Đình Hổ đã kín đáo gửi gắm thái độ bất bình, phê phán.

III. Tổng kết

1. Nội dung

    Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực đời sống xa hoa của phủ Chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê - Trịnh.

2. Nghệ thuật

- Lối văn ghi chép sự việc cụ thể, chân thực và sinh động.

- Thủ pháp liệt kê làm nhấn mạnh thói ăn chơi xa xỉ và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại trong phủ Chúa

Văn bản 8: Hoàng Lê nhất thống chí

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Ngô gia văn phái: Một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Thanh Oai (tỉnh Hà Tây cũ). Trong đó có hai tác giả chính là:

+ Ngô Thì Chí (1753 - 1788) làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống.

+ Ngô Thì Du (1772 - 1840) làm quan dưới triều Nguyền.

- Họ là những nhà Nho mang nặng tư tưởng trung quân, ái quốc. Ngô Thì Chí từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyền Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai. Ông cũng chính là người dâng “Trung hưng sách” bàn kế để khôi phục nhà Lê và chống lại nhà Tây Sơn.

- Họ là những cây bút trung thực và có tư tưởng tiến bộ. Họ đã phản ánh được một cách chân thực, sống động những sự kiện lịch sử dân tộc trong khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX.

2. Tác phẩm

a. Thể loại

- “Hoàng Lê nhất thống chí “được viết theo thể chí - một thể văn ghi chép sự vật, sự việc. Một thể loại văn vừa có tính văn học, vừa có tính lịch sử lại vừa mang tính triết lí (hiện tượng văn - sử - triết bất phân).

- Nếu xét về tính chân thực, tác phẩm có thể được xếp loại kí sự lịch sử. Song, nếu xét về phương diện nghệ thuật: kết cấu, giọng điệu trần thuật... thì tác phẩm thuộc vào loại tiểu thuyết lịch sử. Tác phẩm được viết theo kiểu chương hồi, trong đó gồm 17 hồi.

b. Hoàn cảnh sáng tác

- “Hoàng Lê nhất thống chí” là tác phẩm được viết bằng chữ Hán, ghi chép về sự thống nhất đất nước của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh.

- Tác phẩm được viết ở nhiều thời điểm nổi tiếp nhau, từ giai đoạn cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn và do một số tác giả kế tục nhau viết.

- Tác phẩm được viết bởi hai tác giả chính: Ngô Thì Chí viết bảy hồi đầu, Ngô Thì Du viết bảy hồi tiếp sau, còn ba hồi cuối có thể do một người khác viết vào khoảng cuối hoặc đầu triều Nguyền.

c. Vị trí đoạn trích

- Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc hồi thứ mười bốn của tác phẩm, ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung cùng nghĩa quân Tây Son. Đồng thời, miêu tả sự thất bại tham hại của quân tướng nhà Thanh cùng số phận của bè lũ vua tôi hại nước, hại dân Lê Chiêu Thống.

d. Tóm tắt

    Tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở lui quân về núi Tam Điệp. Ngày 25 tháng Chạp năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi vua (hiệu là Quang Trung) ở Phú Xuân, tự mình đốc suất lại binh để chuẩn bị tiến quân ra Bắc diệt Thanh.

    Dọc đường vua Quang Trung cho tuyển thêm lính, mở cuộc duyệt binh lớn và chia quân thành các ngả để tiến ra Bắc. Ra chỉ dụ tướng lĩnh, mở tiệc khao quân vào ngày 30 tháng Chạp, hẹn đến ngày mồng 7 Tết thắng lợi sẽ mở tiệc ăn mừng ở Thăng Long.

    Đội quân của Quang Trung đánh đen đâu thắng đến đó khiến quân Thanh đại bại. Rạng sáng ngày mồng 3 Tết, nghĩa quân đã tiến vào Thăng Long, bí mật bao vây đồn Hạ Hồi, dùng mưu để quân giặc đầu hàng và hạ đồn một cách dễ dàng.

    Ngày mồng 5 Tết, nghĩa quân tiến công vào đồn Ngọc Hồi. Quân giặc chống trả quyết liệt, cuối cùng phải chịu đầu hàng, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử, Tôn Sĩ Nghị vội vã tháo chạy về nước, vua Lê Chiêu Thống cùng gia quyến trốn chạy theo.

e. Bố cục: Ba phần

- Phần một: Từ đầu đến “năm Mậu thân 1788”. Tin quân Thanh đã chiếm thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, thân chinh cầm quân dẹp giặc.

- Phần hai: Tiếp theo đến “kéo vào thành”. Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn.

- Phần ba: Còn lại: Sự đại bại của quân Thanh và số phận thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình tượng người anh hùng Quang Trung

a. Nhà lãnh đạo quyết đoán, mạnh mẽ và bản lĩnh phi thường

- Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn hành động một cách mạnh mẽ, nhanh gọn và rất quyết đoán: Nghe tin giặc chiếm thành Thăng Long, không hề nao núng mà “định thân chinh cầm quân đi ngay”.

- Chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc lớn: 

+ Tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung để yên lòng dân rồi thân chinh cầm quân ra Bắc.

+ Trên đường tiến quân ra Bắc, tranh thủ gặp Nguyễn Thiếp để hỏi về kế sách, đặc biệt là thu hút sự ủng hộ của tầng lớp sĩ phu.

+ Tuyển mộ được hơn một vạn tinh binh và mở cuộc duyệt binh lớn.

+ Ra phủ dụ tướng sĩ: Một mặt, vạch trần âm mưu xâm lược của nhà Thanh, cho thấy bộ mặt tàn bạo của kẻ thù; mặt khác, giữ nghiêm kỉ luật, khích lệ tinh thần chiến đấu của binh lính.

    Tính cách mạnh mẽ, quyết đoán, đầy bản lĩnh là đặc điểm của những bậc quân vương tài chí. Và với tính cách ấy, Nguyễn Huệ xứng đáng được nhân dân tôn thờ và gửi gắm niềm tin để trở thành linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn.

b. Bậc minh vương có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén

- Là một bậc quân vương, thống lĩnh cả vạn tinh binh, vua Quang Trung đã tỏ ra được là một người sáng suốt, nhạy bén trong việc nhận định tình hình thế cuộc và tương quan lực lượng giữa ta và địch. Điều đó được thể hiện trong lời phủ dụ với quân lính khi ở Nghệ An:

+ Vua Quang Trung đã khẳng định chủ quyền dân tộc. “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng... Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta”.

+ Tiếp đó, ông lên án hành động ngang ngược, phi nghĩa của giặc trái với đạo trời của quân Thanh: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải”.

+ Để khích lệ tinh thần tướng sĩ dưới quyền, ông đã nhắc lại truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của các bậc minh vương trong lịch sử: “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tô...

+ Từ những gương trên, ông kêu gọi quân lính hãy “đồng tâm hiệp lực”.

+ Cuối cùng, ông ra kỉ luật nghiêm khắc theo phép nhà binh: Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.

    Lời phủ dụ đã như một bài hịch ngắn gọn mà súc tích, sâu sắc để kích thích lòng yêu nước, truyền thống anh hùng dân tộc.

- Đó còn là một bậc minh quân sáng suốt, nhạy bén trong việc dùng người và xét đoán bề tôi:

+ Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với Lân và Sở, ta thấy: ông rất hiểu tình thế buộc phải rút quân để bảo toàn lực lượng của hai vị tướng này. Đúng ra thì “quân thua chém tướng”. Nhưng ông hiểu lòng họ, sức ít không thể địch nổi quân hùng tướng hổ nhà Thanh.

+ Đối với Ngô Thì Nhậm, ông hiểu tường tận năng lực, khả năng “đa minh túc trí” của vị quân sĩ này. Việc Lân và Sở rút chạy, Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao sau này.

    Ông là một bậc minh quân, rất hiểu tướng sĩ, khen chê đúng người đúng việc và ân uy rạch ròi.

c. Bậc quân vương có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng

- Quang Trung tự tin vào tài cầm quân của mình, tin vào các tướng lĩnh và tin ở chính nghĩa của dân tộc. Bởi vậy, mới khởi binh, ông đã chắc thắng và dự kiến cả ngày chiến thắng:Phương lược tiến đánh đã tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh...

- Đang lo việc đánh giặc, Quang Trung đã tính sẵn cả kế hoạch sau chiến thắng (kế hoạch cho mười năm sau), tìm cách ngoại giao với giặc để có thể dẹp “việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”,...

    Chính tinh thần, ý chí quyết thắng hừng hực của vua Quang Trung đã lan tỏa đến từng quân sĩ để kích thích ý chí quật cường trong họ.

d. Bậc kì tài về quân sự - có tài thao lược hơn người

- Vua Quang Trung thân chinh cầm quân, đốc suất quân sĩ, tổ chức chiến dịch làm nên cuộc hành quân thần tốc nổi tiếng trong lịch sử. Cuộc hành quân thần tốc đến nay vẫn còn khiến chúng ta khâm phục:

+ Ngày 25 tháng Chạp bắt đầu xuất quân từ Phú Xuân (Huế).

+ Vượt khoảng 350 km đường đèo, núi, đến ngày 29 đã tới Nghệ An.

+ Tổ chức tuyển quân, duyệt binh chỉ trong một ngày.

+ Ngay hôm sau, vượt khoảng 150 km, tiến ra Tam Điệp.

+ Đêm 30 tháng Chạp “lập tức lên đường” tiến thẳng Thăng Long. Vừa hành quân vừa đánh giặc và giữ bí mật đến bất ngờ.

- Hành quân xa liên tục và gấp gáp, lại là đi bộ hẳn sẽ mệt mỏi, rã rời, song quân đội của Quang Trung vẫn chỉnh tề. Mặc dù quân đội đó không phải toàn lính thiện chiến nhưng dưới sự chỉ huy tài tình của vua Quang Trung, tất cả đã trở thành quân đội dũng mãnh, “tướng ở trên trời rơi xuống, quân chui ở dưới đất lên", đánh đâu thắng đó.

- Ông dùng chiến thuật một cách linh hoạt, ít hao tổn binh lực:

+ Ở trận Hạ Hồi, bằng chiến thuật nghi binh đã giúp nghĩa quân chiến thắng vẻ vang mà không tốn một hòm tên, mũi đạn.

+ Ở trận Ngọc Hồi, cho quân làm những tấm ván ghép, bên ngoài phủ rơm dấp nước nên binh lính tiến sát đồn mà không bị đạn hỏa công.

    Quang Trung là sức mạnh, là nội lực của nghĩa quân Tây Sơn, đại diện cho vẻ đẹp của một dân tộc anh hùng.

e. Một vị anh hùng lẫm liệt trong chiến đấu

- Vua Quang Trung là một tổng chỉ huy thực sự của chiến dịch. Ông hoạch định đường lối chiến lược, chiến thuật, tự mình thống lĩnh một mũi tiên phong, xông pha nơi chiến trận,...

- Dưới sự lãnh đạo của Quang Trung, nghĩa quân Tây Sơn đã chiến thắng áp đảo quân thù.

- Hình ảnh nhà vua lẫm liệt trên lưng voi, trực tiếp chỉ huy trận đánh, dũng mãnh, tài ba được khắc họa nổi bật và là linh hồn của cuộc tiến công vĩ đại của dân tộc.

    Hình ảnh vua anh hùng Quang Trung xông pha nơi chiến trận với tư thế dũng mãnh, “tả đột hữu xông", oai phong lẫm liệt xứng đáng là biểu tượng đẹp nhất về người anh hùng trong văn học trung đại.

2. Sự đại bại của quân Thanh và số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước, hại dân

a. Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh

- Đối lập với hình ảnh của nghĩa quân Tây Sơn:

+ Tướng Tôn Si Nghị: “sợ mất mật, ngựa không còn kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dân bọn lính kị mà của mình chuồn trước qua câu phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy"; Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự tử.

+ Quân “đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều... đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa".

- Cả một đội binh hùng tướng mạnh mấy chục vạn người diễu võ dương oai giờ đây chi còn biết tháo chạy “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”.

- Nguyên nhân của sự thất bại:

+ Tướng lĩnh thì kiêu căng, chủ quan, bỏ ngoài tai những lời cảnh báo của vua tôi Lê Chiêu Thống, chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc trên chiến thắng.

+ Do sự bất tài, tham sống sợ chết, nên chưa đánh đã chạy.

+ Lính tráng thì ô hợp, buông lỏng kỉ cương: Rời doanh trại để đi kiếm củi và buôn bán ở chợ.

    Miêu tả sự đại bại của quân xâm lược nhà Thanh với âm điệu nhanh, mạnh, gấp gáp đã gợi sự đại bại liên tiếp và nhanh chóng của kẻ thù, đồng thời gợi tâm trạng hả hê, sung sướng của người cầm bút.

b. Số phận thảm bại của bọn vua tôi phản nước, hại dân

- Lê Chiêu Thống và bề tôi trung thành của ông ta đã vì lợi ích riêng của dòng họ mà mù quáng “cõng rắn cắn gà nhà” và đặt vận mệnh của dân tộc vào tay kẻ thù xâm lược.

- Họ không còn tư cách của bậc quân vương mà phải chịu số phận nhục nhã của kẻ cầu cạnh, van xin và kết cục chịu chung số phận thảm hại của kẻ vong quốc: Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng kẻ thân tín chạy bán sống, bán chết, “luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều mệt lử”, chỉ biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”.

    Miêu tả sự thảm bại của bọn vua tôi phản nước, hại dân Lê Chiêu Thống bằng một giọng văn chậm rãi, có khi chững lại khi miêu tả những giọt nước mắt để gợi thái độ ngậm ngùi của người cầm bút.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- “Hoàng Lê nhất thống chí” - hồi mười bốn - “Đánh Ngọc Hồi, quán Thanh bị thua trận, bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài” là bức tranh sinh động về người anh hùng Nguyễn Huệ - vị vua văn võ toàn tài. Đồng thời, cũng thấy được tình cánh thất bại ê chề, khốn đốn, nhục nhã của bọn vua quan bán nước Lê Chiêu Thống.

2. Nghệ thuật

- Lựa chọn trình tự kể theo diễn biến của các sự kiện lịch sử.

- Khắc họa nhân vật lịch sử với ngôn ngữ kể, tả chân thực, sinh động.

- Giọng điệu trần thuật thê hiện thái độ của tác giả với vương triều Lê, với chiến thắng của nhân dân, dân tộc với bọn cướp nước.

Văn bản 9: Đồng chí

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Chính Hữu (1926 - 2007), tên thật là Trần Đình Đắc, quê huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

- Ông là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Chính Hữu bắt đầu cầm bút từ năm 1947 và tập trung khai thác ở hai mảng đề tài chính là người lính và chiến tranh.

- Phong cách sáng tác: Thơ Chính Hữu vừa hàm súc, vừa trí tuệ; ngôn ngữ giàu hình ảnh; giọng điệu phong phú: khi thiết tha, trầm hùng, khi lại sâu lắng, hàm súc.

2. Tác phẩm

    Bài thơ “Đồng chí” là một trong những tác phẩm được đánh giá là thành công nhất của Chính Hữu viết về đề tài người lính cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1946 - 1954.

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Đồng chí” được sáng tác mùa xuân năm 1948, sau khi tác giả tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông (1947). Bài thơ là kết quả từ những trải nghiệm của tác giả về thực tế cuộc sống và chiến đấu của bộ đội ta trong những ngày đầu kháng chiến.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Đầu súng trăng treo" (1966).

b. Nhan đề bài thơ

- Đồng chí là những người cùng chung chí hướng, lí tưởng.

- Đồng chí gợi cảm nghi về tình cảm đồng chí, đồng đội. Đó là một loại tình cảm mới, một tình cảm đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong những năm tháng cách mạng kháng chiến.

- Đồng chí, đó còn là cách xưng hô của những người cùng trong một đoàn thể cách mạng, của những người lính, người công nhân, người cán bộ từ sau cách mạng.

    Đồng chí là biểu tượng của tình cảm cách mạng và thể hiện sâu sắc tình đồng đội.

c. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 7 câu đầu: Những cơ sở hình thành của tình đồng chí, đồng đội.

- Phần hai: 10 câu tiếp: Những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội.

- Phần ba: 3 câu cuối: Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Những cơ sở hình thành nên tình đồng chí, đồng đội (7 câu thơ đầu)

a. Cơ sở thứ nhất: Cùng chung hoàn cảnh xuất thân

- Những chiến sĩ xuất thân từ những người nông dân lao động. Từ cuộc đời thật họ bước thẳng vào trang thơ và tỏa sáng một vẻ đẹp mới, vẻ đẹp của tình đông chí, đồng đội:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá’’

+ Thủ pháp đối được sử dụng chặt chẽ ở hai câu thơ đầu, gợi lên sự đăng đối, tương đồng trong cảnh ngộ của người lính. Từ những miền quê khác nhau, họ đã đến với nhau trong một tình cảm thật mới mẻ.

+ Giọng thơ nhẹ nhàng, gần gũi như lời tâm tình, thủ thỉ của hai con người “anh” “tôi”.

+ Mượn thành ngữ “nước mặn đồng chua” để nói về những vùng đồng chiêm, nước trũng, ngập mặn ven biển, khó làm ăn. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong những làn nước.

+ Hình ảnh “đất cày lên sỏi đá” để gợi về những vùng trung du, miền núi, đất đá bị ong hóa, bạc màu, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu từ trong lòng đất.

    “Quê hương anh” - “làng tôi” tuy có khác nhau về địa giới, người miền xuôi, kẻ miền ngược thì cũng đều khó làm ăn canh tác, đều chung cái nghèo, cái khổ. Đó chính là cơ sở đồng cảm giai cấp của những người lính.

     Anh bộ đội cụ Hồ là những người có nguồn gốc xuất thân từ nông dân. Chính sự tương đồng về cảnh ngộ, sự đồng cảm về giai cấp là sợi dây tình cảm đã nối họ lại với nhau, từ đây họ đã trở thành những người đồng chí, đồng đội với nhau.

b. Cơ sở thứ hai: Cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ và lòng yêu nước

Trước ngày nhập ngũ, họ sống ở mọi phương trời xa lạ:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu,”

- Những con người chưa từng quen biết, đến từ những phương trời xa lạ đã gặp nhau ở một điểm chung, cùng chung nhịp đập trái tim, cùng chung một lòng yêu nước và cùng chung lí tưởng cách mạng. Những cái chung đó đà thôi thúc họ lên đường nhập ngũ.

- Hình ảnh thơ “súng bên súng, đầu sát bên đầu” mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc diễn tả sự gắn bó của những người lính trong quân ngũ:

+ “Súng bên súng” là cách nói giàu hình tượng để diễn tả về những người lính cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ chiến đấu. Họ ra đi để chiến đấu và giải phóng cho quê hương, dân tộc, đất nước; đồng thời giải phóng cho chính số phận của họ.

+ “Đầu sát bên đầu” là cách nói hoán dụ, tượng trưng cho ý chí, quyết tâm chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.

- Điệp từ “Súng, bên, đầu” khiến câu thơ trở nên chắc khỏe, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lí tưởng, nhiệm vụ của những người lính.

- Nếu như ở cơ sở thứ nhất “anh” - “tôi” đứng trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi gặp gỡ, vẫn còn xa lạ, thì ở cơ sở thứ hai “anh” với “tôi” trong cùng một dòng thơ, thật gần gũi. Từ những người xa lạ họ đã hoàn toàn trở nên gắn kết.

    Chính lí tưởng và mục đích chiến đấu là điểm chung lớn nhất, là cơ sở để họ gắn kết với nhau, trở thành đồng chí, đồng đội của nhau.

c. Cơ sở thứ ba: Cùng trải qua những khó khăn, thiếu thốn

- Bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà giàu sức gợi, tác giả đã miêu tả rõ nét tình cảm của những người lính:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ’’

+ “Đêm rét chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, gian khổ của cuộc đời người lính; là chung hơi ấm để vượt qua giá lạnh nơi núi rừng. Đó là một hình ảnh đẹp, chân thực và đầy ắp những kỉ niệm.

+ Đắp chung chăn đã trở thành biểu tượng của tình đồng chí. Nó đã khiến những con người “xa lạ” sát gần lại bên nhau, truyền cho nhau hơi ấm và trở thành “tri kỉ”. 

+ Cả bài thơ chỉ có duy nhất một chữ “chung” nhưng đã bao hàm được ý nghĩa sâu sắc và khái quát của toàn bài: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung khát vọng giải phóng dân tộc.

- Tác giả đã rất khéo léo trong việc lựa chọn từ ngữ, khi sử dụng từ “đôi” ở câu thơ trên:

+ Chính Hữu không sử dụng từ “hai" mà lựa chọn từ “đôi". Vì “đôi” cũng có nghĩa là hai, nhưng đôi còn thể hiện sự gắn kết không thể tách rời.

+ Từ “đôi người xa lạ” họ đà trớ thành “đôi tri ki”, thành đôi bạn tâm tình thân thiết, hiểu bạn như hiểu mình.

- Khép lại đoạn thơ, là một câu thơ có một vị trí rất đặc biệt, được cấu tạo bởi hai từ “Đồng chí!”.

+ Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một lời định nghĩa về đồng chí.

+ Thể hiện cảm xúc dồn nén, được thốt ra như một cao trào của cảm xúc, trở thành tiếng gọi thiết tha của tình đồng chí, đồng đội.

+ Gợi sự thiêng liêng, sâu lắng của tình đồng chí.

+ Dòng thơ đặc biệt ấy còn như một bản lề gắn kết. Nó nâng cao ý thơ đoạn trước và mở ra ý thơ đoạn sau. Và dấu chấm cảm đi kèm hai tiếng ấy bỗng như chất chứa bao trìu mến yêu thương.

    Đoạn thơ đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí. Đồng thời, tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.

2. Những biểu hiện của tình đồng chí, đồng đội (mười câu thơ tiếp)

a. Biểu hiện thứ nhất: Họ thấu hiểu những tâm tư, nỗi lòng của nhau

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

• Trước hết, họ thấu hiểu cảnh ngộ, mối bận lòng của nhau về chốn quê nhà:

- Đó là một hoàn cảnh còn nhiều khó khăn: Neo người, thiếu sức lao động. Các anh ra đi đánh giặc, để lại nơi hậu phương bộn bề công việc đồng áng, phải nhờ người thân giúp đỡ.

- Cuộc sống gia đình các anh vốn đã nghèo khó, nay càng thêm thiếu thốn:

+ Hình ảnh “gian nhà không”, diễn tả được cái nghèo về mặt vật chất trong cuộc sống gia đình các anh.

+ Đổng thời, diễn tả sự thiếu vắng các anh - người trụ cột trong gia đình.

• Tiếp theo, họ thấu hiểu lí tưởng và ý chí lên đường để giải phóng cho quê hương, dân tộc.

- "Ruộng nương”, "căn nhà” là những tài sản quý giá, gần gũi, gắn bó, vậy mà họ sẵn sàng bỏ lại nơi hậu phương, hi sinh hạnh phúc riêng tư vì lợi ích chung, vì độc lập tự do của toàn dân tộc.

- Tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất giản dị, mộc mạc, nhưng giàu sức gợi:

+ Từ “mặc kệ”, chỉ thái độ dứt khoát, quyết tâm của người lính. Mặc kệ những gì quý giá nhất, thân thiết nhất để ra đi vì nghĩa lớn.

+ Đồng thời, thể hiện thái độ sẵn sàng hi sinh một cách thầm lặng của các anh vì đất nước.

• Họ thấu hiểu nỗi nhớ quê nhà luôn đau đáu, thường trực trong tâm hồn người lính.

- Họ ra đi để lại một trời thương nhớ. Nhớ nhà, nhớ quê và trên hết là nỗi nhớ những người thân. Những người lính đã dùng lí trí để chế ngự tình cảm, nhưng càng chế ngự thì nỗi nhớ nhung càng trở nên da diết.

- Hình ảnh “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” vừa được sử dụng như một hình ảnh ẩn dụ, vừa được sử dụng như một phép nhân hóa diễn tả một cách tự nhiên và tinh tế tâm hồn người lính.

- "Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” hay chính là tấm lòng của người ra lính luôn canh cánh nỗi nhớ quê hương và do đó họ như đã tạo cho “giếng nước gốc đa” một tâm hồn.

    Hình tượng người lính thời kì đầu của kháng chiến chống Pháp đã hiện lên tràn đầy khí thế và ý chí kiên cường, quyết ra đi bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.

b. Biểu hiện thứ hai: Đồng cam, cộng khổ trong cuộc đời quân ngũ

Chính Hữu là người từng trực tiếp tham gia chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947. Hơn ai khác, ông thấu hiểu những thiếu thốn và gian khổ của cuộc đời người lính. Bảy dòng thơ tiếp, ông đã dành để nói về những gian khổ của các anh bộ đội thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vâng trán ướt mô hôi

Áo anh rách vai 

Quần tôi có vài mảnh vá 

Miệng cười buốt giả 

Chân không giày”

- Bằng bút pháp miêu tả hết sức chân thực, hình ảnh thơ chọn lọc, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh hiện thực sống động về người lính với sự đồng cảm sâu sắc. Trước hết, là những cơn sốt rét rừng:

+ Tác giả sử dụng bút pháp tả thực để tái hiện sự khắc nghiệt của những cơn sốt rét rừng đang tàn phá cơ thể những người lính.

+ Trong những cơn sốt rét ấy, sự lo lắng, quan tâm giữa những người lính đã trở thành điểm tựa vững chắc để họ vượt qua những gian khổ, khó khăn.

- Cuộc đời quân ngũ đầy thiếu thon, gian khổ:

+ Sử dụng thủ pháp liệt kê để miêu tả một cách cụ thể và chính xác những thiếu thốn của người lính: “áo rách vai, quần vài mánh vá, chân không giày”. Đó là những chi tiết rất thật, được chắt lọc từ thực tế cuộc sống người lính.

+ Những khó khăn gian khố như được tô đậm khi tác giả đặt sự thiếu thốn bên cạnh sự khắc nghiệt của núi rừng: sự buốt giá của những đêm rừng hoang sương muối.

    Đây là hình ảnh chân thực về những anh bộ đội thời kì đầu kháng chiến. Đầy những gian nan, thiếu thốn nhưng các anh vẫn xé rừng mà đi, đạp núi mà tiến.

- Song họ vẫn giữ được tinh thần lạc quan cách mạng: Hình ảnh “miệng cười buốt giá” cho thấy thái độ lạc quan, coi thường thử thách để vượt lên khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ.

- Tác giả đã tạo dựng những hình ảnh sóng đôi, đối xứng nhau đê diễn tả sự gắn kết, đồng cảm giữa những người lính.

    Cái hay của câu thơ là nói về cảnh ngộ của người này nhưng lại thấy được sâu sắc tấm lòng yêu thương của người kia. Tình thương đó lặng lẽ mà thấm sâu vô hạn.

c. Biểu hiện thứ 3: Luôn sẵn sàng sẻ chia, yêu thương gắn bó

Tất cả những cảm xúc thiêng liêng được dồn nén trong hình ánh thơ rất thực, rất cảm động, chứa đựng biết bao ý nghĩa:

“Thương nhau tay nằm lấy bàn tay”

- Những cái bắt tay chất chứa biết bao yêu thương trìu mến. Rõ ràng, tác giả đã lấy sự thiếu thốn đến vô cùng về vật chất để tô đậm sự giàu sang vô cùng về tinh thần.

- Những cái bắt là lời động viên chân thành, để những người lính cùng nhau vượt qua những khó khăn, thiếu thốn.

- Những cái bắt tay của sự cảm thông, mang hơi ấm để truyền cho nhau thêm sức mạnh.

- Đó còn là lời hứa lập công, của ý chí quyết tâm chiến đấu và chiến thắng quân thù.

    Có lẽ không ngôn từ nào có thể diễn tả cho hết tình đồng chí thiêng liêng ấy. Chính những tình cảm, tình đoàn kết găn bó đã nâng đỡ bước chân người lính và sưởi ấm tâm hồn họ trên mọi nẻo đường chiến đấu.

3. Sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội

• Được xây dựng trên nền thời gian và không gian vô cùng đặc biệt:

“Đêm nay rừng hoang sương muối”

- Thời gian: Một đêm phục kích giặc.

- Không gian: Căng thẳng, trong một khu rừng hoang vắng lặng và phủ đầy sương muối.

• Trên nền hiện thực khắc nghiệt ấy, những người lính xuất hiện trong tâm thế:

“Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới’’

-Hình ảnh “đứng cạnh bên nhau” cho thấy tinh thần đoàn kết, luôn sát cánh bên nhau trong mọi hoàn cảnh.

- Hình ảnh “chờ giặc tới” cho thấy tư thế chủ động, hiên ngang, sẵn sàng chiến đấu của người lính.

• Kết thúc bài thơ là một hình ảnh độc đáo, là điểm sáng của một bức tranh về tình đồng chí, rất thực và cũng rất lãng mạn:

- Chất hiện thực: gợi những đêm hành quân, phục kích chờ giặc, nhìn từ xa, vầng trăng như hạ thấp ngang trời. Trong tầm ngắm, người lính đã phát hiện một điều thú vị và bất ngờ: trăng lơ lửng như treo đầu mũi súng.

- Chất lãng mạn: Giữa không gian căng thẳng, khắc nghiệt đang sẵn sàng giết giặc mà lại “treo” một vầng trăng lung linh. Chữ “treo” ở đây rất thơ mộng, nối liền mặt đất với bầu trời.

- Hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất giàu ý nghĩa:

+ Súng là biểu tượng cho cuộc chiến đấu, trăng biểu tượng cho non nước thanh bình, súng và trăng cùng đặt trên một bình diện đã gợi cho người đọc bao liên tưởng phong phú: chiến tranh và hòa bình; hiện thực và ảo mộng; khắc nghiệt và lãng mạn; chất chiến sĩ - vẻ đẹp tâm hồn thi sĩ;...

+ Gợi lên vẻ đẹp của tình đồng chí, giúp tâm hồn người chiến sĩ bay lên giữa lúc cam go khốc liệt.

+ Gợi vẻ đẹp của tâm hồn người lính: Trong chiến tranh ác liệt, họ vẫn rất yêu đời và luôn hướng về một tương lai tươi sáng.

     Hình ảnh này xứng đáng trở thành biểu tượng cho thơ ca kháng chiến: một nền thơ có sự kết hợp giữa chất liệu hiện thực và cảm hứng lãng mạn.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Tác giả đã khám phá, ngợi ca một tình cảm đẹp của những người lính cách mạng, đó là tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng sâu nặng. Đồng thời, tác phẩm còn nêu bật lên hình ảnh chân thực, giản dị và cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.

2. Nghệ thuật

- Lối miêu tả chân thực, tự nhiên nhung cũng giàu sức gợi.

- Lựa chọn từ ngữ, hình ảnh giản dị mà giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Giọng điệu tự nhiên, trăm bổng thể hiện cảm xúc dồn nén chân thành.

Văn bản 10: Bài thơ về tiểu đội xe không kính

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Phạm Tiến Duật (1941 - 2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.

- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.

- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua hình tượng người lính nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.

- Phong cách sáng tác: Thơ Phạm Tiến Duật mang giọng điệu tự nhiên, sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch; ngôn ngữ đời thường, chân mộc;...

- Nhiều bài thơ của ông đi vào trí nhớ của công chúng như: “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”; “Gửi em, cô thanh niên xung phong”; “Bài thơ về tiểu đội xe không kính ”;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được sáng tác năm 1969. Đây là thời điểm cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng khắc nghiệt.

- Bài thơ nằm trong chùm thơ đoạt giải nhất cuộc thi thơ do báo Văn nghệ tổ chức và được in trong tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” năm 1970.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Bài thơ có nhan đề khá dài, khá đặc biệt: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Nhan đề bài thơ thoạt nghe sẽ thấy như có chỗ thừa: thừa hai chữ “bài thơ”. Nhưng chính chỗ thừa ấy đã tạo sức hút cho người đọc ỏ vẻ khác lạ và độc đáo ở sức gợi: gợi chất thơ của cuộc sống nơi chiến trường.

- Hình ảnh “tiểu đội xe không kính” được đưa vào nhan đề bài thơ:

+ Gợi hiện thực phổ biến, quen thuộc trên tuyến đường Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

+ Gợi hiện thực của cuộc chiến vô cùng gay go, khốc liệt.

+ Gợi vẻ đẹp của người lính lái xe Trường Sơn, vẻ đẹp của lòng dũng cảm, của ý chí nghị lực của sự kiên cường.

    Cả ý nghĩa nhan đề đã gợi ra hiện thực về chiến trường, đồng thời tô đậm chất thơ trong cuộc đời người lính lái xe.

c. Bố cục: Bốn phần

- Phần một: Khổ 1,2: Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế hiên ngang của người lính.

- Phần hai: Khô 3, 4: Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy của người lính.

- Phần ba: Khổ 5, 6: Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của người lính lái xe.

- Phần bốn: Khổ 7: Ý chí chiến đấu, tinh thần yêu nước và lí tưởng cách mạng của người lính.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình ảnh những chiếc xe không kính và tư thế hiên ngang của người lính (khổ 1, 2)

- Xưa nay, xe cộ rất ít khi đi vào thơ ca, mà nếu có chăng thì cũng được “thi vị hóa” hoặc “lãng mạn hóa” và mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Nhưng những chiếc xe không kính được Phạm Tiến Duật đưa vào thơ lại thực đến mức trần trụi:

“Không có kính không phải vì xe không có kính

Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.”

+ Điệp từ “không” cộng với chất văn xuôi đậm đặclối nói khẩu ngữ khiến cho câu thơ mở đầu trở thành một lời giải thích, thanh minh, phân bua của người lính lái xe về những chiếc xe có không kính.

+ Đồng thời, gợi tâm trạng vừa xót xa, tiếc nuối với chiếc xe của mình.

+ Các từ phủ định: không có... không phải... không có” đi liền với các điệp ngữbom giật, bom rung” không chỉ mang ý nghĩa khẳng định mà còn khiến cho âm điệu câu thơ trở nên hùng tráng, làm cho sự xuất hiện của những chiếc xe trở nên ngang tàng.

    Hai câu thơ đầu đã làm hiện lên những chiếc xe vận tải quân sự mang trên minh đầy những thương tích của chiến tranh. Nó chính là một bằng chứng cho sự tàn phá khủng khiếp của một thời đã đi qua.

- Trên nền của cuộc chiến tranh vô cùng gian khổ và khốc liệt ấy, Phạm Tiến Duật đã xây dựng thành công hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn với tư thế ung dung, hiên ngang, sẵn sàng ra trận:

“Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”

+ Thủ pháp đảo ngữ, đưa từ “ung dung" đứng đầu câu gợi sự bình thản, điềm tĩnh đến kì lạ của người lính.

+ “Nhìn thẳng" là cái nhìn đầy tự chủ, trang nghiêm, bất khuất, không thẹn với trời đất, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh không run sợ.

+ Điệp từ “nhìn" được nhắc lại ba lần, cộng với nhịp thơ dồn dập, giọng thơ mạnh mẽ đã thể hiện cái nhìn khoáng đạt, bao la giữa chiến trường của người lính. 

+ Thủ pháp liệt kê: “nhìn đất”, “nhìn trời”, “nhìn thẳng" đã cho thấy tư thế vững vàng, bình thản, dũng cảm của những người lính lái xe. Họ nhìn thẳng vào bom đạn của kẻ thù, nhìn thẳng vào con đường đang bị bắn phá để lái xe vượt qua.

- Tư thế ung dung, hiên ngang của người lính lái xe ra trận được khắc họa thêm đậm nét qua những hình ảnh hòa nhập vào thiên nhiên:

“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

Thấy sao trời và đột ngột cánh chim 

Như sa, như ùa vào buồng lái.”

+ Tác giả đã mở ra một không gian rộng lớn với những con đường dài phía trước, có gió thổi, có cánh chim chiều và cả những ánh sao đêm. Dường như thiên nhiên, vũ trụ như đang ùa vào buồng lái.

+ Điệp từ, điệp ngữ“nhìn thấy... nhìn thấy... thấy” đã gợi tả được những đoàn xe không kính nối đuôi nhau hành quân ra chiến trường.

+ Hình ảnh nhân hóa chuyển đối cảm giác “vào xoa mắt đắng”, thể hiện tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn của người lính lái xe.

+ Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim”. Gợi liên tưởng đến những chiếc xe phóng với tốc độ nhanh như bay. Lúc đó, giữa các anh với con đường dường như không còn khoảng cách, khiến các anh có cảm giác con đường như đang chạy thẳng vào tim.

Đồng thời, cho thấy tinh thần khẩn trương của các anh đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam.

+ Đặc biệt, hình ảnh so sánh "như sa, như ùa vào buồng lái” đã diễn tả thật tài tình về tốc độ phi thường của tiểu đội xe không kính khi ra trận. Cả một bầu trời đêm như ùa vào buồng lái.

    Có thể nói, hiện thực chiến trường trong khổ thơ trên chính xác đến từng chi tiết. Và đằng sau hiện thực đó là một tâm trạng, một tư thế, một bản lĩnh chiến đấu ung dung, vững vàng của người lính trước những khó khăn, thử thách khốc liệt của chiến tranh.

2. Tinh thần lạc quan, bất chấp gian khổ, coi thường hiểm nguy của người lính (khổ 3, 4)

Những gian khổ, hiểm nguy đã trở thành cuộc sống của những người lính lái xe Trường Sơn. Dù trong bất kì hoàn cảnh, tình thế nào, người lính vẫn tìm được tinh thần lạc quan để chiến đấu và chiến thắng quân thù:

“Không có kính ừ thì có bụi

Bụi phun tóc trắng như người già

Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc

Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha


Không có kính, ừ thì ướt áo

Mưa tuôn, mưa xôi như ngoài trời 

Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa 

Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”

- Hình ảnh “gió”, “bụi”, “mưa” tượng trưng cho những gian khổ, thử thách nơi chiến trường.

- Cấu trúc lặp: "Không có..., ừ thì...” đi liền với kết cấu phủ địnhChưa có...” ở hai khổ thơ đã thể hiện thái độ bất chấp khó khăn, coi thường gian khổ của những chiến sĩ lái xe Trường Sơn.

- Hình ảnh so sánh: “Bụi phun tóc trắng như người già” và "Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời” nhấn mạnh sự khắc nghiệt của thiên nhiên và chiến trường, đồng thời cho thấy sự ngang tàn, phơi phới lạc quan, dũng mãnh tiến về phía trước của người lính Trường Sơn.

- Hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc” và “lái trăm cây số nữa” cho thấy người lính bất chấp gian khổ, coi thường những hiểm nguy, thử thách.

- Ngôn ngữ giản dị như lời nói thường ngày, giọng điệu thì thản nhiên, hóm hỉnh... làm nổi bật niềm vui, tiếng cười của người lính, cất lên một cách tự nhiên giữa gian khổ, hiểm nguy của cuộc chiến đấu.

    Tiểu đội xe không kính tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng và thanh niên Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ.

3. Tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của người lính lái xe (khổ 5, 6)

Sau những cung đường vượt qua hàng nghìn, hàng vạn cây số trong mưa bom, bão đạn, họ lại gặp nhau để hợp thành tiểu đội trong những cái bắt tay vô cùng độc đáo:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới

Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”

- Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” là một hình ảnh tả thực về những chiếc xe vượt qua bao thử thách khốc liệt của bom đạn chiến trường trở về.

- Hình ảnh “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” rất giàu sức gợi:

+ Thể hiện sự đồng cảm sâu sắc trong tầm hồn của những người lính.

+ Là những lời động viên ngắn ngủi, thầm lặng mà họ dành cho nhau.

+ Là sự chia sẻ vội vàng tất cả những vui buồn kiêu hãnh trong cung đường đã qua.

Cuộc trú quân của tiểu đội xe không kính ngắn ngủi mà thắm tình đồng đội, những bữa cơm nhanh dã chiến, được chung bát, chung đũa là những sợi dây vô hình giúp các chiến sĩ xích lại gần nhau hơn:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.”

- Cách định nghĩa về gia đình thật lính, thật tếu táo mà tình cảm thì thật chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường.

- Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc và bữa cơm thời chiến rất vội vã. Nhưng cũng chính giây phút hạnh phúc hiếm hoi đó đã xóa mọi khoảng cách giúp họ có cảm giác gần gũi, thân thương như ruột thịt.

- Từ láy “chông chênh” gợi cảm giác bấp bênh không bằng phẳng - đó là những khó khăn gian khổ trên con đường ra trận. Song, với các chiến sĩ lái xe thì càng gian khổ càng gần đến ngày thắng lợi.

- Nghệ thuật ẩn dụ: “trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ. Màu xanh đó là màu của niềm tin và tin tưởng ở ngày chiến thắng đang đến gần.

+ Điệp từ “lại đi, lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, Khẩn trương và kiên cường. Đó là nhịp sống, chiến đấu và hành quân của tiểu đội xe không kính mà không một sức mạnh tàn bạo nào của giặc Mĩ có thể ngăn cản nối.

4. Hình ảnh những chiếc xe không kính và lí tưởng cách mạng của người lính (khổ 7) 

Hình ảnh chiến sĩ lái xe Trường Sơn là một hình ảnh tiêu biểu cho thể hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ, một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Khổ thơ cuối bài kết tinh vẻ đẹp của hình tượng những chiếc xe không kính và những chiến sĩ lái xe:

“Không có kinh, rồi không có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có một trái tim.”

- Hình ảnh những chiếc xe không kính một lần nữa lại được tác giả miêu tả một cách chân thực và sinh động:

+ Tác giả sử dụng thủ pháp liệt kê: “không có kính”, “không có đèn”, “không có mui”, “thùng xe có xước” để gợi lên một chiếc xe không vẹn toàn, thiếu thốn đủ thứ. Những thứ quan trọng cần có lại không có, những cái không cần có lại có thừa.

+ Phản ánh sự khốc liệt và dữ dội của chiến trường qua kết cấu đối lập: Bom đạn đã làm cho chiếc xe trở nên trơ trụi, thiếu những thứ cần thiết cho một chiếc xe bình thường và tưởng như không hoạt động được. Nhưng kỳ diệu thay, những chiếc xe ấy vẫn băng ra chiến trường giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. 

- “Vì miền Nam phía trước” vừa là lối nói cụ thể, lại vừa giàu sức gợi: Gợi một ngày mai chiến thắng, ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, Bắc Nam sum họp một nhà.

- Tác giả lí giải điều đó thật bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa về sức mạnh của lòng yêu nước và lí tưởng cách mạng: “Chỉ cần trong xe có một trái tim”

+ Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần nguyên vẹn trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng băng ra trận, vẫn tới đích.

+ Đó là sự dũng cảm ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu quật cường.

+ Hình ảnh hoán dụ “trái tim” cho thấy: Trái tim thay thế cho tất cả, khiến chiếc xe trở thành cơ thể sống hợp nhất với người chiến sĩ để tiếp tục tiến lên phía trước. 

    Trái tim yêu thương, trái tim can trường, trái tim cầm lái đã giúp người lính chiến thắng bom đạn của kẻ thù. Trái tim ấy đã trở thành nhãn tự của bài thơ và để lại xảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

III. Tổng kết

1. Nội dung

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” Phạm Tiến Duật đã xây dựng thành công hình tượng những người lính lái xe Trường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ một cách chân thực, độc đáo với nhiều phẩm chất đẹp đẽ.

2. Nghệ thuật

- Thể thơ tự do, đậm chất văn xuôi.

- Hình ảnh thơ mang chất liệu hiện thực của đời sống chiến trường.

- Ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ tự nhiên.

- Giọng điệu ngang tàng, khỏe khoắn, hài hước, dí dỏm.

Văn bản 11: Đoàn thuyền đánh cá

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Huy Cận (1919 - 2005), tên đầy đủ là Cù Huy Cận, quê ở huyện Vụ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.

- Ông là một trong những gương mặt xuất sắc của nền thi ca Việt Nam hiện đại: 

+ Trước cách mạng tháng Tám: Huy Cận là một trong những tên tuổi nổi bật của phong trào thơ Mới, với những đề tài mang cảm hứng vũ trụ và nỗi sầu nhân thế.

+ Sau cách mạng tháng Tám: Thơ Huy Cận đã có nhiều tìm tòi, với đề tài mang cảm hứng vũ trụ song tràn đầy niềm vui chứ không còn mang nặng nỗi sầu nhân thế.

- Phong cách sáng tác: Thơ Huy Cận luôn vận động ở nhiều đối cực: vũ trụ - cuộc đời, sự sống - cái chết, hiện thực - lãng lạn, niềm vui – nỗi buồn...; giọng điệu mộc mạc, chân tình, lắng đọng; hình ảnh thì thâm trầm, khơi gợi;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ra đời năm 1958. Đây là thời kì miền Bắc được giải phóng, bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội để chi viện cho chiến trường miền Nam.

- Bài thơ là kết quả sau chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế này, hồn thơ Huy Cận mới thực sự trở lại và dồi dào trong cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.

- Bài thơ được in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng” năm 1986.

b. Ý nghĩa nhan để

- Hình ảnh “đoàn thuyền” gợi về một sự đoàn kết, ở đó có sự đồng lòng, chung sức giữa các thành viên.

- Phản ánh không khí lao động sổi nổi, hăng say của những người dân chài.

- Gợi lên những thành quả lao động góp phần xây dựng đất nước theo nhịp sống mới sau chiến tranh.

c. Bố cục: Ba phần

Được bố cục theo hành trình một chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá:

- Phần một: 2 khổ thơ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi.

- Phần hai: 4 khổ thơ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển.

- Phần ba: khố thơ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.

II. Tìm hiểu chi tiết

1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi (hai khổ thơ đầu)

a. Khung cảnh trời biển

Mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi trên phông nền của một buổi hoàng hôn tuyệt đẹp:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa

Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

- Tác giả đã đặt nhân vật trữ tình từ một điểm nhìn nghệ thuật rất đặc biệt: đó là một điểm nhìn di động được đặt trên con thuyền đang tiến bước ra khơi.

- Sử dụng một hình ảnh so sánh rất độc đáo: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”

+ Tả thực vầng mặt trời đó rực từ từ chìm xuống lòng biển khép lại vòng tuần hoàn của một ngày.

+ Gợi quang cảnh kì vĩ, tráng lệ của bầu trời và mặt biển lúc hoàng hôn.

+ Gợi bước đi của thời gian và đặc biệt thời gian này nó không chết lặng mà có sự vận động theo hành trình của đoàn thuyền đánh cá.

- Sử dụng hình ảnh nhân hóa:Sóng đã cài then, đêm sập cửa”

+ Tả những con sóng xô bờ như những chiếc then cửa của vũ trụ để chìm vào trạng thái nghỉ ngơi.

+ Gợi cảm giác gần gũi, thân thương, bởi vũ trụ được hình dung như một ngôi nhà lớn của con người.

    Qua hai câu thơ đầu có thể thấy, Huy Cận yêu thiên nhiên và yêu mến cuộc đời như thế nào

b. Cảnh đoàn thuyền ra khơi

Trên phông nền thiên nhiên tuyệt đẹp ấy, con người dần dần xuất hiện:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi

Câu hát cáng buồm cùng gió khơi.”

- Phụ từ “lại” tạo được điểm nhấn ngữ điệu và sức nặng cho câu thơ:

+ Gợi thế chủ động của con người và cho biết công việc ra khơi vần lặp đi lặp lại hàng ngày, trở thành một hành động quen thuộc.

+ Đồng thời, miêu tả một hành động đối lập: đối lập giữa hoạt động của vũ trụ với hoạt động của con người.

- Hình ảnh “câu hát căng buồm cùng gió khơi”:

+ Cụ thể hóa niềm vui phơi phới, sự hào hứng, hăm hở của người lao động.

+ Gợi cho chúng ta liên tưởng tới luồng sức mạnh đã đưa con thuyền vượt trùng ra khơi.

+ Với nghệ thuật chuyển đổi cảm giác “câu hát căng buồm” gợi vẻ đẹp tâm hồn của người lao động gửi gắm vào trong lời hát.

    Đoàn thuyền ra khơi trong trạng thái phấn chấn, náo nức đến lạ kì và dường như có một sức mạnh vật chất đã cùng với gió làm thổi căng cánh buồm, đẩy con thuyền lướt sóng ra khơi.

Trong tâm trạng phấn chấn, náo nức ra khơi, những người dân chài đã cất cao tiếng hát.         

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng

Cá thu biển Đông như đoàn thoi 

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng 

Đến dệt lưới ra, đoàn cá ơi!”

- Từ “hát rằng” gợi lên niềm vui của người dân chài, hứa hẹn một chuyến ra khơi bội thu.

- Thủ pháp liệt kê (cá bạc, cá thu) và so sánh (như thoi đưa) mang đến âm hưởng ngợi ca, tự hào trong câu hát về sự giàu có của biển cả.

- Hình ảnh nhân hóa “đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”:

+ Cho thấy không khí lao động hăng say không kể ngày đêm của người lao động.

+ Gợi hình ảnh những đoàn cá đang dệt những tấm lưới giữa biển đêm.

+ Gợi những vệt nước lấp lánh được tạo ra khi đoàn cá bơi lội dưới ánh trăng.

    Tác giả đã phác họa rất thành công một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, thơ mộng và qua đó gợi được tâm hồn phóng khoáng, tình yêu lao động và niềm hi vọng của người dân chài.

2. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển

a. Hình ảnh đoàn thuyền đánh cá được miêu tả cụ thể và rất sinh động: 

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng 

Lướt giữa mây cao với biển bằng 

Ra đậu dặm xa dò bụng biển 

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”

- Đoàn thuyền đánh cá được tái hiện trên nền thiên nhiên bao la, rộng mở: chiều cao của gió của trăng, chiều rộng của mặt biển và còn cả chiều sâu của lòng biển.

- Với cảm hứng nhân sinh vũ trụ, Huy Cận đã xây dựng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá rất tương xứng với không gian:

+ Cách nói khoa trương phóng đại qua hình ảnh “lái gió với buồm trăng”, “lướt giữa mây cao với biển bằng” cho thấy con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé trước biển cả bao la đã trở thành con thuyền kỳ vĩ, khổng lồ, hòa nhập với không gian bao la, rộng lớn của thiên nhiên, vũ trụ.

+ Khi con thuyền buông lưới thì như dò thấu đáy đại dương. Rõ ràng, con thuyền cũng như con người đang làm chủ không gian này.

+ Hệ thống động từ: được rải đều trong mỗi câu thơ: “lái”, “lướt”, “dò”, “dàn”, cho thấy hoạt động của đoàn thuyền và con thuyền đang làm chủ biển trời.

    Khổ thơ gợi lên một bức tranh lao động thật đặc sắc và tráng lệ. Bức tranh ấy như thâu tóm được cả không gian vũ trụ vào trong một hình ảnh thơ, đồng thời nâng con người và con thuyền lên tầm vóc vũ trụ.

b. Lần theo đoàn thuyền đánh cá, tác giả đã mở ra sự giàu có, phong phú và tấm lòng hào phóng, bao dung của biển cả:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé 

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng 

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe 

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”

- Bằng thủ pháp liệt kê, tác giả đã miêu tả sự phong phú và giàu có của biển cả quê hương qua những loài cá vừa ngon lại vừa quý hiếm của biển.

- Hình ảnh ẩn dụ “cá song lấp lánh đuốc đen hồng”.

+ Tả thực loài cá song, thân dài, trên vảy có những chấm nhỏ màu đen hồng.

+ Gợi hình ảnh về đoàn cá song như một cây đuốc lấp lánh dưới ánh trăng đêm, đã tạo nên một cảnh tượng thật lộng lầy và kì vĩ.

- Hình ảnh nhân hóa “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”:

+ Miêu tả động tác quẫy đuôi của một chú cá dưới ánh trăng vàng chiếu rọi.

+ Gợi một đêm trăng đẹp, huyền ảo mà ánh trăng như thếp đầy mặt biến khiến cho đàn cá quẫy nước mà như quẫy trăng.

- Hình ảnh nhân hóa “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”:

+ Tả nhịp điệu của những cánh sóng.

+ Gợi nhịp thở của biển, vũ trụ lúc đêm về. Biển như mang linh hồn của con người, như một sinh thể cuộn trào sức sống.

- Trước sự giàu có và phong phú đến vô cùng của biển cả, đã mở ra tâm trạng háo hức vui tươi để người dân chài lưới tiếp tục cất cao tiếng hát:

“Ta hát bài ca gọi cá vào

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao

Biển nuôi ta lớn như lòng mẹ 

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”

+ Hình ảnh so sánh “biển cho ta cá như lòng mẹ”

++ Biển tựa như nguồn sữa khổng lồ đã nuôi dưỡng con người tự bao đời.

++ Thể hiện sâu sắc niềm tự hào và lòng biết ơn của người dân chài với biển cả quê hương.

    Ẩn sau khổ thơ, ta thấy lòng biết ơn của con người trước ân tình của quê hương đất nước.

c. Khung cảnh lao động hăng say trên biển

Một đêm trôi nhanh trong nhịp điệu lao động khẩn trương, hào hứng, hăng say:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng 

Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông 

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

- Hệ thống từ ngữ tượng hình: “kéo xoăn tay”, “lưới xếp”, “buồm lên” đã đặc tả để làm hiện lên một cách cụ thể, sinh động công việc kéo lưới của những ngư dân.

- Hình ảnh ấn dụ “ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”:

+ Những nét tạo hình gân guốc, chắc khỏe, cơ bắp cuồn cuộn gợi vẻ đẹp khỏe khoắn của người dân chài lưới trong lao động.

+ Đồng thời gợi lên một mẻ lưới bội thu.

- Hình ảnh “vẩy bạc”, “đuôi vàng” đầy ắp những khoang thuyền:

+ Cho thấy sự giàu có của biển cả quê hương và niềm vui phơi phới của người lao động.

+ Màu bạc của vảy cá, màu vàng của đuôi cá dưới ánh mặt trời như lóe cả rạng đông. Điều đó cho thấy bút pháp sử dụng màu sắc đại tài của Huy Cận.

    Tác giả đã diễn tả được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với sự giàu có hào phóng của thiên nhiên. Đồng thời khắc họa thành công hình tượng người lao động lớn lao, phi thường.

3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về

Đoàn thuyền đánh cá trở về trong câu hát:

“Câu hát căng buồm với gió khơi

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời 

Mặt trời đội biển nhô màu mới 

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

- Câu hát ra khơi và câu hát trở về thoạt nghe thì ta tưởng nó cùng một âm hưởng, cùng một lối miêu tả. Nhưng nếu đọc kĩ, ta sẽ thấy: Câu hát ra khơi là “Câu hát căng buồm cùng gió khơi”, còn câu hát trở về là “Câu hát căng buồm với gió khơi”.

+ Khi viết về câu hát ra khơi, tác giả sử dụng từ “cùng” để gợi cái sự hài hòa giữa ngọn gió và câu hát, từ đó tái hiện một chuyến đi biển thuận lợi và bình yên. 

+ Khi viết về câu hát trở về, tác giả đã biến đổi từ “cùng” thành từ “với” để gợi niềm vui phơi phới khi họ được trở về trên những con thuyền đầy ắp cá.

+ Với nghệ thuật đầu cuối trong câu hát, ta còn thấy được điệp khúc của khúc ca lao động.

- Hình ảnh nhân hóa “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”

+ Đoàn thuyền như trở thành một sinh thể sống để chạy đua với thiên nhiên bằng tốc độ của vũ trụ.

+ Nâng tầm vóc của đoàn thuyền, con người sánh ngang với tầm vóc của vũ trụ. 

+ Gợi tư thế hào hùng, khẩn trương để giành lấy thời gian để lao động. Và trong cuộc chạy đua này, con người đã chiến thắng. Khi “Mặt trời đội biển nhô màu mới” thì đoàn thuyền đã về đến bến: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”.

- Hình ảnh hoán dụ “mắt cả huy hoàng”:

+ Miêu tả muôn triệu mắt cá li ti được phản chiếu ánh rạng đông trở nên rực rỡ, huy hoàng.

+ Đây không còn là ánh sáng của tự nhiên nữa, mà là sánh sáng của thành quả lao động lấp lánh ánh vui.

    Khổ thơ mang âm hưởng của bản anh hùng ca lao động, thể hiện niềm vui phơi phới của con người khi làm chủ đất trời.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Phác họa thành công vẻ đẹp của thiên nhiên và của người lao động mới.

- Khám phá, ngợi ca sự giàu có, hào phóng của thiên nhiên đất nước và tầm vóc lớn lao của người lao động. Đồng thời, cho thấy sự hồi sinh của thiên nhiên, đất nước sau chiến tranh.

2. Nghệ thuật

- Một ngòi bút tràn đầy cảm hứng thiên nhiên, vũ trụ.

- Hình ảnh thơ phong phú, giàu sức gợi.

- Kết cấu đầu cuối tương ứng đặc sắc.

Văn bản 12: Bếp lửa 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Bằng Việt tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng. Ông sinh năm 1941, quê huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.

- Ông bắt đầu “cầm bút” từ những năm 60 của thế kỉ XX và tập trung khai thác ở hai mảng đề tài chính: cuộc chiến đấu của nhân dân ta trong kháng chiến chống Mĩvẻ đẹp của con người giữa cuộc sống đời thường.

- Phong cách sáng tác: Thơ Bằng Việt mang giọng điệu thủ thỉ, tâm tình; ngôn từ điềm đạm; cấu tứ mạch lạc và hệ thống thi ảnh đặc sắc.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Bếp lửa” ra đời năm 1963, khi ấy tác giả đang là sinh viên ngành Luật tại Liên Xô và mới bắt đầu đến với thơ.

- Bài thơ in trong tập “Hương cây - Bếp lửa”, năm 1968.

b. Ý nghĩa nhan đề

    “Bếp lửa” là một hình ảnh độc đáo, sáng tạo, xuất hiện nhiều lần trong bài thơ, nó vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa biểu tượng:

- Trước hết, đây là một bếp lửa thực, quen thuộc, gần gũi trong mỗi gia đình của người Việt. Đồng thời, nó là hình ảnh gắn với kỉ niệm ấu thơ về một người bà cụ thể, có thật của tác giả.

- Bếp lửa là biểu tượng giàu ý nghĩa:

+ Bếp lửa gợi lên sự tảo tần, chăm sóc, yêu thương của người bà dành cho người cháu trong những năm tháng đói nghèo, chiến tranh để trưởng thành và khôn lớn. 

+ Bếp lửa gợi lên bao vất vả, cực nhọc của đời bà. Song bà nhóm bếp lửa cũng chính là nhóm lên sự sống, niềm vui, niềm tin, và hi vọng cho cháu vào một tương lai phía trước.

+ Bếp lửa còn là biểu tượng của gia đình, quê hương, đất nước, cội nguồn... đã nâng bước người cháu trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời.

    “Bếp lửa” là tên gọi của một bài thơ cảm động về tình bà cháu giản dị, thiêng liêng. Đồng thời thể hiện tình cảm gia đình, quê hương, đất nước sâu sắc…

c. Bố cục: Bốn phần

- Phần một: khổ thơ đầu: Hình ảnh bếp lửa - Nơi bắt đầu nỗi nhớ.

- Phần hai: 3 khổ tiếp: Những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà và bếp lửa.

- Phần ba: 2 khổ tiếp: Suy ngẫm về bà và bếp lửa.

- Phần bốn: khổ thơ cuối: Nỗi nhớ về bà và bếp lửa.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình ảnh bếp lửa – Nơi bắt đầu nỗi nhớ

Dòng hồi tưởng bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa. Để rồi, từ hình ảnh bếp lửa ấy, dòng kỉ niệm về bà thức dậy và được tái hiện:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”

- Trước hết, đó là hình ảnh bếp lửa tả thực, nhỏ bé, gần gũi, quen thuộc trong mỗi gia đình từ bao đời.

- Hình ảnh ẩn dụ “ấp iu nồng đượm”:

+ Gợi đến bàn tay cần mẫn, khéo léo, chính xác của người nhóm lửa.

+ Gợi tấm lòng chi chút của người nhóm ngọn lửa.

- Từ “bếp lửa” được điệp lại hai lần:

+ Gợi bóng dáng của người bà, người mẹ tần tảo, thức khuya dậy sớm chăm sóc cho chồng, cho con.

+ Diễn tả dòng cảm xúc dâng tràn ùa về từ kí ức.

- Từ láy “chờn vờn”:

+ Miêu tả bếp lửa với ngọn lửa bốc cao, bập bùng, tỏa sáng, ẩn hiện giữa màn sương sớm.

+ Bếp lửa ấy mờ tỏa, chờn vờn trong kí ức về những năm tháng tuổi thơ được sống bên bà của nhà thơ.

    Một cách tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy dòng cảm xúc yêu thương mành liệt trong người cháu:

“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”

- Bộc lộ sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của đời bà.

- Chữ “thương” dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, diễn tả cảm xúc đến rất tự nhiên và lan tỏa tâm hồn người cháu.

     Hình ảnh “bếp lửa” đã khơi dậy trong lòng người cháu bao cảm xúc để những dòng hồi tưởng, kí ức từ đó ùa về khiến người cháu không khỏi xúc động.

2. Những kỉ niệm tuổi thơ bên bà và kỉ niệm với bếp lửa

a. Những kỉ niệm hồi lên bốn tuổi

Đó là kỉ niệm tuổi thơ với những năm tháng gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”

- Từ láy “đói mòn đói mỏi”:

+ Miêu tả một hiện thực đau thương trong lịch sử: Năm 1945, do chính sách cai trị hà khắc của phát xít Nhật và thực dân Pháp đã khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.

+ Câu thơ trĩu xuống, khiến lòng người như nao nao, nghẹn ngào khi nghĩ về kí ức tuổi thơ ấy.

- Hình ảnh “bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy” phần nào diễn tả được hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của gia đình khiến người cha phải bươn chải kiếm sống đủ nghề.

- Hình ảnh “đói mòn đói mỏi”“khô rạc ngựa gầy” là những hình ảnh đậm chất hiện thực, đặc tả được sự xơ xác, tiều tụy của những con người trong cuộc mưu sinh

Trong những năm đói khổ ấy, cháu cùng bà nhóm lửa:

“Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”

- Khói bếp của bà chẳng làm no lòng cháu nhưng đã lưu giữ một kỉ niệm sống mãi không nguôi: mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay’’.

- Tác giả nhắc đi nhắc lại từ “khói”: “mùi khói”, “khói hun” gợi một sự ám ảnh về một thời gian khó đã đi qua.

- Cảm giác cay cay vì khói bếp và cái cay cay bởi nỗi xúc động của người cháu như hòa quyện, quá khứ và hiện tại như đồng hiện trên những dòng thơ.

    Những hình ảnh, những kỉ niệm bên bà, bên bếp lửa đã cho thấy một tuổi thơ gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn và đầy ám ảnh của tác giả. Để rồi khi đã đi xa, ông không khỏi xúc động mỗi khi nghĩ về bà và những kỉ niệm bên bà.

b. Những kỉ niệm hồi lên tám tuổi

• Đó là những năm tháng cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà:

“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa”

- Gợi khoáng thời gian tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, bao bọc của bà.

- Tám năm ấy, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy tình yêu thương.

- Bếp lửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh thần, như sự cưu mang đùm bọc đầy chi chút của bà.

• Đó là những năm tháng hồn nhiên, trong sáng và vô tư qua hình ảnh tâm tình với chim tu hú:

“Tu hú kêu trên những cảnh đồng xa 

Tu hú kêu bà còn nhớ không bà? 

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế 

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”

- Tiếng chim tu hú - âm thanh quen thuộc của đồng quê mỗi độ hè về, để báo hiệu mùa lúa chín vàng đồng, vải chín đỏ cành.

- Tiếng chim tu hú như giục giã, như khắc khoải điều gì da diết lắm, khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Tiếng tu hú gợi nhớ, gợi thương:

+ Về tám năm kháng chiến chống Pháp “mẹ cùng cha công tác bận không về” bà vừa là cha, vừa là mẹ.

+ Về những năm tháng tuổi thơ, về một thời cháu cùng bà nhóm lửa, được sống trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của bà:

“Cháu ở cùng bà, bà kể cháu nghe 

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học’’

Các động từ: “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả sâu sắc tấm lòng bao la, sự chăm chút, nâng niu của bà đối với đứa cháu nhỏ. Các từ “bà” - “cháu” được điệp lại bốn lần, đan xen vào nhau như gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương.

    Bà vừa là bà, vừa là sự kết hợp cao quý của tình cha, nghĩa mẹ, ơn thầy.

• Tình yêu, sự kính trọng bà của người cháu được thế hiện thật chân thành, sâu sắc qua câu thơ:

“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”

- Hình ảnh con chim tú hú xuất hiện tiếp tục ở cuối khố thơ với câu hỏi tu từ là một sáng tạo độc đáo của Bằng Việt nhằm diễn tả nỗi lòng da diết của mình khi nhớ về tuổi thơ, về bà:

“Tu hủ ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cảnh đông xa?”

+ Gợi hình ảnh chú chim đang lạc lõng, bơ vơ, côi cút khao khát được ấp ủ, che chở. 

+ Đứa cháu được sống trong tình yêu thương, đùm bọc của bà đã chạnh lòng thương con tu hú. Và thương con tu hú bao nhiêu, tác giả lại biết ơn những ngày được bà yêu thương, chăm chút bấy nhiêu.

    Trong khi hồi tưởng về quá khứ, người cháu luôn thể hiện nỗi nhớ thương vô hạn và lòng biết ơn bà sâu nặng.

c. Những kỉ niệm thời bom đạn chiến tranh

    Từ trong khói lửa của cuộc chiến tranh tàn khốc, người bà càng sáng lên những phẩm chất cao đẹp:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi 

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh”

- Hình ảnh “cháy tàn cháy rụi” gợi sự tàn phá, hủy diệt khủng khiếp của chiến tranh.

- Trước hiện thực khó khăn, ác liệt ấy, bà vẫn mạnh mẽ, kiên cường không kêu ca, phàn nàn. Điều đó được thể hiện qua lời dặn dò của bà với cháu:

“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh: 

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, 

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ, 

Cứ báo nhà vẫn được bình yên!”

+ Bà đã gồng mình, lặng lẽ gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác. 

+ Bà không chỉ là chỗ dựa vững chắc cho hậu phương mà còn là điểm tựa vững chắc cho cả tiền tuyến.

+ Bà đã góp phần làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam vốn giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh.

3. Những suy ngẫm về bà và bếp lửa

    Từ những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà, nhận được sự yêu thương, chăm sóc của bà bên bếp lửa quê hương, người cháu suy ngẫm về cuộc đời bà và bếp lửa.

a. Những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa

    Trong bài thơ, trên dưới mười lần tác giả nhắc đến bếp lửa và hiện diện cùng bếp lửa là hình ảnh người bà, với vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại và đầy yêu thương. Và đến đây, tác giả đã dành một khổ thơ để nói lên những suy ngẫm về bếp lửa:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen 

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”

- Hình ảnh bếp lửa ở dòng thơ đầu là hình ảnh tả thực về sự vật hữu hình, cụ thể, gần gũi và gắn liền với những gian khổ của đời bà.

- Từ hình ảnh “bếp lửa” hữu hình, tác giả đã liên tưởng đến “ngọn lửa” vô hình “lòng bà luôn ủ sẵn” với ý nghĩa trừu tượng và khái quát:

+ Bếp lửa bà nhóm lên không phải chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài, mà còn bằng chính ngọn lửa từ trong lòng bà - ngọn lửa của tình yêu thương, niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt.

+ Ngọn lửa bền bỉ và bất diệt ngày ngày bà nhóm cũng chính là nhóm niềm vui, niềm tin, niềm yêu thương để nâng đỡ cháu trên suốt những chặng đường dài.

+ Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa - ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

    Chính vì cảm nhận, thấu hiểu được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc kia một sự kì diệu và thiêng liêng, nhà thơ đã thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng — bếp lửa!”.

- Các động từ: “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của những người phụ nữ Việt Nam.

- Điệp ngữ - ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động, tự hào.

    Thông qua những suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa, tác giả đã khẳng định và ngợi ca vẻ đẹp tần tảo, nhẫn nại, đầy yêu thương của bà hiện lên lấp lánh như một thứ ánh sáng diệu kì.

b. Những suy ngẫm về bà và cuộc đời bà

    Hình ảnh bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Bà là người nhóm lửa, cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và tỏa sáng. Để rồi mỗi khi nhớ lại, người cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giừ thói quen dậy sớm”

- Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm” đi liền với từ láy tượng hìnhlận đận” hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã diễn tả một cách sâu sắc và trọn vẹn về cuộc đời đầy những lận đận, gian nan, vất vả của bà.

- Thời gian có thể trôi, mọi sự có thể biến đổi, song chỉ duy nhất một sự bất biến: Suốt cả một cuộc đời lận đận, vất vả, bà vẫn “giữ thói quen dậy sớm” để làm công việc nhóm lửa, nhóm lên niềm tin, tình yêu thương cho cháu.

    Tình thương yêu tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà thật sâu nặng thiết tha.

    Bà không chỉ nhóm lửa bằng đôi tay khẳng khiu, gầy guộc, mà còn bằng tất cả tấm lòng đôn hậu “ấp iu nồng đượm” đối với con cháu:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”

- Điệp từ “nhóm” được nhắc lại bốn lần, đan kết với những chi tiết tả thực mang đến nhiều ý nghĩa và liên tưởng khác nhau:

+ “Nhóm bếp lửa”, “nhóm nồi xôi gạo” là hình ảnh tả thực công việc của bà.

+ “Nhóm niềm yêu thương”, “nhóm dậy cả những tâm tình”hình ảnh ẩn dụ về công việc thiêng liêng và cao quý nhất của con người. Bà đã khơi dậy trong tâm hồn cháu và những người xung quanh niềm yêu thương, sự chia sẻ.

    Có thể nói, cảm xúc của nhà thơ như dâng trào khi suy ngẫm về bà và bếp lửa. Khổ thơ như một sự tổng kết để ngợi ca, khẳng định về bà: Bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hi sinh, luôn chăm lo cho mọi người.

4. Nỗi nhớ bà và bếp lửa

    Nỗi nhớ bà và bếp lửa gợi lên từ một thực tại, người cháu năm xưa giờ đã lớn khôn, trưởng thành, đã được chắp cánh bay xa, được làm quen với những chân trời rộng lớn:

“Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chăng lúc nào quên nhắc nhớ:

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

- Dòng thơ đầu được ngắt thành hai câu để gợi sự chảy trôi của thời gian (từ bốn tuổi, tám tuổi đến trưởng thành); gợi sự biến đổi của không gian (từ căn bếp của bà đến những khoảng trời rộng lớn).

- Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ.

- Điệp từ “có” kết hợp với thủ pháp liệt kê:

+ Cho thấy người cháu đã có những thay đổi lớn trong cuộc đời, đà tìm được bao niềm vui mới.

+ Khẳng định đứa cháu không thể quên được ngọn lửa của bà, tấm lòng đùm bọc, ấp iu của bà. Ngọn lửa ấy đã thành kỉ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng liêng, kì diệu nâng bước người cháu trên suốt chặng đường dài.

    Khổ thơ chứa đựng đạo lí thủy chung, cao đẹp bao đời của người Việt: “uống nước nhớ nguồn”. Đạo lí ấy được nuôi dưỡng ở mỗi tâm hồn con người từ thuở ấu thơ, để rồi như chắp cánh để mỗi người bay cao, bay xa trên hành trình cuộc đời.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Bài thơ “Bếp lửa” đã khẳng định, ngợi ca tình cảm bà cháu bình dị, gần gũi mà thiêng liêng.

- Qua những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đà trưởng thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và bếp lửa, đã bộc lộ những tình cảm thiêng liêng, sâu nặng đối với gia đình, quê hương, đất nước.

2. Nghệ thuật

- Sự kết hợp hài hòa của các phương thức biểu đạt: biểu cảm, tự sự, miêu tả, bình luận.

- Hệ thống hình ảnh vừa chân thực lại vừa giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Cảm xúc mãnh liệt, chân thành và đậm chất triết lí sâu xa.

Văn bản 13: Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê ở huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên

- Huế.

- Ông là nhà thơ chiến sĩ và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Mĩ.

- Thơ ông tập trung khám phá vẻ đẹp của đất nước, nhân dân trong cuộc chiến đấu chung của toàn dân tộc.

- Phong cách sáng tác: Thơ Nguyễn Khoa Điềm có sự hòa quyện giữa cảm xúc trữ tình nồng thắm và chất suy tư sâu lắng; mang đậm chất dân gian bằng việc vận dụng ca dao, dân ca, tục ngữ.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ sáng tác năm 1971, khi Nguyễn Khoa Điềm đang công tác ở chiến khu miền Tây tỉnh Thừa Thiên. Đây là thời kì ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Đất và khát vọng” năm 1984.

b. Ý nghĩa nhan đề

    Đây là một bài thơ có nhan đề dài, độc đáo và chứa đựng hai hình ảnh nổi bật:

- Hình ảnh khúc hát ru:

+ Gợi cho chúng ta liên tưởng đến giai điệu ngọt ngào, thiết tha trong những bài hát ru của mẹ.

+ Gợi tấm lòng của những người bà, người mẹ.

+ Gợi âm hưởng của ca dao, dân ca với chất trữ tình sâu lắng, thiết tha.

- Hình ảnh những em bé lớn trên lưng mẹ:

+ Gợi cho chúng ta liên tưởng đến những em bé được sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đặc biệt.

+ Gợi không gian núi rừng - nơi đồng bào, dân tộc cư trú, sinh sống.

+ Gợi lên tình yêu thương và niềm tin, nghị lực của nhưng bà mẹ vùng cao.

c. cấu trúc của bài thơ

* Lặp cấu trúc: Bài thơ được chia làm ba khúc ru, mỗi khúc lại được cấu thành bởi hai khổ thơ.

- Khổ đầu: Lời ru của nhà thơ.

- Khổ hai: Lời ru của mẹ.

    Cấu trúc đặc biệt này đã tạo cho bố cục bài thơ trở nên cân đối và chặt chẽ. Đồng thời, tạo cho âm điệu của khúc ru trở nên da diết, vấn vương tựa như tình cảm trìu mến của mẹ.

* Lặp câu:

- Mở đầu lời ru là những câu thơ:

“Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi 

Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ”.

+ Miêu tả một hình ảnh có thực, xuất hiện trong những năm kháng chiến của đất nước: Những em bé ngủ trên lưng mẹ từ trong sản xuất tới chiến đấu.

+ Gợi về một thế hệ sinh ra và lớn lên trong chiến tranh, khói lửa, phải chịu nhiều những gian khổ, mất mát, hi sinh.

+ Gợi về hình ảnh vĩ đại của những người mẹ vùng cao, dù trong bom đạn chiến tranh vẫn bao bọc, chở che cho những đứa con được khôn lớn, trưởng thành.

- Mở đầu lời ru của mẹ là câu thơ:

“Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi”

    Lời ru của tác giả và lời ru của mẹ nối tiếp, đan cài một cách nhịp nhàng khiến cho lời ru thêm ngọt ngào, đằm thắm, lắng sâu.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Khúc hát ru thứ nhất

a. Lời ru của tác giả

Hình ảnh người mẹ dân tộc Tà-ôi xuất hiện trong công việc:

“Mẹ già gạo mẹ nuôi bộ đội

Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng 

Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi 

Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối

Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”

- Đó là một công việc vô cùng vất vả, nặng nhọc.

+ Hình ảnh “nhịp chày nghiêng” giàu giá trị tạo hình, gợi lên vóc dáng nghiêng nghiêng trong công việc của mẹ.

+ Hình ảnh “giấc ngủ em nghiêng” gợi về một giấc ngủ chao nghiêng, đong đưa theo những nhịp chày của mẹ.

+ Hình ảnh liệt kê “mồ hôi’’, “vai gầy” để đặc tả, tô đậm sự vất vá trong lao động của mẹ.

- Giữa những công việc vất vả như thế, tình yêu thương mẹ dành cho con càng thêm sâu sắc:

+ Hình ảnh “vai mẹ gầy” gợi vóc dáng nhọc nhằn, lam lũ của mẹ. Nhưng cũng chính đôi vai gầy ấy lại hóa thành chiếc gối êm đưa con vào giấc ngủ.

+ Câu thơ “lưng đưa nôi và tim hát thành lời” là hình ảnh mới lạ, cảm động về bà mẹ Tà-ôi đưa nôi cho con bằng tấm lưng và hát thì bằng cả trái tim yêu thương sâu lắng.

b. Lời ru của mẹ

- Trong lời ru của mẹ, mẹ đã gửi gắm, mong muốn bao điều tốt đẹp cho con:

“Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội

Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần

Mai sau con lớn vung chày lún sân’’

+ Mẹ thương con, yêu con sâu sắc. Và tình thương của mẹ cứ lớn dần và được chuyển hóa, mở rộng sang tình thương bộ đội.

+ Hình ảnh “hạt gạo trắng ngần” mẹ mơ gợi đến một cuộc sống no đủ, êm đềm sẽ đến với con.

+ Hình ảnh “vung chày lún sân”, cho thấy mẹ không chỉ mong con có một cuộc sống no đủ mà còn ước con khỏe mạnh, lao động giỏi.

    Khúc hát ru thứ nhất đã cho thấy tấm lòng bao la, vĩ đại của người mẹ. Mẹ vừa là mẹ của gia đình vừa là mẹ của kháng chiến, của đất nước.

2. Khúc hát ru thứ hai

a. Lời ru của tác giả

Hình ảnh người mẹ Tà-ôi được tái hiện trong khung cảnh, không gian rộng lớn:

“Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi

Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ 

Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi 

Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”

- Hình ảnh “Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ” là một hình ảnh tượng phản:

+ Gợi thiên nhiên, khung cảnh mênh mông, heo hút của núi rừng Ka-lưi.

+ Gợi vóc dáng nhỏ bé, hao gầy của mẹ trong lao động, sản xuất.

    Câu thơ đã nhấn mạnh sự nhọc nhằn, vất vả của mẹ.

- Tác giả đã sáng tạo nên hình ảnh ẩn dụMặt trời của mẹ” để diễn tả tình yêu thương vô bờ bến của mẹ:

+ “Mặt trời của bắp” đó là mặt trời thực của thiên nhiên, vũ trụ, tỏa hơi ấm đến khắp muôn nơi.

+ “Mặt trời của mẹ” là một sự sáng tạo độc đáo, ẩn dụ cho con. Mẹ muốn nói con chính là nguồn sáng, là niềm hạnh phúc, sự ấm áp của đời mẹ.

b. Lời ru của mẹ

“Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói 

Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều 

Mai sau con lớn, phát mười Ka-lưi.”

- Từ tình thương con, mẹ mở rộng sang tình thương bộ đội và sang cả buôn làng.

- “Hạt bắp lên đều” ẩn dụ cho cuộc sống no đủ mà mẹ mong ước.

- Câu thơ “Mai sau con lớn, phát mười Ka-lưi” gợi về một ngày mai rất gần, con sẽ trưởng thành, khỏe mạnh, phi thường, đem sự no ấm cho buôn làng.

    Ước mơ và tình yêu của mẹ cứ mở rộng dần đã cho thấy tấm lòng, sự hi sinh vĩ đại của mẹ.

3. Khúc hát ru thứ ba

a. Lời ru của tác giả

Nếu như ở hai khúc ru trên, công việc của mẹ chủ yếu ở hậu phương để phục vụ chiến đấu thì ở khúc ru thứ ba mẹ đang ở tư thế trực tiếp chiến đấu:

“Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng 

Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối 

Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông 

Mẹ địu em đi để giành trận cuối 

Từ trên lưng mẹ em đến chiến trường 

Từ trong đói khổ em vào Trường Sơn.”

- Hình ảnh liệt kê “chuyển lán”, “đạp rừng” gợi hình ảnh người mẹ đang bảo vệ căn cứ, di chuyển lực lượng để kháng chiến lâu dài với tinh thần quyết tâm và lòng tin vào thắng lợi.

- Hình ảnh liệt kê “anh trai cầm súng”, “chị gái cầm chông”, “mẹ địu em đi” 

+ Gợi đến một gia đình, dân tộc đang anh dũng đứng lên chống kẻ thù chung.

+ Cho thấy sự lớn mạnh, trưởng thành vượt bậc của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Chúng ta tập hợp được một lực lượng đông đảo, thuộc mọi tầng lớp từ già trẻ, gái trai cùng tham gia chiến đấu.

- Cấu trúc “từ... đến...” gợi sự trưởng thành của em cu Tai từ trên lưng mẹ đã khôn lớn, đủ sức khỏe để chiến đấu.

- Nhịp thơ 4/4 nhanh, mạnh gợi không khí hào hùng, sôi động của cuộc kháng chiến.

b. Lời ru của mẹ

“Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước 

Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ 

Mai sau con lớn làm người Tự do...”

- Từ tình thương con mẹ mở ra tình thương đất nước. Từ tình cảm gia đình riêng tư mẹ hòa hợp với tình cảm chung rộng lớn của dân tộc, đất nước.

- Xuất phát từ tình cảm lớn lao, tấm lòng cao cả ấy, mẹ đã mơ những ước mơ về con, lớn lao và vĩ đại:

+ Mẹ mơ “được thấy Bác Hồ” là mẹ mong muốn cho con sớm trưởng thành và tìm thấy được chân lí, con đường đúng đắn.

+ Ước mơ tha thiết nhất, mãnh liệt nhất của mẹ là con được “làm người Tự do”, sống trong một dân tộc làm chủ được vận mệnh của mình.

- Tác giả không để cho người mẹ trực tiếp nói về ước mơ của mình mà mong “con mơ cho mẹ”, Như vậy, người mẹ đã gửi trọn niềm mong mỏi vào giấc mơ của con nên lời ru càng thêm tha thiết, tin tưởng.

    Qua ba lời ru, lần lượt hiện lên những công việc, tấm lòng của người mẹ. Người mẹ ấy bền bỉ trong công việc lao động và quyết tâm trong công cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài thơ “Khúc hát ru những em bẻ lớn trên lưng mẹ” là những lời tâm tình tha thiết của người mẹ Tà-ôi đối với đứa con yêu. Thông qua lời ru, người mẹ đã bộc lộ tình yêu thương đằm thắm đối với người con, tình cảm gắn bó với quê hương, với cuộc sống lao động và chiến đấu dù còn nhiều những gian nan, vất vả. Đồng thời, mẹ còn gửi gắm những ước mơ về sự trưởng thành, khỏe mạnh, khôn lớn của con trở thành công dân của một đất nước tự do.

2. Nghệ thuật

- Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình, ngọt ngào.

- Cách ngắt nhịp linh hoạt.

Văn bản 14: Ánh trăng 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Duy, tên khai sinh Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở Thanh Hóa.

- Ông thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước:

+ Trước đổi mới: Nguyễn Duy tập trung viết về đề tài chiến tranh và quê hương với khuynh hướng phi sử thi, phản ánh những vẻ đẹp đơn sơ, bình dị, những mất mát, hi sinh và cuộc sống lam lũ của người nông dân.

+ Sau đổi mới: Nguyễn Duy mạnh mẽ, táo bạo, dám phơi bày những bất cập của xã hội đương thời.

- Phong cách sáng tác: Có sự thống nhất của nhiều yếu tố đối lập: mộc mạc, dần dà mà tinh tế, sâu sắc; ngang tàng, tếu táo mà thiết tha sâu lắng, nhân tình; tự nhiên ngẫu hứng mà trau truốt công phu.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Ánh trăng” ra đời năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

- Bài thơ được in trong tập thơ cùng tên và được giải A của Hội nhà văn Việt Nam năm 1984.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Nhan đề “Ánh trăng” trước hết là một phần của thiên nhiên với tất cả những gì gần gũi, thân thuộc.

- “Ánh trăng" là biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung gắn với lịch sử hào hùng của dân tộc.

- Gợi cho ta liên tưởng đến những con người giản dị mà thủy chung nghĩa tình: nhân dân, đồng đội,...

c. Thể loại - phương thức biểu đạt

- Thể thơ năm chữ với những chữ cái đầu khổ được viết hoa. Toàn bài chỉ có một dấu phẩy và một dấu chấm kết bài. Nó khiến cho cảm xúc liền mạch, sâu lắng.

- Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa hai phương thức tự sự và trữ tình.

d. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 2 khổ đầu: vầng trăng trong quá khứ.

- Phần hai: 2 khô tiếp: vầng trăng trong hiện tại.

- Phần ba: 2 khổ cuối: Cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật trữ tình.

II. Tìm hiểu chi tiết

1. Vầng trăng trong quá khứ

Trong hai khổ thơ đầu, tác giả gợi lại những kỉ niệm đẹp, tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ:

“Hồi nhỏ sống với rừng 

Với sông rồi với bể 

Hồi chiến tranh ở rừng 

Vầng trăng thành tri kỉ


Trần trụi với thiên nhiên 

Hồn nhiên như cây cỏ 

Ngỡ không bao giờ quên 

Cái vầng trăng tình nghĩa”

- Những câu thơ ngắn với giọng tâm tình, thủ thỉ (hồi nhỏ, hồi chiến tranh) cộng với biện pháp tu từ liệt kê (đồng, sông, bể) đã gợi lại một tui thơ sống gắn bó, gần gũi với thiên nhiên.

- Điệp từ “với” được lặp lại ba lần để nhấn mạnh sự gắn bó, thắm thiết giữa con người và thiên nhiên.

- Hình ảnh “hồi chiến tranh ở rừng”:

+ Gợi liên tưởng đến sự trưởng thành của nhân vật trữ tình, từ cậu bé thiếu niên nay đã vác súng ra chiến trường.

+ Gợi về những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh.

- Nghệ thuật nhân hóa “vầng trăng thành tri kỉ”:

+ Gợi liên tưởng đến những đêm hành quân hay phiên gác giữa rừng, có vầng trăng chiếu rọi.

+ Trăng như trở thành người bạn thân thiết, tri âm, tri kỉ, luôn đồng cảm cộng khổ để chia sẻ những vui buồn đời lính.

- Hình ảnh so sánh, ẩn dụ “trần trụi với thiên nhiên”, “hồn nhiên như cây cỏ: 

+ Gợi vẻ đẹp bình dị, vô tư, trong sáng của vầng trăng.

+ Đó cũng là cốt cách, vẻ đẹp hoang sơ, mộc mạc trong tâm hồn của người lính. 

    Trăng hiện diện như hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức chan hòa tình nghĩa. Bởi sự gắn bó tình nghĩa ấy, nhân vật trữ tình đã tự tâm niệm “sẽ không bao giờ quên”.

- Từ “ngỡ” như báo hiệu những chuyển biến trong câu chuyện cũng như trong tình cảm của con người.

    Trong quá khứ, dẫu hoàn cảnh đầy những khó khăn, khắc nghiệt, trăng vẫn đồng hành trên mỗi bước đường và trở thành người bạn tri kỉ để chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn, vầng trăng đã trở thành biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình thủy chung.

2. Vầng trăng trong hiện tại

- Song, trước sự xoay vần của thời gian, sự biến đổi của hoàn cảnh đã khiến cho mọi thứ trở nên thay đổi:

“Từ hồi về thành phố

Quen ánh điện, cửa gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường”

+ Tác giả đã tạo ra sự đối lập trong hoàn cảnh sống của con người giữa hiện tại và quá khứ: Từ những nhà tranh, vách nứa chốn rừng sâu, nước độc, nay trở về trong những tòa nhà khang trang, hiện đại của thành phố.

+ “quen ảnh điện cửa gương”cách nói hoán dụ để tô đậm cuộc sống đầy đủ, tiện nghi, khép kín trong căn phòng hiện đại, xa rời thiên nhiên.

+ Hình ảnh nhân hóa, so sánh “vầng trảng đi qua ngõ/ như người dưng qua đường” diễn tả sự thay đổi trong tình cảm của con người: vầng trăng thì vẫn tròn đầy, thủy chung tình, nghĩa nhưng con người thì hững hờ, thờ ơ không nhận ra.

    Câu thơ mang một ý nghĩa khái quát: Khi hoàn cảnh sống thay đổi thì con người ta có thể phản bội lại chính mình, dễ dàng lãng quên đi những gian khổ, nhọc nhằn của một thời đã qua. Song, cái sự quên ấy cũng là lẽ thường tình bởi những lo toan thường nhật từ cuộc sống.

- Tác giả đã đặt con người vào một tình huống bất ngờ:

“Thình lình đèn điện tắt

Phòng buyn - đinh tối om

vVội bật tung cửa sổ 

Đột ngột vầng trăng tròn”

+ Hai từ “thình lình”, “đột ngột” và cách đảo trật tự cú pháp đã góp phần diễn tả thật chính xác, ấn tượng về một sự việc đột ngột, bất thường “đèn điện tắt... tối om”.

+ Ba động từ mạnh “vội”, “bật”, “tung” đã diễn tả hành động khẩn trương, vội vàng của nhân vật trữ tình.

+ Hình ảnh “vầng trăng tròn” đột ngột xuất hiện chiếu rọi vào căn phòng tối om đã tạo nên một sự đối lập: giữa ánh sáng và bóng tối. Chính khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc và sự “bừng tỉnh” trong nhận thức của nhân vật trữ tình: vầng trăng kia vẫn tròn, “đồng, bể, rừng” kia đâu có mất, tất cả vẫn đồng hành cùng con người, chỉ có điều con người có nhận ra hay không.

    Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài, là sự chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt trong mạch cảm xúc, góp phần bộc lộ tư tưởng và mở ra những suy ngẫm của nhà thơ.

3. Cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật trữ tình

Từ tình huống bất ngờ, đã mở ra những dòng cảm xúc mãnh liệt của nhân vật trữ tình:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

Có cái gì rưng rưng”

- Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế tập trung chú ý, mặt đối mặt.

- Từ “mặt” ở cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa dạng cho ý thơ: 

+ Khuôn mặt đó là khuôn mặt của tri kỉ mà nhân vật trữ tình đã lãng quên.

+ Mặt đối mặt đó còn là quá khứ đối diện với hiện tại, tình nghĩa thủy chung đối diện với vô tình lãng quên.

- Cuộc đối thoại không lời trong khoảnh khắc, phút chốc ấy đã khiến cho cảm xúc dâng trào. Cụm từ “rưng rưng” đã diễn tả nỗi xúc động đến nghẹn ngào, thổn thức trong cảm xúc của nhân vật trữ tình.

Giọt nước mắt như khiến con người ta trở nên thanh thản hơn, trong sáng hơn để rửa trôi đi những ý nghĩ, lo toan thường nhật đe kỉ niệm ùa về:

“Như là đồng là bể

Như là sông là rừng”

- Cấu trúc song hành (như là... là...), cộng với biện pháp tu từ so sánh (như), điệp ngữ (như là, là) liệt kê (đồng, bể, sông, rừng) diễn tả những dòng kí ức về một thời gắn bó, chan hòa với thiên nhiên bỗng từ từ ùa về.

Khổ thơ cuối thể hiện những suy ngẫm và triết lí sâu sắc của nhà thơ:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc 

Đủ cho ta giật mình”

- Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh”:

+ Diễn tả vầng trăng tròn đầy, tỏa sáng giữa thiên nhiên bao la.

+ Bên cạnh đó, còn tượng trưng cho vẻ đẹp của quá khứ nghĩa tình, vẫn tròn đầy, trọn vẹn mặc cho con người thay đổi, vô tình.

- Nghệ thuật nhân hóa “ảnh trăng im phăng phắc” gợi đến một cái nhìn nghiêm khắc song cũng đầy bao dung độ lượng. Sự im lặng ấy khiến cho nhân vật trữ tình “giật mình” thức tỉnh.

- Từ “giật mình” chính là một sự sáng tạo của Nguyễn Duy trong ý thơ:

+ Giật mình là cảm giác tâm lí của một người biết suy nghĩ chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, nông nổi trong cách sống của mình.

+ Giật mình là để nhớ lại quá khứ, để ăn năn tự trách, tự thấy cần phải thay đổi cách sống.

+ Giật mình cũng là để tự nhắc nhở bản thân phải trân trọng những gì đã qua để làm bước đệm cho ngày hôm nay.

    Bài thơ “Ánh trăng”, mà đặc biệt là ở khổ cuối đã dồn nén biết bao tâm sự, suy ngẫm, triết lí sâu sắc. Qua đó, nhà thơ muốn gửi gắm đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống, về đạo lí “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Với giọng điệu tâm tình, “Ánh trăng” như là một lời tâm sự của tác giả về những năm tháng gian khổ đã đi qua với những tình cảm bình dị và hiền hậu. Đồng thời, bài thơ còn gửi gắm đến chúng ta về một thái độ sống tích cực: “uống nước nhớ nguồn”.

2. Nghệ thuật

- Giọng điệu tâm tình, tự nhiên, kết hợp với yếu tố trữ tình, tự sự khiến bài thơ như một lời tự bạch chân thành, sâu sắc.

- Hình ảnh giàu tính biểu cảm và biểu tượng.

Văn bản 15: Con cò 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Chế Lan Viên (1920 - 1989), tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan. Ông sinh ra ở Quảng Trị nhưng lớn lên ở Bình Định.

- Chế Lan Viên là một trong những tên tuổi nổi tiếng nhất của nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

+ Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên là một trong những gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ Mới. Với một quan niệm khác thường: thi sĩ không phải là người, nó là người say, người mơ, nó là tiên, là ma là quỉ, ông đã xây dựng một thế giới kinh dị, thần bí, bế tắc về đất nước Chiêm Thành với nỗi niềm hoài cổ.

+ Trong giai đoạn chống Mĩ, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, chính luận và đậm tính thời sự.

+ Sau đổi mới, thơ Chế Lan Viên trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái “tôi” trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống.

- Phong cách sáng tác: Thơ Chế Lan Viên giàu tính triết lí - suy tưởng, mang vẻ đẹp trí tuệ; ngôn ngữ và hình ảnh thơ độc đáo, giàu ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Con cò” được sáng tác năm 1962.

- Bài thơ được in trong tập “Hoa ngày thường - Chim báo bão” năm 1967.

b. Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò

- Con cò là một hình ảnh quen thuộc trong ca dao, dân ca xưa của người Việt và giàu ý nghĩa biểu tượng:

+ Biểu tượng cho những số phận vất vả, cực nhọc của người nông dân trên đồng ruộng: “Con cò bay lả bay la/ Bay từ cổng phú bay ra cánh đồng”,...

+ Biểu tượng cho những người phụ nữ, người mẹ lam lũ, nhọc nhằn, giàu đức hi sinh: “Cái cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non”,…

- Trong bài thơ, hình ảnh con cò không phải là sự đơn giản từ những ý tứ có sẵn trong ca dao. Mà hình ảnh con cò đã được tác giả phát triển, mở rộng ý nghĩa biểu tượng: khi là mẹ; khi là con; khi là trời, là đất; khi là cuộc đời; khi là hiện tại và tương lai...

c. Bố cục: Ba phần

- Phần một: Đoạn 1: Hình ảnh con cò đến với tuổi thơ của con qua lời ru của mẹ.

- Phần hai: Đoạn 2: Hình ảnh con cò song hành bên con trên những chặng đường đời.

- Phần ba: Đoạn 3: Hình ảnh cánh cò và những suy ngẫm sâu xa về tình mẫu tử.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình ảnh con cò đến với tuổi thơ của con qua lời ru của mẹ

Bằng lời ru ngọt ngào, thấm đẫm chất ca dao, hình ảnh của những con cò dần xuất hiện:

“Con còn bế trên tay

Con chưa biết con cò

Nhưng trong lời mẹ hát

Có cánh cò đang bay”

- Cụm từ “con còn bế trên tay”, “con chưa biết” gợi đến một sinh linh bé bỏng, ngây thơ và đang nằm trong vòng tay yêu thương, bao bọc của mẹ.

- Thế nhưng, trong những nhận thức đầu đời, qua lời ru của mẹ con đã có thể cảm nhận được về những cánh cò đang bay.

Theo lời ru của mẹ đã đưa con đến một thế giới rộng lớn bên ngoài:

“Con cò bay la 

Con cò bay lả 

Con cò cống phủ, 

Con cò Đông Đăng...”

- Điệp từ “con cò” được lặp lại 4 lần ở đầu dòng thơ gợi lên giai điệu êm đềm, tha thiết trong lời ru của mẹ.

- Hình ảnh “bay la”, “bay lả” gợi liên tưởng đến một không gian cao, rộng, để cò sải cánh bay lên.

- Vận dụng ca dao, dân ca một cách sáng tạo về hình ảnh con cò để gợi ra ý nghĩa biểu tượng:

+ Tác giả đã nhắc đến những câu ca dao hay nhất về hình ảnh con cò:

“Con cò bay lả, bay la

Bay từ công phủ, bay ra cánh đồng

Con cò bay lả, bay la

Bay từ cửa phủ, bay về Đông Đăng”

+ Gợi hình ảnh không gian thân thuộc của làng quê Việt Nam bình yên, thơ mộng. 

+ Gợi và nuôi dưỡng tâm hồn con niềm tự hào về tình yêu quê hương, đất nước.

Lời ru của mẹ bỗng như chùng xuống trước hình ảnh một cánh cò mồ côi, phải vất vả, lẻ loi giữa dòng đời:

“Cò một mình, cò phải kiếm lấy ăn,

Con có mẹ, con chơi rồi lại ngủ.

“Con cò ăn đêm,

Con cò xa tổ, 

Cò gặp cành mềm, 

Cò sợ xáo măng...” ”

- Hình ảnh tương phản, đối lập:

+ Một bên là một con cò gặp phải cảnh ngộ éo le, mồ côi, chỉ có một mình, phải lặn lội, nhọc nhằn trong cuộc mưu sinh.

+ Một bên là con, có mẹ bên cạnh, được sống trong tình yêu thương, nên vô tư hết chơi rồi lại ngủ.

- Tác giả đã sử dụng một cách sáng tạo hình ảnh của ca dao, dân ca để nhấn mạnh sự tương phản, đối lập giữa hai hoàn cảnh.

    Qua hình ảnh tương phản, đối lập nhà thơ đã tô đậm tuổi thơ hạnh phúc, sung sướng của con khi được năm trong vòng yêu thương, bao bọc, chở che của mẹ. Đồng thời, ca ngợi tình mẫu tử và đức hi sinh to lớn của mẹ.

Từ hình ảnh cánh cò mồ côi, lời ru ngọt ngào của mẹ như trở nên thiết tha hon để tô dậm tuổi thơ bình yên, hạnh phúc của con:

“Ngủ yên! Ngủ yên! Cò ơi, chớ sợ! 

Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng! 

Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân, 

Con chưa biết con cò, con vạc. 

Con chưa biết những cành mềm mẹ hát, 

Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân.”

- Dòng thơ đầu có cấu trúc đặc biệt, được tách ra thành 3 câu với nhịp 2/272/2điệp từ “ngủ yên” vừa tái hiện âm điệu lời ru, vừa thể hiện được tình yêu, sự vỗ về của người mẹ để con chìm vào giấc ngủ êm đềm.

- Sử dụng hệ thống hình ảnh ẩn dụ:

+ Hình ảnh “lời ru của mẹ thẩm hơi xuân” ẩn dụ cho những ngọt ngào, yên ấm của tuổi thơ con.

+ Hình ảnh “con cò, con vạc” ẩn dụ cho những cảnh ngộ éo le, những số phận vất vả, gian nan của cuộc đời.

+ Hình ảnh “những cành mềm mẹ hát” ẩn dụ cho những gập ghềnh, bất trắc, những dông gió sẽ gặp trong cuộc đời.

+ Hình ảnh “sữa mẹ nhiều” ẩn dụ cho tình yêu thương dào dạt, vô bờ bến của mẹ. 

+ Tác giá đã sử dụng nghệ thuật tương phản tài tình: Một bên là cuộc sống éo le, vất vả, dông gió, gập ghềnh với một bên là tuổi thơ ngọt ngào, yên ấm của con, để từ đó tô đậm đức hi sinh, tình mẫu tử bao la khi mẹ nhận hết những lo toan, nhọc nhằn để dành cho con sự bình yên và niềm hạnh phúc.

    Qua lời ru ngọt ngào, tha thiết của mẹ, hình ảnh “con cò” đã đến với tâm hồn tuổi thơ con một cách vô thức. Ở tuổi nằm nôi, con chưa thể hiểu và cũng chưa cần hiểu ý nghĩa của những lời ru, nhưng tình yêu, sự vỗ về, âu yếm hẳn sẽ cảm nhận được đầy đủ.

2. Hình ảnh con cò song hành bên con trên những chặng đường đời

Cánh cò gắn bó với con từ tuổi thơ nằm nôi êm đềm, hạnh phúc:

“Ngủ yên! Ngủ yên! Ngủ yên

Cho cò trắng đến làm quen

Cò đứng ở quanh nôi

Rồi cò vào trong tổ.

Con ngủ yên thì cò cũng ngủ, 

Cánh của cò, hai đứa đắp chung đôi”

- Dòng thơ đầu có cấu trúc đặc biệt, được tách thành ba câu, điệp từ “Ngủ yên” gợi lời ru êm đềm, bàn tay đưa nôi êm ái, vỗ về của mẹ trong suốt tuổi thơ con.

- Trong suốt tuổi thơ của con, luôn có cánh cò xuất hiện: cò trắng đến làm quen; cò đứng ở quanh nôi; cò vào trong tổ; con ngủ thì cò cũng ngủ; cánh của cò hai đứa đắp chung đôi,...

+ Con cò đã như một người bạn thân thiết trong suốt những năm tháng tuổi thơ của con.

+ Hình ảnh cánh cò được nhân hóa trở thành người bạn tuổi thơ gần gũi bên con. 

+ Trình tự miêu tả cho thấy cánh cò ngày càng gần gũi, thân thiết hơn với tuổi thơ của con.

    Cánh cò từ trong lời ru của mẹ đã dần đi vào tiềm thức của con giúp con có được một người bạn tuổi thơ gần gũi, thủy chung và theo dõi sự trưởng thành của con.

Cánh cò vẫn song hành bên con khi khôn lớn, trưởng thành:

“Mai khôn lớn, con theo cò đi học,

Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân.

Lớn lên, lởn lên, lớn lên...

Con làm gì?

Con làm thi sĩ!

Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ

Trước hiên nhà

Và trong hơi mát câu văn...”

- Sự thay đổi vị trí giữa hai hình ảnh con và cánh cò: Nếu ban đầu con theo cò đi học thì sau đó cánh cò bay theo gót đôi chân, gợi cho chúng ta thấy từng bước, từng bước trong sự trưởng thành của người con.

- Điệp từ “lớn lên” được lặp lại ba lần kèm theo dấu ba chấm cuối dòng, cho thấy con khôn lớn, trưởng thành, vững vàng hơn trước những lựa chọn của cuộc đời. 

+ Câu hỏi tu từ “Con làm gì?” khiến câu thơ như là lời tâm sự, thủ thỉ, chia sẻ của hai mẹ con về những ước mơ, hoài bão trong cuộc đời.

+ Làm “thi sĩ” là ẩn dụ cho khát vọng đẹp đẽ mà con đang theo đuổi và hướng đến. Đó là công việc đòi hỏi con phải yêu chân thành, sống hết mình để chắp cánh cho những ước mơ bay cao, bay xa.

    Cánh cò luôn hiện diện trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời con, hay đó còn là sự hóa thân của tấm lòng người mẹ để chở che, vỗ về con trên mỗi chặng đường đời.

3. Hình ảnh cánh cò và suy ngẫm sâu xa về tình mẫu tử

Từ sự thấu hiểu tấm lòng người mẹ, tác giả đã đi đến khái quát một qui luật tình cảm có ý nghĩa bền vững, thiêng liêng:

“Dù ở gần con,

Dù ở xa con, 

Lên rừng xuống bể,

Cò sẽ tìm con,

Cò mãi yêu con.

Con dù lớn vẫn là con của mẹ, 

Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con.”

- Điệp ngữ và điệp cấu trúc câu đã làm cho nhịp thơ uyển chuyển, linh hoạt, rất gần với những điệu hát ru.

- Nghệ thuật tương phản:dù ở gần” >< “dù ở xa”; “lên rừng” >< “xuống bể” gợi đến những khoảng không gian địa lí có thể trở thành trở ngại ngăn cách tình cảm nhưng chẳng thể nào cản trở được tình yêu thương bao la mẹ dành cho con.

- Dưới hình thức tự do, kết hợp thành ngữ, tục ngữ dân gian: “Lên rừng xuống bể” đã gợi lên một bầu trời yêu thương bao la mà đặc điểm của nó là không giới hạn.

- Chế Lan Viên đã khái quát một qui luật tình mẹ: con dù lớn vẫn là đứa con bé bỏng của mẹ, con có thể trưởng thành về cả tuổi đời, cả nhân cách, trí tuệ, nhưng trong trái tim mẹ con vẫn luôn bẻ bỏng, vẫn cần yêu thương, chở che.

    Tình yêu thương bao la của mẹ luôn theo con, ôm trọn cuộc đời con. Mẹ mãi là điểm tựa tinh thần, là chốn bình yên con tìm về.

Bài thơ tiếp tục với âm điệu, lời ru ngọt ngào như một giai điệu tự hào nâng bước con đi:

“À ơi!                                                            

Một con cò thôi,

Con cò mẹ hát

Cũng là cuộc đời

Vỗ cánh theo nôi”

- Hai tiếng “À ơi!” cùng với cấu trúc câu đặc biệt ngân lên nghe thật mượt mà, thấm thía, gửi gắm trong đó biết bao tình cảm, nỗi lòng của mẹ.

- Lời ru của mẹ không chỉ mang đến cho con giấc ngũ êm đềm mà còn mang đên cho con cả một cuộc đời và thế giới xung quanh.

    Lời ru của mẹ không chỉ có tình yêu thương mà còn mở ra cả cuộc đời, đất nước, quê hương. Bởi mẹ muốn vun đắp cho tâm hồn con từ rất sớm tình công dân đẹp đẽ và bổn phận, trách nhiệm to lớn của mình.

Khép lại bài thơ là lời vỗ về của mẹ để con chìm trong giấc ngủ êm đềm tuổi thơ: 

“Ngủ đi! Ngủ đi!

Cho cánh cò, cánh vạc,

Cho cả sắc trời

Đến hát

Quanh nôi.”

- Điệp từ “cho” đà gợi được tấm lòng bao la, luôn sẵn sàng dâng hiến cho con những điều tuyệt vời nhất. Mẹ không chỉ cho con những lời ru ngọt ngào với cánh cò, cánh vạc, mà còn cho con cả một bầu trời tươi sắc.

- Câu thơ “cho cả sắc trời” gợi mở ra một thế giới hài hòa, tươi sáng, bình yên cho cuộc đời con.

- Hình ảnh “Đến hát quanh nôi”:

+ Gợi về tuổi thơ “nằm nôi” đẹp nhất của mỗi con người.

+ Gợi đến người mẹ đang vỗ về, chăm chút cho con qua những lời ru ngọt ngào. 

    Lời ru của mẹ đã nâng bước cho con đến những chân trời bình yên và hạnh phúc.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài thơ “Con cò” là khúc ca thiết tha, sâu lắng để ngợi ca tình mẹ và ý nghĩa của lời ru.

2. Nghệ thuật

- Sự kết hợp hài hòa giữa chất trữ tình sâu lắng và chất trí tuệ sắc sảo. 

-Vận dụng sáng tạo ca dao.

- Ngôn ngữ, hình ảnh sáng tạo độc đáo, giàu ý nghĩa ẩn dụ tượng trưng.

- Sử dụng linh hoạt các biện pháp tư từ: ẩn dụ, tương phản, nhân hóa,...

Văn bản 16: Mùa xuân nho nhỏ 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Thanh Hải (1930 - 1980), tên khai sinh là Phạm Bá Ngoãn, quê huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

- Ông tham gia hoạt động văn nghệ từ cuối năm kháng chiến chống Pháp. Sự nghiệp thơ văn Thanh Hải gắn liền với hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

- Phong cách sáng tác: ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, cảm xúc chân thành, đằm thắm,...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

    Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết tháng 11 năm 1980. Đây là thời điểm Thanh Hải đang bệnh nặng và chỉ mấy tuần sau ông qua đời. Bài thơ là những dòng chữ cuối cùng mà nhà thơ để lại. Nó như một sự tổng kết về cuộc đời của ông và gửi gắm về lẽ sống cao cả, đẹp đẽ.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Tính từ “nho nhỏ” ở nhan đề bài thơ đã cụ thể hóa, hữu hình hóa mùa xuân và mang đến những lớp nghĩa khác nhau:

+ Lớp nghĩa thực: Gợi về mùa xuân của đất trời, của thiên nhiên vũ trụ.

+ Là hình ảnh ẩn dụ độc đáo thể hiện khát vọng, lí tưởng muốn cống hiến tất cả những gì đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất cho cuộc đời, quê hương, đất nước của nhà thơ.

c. Bố cục: Ba phần

- Phần một: 1 khổ thơ đầu: Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên.

- Phần hai: 2 khổ tiếp theo: Cảm xúc của nhà thơ về mùa xuân đất nước.

- Phần ba: 3 khổ còn lại: Khát vọng và lí tưởng sống cao đẹp của tác giả.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân thiên nhiên

Bài thơ mở ra một khung cảnh thiên nhiên trong trẻo và tràn đầy sức sống của mùa xuân:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc 

Ơi con chim chiền chiên

Hót chi mà vang trời”

- Sử dụng nghệ thuật đảo ngữ:

+ Đảo động từ “mọc” lên đầu câu thơ để tô đậm sức sống mạnh mẽ đến bất ngờ của một bông hoa trên dòng sông xanh.

+ Gợi liên tưởng về một bông hoa đang từ từ vươn lên trên mặt nước tràn đây sức xuân và sắc xuân.

- Bức tranh xuân xứ Huế được chấm phá bằng hình ảnh chọn lọc và giàu sức gợi: “Dòng sông xanh”, “hoa tím biếc”, “chim chiền chiện”.

+ Đó là những hình ảnh, tín hiệu đặc trưng của mùa xuân xứ Hue.

+ Gợi lên không gian mênh mông sóng nước và một bầu trời cao rộng, trong veo.

- Để cho bức tranh thiên nhiên mùa xuân hài hòa, tươi sáng, ông đã sử dụng những gam màu tươi tắn “xanh, tím”.

- Các từ cảm thán “ơi”, “chi” gợi lên một chất giọng ngọt ngào, thân thương, gần gũi.

Khi đối diện với vẻ đẹp ấy, cho dù là ai cũng phải ngỡ ngàng, xao xuyến đến say sưa: 

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng.”

- Hình ảnh “giọt long lanh rơi” thật giàu sức gợi:

+ Đó có thể là giọt mưa mùa xuân, giọt sương buổi sớm long lanh trong ánh sáng. 

+ Trong mối quan hệ với câu thơ trước, tiếng hót của con chim chiền chiện vang vọng nhưng không tan biến trong không gian mà đọng lại thành từng giọt trong vắt, “long lanh”. Như một thứ quà tặng của thiên nhiên xứ Huế, thi nhân đã vội vàng đưa đôi bàn tay để hứng lấy. Tiếng chim từ chỗ được cảm nhận bằng thính giác chuyển thành thị giác rồi xúc giác. Đó chính là nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được Thanh Hải sử dụng một cách tài tình.

- Đại từ “tôi” được điệp hai lần và đi liền với hành động “hứng” cho thấy thái độ trân trọng của thi nhân trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Đồng thời, gợi sự tận hưởng, chiếm lĩnh và giao hòa với mùa xuân.

    Chỉ với vài nét vẽ, đan xen một chút chất nhạc, Thanh Hải đã phác họa được một bức tranh có cái hồn mùa xuân xứ Huế. Nó đủ đầy cả màu sắc, hình ảnh, âm thanh. Từ đó, bộc lộ được niềm say xưa, ngây ngất của tác giả trước thiên nhiên đất trời mùa xuân.

2. Cảm xúc của nhà thơ trước mùa xuân đất nước

Từ vẻ đẹp của mùa xuân quê hương, Thanh Hải đã mở rộng để khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của mùa xuân đất nước:

“Mùa xuân người cầm súng 

Lộc giắt đầy trên lưng 

Mùa xuân người ra đồng 

Lộc trải dài nương mạ 

Tất cả như hối hả

Tất cả như xôn xao...”

- Nhà thơ cảm nhận mùa xuân đất nước qua hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”:

+ Biểu trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của đất nước ta là cùng chiến đấu ở tiền tuyến và lao động xây dựng hậu phương vững chắc.

+ Hình ảnh “người cầm súng” đi liền với hình ảnh “lộc giắt đầy trên lưng” gợi liên tưởng đến vòng lá ngụy trang của người chiến sĩ đang nảy những chồi non, lộc biếc cùng các anh ra trận để bảo vệ tổ quốc.

+ Hình ảnh “người ra đồng” đi liền với hình ảnh “lộc trải dài nương mạ” gợi liên tưởng đến những cánh đồng màu mỡ, xanh tươi của những bàn tay khéo léo gieo trồng.

- Điệp từ “mùa xuân”, “lộc”:

+ Gợi quang cảnh mùa xuân tươi đẹp đang vươn những chồi non lộc non.

+ Gợi thành quả trong công cuộc dựng xây và bảo vệ đất nước.

- Điệp từ “tất cả” đi liền với những từ láy “hối hả”, “xôn xao” làm cho nhịp thơ trở nên nhanh, gấp, gợi một nhịp sống sôi động, hối hả, khẩn trương trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ đất nước.

    Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ đã bày tỏ niềm tự hào và niềm tin vào tương lai tươi sáng:

“Đất nước bốn ngàn năm

Vất vả và gian lao

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước”

- Hệ thống tính từ “vất vả”, “gian lao” đã giúp tác giả đúc kết chặng đường 4000 năm dựng nước và giữ nước với biết bao thăng trầm, thử thách. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, đất nước ta đã trải qua biết bao đau thương và mất mát, song đã khẳng định được sức mạnh, ý chí và bản lĩnh của dân tộc mình.

- Hình ảnh so sánh “đất nước như vì sao” gợi lên những liên tưởng và ý nghĩa thật sâu sắc:

+ Gợi liên tưởng đến nguồn sáng lấp lánh, tồn tại vĩnh hằng trong không gian và thời gian.

+ Gợi ý nghĩa về dân tộc Việt Nam ta trong suốt chiều dài lịch sử, từ trong đêm tối nô lệ đã phá tan xiềng xích, thoát khỏi phong kiến, thực dân để tỏa sáng.

+ Gợi niềm tin của tác giả vào một tương lai tươi sáng, rộng mở với khí thế đi lên mạnh mẽ không gì cản nổi.

- Điệp từ “đất nước” cộng với cấu trúc song hành “đất nước bốn ngàn năm... đất nước như vì sao...” diễn tả sự vận động đi lên của lịch sử và khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của đất nước.

- Cụm từ “cứ đi lên” thể hiện ý chí, lòng quyết tâm và niềm tin sắt đá của nhà thơ và cả dân tộc về tương lai tươi sáng của đất nước.

    Giọng thơ vừa tha thiết sôi nổi, vừa trang trọng đã gói trọn niềm yêu mến tự hào, tin tưởng của nhà thơ vào đất nước.

3. Khát vọng và lí tưởng sống cao đẹp của nhà thơ

Từ những cảm xúc vui mừng, say xưa, ngây ngất trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất trời xứ Huế vào xuân, vào tương lai tươi sáng của đất nước, Thanh Hải đã có những lời ước nguyện thật thiết tha, cảm động:

“Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca 

Một nốt trầm xao xuyến”

- Đại từ “ta” bộc lộ một cách trực tiếp tâm niệm của thi nhân.

- Điệp cấu trúc ngữ pháp “Ta làm... Ta nhập...” được đặt ở vị trí đầu của ba câu thơ đã khiến cho nhịp điệu thơ trở nên nhẹ nhàng, khiến cho câu thơ như một lời thủ thỉ tâm tình về ước nguyện hóa thân, hiến dâng cho quê hương, đất nước của nhà thơ.

- Hệ thống hình ảnh “con chim hót’’, “cành hoa”, “nốt trầm xao xuyến” là những hình ảnh giản dị nhưng cũng thật hàm xúc:

+ Con chim cất cao tiếng hót để làm vui cho đời; cành hoa điểm sắc để thắm cho mùa xuân; một nốt trầm trong muôn nốt nhạc của bản hòa ca muôn điệu. Đó là những hình ảnh hết sức giản dị, nhỏ bé song đã cho thấy ước nguyện khiêm nhường mà cao quý của thi nhân.

+ Những hình ảnh này có sự đổi ứng chặt chẽ với những hình ảnh mở đầu của bài thơ để khẳng định một lẽ tự nhiên, tất yếu: con chim sinh ra là để dâng tiếng hót cho đời; bông hoa sinh ra là để tỏa hương sắc; bản hòa ca tưng bừng, rộn rã song không thể thiếu nốt trầm.

+ Gợi liên tưởng đến mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng, giữa con người và đất nước.

    Cống hiến cho đời, cho đất nước là một lẽ sống tốt đẹp mà Thanh Hải luôn theo đuổi.

Từ cái khát vọng sống cao quý, tác giả đã nâng lên thành một lí tưởng sống cao cả:

“Một mùa xuân nho nhỏ

Lặng lẽ dáng cho đời

Dù là tuổi hai mươi 

Dù là khi tóc bạc”

- Tác giả xin được làm một “mùa xuân nho nhỏ” để góp phần làm đẹp cho mùa xuân lớn của dân tộc. Đây chính là một hình ảnh ẩn dụ đặc sắc của nhà thơ Thanh Hải.

- Từ láy “nho nhỏ”:

+ Thể hiện ước muốn, khát vọng khiêm tốn và giản dị của nhà thơ.

+ Gợi về những gì đẹp đẽ và tinh túy nhất của cuộc đời con người để góp cho mùa xuân đất nước.

- Tính từ “lặng lẽ” đã cho thấy vẻ đẹp của một tâm hồn, lối sống và nhân cách. Mùa xuân của Thanh Hải không hề ồn ào, khoa trương, náo nhiệt mà lặng lẽ hiến dâng. Dâng cho đời là dâng một cách tự nguyện, không đòi hỏi sự đền đáp. Đó chính là lối sống, cống hiến đẹp đẽ, vô tư, trong sáng nhất mà con người cần hướng tới.

- Điệp cấu trúc ngữ pháp “Dù là... Dù là...”hình ảnh tương phản “tuổi hai mươi”“khi tóc bạc” khiến cho lời thơ như một lời hứa, lời tự nhủ với mình.

Đồng thời, khẳng định sự tồn tại bền vững của những khát vọng sống, lí tưởng sống là cống hiến, hi sinh.

    Lời tổng kết của nhà thơ về cuộc đời mình, một cuộc đời thật đẹp xứng đáng để chúng ta suy ngẫm, học tập và noi theo.

Bài thơ khép lại trong giai điệu ngọt ngào, êm dịu của làn điệu dân ca trữ tình xứ Huế:

“Mùa xuân ta xin hát

Câu Nam ai, Nam bình

Nước non ngàn dặm mình

Nước non ngàn dặm tình

Nhịp phách tiền đất Huê”

- Câu “Nam ai”khúc nhạc buồn thương, da diết để gợi con đường đầy hi sinh, gian khổ mà đất nước đã đi qua.

- Câu “Nam bình”khúc nhạc êm ái, dịu ngọt để gợi mùa xuân hiện tại với cuộc sống thanh bình, no ấm.

- “Nhịp phách tiền”điệu nhạc rộn ràng để khép lại bài thơ, đó là giai điệu của cuộc sống mới, sức sống mới của dân tộc.

    Tình yêu đời, yêu cuộc sống trỗi dậy thật mãnh liệt, trở thành khúc hát tâm tình trong những dòng thơ cuối. Khúc hát đó thật cảm động, cao quý và đáng trân trọng biết bao.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, tác giả đã tái hiện thành công vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân đất nước. Qua đó bày tỏ lẽ sống cao đẹp, là sẵn sàng dâng hiến cuộc đời mình cho đất nước.

2. Nghệ thuật

- Thể thơ năm chữ, cách gieo vần liền giữa các khổ thơ đã tạo ra sự liền mạch của cảm xúc.

- Ngôn ngữ và hình ảnh thơ giản dị, trong sáng, giàu sức gợi.

- Cảm xúc rất đỗi chân thành, tha thiết, cho nên bài thơ trở thành tiếng lòng của nhà thơ Thanh Hải với đất nước, với cuộc đời.

Văn bản 17: Viếng Lăng Bác 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Viễn Phương (1928 - 2005), tên khai sinh là Phan Thanh Viễn, quê ở tỉnh An Giang.

- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam.

- Thơ Viễn Phương tập trung khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của nhân dân, đất nước trong công cuộc chiến đấu trường kì, gian khổ của dân tộc.

- Phong cách sáng tác: cảm xúc sâu lắng, thiết tha; giọng thơ nhỏ nhẹ, trong sáng; ngôn ngữ đậm đà màu sắc dân tộc.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976, một năm sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó cũng là khoảng thời gian công trình lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa mới khánh thành. Viễn Phương là một trong số ít đồng bào chiến sĩ miền Nam sớm được ra viếng lăng Bác. Trước lăng Bác, trong phút xúc động thiêng liêng, sự thành kính, lòng biết ơn vô hạn, Viễn Phương đã sáng tác bài thơ này.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân” năm 1978.

b. Giọng điệu bài thư: Thành kính, trang nghiêm, trầm lắng, phù hợp với tâm trạng của tác giả và không khí ở trong lăng.

c. Bố cục: Ba phần.

- Phần một: Khổ 1: Cảm xúc ban đầu khi đứng trước lăng Bác.

- Phần hai: Khổ 2: Cảm xúc trước hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác.

- Phần ba: Khố 3: Cảm xúc khi vào trong lăng, đứng trước thi hài Bác.

- Phần bốn: Khổ 4: Cảm xúc của nhà thơ khi từ biệt lăng Bác.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Cảm xúc ban đầu của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác

Viễn Phương là một người con miền Nam, tham gia hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ xa xôi. Cùng như nhiều đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhà thơ mong mỏi một ngày ra thăm Bác. Bởi vậy, khi đứng trước lăng Người, nhà thơ không giấu nỗi niềm xúc động: cảm xúc bồi hồi pha lẫn nỗi xúc động sâu xa:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

- Với lời lẽ giản dị, câu thơ như một lời thông báo ngắn gọn: Nhà thơ ở miền Nam, nơi tuyến đầu của Tổ quốc, sau bao nhiêu năm mong mỏi nay cũng được về thăm Người.

- Sử dụng đại từ nhân xưng “Con - Bác”:

+ Đó là lối nói, lối xưng hô quen thuộc của người miền Nam để gợi sự gần gũi, thân thiết.

+ Thể hiện được lòng tôn kính và tình cảm yêu thương ruột thịt.

+ Gợi một liên tưởng, đó là Viễn Phương như một đứa con xa nay mới được trở về bên vị cha già của dân tộc.

- Biện pháp tu từ nói giảm, nói tránh khi sử dụng từ “thăm” để thay cho từ “viếng”

+ Để giảm bớt nỗi đau thương, mất mát của những đứa con xa về muộn.

+ Đồng thời, bất tử hóa hình tượng Bác trong lòng nhừng người con miền Nam và đối với cả dân tộc Việt Nam.

    Câu thơ giản dị như một lời kể, song nó lại gói gém bao tình cảm của người con miền Nam sau bao mong nhớ, đợi chờ mới được về thăm lăng Người.

Đứng trước lăng vị cha già kính yêu của dân tộc, ấn tượng đầu tiên trong lòng nhà thơ chính là hàng tre xanh mát:

“Đã thấy trong sương hàng tre hát ngát 

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam 

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.”

- Từ cảm thán “Ôi!” biểu thị niềm xúc động, tự hào trước hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác.

- Hình ảnh “hàng tre bát ngát” là một hình ảnh tả thực về quang cảnh quanh lăng Bác; đồng thời gợi sự gần gũi, thân thương của những xóm làng Việt Nam.

- Hình ảnh “hàng tre xanh xanh Việt Nam” là hình ảnh ẩn dụ mang ý nghĩa tượng trưng:

+ Hàng tre ấy tượng trưng cho những con người, dân tộc Việt Nam với sức sống tràn trề.

+ Gợi tả một quân đội với tinh thần kiên cường, bất khuất, trong “bão táp mưa sa” vẫn đứng bên cạnh giữ giấc ngủ ngàn thu của Người.

+ Thành ngữ “bão táp mưa sa” gợi về những khó khăn, gian khổ mà nhân dân ta đã cùng nhau “chung lưng, đấu cật” để dựng nước và giữ nước.

+ Lối miêu tả “đứng thẳng hàng” gợi những hàng tre mang dáng dấp cứng cỏi, kiên cường, hiên ngang, bất khuất như tính cách của người dân Việt Nam.

    Khổ thơ là niềm xúc động sâu sắc, niềm thành kính của Viễn Phương khi đến thăm và đứng trước lăng Bác.

2. Cảm xúc trước hình ảnh dòng người vào lăng viếng Bác

Đứng trước lăng, sau ấn tượng về “hàng tre xanh xanh” là hình ảnh của dòng người vào lăng viếng Bác với nỗi tiếc thương và lòng biết ơn sâu nặng:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng 

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ 

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ 

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.”

- Nghệ thuật sóng đôi: Giữa hình ảnh “mặt trời” thực và “mặt trời” ẩn dụ:

+ Hình ảnh mặt trời trong câu thơ “Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng”, là hình ảnh thực. Đây là mặt trời của thiên nhiên soi sáng không gian vũ trụ và mang lại sự sống cho muôn loài.

+ Hình ảnh mặt trời trong câu thơ: “Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”hình ảnh ẩn dụ về Bác Hồ: Bác chính là mặt trời chân lí, soi sáng giúp dân tộc thoát khỏi kiếp nô lệ khổ đau, và mang đến một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ đó, ta thấy được sự tôn kính, lòng biết ơn sâu sắc mà cả dân tộc dành cho Bác.

- Mặt trời thiên nhiên được nhân hóa với hai hành động: ngày ngày “đi qua trên lăng” và nhìn thấy mặt trời “trong lăng rất đỏ” đã tô đậm hơn tầm vóc vĩ đại của Người.

- Chi tiết đặc tả “rất đỏ” gợi trái tim đầy nhiệt huyết vì Tổ quốc, vì nhân dân của Bác. Mặt trời đó sẽ mãi mãi soi sáng, sưởi ấm, tô thắm cho đời.

- Hình ảnh “dòng người” đi liền với điệp từ “ngày ngày”:

+ Gợi một dòng thời gian vô tận, từ ngày này sang ngày khác, biết bao dòng người với nỗi tiếc thương vô hạn thành kính vào lăng viếng Bác.

+ Mang giá trị tạo hình, gợi quang cảnh những đoàn người nối hàng dài vào lăng để viếng Bác.

- Hình ảnh “tràng hoa”hình ảnh ẩn dụ, gợi liên tưởng đến dòng người vào lăng viếng Bác với tấm lòng thành kính, dâng trào như được kết từ hàng vạn trái tim, tấm lòng con người Việt Nam.

- Hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để chỉ 79 năm trong cuộc đời của Người - 79 mùa xuân Người hi sinh cho đất nước.

    Khổ thơ đã diễn tả được một cách sâu sắc tấm lòng của nhân dân cả nước dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc. Người sẽ luôn sống và sáng mãi trong lòng dân tộc Việt Nam.

3. Cảm xúc khi vào trong lăng, đứng trước thi hài Bác

Vào trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng kết cả thời gian, không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả thật chính xác, thật tinh tế sự yên tĩnh, trang nghiêm cùng ánh sáng dịu nhẹ, trong treo của không gian trong lăng Bác:

“Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên 

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.”

- Sử dụng biện pháp nghệ thuật nói giảm, nói tránh để phủ nhận một sự thật đau lòng: Người đang ngủ một giấc bình yên, giữa vầng trăng sáng dịu hiền.

- Hình ảnh ẩn dụ “vầng trăng sáng dịu hiền”:

+ Gợi cho chúng ta nghĩ đến tâm hồn, nhân cách sống cao đẹp, sáng trong của Bác.

+ Bộc lộ tấm lòng biết ơn sâu sắc của tác giả dành cho Bác.

+ Gợi đến những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Người.

- Tâm trạng xúc động của nhà thơ được biểu hiện bằng một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”.

+ “Trời xanh”, trước tiên được hiểu theo nghĩa tả thực, đó là thiên nhiên gần gũi với chúng ta, tồn tại mãi mãi và vĩnh hằng.

+ Mặt khác, “trời xanh” còn là một hình ảnh ẩn dụ sâu xa: Bác vẫn còn mài với non sông đất nước, như “trời xanh” vĩnh hằng.

- Dù tin như thế nhưng mấy chục triệu người dân Việt Nam vẫn đau xót và nuối tiếc khôn nguôi trước sự ra đi của Bác: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”.

+ Nhói” là từ ngữ biểu cảm trực tiếp, biểu hiện nỗi đau đột ngột, quặn thắt. Tác giả tự cảm thấy nỗi đau mất mát ở tận đáy sâu tâm hồn mình, nỗi đau ấy uất nghẹn tột cùng không nói thành lời.

+ Cặp quan hệ từ “vẫn, mà” diễn tả sự mâu thuẫn. Cảm giác nghe nhói ở trong tim mâu thuẫn với nhận biết trời xanh là mãi mãi. Giữa tình cảm và lí trí có sự mâu thuẫn. Và con người đã không kìm nén được khoảnh khắc yếu lòng.

    Cảm xúc này là đỉnh điểm của nỗi nhớ thương, của niềm đau xót. Nó chính là nguyên nhân dẫn đến những khát vọng ở khổ cuối bài thơ.

4. Cảm xúc của nhà thơ khi tạm biệt lăng Bác

Khép lại nỗi đau mất mát ấy là những giọt nước mắt luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời Bác. Khổ thơ đã diễn tả tâm trạng lưu luyến của nhà thơ muốn được ở mãi bên lăng Bác.

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

- Từ chỉ thời gian “Mai” đi liền với địa danh “miền Nam” gợi sự chia xa, gợi khoảng cách, gợi cả tấm lòng, tình cảm của những người con miền Nam.

- Lối nói “thương trào nước mắt” đã cụ thể hóa nỗi nhớ thương da diết, gợi chiều sâu của sự gắn bó với miền Bắc, với Bác Hồ của những người miền Nam. Nhà thơ bày tỏ ước muốn hóa thân để ở lại bên cạnh Bác:

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác 

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây 

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”

- Nhịp điệu dồn dậpđiệp từ “muốn làm” khởi đầu cho mỗi dòng thơ giúp nhà thơ tô đậm mức độ thiết tha, mãnh liệt của niềm mong ước.

- Hệ thống hình ảnh giàu sức gợi: “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre”

+ Lớp nghĩa thực: Tác giả muốn góp cuộc đời mình để làm đẹp cho cảnh quan quanh lăng, ao ước được hóa thân thành con chim để cất tiếng hót làm vui lăng Bác; làm đóa hoa để đem lại sắc hương, tô điểm cho vườn hoa quanh lăng. Đặc biệt là ước nguyện “muốn làm cây tre trung hiếu” để nhập vào hàng tre bát ngát, tỏa bóng mát cho lăng.

+ Lớp nghĩa ẩn dụ: Khát vọng ở lại để canh giấc ngủ thiên thu cho người; Bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc dành cho vị cha già của dân tộc; góp phần làm nên vẻ đẹp bất khuất, hiên ngang, trung hiếu của tâm hồn Việt Nam.

- Hình ảnh cây tre có tính tượng trưng, một lần nữa nhắc lại khiến bài thơ có kết cấu đầu cuối tương ứng. Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp ở câu thơ cuối như mang thêm nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm dòng cảm xúc được trọn vẹn.

    Bài thơ khép lại bằng hình ảnh “cây tre trung hiếu”, tạo nên một kết cấu đầu cuối tương ứng, nhăm bày tỏ khát vọng và tâm lòng nhà thơ dành cho Bác.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào, đau xót của nhà thơ và đồng bào miền Nam vừa được giải phóng ra thăm lăng Bác.

2. Nghệ thuật

- Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào.

- Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối, nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mong ước.

- Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ - biểu tượng như “mặt trời trong lăng”, “tràng hoa”, “trời xanh” vừa quen thuộc, vừa gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và mang giá trị biểu cảm.

Văn bản 18: Sang thu 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh. Ông sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.

- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc lớp nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

+ Trong giai đoạn chống Mĩ cứu nước, bao trùm trong toàn bộ sáng tác của Hữu Thỉnh là cảm hứng về quê hương, đất nước, nhân dân.

+ Sau chiến tranh, ngòi bút của ông hướng về những cảm xúc đời thường hay những thân phận cá nhân.

- Phong cách sáng tác: cảm xúc tinh tế, lãng mạn; hình ảnh giản dị mà giàu sức gợi cảm...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Sang thu” được sáng tác vào năm 1977.

- Tác phẩm được in nhiều lần trong các tập thơ và gần đây nhất là tập thơ “Từ chiến hào đến thành phố” năm 1991.

b. Ý nghĩa nhan đề

- “Sang thu” trước hết gợi lên khoảnh khắc giao mùa của thiên nhiên, khi đất trời chuyền từ hạ sang thu.

- Gợi khoảnh khắc chuyển giao giữa tuổi trẻ sang độ tuổi trưởng thành vững vàng, từng trải.

c. Bố cục: Ba phần

- Phần một: (Khổ 1) Những tín hiệu giao mùa.

- Phần hai: (Khổ 2) Quang cảnh thiên nhiên phút giao mùa.

- Phần ba: (Khổ 3) Những suy ngẫm về cuộc đời lúc chớm thu.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Những tín hiệu giao mùa

Sang thu” là một khoảnh khắc rất đặc biệt của thiên nhiên. Đó là lúc hạ vẫn chưa kịp đi mà hương thu đã lặng lẽ đến rồi.

Trước sự thay đổi ấy, hẳn phải là một hồn tinh tế và giàu cảm xúc lắm thì nhà thơ mới cảm nhận được:

"Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se 

Sương chùng chình qua ngõ 

Hình như thu đã về”

- Hữu Thỉnh đã lựa chọn một hình ảnh quen thuộc, gần gũi để làm nên một tứ thơ mới mẻ khi ông sử dụng một làn “hương ổi” để làm tín hiệu giao mùa:

+ “Hương ổi” đi liền với từ “bỗng” được đặt ở đầu câu thơ đã diễn tả cảm giác bất ngờ, đột ngột, ngỡ ngàng của nhân vật trữ tình.

+ “Hương ổi” đi liền với động từ “phả” diễn tả một làn hương ngào ngạt, sánh đậm. Đồng thời gợi cho ta liên tưởng đến không gian thân thuộc của những làng quê. Đó có thể là một làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ với những khu vườn, những lối ngõ sum suê cây trái.

    Làn “hương ổi” trở thành phong vị riêng trong thơ thu Hữu Thỉnh.

- Tác giả lựa chọn làn “gió se” làm tín hiệu thứ hai cho khoảnh khắc giao mùa: 

+ "Gió se” là ngọn gió heo may đặc trưng của mùa thu đất Bắc. Đó là một thứ gió khô và thoáng chút se lạnh.

+ Làn "gió se” ấy đã làm dịu đi cái nắng oi ả, gay gắt của mùa hạ và khiến cho làn "hương ổi” như sánh lại và trở nên ngọt ngào hơn.

- Những tín hiệu từ "hương ổi”, "gió se” dường như vẫn còn chưa đủ để đánh giá cho khoảnh khắc giao mùa. Bởi vậy, tác giả đã vội vã kiếm tìm ở một tín hiệu tiếp theo là những màn sương.

+ Cảm nhận của tác giả có sự thay đổi từ khứu giác, xúc giác sang cảm nhận bằng thị giác.

+ Nghệ thuật nhân hóa qua từ láy "chùng chình” đã gợi lên dáng vẻ lãng đãng như đợi chờ, cố ý chậm lại đầy lưu luyến của màn sương.

+ Cụm từ “qua ngõ” gợi liên tưởng đến những đường làng, ngõ xóm hay cũng là cửa ngõ của thời gian thông giữa hai mùa (cuối hạ, đầu thu).

- Trước khoảnh khắc giao mùa ấy, tác giả đã giật mình, bối rối: “Hình như thu đã về”

+ ‘'Hình như” là một lối nói giả định, phán đoán không chắc chắn, với một chút nghi hoặc. Nhưng lại rất phù hợp để diễn tả về cảm nhận mơ hồ lúc giao mùa.

+ Sự kết hợp một loạt các từ “bỗng”, “phả”, “hình như” đã thể hiện tâm trạng ngờ ngàng, vui mừng, hạnh phúc của tác giá trong phút giao mùa của vạn vật.

    Đó là những cảm nhận tinh tế của tác giả lúc thu sang, và đối diện với những khoảnh khắc ấy là niềm vui, niềm hạnh phúc vô bờ.

2. Quang cảnh thiên nhiên phút giao mùa

    Quang cảnh thiên nhiên được tái hiện chân thực và sống động qua việc lựa chọn những hình ảnh đặc trưng:

"Sông được lúc dềnh dàng

Chim hát đâu vội vã”

- Hai câu thơ đầu có cấu trúc đối tự nhiên, chặt chẽ đã diễn tả vẻ đẹp thiên nhiên và lòng người phút giao mùa.

- Hình ảnh “dòng sông” được nhân hóa qua từ láy “dềnh dàng”:

+ Tả thực một dòng sông tĩnh lặng, trong trẻo với dòng chảy êm đềm.

+ Con sông được nhân hóa như đang được nghỉ ngơi sau một mùa hạ vất vả với bão giông.

+ Đi liền với từ “được lúc” gợi ta liên tưởng đến hình ảnh những con người đã đi qua thời chiến, trải qua lửa đạn giờ đang được sống chậm lại, đến lúc phải nghỉ ngơi.

- Hình ảnh những chú “chim” được nhân hóa qua từ láy “vội vã”:

+ Tả thực những cánh chim di cư bay về phương Nam để tránh rét.

+ Những cánh chim được nhân hóa như bắt đầu nhanh hơn, gấp gáp hơn khi nhận ra những đợt gió heo may se lạnh đang ùa về.

+ Đi liền với từ “bắt đầu” gợi ta liên tưởng đến những người lính bước ra từ trong chiến tranh. Họ cứ ngỡ đã đến lúc phải nghỉ ngơi để suy ngẫm, song lại chính là lúc họ “bắt đầu” phải vội vã, tất bật trong những lo toan của cuộc sống mới.

- Nghệ thuật đối được tác giả sử dụng một cách nhịp nhàng, tài tình qua hình ảnh “dềnh dàng” >< “vội vã”:

+ Làm nổi bật hai động thái trái ngược của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa. 

+ Làm nổi rõ hai tâm trạng trái ngược nhau của con người khi bước từ chiến tranh sang hòa bình.

Quang cảnh thiên nhiên tiếp tục tái hiện qua những sáng tạo vô cùng độc đáo, ấn tượng:

“Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu”

- Nghệ thuật nhân hóa qua cụm từ có ý nghĩa tượng hình “vắt nửa mình”: 

+ Gợi lên không gian của một bầu trời cao rộng, trong trẻo lúc thu về.

+ Khiến cho đám mây như có hình, có hồn và trở nên gần gũi, sinh động.

+ Gợi liên tưởng đến bước đi cúa thời gian, đám mây như một cây cầu đặc biệt để nối liền những ngày cuối hạ và đầu thu.

- Hình ảnh “đám mây” còn mang nghĩa thế sự. Gợi sự giao thời của đời sống khi đất nước đang chuyển giao từ chiến tranh sang hòa bình.

    Khoảnh khắc giao mùa được tái hiện rất tinh tế, sống động bằng những câu thơ giàu giá trị tạo hình. Và ẩn sau khoảnh khắc đó còn là hình ảnh của đời sống lúc sang thu với biết bao biến chuyển.

3. Những suy ngẫm về đời người lúc chớm thu

Những biến chuyển của thiên nhiên:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa”

- Nghệ thuật đối qua hình ảnh “vẫn còn” >< “vơi dần”; “nắng” >< “mưa” đã tái hiện sự vận động trái chiều của hai hiện tượng thiên nhiên.

- Hình ảnh “nắng” và “mưa” là những hiện tượng của thiên nhiên, vận hành theo quy luật và có thể dự báo.

- Tác giả đã mượn những hiện tượng thiên nhiên quen thuộc, dễ nắm bắt để cụ thể hóa khoảnh khắc giao mùa.

- Những từ ngừ chỉ mức độ, ước lượng: “vẫn còn”, “bao nhiêu”, “vơi”, “bớt” được sắp xếp theo trình tự giảm dần, cho thấy dấu hiệu của mùa hạ đang nhạt dần và những dấu hiệu của mùa thu ngày một đậm nét hơn.

    Tác giả đã làm hiện hình bước chân của mùa thu giữa đất trời.

Đối diện với mùa thu của đất trời, trong lòng nhà thơ dào dạt bao suy ngẫm về đời người lúc chớm thu qua những hình ảnh giàu sức gợi:

“Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

- Hình ảnh của “sấm”:

+ Là một hiện tượng, dấu hiệu cho những cơn mưa rào mùa hạ.

+ Ẩn dụ cho những biến động, bất thường, thử thách trong cuộc đời của mỗi một con người.

- Hình ảnh “sấm” đi liền với lối miêu tả “bớt bất ngờ” và “hàng cây đứng tuổi”: 

+ Tả thực về một hiện tượng, đó là sang thu, tiếng sấm như nhỏ dần, không còn đủ sức làm lay động những hàng cây đã qua bao mùa thay lá.

+ Là một ẩn dụ về những con người từng trải, giờ đến tuổi xế chiều thì trở nên vững vàng hơn, ung dung hơn trước những đổi thay, biến động của cuộc đời.

    Khổ thơ đã bộc lộ trọn vẹn những khoảnh khắc thiên nhiên và đời người sang thu, với những cảm nhận tinh tế và suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài thơ “Sang thu” là sự cảm nhận tinh tế của tác giả về vẻ đẹp thiên nhiên với những bước chuyển mình từ hạ sang thu. Đồng thời, qua tác phẩm còn nói lên niềm xúc động, những suy ngẫm và triết lí trong khoảnh khắc giao mùa của nhà thơ.

2. Nghệ thuật

- Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, tự nhiên nhưng giàu sắc gợi, độc đáo và mới lạ.

- Giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng.

Văn bản 19: Nói với con 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Y Phương sinh năm 1948. Ông sinh ra và lớn lên trên mảnh đất thấm nhuần văn hóa, truyền thống của dân tộc Tày, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng.

- Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc lớp các nhà thơ dân tộc miền núi.

- Cảm hứng chủ đạo trong thơ Y Phương là gia đình, quê hương, đất nước.

- Phong cách sáng tác: Ngôn ngữ thơ giản dị, hồn nhiên, in đậm lối tư duy của người vùng cao; hình ảnh phong phú, mang giá trị biểu tượng;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Bài thơ “Nói với con” được sáng tác năm 1980, năm năm sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Đó là giai đoạn mà đời sống vật chất lẫn tinh thần của nhân dân cả nước nói chung và đồng bào miền núi nói riêng còn rất nhiêu khó khăn, vất vả.

- Y Phương tâm sự: “Đó là thòi diêm đất nước ta gặp vô vàn khó khăn... Bài thơ là lời tâm sự của tôi với đứa con gái đầu lòng. Tâm sự với con, còn là tâm sự với chính mình. Nguyên do thì nhiều, nhưng lí do lớn nhất để bài thơ ra đời chính là lúc tôi dường như không biết lấy gì để vịn, để tin. Cả xã hội lúc bây giờ đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm tiền bạc. Muốn sống đàng hoàng như một con người, tôi nghĩ phải bám vào văn hóa. Phải tin vào những giá trị tích cực, vĩnh cửu của văn hóa. Chính vì thế, qua bài thơ ấy, tôi muốn nói rằng chúng ta phải vượt qua sự ngặt nghèo, đói khổ bằng văn hóa”. Từ hiện thực khó khăn ấy, nhà thơ đã viết nên bài thơ này. Bài thơ như một lời tâm sự với chính mình để động viên mình, đồng thời để nhắc nhở cho các thế hệ mai sau.

- Bài thơ được in trong tập thơ “Thơ Việt Nam” (1945 - 1975).

b. Bố cục: Hai phần

- Phần một: Đoạn 1: Những cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con.

- Phần hai: Đoạn 2: Những phẩm chất cao quỳ của người đồng mình và lời khuyên của người cha.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Những cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con

• Trong những lời tâm tình, tác giả nói với con cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con trước hết là gia đình:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

- Sử dụng hệ thống từ ngữ giàu giá trị tạo hình: “chân phải”, “chân trái”, “một bước”, “hai bước” gợi cho chúng ta liên tưởng đến những bước chân chập chững đầu tiên của một em bé trong sự vui mừng của cha mẹ.

- Thủ pháp liệt kê thứ nhất qua hình ảnh “tiếng nói”, “tiếng cười”:

+ Tái hiện được hình ảnh của một em bé đang ở lứa tuổi bi bô tập nói.

+ Gợi đến khung cảnh của một gia đình đầm ấm, hòa thuận luôn tràn đầy niềm vui, hạnh phúc, tràn đầy tiếng nói, tiếng cười.

- Thủ pháp liệt kê thứ hai qua hình ảnh “tới cha”, “tới mẹ”.

+ Tái hiện hình ảnh em bé đang chập chững tập đi, lúc thì sà vào lòng mẹ, khi lại níu lấy tay cha.

+ Gợi lên ánh mắt như đang dõi theo và vòng tay dang rộng đón đợi của cha mẹ.

- Nhịp thơ 2/3 với cấu trúc đối xứng đã tạo nên một âm điệu, không khí tươi vui và gợi đến một mái ấm gia đình đề huề, hạnh phúc.

    Lời thơ giản dị như một lời tâm tình thủ thỉ, Y Phương đã nói với con, gia đình chính là cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con. Vì thế, trên hành trình vạn dặm của cuộc đời, con không được phép quên.

• Cùng với gia đình, thì quê hương chính là mạch nguồn không thể thiếu nuôi dưỡng con khôn lớn và trưởng thành:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken cảu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng”

- Quê hương được giới thiệu qua lối nói hình ảnh của người vùng cao - "người đồng mình”.

- Cách giới thiệu hình ảnh ấy lại đi liền với hô ngữ “con ơi” khiến lời của cha với con thật trìu mến, thân thương.

- Hệ thống hình ảnh giàu sức gợi:

+ “Đan lờ cài nan hoa”: tả thực công cụ lao động còn thô sơ được “người đồng mình” trang trí trở nên đẹp đẽ; gợi đôi bàn tay cần cù, khéo léo, tài hoa và giàu sáng tạo của “người đồng mình”, đã khiến cho những nan nứa, nan tre đơn sơ, thô mộc trở thành “nan hoa”.

+ “Vách nhà ken cảu hát”, tả thực lối sinh hoạt văn hóa cộng đồng, gia đình của “người đồng mình”, khiến cho những vách nhà như được ken dầy trong những câu hát si, hát lượn; gợi một thế giới tâm hồn tinh tế và tràn đầy lạc quan của người miền cao.

- Các động từ “cài”, “ken” vừa miêu tả được động tác khéo léo trong lao động vừa gợi sự gắn bó của những “người đồng mình” trong cuộc sống lao động.

- Thủ pháp nhân hóa:

+ “Rừng cho hoa”, tả thực vẻ đẹp của những rừng hoa mà thiên nhiên, quê hương ban tặng; gợi sự giàu có và hào phóng của thiên nhiên, quê hương.

+ “Con đường cho những tẩm lòng”, gợi liên tưởng đến những con đường trở về nhà, về bản; gợi đến tấm lòng, tình cảm của “người đồng mình” với gia đình, quê hương, xứ sở.

- Điệp từ “cho” cho thấy tấm lòng rộng mở, hào phóng, sẵn sàng ban tặng tất cả nhưng gì đẹp nhất, tuyệt vời nhất của quê hương, thiên nhiên.

    Nếu như gia đình là cội nguồn sinh thành và dưỡng dục con, thì quê hương bằng văn hóa, lao động đã nuôi dưỡng và che chở cho con thêm khôn lớn, trưởng thành.

• Cuối cùng, tác giả tâm sự với con về kỉ niệm êm đềm, hạnh phúc nhất của cha mẹ. Bởi đó cũng là cội nguồn để sinh thành nên con:

“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

- “Nhớ về ngày cưới”, là nhớ về kỷ niệm cho sự khởi đầu của một gia đình. Nó là minh chứng cho tình yêu và con chính là kết tinh từ tình yêu ấy.

- “Ngày đầu tiên đẹp nhất” đó có thể là ngày cưới của cha mẹ, nhưng cũng có thể là ngày đầu tiên con chào đời.

    Đoạn thơ là lời dặn dò, nhắn nhủ tâm tình của người cha về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con: Gia đình, quê hương chính là những nền tảng cơ bản để tiếp bước cho con khôn lớn, trưởng thành. Bởi vậy, con phải luôn sống bằng tất cả tình yêu và niềm tự hào.

2. Những phẩm chất cao quý của người đồng mình và lời khuyên của cha

a. Những phẩm chất cao quý của người đồng mình

• Trong lời tâm tình về cội nguồn sinh thành và nuôi dưỡng con, người cha đã khéo léo “đan”, “cài” những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình:

“Người đông mình thương lắm con ơi!

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn”

- Vẫn sử dụng lối nói hình ảnh cúa người vùng cao: “người đồng mình” để gợi lên sự gần gũi, thân thương trong một gia đình.

- Động từ “thương” đi liền với từ chỉ mức độ “lắm” để bày tỏ sự đồng cảm với những nỗi vất vả, khó khăn của con người quê hương.

- Hệ thống từ ngữ giàu sức gợi qua hai tính từ “cao”, “xa”:

+ Gợi liên tưởng đến những dãy núi cao, trùng điệp là nơi cư trú của đồng bào vùng cao.

+ Những tính từ này được sắp xếp theo trình tự tăng tiến, gợi những khó khăn như chồng chất khó khăn để thử thách ý chí con người.

- Hệ thống hình ảnh mang tư duy của người miền núi, khi tác giả lấy cao của trời, của núi để đo nỗi buồn, lấy xa của đất để đo ý chí cúa con người.

    Câu thơ đượm chút ngậm ngùi, xót xa để diễn tả thực tại đời sống còn nhiều những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào vùng cao. Đồng thời, cũng đầy tự hào trước ý chí, nghị lực vươn lên của họ.

• Từ phẩm chất của người đồng mình, Y Phương tiếp tục nói với con về ý chí và vẻ đẹp truyền thống của người vùng cao:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương 

Còn quê hương thì làm phong tục”

- Nghệ thuật tương phản:

+ Hình ảnh “thô sơ dci thịt” đã tả thực vóc dáng, hình hài nhở bé của “người đồng mình”.

+ Cụm từ “chẳng mấy ai nhỏ bé” gợi ý chí, nghị lực phi thường, vượt lên hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của “người đồng mình”

    Nghệ thuật tương phản đã làm tôn lên “tầm vóc”, “vóc dáng” của “người đồng mình” họ có thể còn “thô sơ da thịt” nhưng họ không hề yếu đuổi.

- Hình ảnh “tự đúc đá kê cao quê hương” vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc:

+ Tả thực quá trình dụng nhà, dựng bản của người vùng cao, được kê trên những tảng đá lớn để tránh mối mọt.

+ Ẩn dụ cho tinh thần tự lực cánh sinh, họ đã dựng xây và nâng tầm quê hương.

- Trong quá trình dựng làng, dựng bản, dựng xây quê hương ấy, chính họ đã làm nên phong tục, bản sắc riêng cho cộng đồng.

    Câu thơ tràn đầy niềm tự hào về những phẩm chất cao quý của người đồng mình. Từ đó, Y Phương nhắn nhủ, răn dạy con phải biết kế thừa, phát huy những vẻ đẹp của con người quê hương.

b. Lời khuyên của người cha

• Hãy biết sống theo những truyền thống tốt đẹp của người đồng mình:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối 

Lên thác xuống ghềnh 

Không lo cực nhọc”

- Điệp từ “sống” được lặp đi lặp lại liên tiếp đã tô đậm được mong ước mãnh liệt của cha dành cho con.

- Hình ảnh ẩn dụ và phép liệt kê đá gập ghềnh”“thung nghèo đói”

+ Gợi không gian sống hiểm trở, khó làm ăn, canh tác.

+ Gợi đến cuộc sống nhiều vất vả, gian khó và đói nghèo.

    Từ đó, người cha mong muốn ở con: hãy biết yêu thương, gắn bó, trân trọng quê hương mình.

- Hình ảnh so sảnh: “Sống như sông như suối”

+ Gợi về cuộc sống bình dị, hồn nhiên, gắn bó với thiên thiên.

+ Gợi lối sống trong sáng, phóng khoáng, dào dạt tình cảm như sông, như suối

    Từ đó, người cha mong muốn ở con: một tâm hồn trong sáng, phóng khoáng như thiên nhiên.

- Thủ pháp đổi: “lên thác” >< “xuống ghềnh” gợi một cuộc sống vất vả, lam lũ, nhọc nhằn, không hề bằng phẳng, dễ dàng. Từ đó, người cha mong muốn ở con: Phải biết đối mặt, không ngại ngần trước những khó khăn và phải biết vươn lên, làm chủ hoàn cảnh.

    Đoạn thơ là lời khuyên của cha, khuyên con hãy tiếp nối cái tình cảm ân nghĩa, thủy chung với mảnh đất nơi mình sinh ra. Hãy tiếp nối cả ý chí can đảm, lòng kiên cường của người đồng mình.

• Khép lại bài thơ, là lời dặn dò vừa ân cần, trìu mến vừa nghiêm khắc của người cha:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ được nhỏ bé

Nghe con”

- Hai tiếng “lên đường”, cho thấy người con đã khôn lớn, trưởng thành, có thể tự tin, vững bước trên đường đời.

- Hình ảnh thơ được lặp lại “thô sơ da thịt” như là lời khẳng định để khắc sâu trong tâm trí con, rằng: con cũng là người đồng mình, cũng mang hình hài, vóc dáng nhỏ bé.

- Nhưng con “không bao giờ được nhỏ bé” mà phải kiên cường, bản lĩnh để đương đầu với những gập ghềnh, gian khó của cuộc đời.

- Hai tiếng “nghe con” nghe thật thiết tha, ân cần, xúc động, ẩn chứa biết bao mong muốn của người cha.

    Với giọng điệu thiết tha, tâm tình, trìu mến, người cha đã gửi gắm cho con những bài học quý giá, để trên suốt hành trình dài rộng của cuộc đời con mãi mãi khắc ghi.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Bài thơ “Nói với con” thể hiện tình cảm sâu nặng của người cha dành cho con. Đồng thời, bộc lộ tình yêu quê hương, xứ sở và lòng tự hào về người đồng mình.

2. Nghệ thuật

- Thể thơ tự do, phóng khoáng, phù hợp với lối nói, diễn đạt và tư duy của người vùng cao.

- Giọng điệu thơ khi tâm tình, tha thiết, khi mạnh mẽ, nghiêm khắc, rất phù hợp với lời của người cha nói với con mình.

Văn bản 20: Làng 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Kim Lân (1920 - 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ra và lớn lên trên một làng quê trù phú và giàu truyền thống văn hóa ở Từ Sơn - Bắc Ninh.

- Con người: Kim Lân là người nghiêm khắc với bản thân, nghiêm túc với công việc.

- Kim Lân bắt đầu “cầm bút” từ những năm 1941, lựa chọn cho mình sở trường truyện ngắn và nhanh chóng trở thành một cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.

- Ông là một trong những nhà văn am hiểu sâu sắc về nông thôn và người nông dân. Bởi vậy, ông lựa chọn đề tài về người nông dân để phát huy sở trường của mình.

+ Trước Cách mạng tháng Tám: Tái hiện được cuộc sống, sinh hoạt văn hóa và những thú vui bình dị chốn thôn quê như: đánh vật, chọi gà, thả chim,...

+ Sau Cách mạng tháng Tám: Khám phá vẻ đẹp tâm hồn người nông dân. Đó là những con người với cuộc sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn chăm chỉ làm lụng, tràn đầy niềm tin vào tương lai.

- Phong cách nghệ thuật: Kim Lân có một lối viết tự nhiên, chậm rãi, nhẹ nhàng, hóm hỉnh và giàu cảm xúc; cách miêu tả rất gần gũi, chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948. Đây là thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

-Tác phẩm được đăng lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ năm 1948.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn kể về làng chợ Dầu nhưng không lấy tên tác phẩm là “Làng Chợ Dầu” Nếu lấy tên tác phẩm là “Làng chợ Dầu” thì câu chuyện sẽ trở thành chuyện riêng của một cái làng cụ thể; ông Hai sẽ trở thành người nông dân cụ thể của làng chợ Dầu ấy. Như vậy, chủ đề, tư tưởng của truyện bị bó hẹp, không mang ý nghĩa khái quát.

- Tác giả đã sử dụng một danh từ chung là “Làng”, mang ý nghĩa khái quát để đặt tên cho tác phẩm. Đó sẽ là một câu chuyện về những làng quê nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp; ông Hai sẽ trở thành nhân vật biểu tượng cho người nông dân Việt Nam yêu làng, yêu nước. Như vậy, chủ đề, tư tưởng, ý nghĩa của truyện được mở rộng.

c. Tóm tắt

    Ông Hai người làng chợ Dầu, trong kháng chiến, buộc phải rời làng đi tản cư. Là một người nông dân yêu làng tha thiết: ông hay khoe về làng mình; ngày nào cũng ra phòng thông tin vờ xem tranh ảnh để lắng nghe tin tức về làng. Ruột gan ông cứ múa lên, trong đầu bao nhiêu ý nghĩ vui thích khi nghe về những chiến công của làng.

    Một hôm, tại quán nước, ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt gian theo giặc. Ông cảm thấy khổ tâm, nhục nhã và xấu hổ vô cùng, về nhà, ông nằm vật ra giường nhìn lũ con mà nước mắt trào ra. Ông không dám đi đâu, chỉ ru rú ở nhà, norm nớp lo sợ. Ông Hai lâm vào hoàn cảnh bế tắc khi bà chủ nhà có ý đuổi khéo gia đình ông, nhưng không thể về làng vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Ông chỉ biết tâm sự với đứa con về nỗi lòng của mình.

    Chỉ khi thông tin được cải chính, rằng làng chợ Dầu vẫn kiên cường đánh giặc ông mới vui vẻ và phấn chấn hẳn lên. Ông đi khoe với bác Thứ, với mọi người: nhà ông bị giặc đốt, làng ông bị giặc phá, về nhà, ông vui vẻ mua quà cho lũ con.

d. Ngôi kể

- Truyện được kể theo ngôi thứ ba.

- Tác dụng: Làm cho câu chuyện trở nên khách quan và tạo cảm nhận giác chân thực cho người đọc.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện và ý nghĩa của tình huống truyện 

- Tình huống truyện đặc sắc: Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt gian theo Tây.

+ Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống đối nghịch với tình cảm, niềm tự hào: Một con người vốn yêu làng và luôn hãnh diện về nó thì bỗng nghe tin làng lập tề theo giặc.

+ Tình huống bất ngờ ấy đã bộc lộ một cách sâu sắc, mạnh mẽ tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông Hai.

- Ý nghĩa của tình huống truyện:

+ Về mặt kết cấu của truyện: Tình huống này phù hợp với diễn biến của truyện, tô đậm tình yêu làng, yêu nước của người nông dân Việt Nam mà tiêu biểu là nhân vật ông Hai.

+ Về mặt nghệ thuật: Tình huống truyện đã tạo nên một cái thắt nút cho câu chuyện, tạo điều kiện để bộc lộ mạnh mẽ tâm trạng và phẩm chất của nhân vật, góp phần thế hiện chủ đề của tác phẩm.

2. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai

a. Người nông dân mang tình yêu làng tha thiết

- Ông tự hào, hãnh diện về làng và kể về nó với niềm say mê, náo nức đến lạ thường:

+ Trước Cách mạng tháng Tám: Ông khoe con đường làng lát toàn đá xanh, trời mưa đi chẳng lấm chân; ông khoe sinh phần của một vị quan tổng đốc trong làng;...

+ Khi kháng chiến bùng nổ: Ông khoe về một làng quê đi theo kháng chiến làm cách mạng; ông kể một cách rành rọt những hộ, những ụ, những giao thông hầm hào;...

- Khi buộc phải tản cư, ông Hai đã rất nhớ về làng:

+ Ông thường xuyên chạy sang nhà bác Thứ để kể lể đủ thứ chuyện về làng, để vơi đi cái nỗi nhớ làng.

+ Ông kể cho sướng cái miệng, cho vơi cái lòng mà không cần biết người nghe có thích hay không.

+ Ông thường xuyên theo dõi tình hình của làng cũng như tình hình chiến sự.

    Tạo ra một hoàn cảnh đặc biệt, Kim Lân đã thể hiện một cách rất tự nhiên, chân thực tình cảm, niềm tự hào của ông Hai với làng chợ Dâu của mình.

b. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

• Ban đầu, ông chết lặng vì đau đớn, tủi hồ như không thế điều khiển được cơ thê của mình: “Cổ ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thở được”.

- Cái tin ấy quá bất ngờ và khi trấn tĩnh lại, ông còn cố không tin vào cái tin dữ ấy. Nhưng rồi những người tản cư kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, “mắt thấy tai nghe”, làm ông không thể không tin.

Sau giây phút ấy, tất cả dường như sụp đổ, tâm trí ông bị ám ảnh, lo lắng, day dứt:

- Ông vờ lảng ra chỗ khác, rồi về thẳng nhà. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”.

- Về đến nhà ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con, tủi thân mà “nước mắt ông cứ tràn ra”.

- Muôn vàn nỗi lo ùa về trong tâm trí ông:

+ Ông lo cho số phận của những đứa con rồi sẽ bị khinh bỉ, hắt hủi vì là trẻ con làng Việt gian: “Chúng nó cùng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu”.

+ Ông lo cho bao nhiêu người tản cư làng ông sẽ bị khinh, tẩy chay, thù hằn, ghê tởm: “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!... Suốt cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...”

+ Ông lo cho tương lai của gia đình rồi sẽ đi đâu, về đâu, làm ăn sinh sống ra sao: “Rồi đây biết làm ăn, buôn bán làm sao? Ai người ta chứa”.

    Một loạt những câu hỏi gợi lên tâm trạng khủng hoảng, rối rắm, không có lối thoát của ông Hai.

- Trong trạng thái khủng hoảng, giận dữ ông nam chặt hai tay mà rít: “chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhà thế này”.

- Niềm tin bị phản bội, những mối nghi ngờ bùng lên và giằng xé trong ông: “ông kiểm điểm từng người trong óc”.

Mấy ngày sau đó, ông hoang mang, sợ hãi khi phải đối diện với cuộc sống xung quanh:

- Ông không dám đi đâu, chỉ quẩn quanh ở nhà và nghe ngóng tình hình bên ngoài: “một đám đông tủm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng nói cười xa xa ông cũng chột dạ”.

- Lúc nào ông cũng nơm nớp, hoang mang, lo sợ tưởng như người ta để ý đến, bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông... là ông lùi ra một góc, nín thít: “Thôi lại chuyện ấy rồi!”

- Ông không dám nói chuyện với vợ, hay ông không dám nhìn thẳng vào thực tế phũ phàng đang làm ông đớn đau.

• Tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai.

- Ông Hai rơi vào tình trạng khủng hoảng, tuyệt vọng và bế tắc hoàn toàn:

+ Ông thoáng có ý nghĩ “hay là trơ về làng” - rồi ông lại gạt bỏ ý nghĩ về làng, bởi “làng đã theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ”.

+ Buộc phải lựa chọn một, ông đã tự xác định một cách đau đớn nhưng dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”.

    Quyết định của ông Hai đã khẳng định tình yêu nước mạnh mẽ, thiêng liêng, rộng lớn, bao trùm lên tình cảm của làng quê. Điều gì đã khiến ông có sự lựa chọn dứt khoát đó? Phải chăng chính niềm tin vào Đảng, cách mạng, kháng chiến đã hướng ông có được sự lựa chọn đó.

- Nhưng dù đã dứt khoát như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với nơi mà ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó gần hết cuộc đời. Bởi vậy, ông muốn được tâm sự, như để phân bua, để minh oan, cởi bỏ nỗi lòng.

+ Ông trút hết nỗi lòng vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con ngây thơ, bé bỏng.

+ Tình yêu sâu nặng với làng, nên ông muốn lí trí và trái tim bé bỏng của con phải khắc sâu, ghi nhớ câu: “Nhà ta ở làng chợ Dầu” - nơi chôn rau cắt rốn của bố con ông.

+ Ông nhắc cho con về tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cụ Hồ của bố con ông: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu, trên có soi xét cho bố con ông”.

+ Ông khẳng định tình cảm sâu nặng, bền vững và rất thiêng liêng ấy: “Cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.

    Dưới hình thức trò chuyện, tâm với đứa con, nhưng thực chất là lời tự vấn, để tự minh oan và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình với làng, kháng chiến, cách mạng; để làm vơi đi phần nào những khổ tâm đã dằn vặt ông bấy lâu nay.

    Qua diễn biến tâm trạng của ông Hai, Kim Lân đã khám phá và làm nổi bật những nét đẹp trong tâm hồn người nông dân cách mạng: hài hòa giữa lòng yêu làng và tình yêu nước, nhiệt tình cách mạng.

c. Khi nghe tin làng cải chính

- Khi nghe tin cải chính làng chợ Dầu không theo giặc, như có một phép hồi sinh khiến thái độ ông Hai thay đổi hẳn: “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bong tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.

- Nó giúp rũ sạch mọi đau khổ, tủi nhục, bế tắc và đưa ông trở lại với “thói quen” cũ, lật đật đi khắp nơi khoe làng: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên đây cải chính cái tin làng Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo, Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”.

- Phải chăng, khi niềm tin và tình yêu bị phản bội, bị dồn nén trong những dằn dặt, khủng hoảng quá lâu dễ khiến con người ta có những suy nghĩ không bình thường?

+ Đối với người nông dân, căn nhà là tất cả cơ nghiệp, là biết bao công cày cuốc mà nên. Vậy mà ông sung sướng, hê hả loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn!” một cách tự hào như một niềm vui, niềm hạnh phúc.

+ Nhưng ngôi nhà là tài sản riêng, dù có mất nhưng danh dự vẫn còn, thế là ông vui, ông hạnh phúc.

+ Đó là minh chứng hùng hồn, chứng minh cho làng ông, cho bố con gia đình ông và những người tản cư trên đây không theo giặc, vẫn một lòng thủy chung, tình nghĩa và sẵn sàng hi sinh tất cả cho kháng chiến.

    Ông Hai chỉ là một người nông dân bình thường như bao người nông dân khác nhưng ông đã biết hi sinh tài sản riêng của mình cho kháng chiến. Điều này cho thấy cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi sâu vào tiềm thức của người dân để trở thành cuộc kháng chiến toàn dân.

- Ông phấn khởi mua quà về chia cho các con và có ý định nuôi con lợn để ăn mừng,...

     Tình yêu làng và lòng yêu nước của ông Hai thực sự sâu sắc và khiến người đọc vô cùng cảm động. Tin cải chính đã trả lại cho ông tình yêu, niềm tự hào sâu sắc về làng. Nó đã xây dựng lên trong ông những “bức tường thành” vững chắc không súng đạn nào có thể công phá, cháy rụi được.

3. Những đặc sắc về nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: Tác giả đặt nhân vật vào tình huống cụ thể để thử thách nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ chiều sâu tư tưởng và chủ đề của truyện.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật:

+ Khắc họa thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước tha thiết,...

+ Tác giả miêu tả rất cụ thể những diễn biến nội tâm từ suy nghĩ, hành động đến ngôn ngữ,...

+ Với thủ pháp nghệ thuật đối thoại và độc thoại nội tâm đã diễn tả một cách chính xác và mạnh mẽ những ám ảnh, day dứt của nhân vật.

     Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân và thế giới tinh thần của họ.

- Nghệ thuật sử dụng ngôn từ rất đặc sắc:

+ Ngôn ngữ truyện mang tính khẩu ngữ và lời ăn, tiếng nói hàng ngày của người nông dân.

+ Lời kể chuyện và lời nói của nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu. 

+ Ngôn ngữ nhân vật vừa có nét chung của người nông dân Việt Nam cần cù, chịu khó, lại vừa mang đậm những nét cá tính riêng của nhân vật nên rất sinh động.

- Cách trần thuật truyện tự nhiên, linh hoạt với những chi tiết sinh hoạt, đời sống hàng ngày xen vào với mạch tâm trạng khiến cho truyện sinh động hơn.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Kim Lân đã tái hiện thành công diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai để mà qua đó làm nổi bật nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt Nam: vẻ đẹp của tấm lòng chất phác, nồng hậu, vừa yêu làng, lại vừa yêu nước, nhiệt tình với cách mạng.

2. Nghệ thuật

- Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ.

- Ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo.

- Sự kết hợp giữa ngôn ngừ độc thoại và đối thoại.

- Hệ thống hình ảnh chi tiết, giàu sức gợi.

Văn bản 21: Lặng lẽ Sa Pa 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Thành Long (1925 - 1991), quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

- Ông bắt đầu “cầm bút” từ kháng chiến chống Pháp và chọn truyện ngắn cùng bút kí làm sở trường của mình.

- Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút có nhiều đóng góp cho nền văn xuôi cách mạng nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

-Tác phẩm của ông tập trung vào hai đề tài lớn: cuộc đấu tranh chống Mĩ của nhân dân Liên khu Vcông cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

- Phong cách sảng tác: Truyện ngắn của Nguyễn Thành Long nhẹ nhàng, tình cảm, thường pha chút chất kí; ngôn ngữ trong sáng, giàu chất thơ; và luôn xây dựng được những nhân vật mang tính hình tượng;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác năm 1970. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thâm nhập thực tế Lào Cai về đề tài cuộc sống, con người trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

- Tác phẩm được in trong tập “Giữa trong xanh” năm 1972.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Nhan đề “Lặng lẽ Sa Pa” là một nhan đề giàu chất thơ, góp phần khắc họa chủ đề, tư tưởng của tác phẩm:

+ Lặng lẽ gợi đến một khung cảnh rất êm đềm, thanh tĩnh của Sa Pa.

+ Nhưng “Lặng lẽ” chỉ là cái không khí bên ngoài của cảnh vật. Đằng sau vẻ lặng lẽ ấy là sự miệt mài, nhiệt huyết, hăng say để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

    Dưới vẻ lặng lẽ của Sa Pa luôn có những con người âm thầm làm việc, cống hiến cho sự đổi thay của đất nước. Họ chính là những dòng sông cuộn chảy mang phù sa bồi đắp cho đất nước thêm đẹp giàu.

c. Tóm tắt

    “Lặng lẽ Sa Pa” kể về nhân vật anh thanh niên hai bảy tuổi, sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m quanh năm chỉ có mây mù bao phủ. Công việc chính của anh là công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Trước những trách nhiệm nặng nề của công việc, bốn năm anh chưa về nhà một lần. Anh luôn thèm cảm giác được gặp gỡ và trò chuyện với mọi người. Bởi vậy, anh đã dùng cây chắn ngang đường để mong được tiếp xúc, làm quen với mọi người.

    Trong một lần tình cờ, anh có cơ hội được gặp gỡ, trò chuyện với một ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ. Anh mời họ lên nhà chơi. Nơi anh ở ngăn nắp, gọn gàng đã tạo được ấn tượng tốt với ông họa sĩ. Anh thanh niên tâm sự, chia sẻ với họ về cuộc sống, niềm đam mê công việc và sở thích đọc sách, nuôi gà, trồng hoa của mình.

    Ông họa sĩ đã cảm nhận được vẻ đẹp phẩm chất của anh thanh niên và định vẽ một bức chân dung về anh. Nhưng anh đã từ chối và giới thiệu ông kĩ sư dưới vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ đất sét, mà theo anh là đáng để vẽ hơn. Cô kĩ sư sau khi trò chuyện với anh đã nhận ra mối tình nhạt nhẽo của mình và yên tâm nhận công tác ở Lai Châu.

    Sau ba mươi phút trò chuyện, họ chia tay. Anh thanh niên tiếp tục với công việc của mình. Trước khi tạm biệt, anh không quên biếu hai người một làn trứng gà và tặng cô gái một bó hoa đẹp.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện và hệ thống nhân vật

- Tình huống truyện khá đơn giản, đó chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ giữa một anh thanh niên làm công tác khi tượng trên đỉnh Yên Sơn với bác lái xe và hai hành khách.

- Tác dụng:

+ Để cho nhân vật chính là anh thanh niên xuất hiện một cách tự nhiên, khách quan, không đột ngột.

+ Được soi chiếu, đánh giá và cảm nhận một cách khách quan từ những nhân vật khác.

+ Các nhân vật trong truyện dần xuất hiện một cách tự nhiên, lặng lẽ đã góp phần làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

- Hệ thống nhân vật:

+ Nhân vật chính là anh thanh niên, hiện lên như một bức chân dung. Song chưa được xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnhhầu như chưa có cá tính.

+ Các nhân vật trong truyện, từ nhân vật chính đến các nhân vật phụ đều không có tên riêng, chỉ được gọi tên qua đặc điểm giới tính, nghề nghiệp, tuổi tác (anh thanh niên, bác lái xe, ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, ông kĩ sư, anh cán bộ,...).

+ Các nhân vật phụ xuất hiện có vai trò làm nổi bật phẩm chất của nhân vật chính

    Hệ thống nhân vật được xây dựng theo dụng ý nghệ thuật của tác giả để thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Họ là những con người vô danh (không tên), ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, giới tính, ở nhiều nơi trên đất nước đang ngày đêm lặng lẽ, say mê trong công việc để cống hiến cho đất nước. Điều đó làm tăng thêm sức khái quát của tác phẩm.

2. Bức tranh thiên nhiên của Sa Pa

- Thiên nhiên Sa Pa hiện lên êm đềm, lãng mạn và thật sống động: “Nắng bất ngờ bắt đầu lên tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xưa, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên những vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe...”

+ Sử dụng biện pháp liệt kê để phô bày tất cả những nét riêng, đặc trưng và độc đáo của thiên nhiên Sa Pa. vẻ đẹp ấy làm say đắm lòng người và như mời gọi con người hãy đến vùng đất này để khám phá, thưởng thức.

+ Sử dụng biện pháp nhân hóa qua hình ảnh “nắng... đốt cháy rừng cây”, “nắng mạ bạc cả con đèo” gợi không gian như bừng sáng, khiến cảnh vật thêm lung linh, rực rỡ.

- Nghệ thuật nhân hóa nắng... đốt cháy rừng cây”, “mây bị nắng xua” khiến cho cảnh vật sống động như mang được linh hồn của thiên nhiên Sa Pa.

    Tác giả đã khắc họa được một bức tranh tráng lệ, rực rỡ, thơ mộng với những đường nét, hình khối, màu sắc đặc trưng của thiên nhiên Sa Pa. Và đó còn là cái nền để Nguyễn Thành Long tô đậm, khắc sâu vẻ đẹp của con người.

3. Nhân vật anh thanh niên

a. Một người yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm trong công việc

- Một người yêu nghề, dám chấp nhận hi sinh:

+ Chấp nhận sống và làm việc trong một hoàn cảnh, môi trường đặc biệt: Trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo.

+ Coi công việc như một người bạn: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?... Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi, cháu buồn chết mất”.

+ Tìm thấy những ý nghĩa trong công việc: “báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”.

+ Tự hào và hạnh phúc bởi anh không chỉ giúp ích cho lao động mà cả trong chiến đấu: Phát hiện một đám mây khô giúp không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng.

- Có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc:

+ Làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có ai giám sát song anh vẫn luôn tự giác, tận tụy: Mỗi ngày đều bốn lần đi “ốp” để báo về nhà, không ngần ngại những đêm mưa tuyết,...

+ Tác phong làm việc khoa học, nghiêm túc, đúng giờ giấc và chính xác đến từng phút: Anh đếm từng phút trong cuộc gặp gỡ vì sợ hết ba mươi phút.

+ Anh luôn hoàn thành xuất sắc công việc của mình.

    Anh thanh niên là hiện thân cho những con người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước thêm giàu đẹp.

b. Một người có tinh thần lạc quan và yêu tha thiết cuộc sống

- Anh biết tạo ra niềm vui trong cuộc sống của mình bằng việc trồng đủ các loài hoa rực rỡ để làm đẹp cho ngôi nhà mình ở; nuôi gà, nuôi ong để làm giàu nguồn lương thực cho mình.

- Luôn tự trau dồi bản thân bằng cách đọc qua sách, để nâng cao hiểu biết và chất lượng cuộc sống.

- Không chỉ sắp xếp, tổ chức công việc một cách khoa học, mà ngay trong cuộc sống anh cũng thật gọn gàng, ngăn nắp: Một căn nhà ba gian sạch sẽ khiến ông họa sĩ phải trầm trồ và bất ngờ.

c. Một con người chân thành, cởi mở và hiếu khách

- Thể hiện ở nỗi thèm người, muốn được nhìn ngắm, trò chuyện với con người. Vì thế, anh đã lấy khúc cây chắn ngang đường để dừng những chuyến xe hiếm hoi.

- Khi gặp được người thì anh mừng đến mức tất tả, cuống cuồng như không kiềm được cảm xúc: “Anh chạy vụt đi, cũng tất tả như khi đến”, “Người con trai nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ".

- Anh là một người thân thiện, cởi mở ngay cả với những người mới gặp lần đầu: Niềm nở, hồ hởi không giấu lòng, pha trà, tặng hoa và cả quà ăn đường.

- Trân trọng từng giây từng phút gặp gỡ: Đem từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu.

- Anh quan tâm, chu đáo đến cả những người tình cờ gặp gỡ và sẵn sàng yêu thương, sẻ chia: Nghe bác lái xe kể về việc vợ mình bị bệnh, anh đã lặng lẽ đi tìm củ tam thất để bác gái ngâm rượu uống.

    Anh thanh niên xứng đáng trở thành biểu tượng cho phẩm chất và con người nơi mảnh đất Sa Pa.

d. Một con người khiêm tốn

- Công việc của anh đang làm góp một phần quan trọng cho những bước chuyển mình của đất nước: phụ vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu. Nhưng anh lại cho những đóng góp của mình là vô cùng nhỏ bé so với bao người khác.

- Khi ông hoạ sĩ xin kí hoạ chân dung, anh từ chối, e ngại: “Không, không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn”.

    Qua những nét phác họa của Nguyễn Thành Long, anh thanh niên hiện lên thật chân thực, sinh động, đẹp đẽ. Giữa thiên nhiên im lặng, hắt hiu, giữa cái lặng lẽ muôn thuở của Sa Pa đã vang lên những âm thanh trong sáng, những sắc màu lung linh của những con người lao động mới như anh.

4. Các nhân vật phụ

a. Nhân vật ông họa sĩ

- Tuy không phải là nhân vật chính của truyện, nhưng ông họa sĩ có vị trí quan trọng, mang quan điểm trần thuật của tác giả. Người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sát, miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện.

- Trước hết, ông là một nghệ sĩ chân chính, nghiêm túc, say mê đi tìm cái đẹp: “Hơn bao nhiêu người khác, ông biết rất rõ sự bất lực của nghệ thuật, của hội họa trong cuộc hành trình vĩ đại của cuộc đời... Đối với chính nhà họa sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc khó, nặng nhọc, gian nan”.

- Ngay từ những phút đầu gặp anh thanh niên, ông họa sĩ đã xúc động và bối rối. “Vì họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết. Ôi! Một nét thôi cùng đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác”,

- Trước chàng trai trẻ đáng yêu, ông họa sĩ bồng thấy như “nhọc quá” vì những điều người ta suy nghĩ về anh.

- Những lời tâm sự anh thanh niên, khiến ông chấp nhận những thử thách của quá trình sáng tác.

    Những cảm xúc và suy tư của ông họa sĩ về anh thanh niên và về những vấn đề của nghệ thuật, của đời sống được gợi lên từ câu chuyện của anh thanh niên, đã làm cho chân dung nhân vật chính thêm sáng đẹp và tạo được chiều sâu tư tưởng của tác phẩm.

b. Nhân vật cô kĩ sư

- Cô kĩ sư là một hình ảnh đẹp đẽ, biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ: cô vừa tốt nghiệp đã tình nguyện lên miền núi Lai Châu nhận nhiệm vụ.

- Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, được nghe những điều anh tâm sự, chia sẻ về bản thân và những người khác khiến cô “bàng hoàng”.

- Cái “bàng hoàng” như một sự va đập giúp cô bừng dậy những tình cảm và suy nghĩ lớn lao, đẹp đẽ:

+ Cô đánh giá, kiểm điểm đúng hơn mối tình đầu nhạt nhèo mà cô đã từ bỏ. 

+ Vững tin và quyết tâm về quyết định cho chuyến ra đi đầu đời của mình.

- Từ quý mến, khâm phục cô dần dần thấy biết ơn vô cùng anh thanh niên. Không phải chỉ vì bó hoa to mà anh tặng mà còn vì “một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”,

    Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và những suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Đó là sự đồng cảm về lí tưởng của thế hệ thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ. Đồng thời, qua tâm tư, cảm xúc của cô kĩ sư, ta nhận ra vẻ đẹp và sức mạnh của nhân vật anh thanh niên.

c. Nhân vật bác lái xe

- Là người xuất hiện từ đầu tác phẩm, bác là người dần dắt, giới thiệu một cách sơ lược và kích thích sự chú ý về nhân vật chính của tác phẩm - “người cô độc nhất thế gian”.

- Bác là một người yêu nghề và có trách nhiệm với công việc: Đã có ba mươi năm lái xe và hiểu tường tận Sa Pa.

- Là một con người niềm nở và cởi mở: Trên khuôn mặt hồ hởi, bác giới thiệu về thiên nhiên và cảnh sắc Sa Pa; chia sẻ với ông họa sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên.

- Có một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa.

- Bác là cầu nối giữa anh thanh niên với cuộc đời: Bác mua sách giúp anh; giới thiệu anh với những người bạn mới;...

    Mặc dù chỉ xuất hiện qua một vài chi tiết của truyện nhưng bác họa sĩ là một phần quan trọng giúp nhân vật anh thanh niên xuất hiện một cách tự nhiên và góp phần dẫn dắt chuyện.

d. Những nhân vật được giới thiệu gián tiếp

- Đó là những con người làm việc miệt mài, cống hiến thầm lặng. Anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng cao 3142m; ông kĩ sư vườn rau dưới Sa Pa ngày ngày ngồi im trong vườn su hào rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào.

- Dám hi sinh cả tuổi trẻ và hạnh phúc cá nhân: Anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, luôn trong tư thế sẵn sàng chờ sét, “nửa đêm mưa gió, rét buốt, mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra” và mười một năm chưa ngày nào xa cơ quan.

    Trong tác phẩm, những nhân vật này không xuất hiện một cách trực tiếp mà chỉ được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên. Song, họ đã thể hiện được những phẩm chất vàng trong tâm hồn, cách sống và góp phần làm sáng tỏ chủ đề, tư tưởng của truyện được mở rộng. 

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc họa thành công hình ảnh những con người lao động lặng lẽ, say mê mà tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên. Qua đó tác giả đã khẳng định vẻ đẹp của những người lao động trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện hợp lí với cách trần thuật tự nhiên.

- Truyện có sự kết hợp giữa phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm và bình luận.

- Lời văn mượt mà, trau chuốt, giàu chất thơ và chất hội họa.

Văn bản 22: Chiếc lược ngà 

CHIẾC LƯỢC NGÀ

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Quang Sáng (1932 - 2014), quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

- Ông là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.

- Nguyễn Quang Sáng bắt đầu “cầm bút” từ những năm 1952 và thử sức mình trên nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, kí,...

- Ông sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu ở chiến trường Nam Bộ. Vì thế sáng tác của ông xoay quanh con người, cuộc sống vùng Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến và sau hòa bình.

- Phong cách sáng tác: Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng là lối viết chân chất, mộc mạc, bình dị cộng với giọng văn đậm chất Nam Bộ...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966. Đây là giai đoạn mà cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt và tác giá đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.

- Truyện được in trong tập truyện ngắn cùng tên.

b. Ý nghĩa nhan đề

“Chiếc lược ngà” là hình ảnh, chi tiết trung tâm của tác phẩm, gắn kết cuộc đời tình cách của các nhân vật và góp phần khắc họa sâu nội dung truyện.

- Với bé Thu, chiếc lược ngà là ước mơ, là món quà đầu tiên và cũng là kỉ vật cuối cùng của người cha. Bởi vậy, chiếc lược ngà là kỉ vật, hình ảnh của người cha. 

- Với ông Sáu, chiếc lược ngà không chỉ là món quà ông dành tặng con mà còn là hình bóng của cô con gái yêu quý. Bởi vậy, chiếc lược ngà là tất cả tình thương, nỗi nhớ ông gửi gắm cho cô con gái bé bỏng.

- Với bác Ba, chiếc lược ngà là sự trao gửi thiêng liêng giữa người cán bộ cách mạng với đứa con gái của người đồng đội đã nằm lại nơi chiến trường.

- Với hai cha con ông Sáu, chiếc lược ngà là biểu tượng thiêng liêng bất diệt và cầu nối tình cảm sâu nặng của hai cha con.

b. Tóm tắt tác phẩm

    Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi mới có dịp về thăm nhà với hi vọng gặp lại đứa con sau tám năm xa cách, chưa hề một lần gặp mặt. Mấy ngày đầu bé Thu không nhận ra ba do vết thẹo trên mặt làm ông không giống với người cha chụp chung bức hình với má mà em biết. Em bướng bỉnh và đối xử với ông Sáu như một người xa lạ.

    Nghe bà ngoại kể, bé Thu nhận đã cha và tình cảm cha con đà thức dậy một cách mãnh liệt. Song đó cũng là lúc ông Sáu phải trở lại chiến khu. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình thương, nỗi nhớ vào việc làm một chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp tặng thì ông đã hi sinh trong một trận càn. Lúc hấp hối, ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con gái.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện đặc sắc

- Tác giả đã xây dựng hai tình huống truyện đặc sắc:

+ Cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận ra ông Sáu là ba. Đến lúc em nhận ra thì ông Sáu lại phải lên đường trở về đơn vị. Tình huống này đã bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với ba.

+ Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tất cả tình thương, nỗi nhớ và cá sự hi vọng vào việc làm một chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp tặng con thì ông đã hi sinh trong một trận càn. Trong lúc hấp hối ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con. Tình huống này bộc lộ tình cảm thắm thiết của ông Sáu dành cho con.

- Ý nghĩa của tình huống truyện:

+ Tình huống truyện kịch tính, chứa nhiều yếu tố bất ngờ tạo nên nghệ thuật thắt nút. Từ đó, thể hiện tình cảm cha con thiêng liêng, sâu nặng.

+ Đật nhân vật vào những tình huống éo le để những tình cảm cha con được đẩy lên đến cao trào. Qua đó, tác giả muốn khẳng định một điều hết sức thiêng liêng: Tình cảm cha con là bất tử mà không một súng đạn nào có thế chia cắt được.

1. Nhân vật bé Thu

a. Trước khi bé Thu nhận ông Sáu là ba

- Thu là một người thương cha vô cùng. Hơn ai hết, cô luôn mong cái ngày được gặp cha để được vỗ về, chở che. Bởi thế, cuộc gặp gỡ sau tám năm xa cách những tưởng hai cha con sẽ vỡ òa trong niềm hạnh phúc thì trớ trêu thay bé Thu lại bộc lộ một thái độ bất thường.

+ Trước sự xúc động, vồ vập của ông Sáu, cô bé từ ngạc nhiên đến hốt hoảng: “tròn xoe mắt”, mặt tái đi, vụt chạy và thét lên để gọi má cầu cứu.

+ Trong suốt ba ngày phép, khi ông Sáu càng dồn hết tình cảm để bù đắp cho Thu thì cô bé lại càng lạnh nhạt, xa cách, thậm chí tỏ ra ngang ngạnh, bướng bỉnh. 

+ Cô bé kiên quyết không gọi ông Sáu một tiếng ba: Nói trống không với ông Sáu (vô ăn cơm; cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái). Trong lúc khó khăn, nguy cấp khi phải chắt nước một nồi cơm to, nặng quá sức thì cô bé vẫn loay hoay, tự xoay sở.

+ Cô bé từ chối mọi sự vỗ về, chăm sóc của ông Sáu: Trong bữa cơm, ông Sáu gắp cho nó miếng trứng cá thì nó hất ra khiến cơm bắn tung tóe,... Chi tiết này đã đẩy câu chuyện lên đỉnh điểm của kịch tính.

+ Khi bị trách phạt, phản ứng lại hành động của ông Sáu, cô bé đã ngay lập tức bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây lòi tói cho kêu rổn rảng thật to.

- Nguyên nhân:

+ Gián tiếp: Bé Thu sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước đang chiến tranh. Bởi vậy, suốt tám năm cô bé chỉ biết mặt ba qua một tấm hình ba chụp chung với má.

+ Trực tiếp: Ngày gặp gỡ, vết thẹo trên mặt ông Sáu đã khiến cho gương mặt ông khác lạ so với hình ảnh người ba trong hình và tâm trí của cô bé.

+ Do cô bé rất yêu ba, muốn bảo vệ hình ảnh người ba của mình, không cho phép người lạ mặt kia có quyền mạo nhận.

    Sự ngang ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu không hề đáng trách. Phản ứng tâm lí của cô bé là hoàn toàn tự nhiên. Bởi sinh ra trong hoàn cảnh chiến tranh, cô bé còn quá nhỏ để hiểu được những khắc nghiệt, éo le. Và người lớn cũng không ai chuẩn bị tâm lí cho em đón nhận những điều bất thường.

    Miêu tả thái độ, hành động bất thường của cô bé, tác giả đã tái hiện hoàn cảnh cảnh éo le trong chiến tranh; đồng thời khắc họa được một cô bé bướng bỉnh, gan góc, cá tính đến kì lạ.

b. Khi bé Thu nhận ông Sáu là ba

- Sau khi nghe bà ngoại giải thích, bé Thu trở về nhà đúng vào buổi sáng ông Sáu phải lên đường về đơn vị. Cô bé đã đột ngột thay đổi trong sự ngỡ ngàng của ông Sáu và mọi người.

+ Không còn ngang ngạnh, cau có, cố chấp mà thay vào đó là khuôn mặt “sầm lại buồn rầu” “nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”.

+ Khi cô bé bắt gặp cái nhìn trìu mến và buồn rầu của ba thì “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”.

+ Khi ông Sáu khẽ cất lời từ biệt thì cô bé mới chịu kêu ba một tiếng đến xé lòng: “Ba... a... a... ba”.

+ Cô bé chạy xô lại ôm chặt lấy ba mình, hôn ba và hôn lên cả cái vết thẹo dài trên má.

+ Cô bé cất lời giữ ba ở nhà: “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con”. Đây mà một ước mơ rất thực, nó phản chiếu tình cảm gắn bó của bé Thu dành cho ba.

+ Cô chia tay ba với ao ước được ba mua cho cây lược ngà. Cho thấy cô muốn có vật kỉ niệm của ba để được thấy ba luôn bên mình.

    Trong khoảnh khắc chia li, mọi khoảng cách đã bị xóa bỏ, bé Thu không che giấu sự gắn bó và tình cảm của mình dành cho ba.

    Miêu tả những biến đổi tình cảm của bé Thu, tác giả đã một lần nữa tô đậm tình yêu thương ba của cô bé. Qua đó, ta thấy bé Thu bướng bỉnh, gan góc nhưng cũng rất giàu tình cảm.

2. Nhân vật ông Sáu

a. Trong ha ngày về phép thẫm nhà

- Trở về sau tám năm xa cách, bao nỗi nhớ thương khiến ông Sáu xúc động mãnh liệt.

+ Nôn nao trong lòng, không ghìm được xúc động khiến vết thẹo trên má đỏ ửng, giật giật, trông dễ sợ.

+ Ông háo hức, vội vã như không thể ghìm thêm giây phút nào: “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra... vội vàng với những bước chân dài”.

+ Ông kêu to hai tiếng thiêng liêng, thèm khát được gọi, được nghe bấy lâu nay: “Thu! Con”.

- Trước thái độ bất thường của con, ông rơi vào tâm trạng đau đớn, tủi hổ đến vô cùng: “anh đứng sững lại đó, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.

    Những từ miêu tả “đứng sũng lại’’, “mặt anh sầm lại’’“tay buông xuống như bị gãy” đã diễn tả được nỗi đau dường như quá lớn, quá sức chịu đựng với ông Sáu.

- Trong ba ngày phép, ông Sáu làm mọi cách để bé Thu thay đổi, kiên nhẫn chờ đợi tình cảm ở con.

+ Ông không đi đâu xa, mà luôn gần gũi, “lúc nào cũng vỗ về con”. Ông muốn bù đắp cho con suốt tám năm trời xa cách.

+ Ông không trách giận mà chỉ khe khè lắc đầu cười trước sự bướng bỉnh của con bé.

+ Thậm chí khi con bé từ chối một cách quyết liệt sự chăm sóc của ông, ông đau đớn đến độ không giữ được bình tĩnh mà đánh con một cái.

    Ông vô cùng dịu dàng, kiên nhẫn, khoan dung với con.

- Khi chia tay thì tình cảm cha con sâu nặng đà được bộc lộ rất xúc động:

+ Ông không dám lại gần con bé, “chỉ đứng nhìn nó,... với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu” cố gắng kìm giữ cái khát vọng được ôm con vào lòng.

+ Khi con bé nhận ông, ông “ghìm được xúc động và không muốn cho con nhìn thấy mình khóc, một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con”. Ông không muốn con bé trông thấy những giọt nước mắt yếu đuối của mình, đó cũng là những giọt nước mắt hạnh phúc ứa ra từ nỗi xúc động và thương con sâu sắc.

+ Ông hứa với con bé sẽ trở về với chiếc lược ngà tặng con.

    Tác giả đã tái hiện được tình cảm yêu thương con sâu sắc của ông Sáu, nó đã chiến thắng sự tàn bạo của chiến tranh, chiến thắng mọi biệt li, cách trở. Tình cảm ấy luôn vẹn nguyên, ấm áp và tràn đầy.

b. Khi ông Sáu trở lại chiến trường

- Ông luôn ân hận, khổ tâm vì nỡ trách phạt con.

- Ông dồn tất cả tình yêu và nỗi nhớ vào việc làm chiếc lược ngà tặng con.

+ Khi kiếm được khúc ngà, ông không gìm được xúc động, đã “hớn hở như một đứa trẻ được quà”.

+ Ông cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc.

+ Ông “tẩn mẩn” khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.

+ Những lúc nhớ con, ông lại mang cây lược ra ngắm và mài lên mái tóc cho cây lược thêm bóng.

    Ông Sáu đã dồn tất cả tình cảm của mình dành cho con vào việc làm chiếc lược ngà, dẫu cây lược đó chưa lần nào được chải trên mái tóc của bé Thu nhưng đã phần nào gỡ rối những mối tơ lòng, vơi đi nỗi dày vò ân hận và nuôi dưỡng khát vọng đoàn viên.

- Thậm chí, cái chết cũng không lấy đi được tình yêu con của ông Sáu.

+ Trong một trận càn, vết thương đã khiến ông kiệt sức, vậy mà ông vẫn dốc hết tàn lực, trao cây lược ngà cho đồng đội mang về cho bé Thu. Trong giây phút ấy, ông ủy thác, gửi gắm tất cả tình yêu, nỗi nhớ của mình qua ánh mắt.

+ Cây lược được trao tận tay cho bé Thu, điều đó cho thấy tình cha con đã không hề chết mà trở thành điểm tựa để nâng đỡ bé Thu trưởng thành.

    Ông Sáu trở thành một biểu tượng đẹp cho tình yêu thương; sự ân cần và che chở của người cha dành cho con mình, qua đó ta thấy được sự bất tử của tình cảm cha con. 

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Tái hiện thành công tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

- Lên án sự tàn bạo của chiến tranh.

- Qua đó cho thấy bi kịch, tình cảm đẹp của con người trong chiến tranh.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng được tình huống truyện éo le mà độc đáo.

- Ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật.

- Lối kể chuyện tự nhiên, giàu cảm xúc.

- Sáng tạo được những hình ảnh giản dị mà giàu sức gợi.

Văn bản 23: Bến quê 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Minh Châu (1932 - 1989), quê huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

- Ông thuộc thế hệ các nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

- Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền Văn học Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của ông được thể hiện rõ qua hai giai đoạn.

+ Trước 1975, với quan niệm con người mang vẻ đẹp của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nên những nhân vật, hình mẫu lí tưởng, đại diện cho vẻ đẹp của cộng đồng và mang tầm vóc lịch sử. 

+ Sau 1975, Nguyễn Minh Châu đã có những tìm tòi và đổi mới sâu sắc trong tư tưởng nghệ thuật và quan niệm về con người. Nhà văn đã xây dựng được những nhân vật ở góc độ đời sống riêng tư cá nhân với tính cách lưỡng diện, đa chiều, phức tạp của xã hội.

- Phong cách sáng tác: Có sự kết hợp hài hòa giữa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn; hình tượng nhân vật được soi thấu trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp; giọng điệu thì trầm tĩnh, khắc khoải.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Bến quê” được sáng tác năm 1985. Tác phẩm được coi như là một bản di chúc nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.

- Truyện được in trong tập truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh Châu.

b. Ý Nghĩa nhan đề

- “Bến quê” trước hết là một danh từ và mang đến nhiều lớp nghĩa.

+ Ở lớp nghĩa thực, nó là một bến sông gắn liền bãi bồi bên kia sông Hồng mà nhân vật Nhĩ nhìn thấy từ khung cửa sổ nhà mình.

+ Ở lớp nghĩa biểu tượng, nó ẩn dụ cho tất cả những gì gần gũi, bình dị, thân thương nhất trong cuộc đời của mỗi con người; cho những điều mà tâm hồn con người gắn bó, yêu thương.

c. Tóm tắt

    Nhĩ là người đã từng đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới nhưng cuối đời lại nằm liệt giường vì một căn bệnh hiểm nghèo. Anh không thể tự mình dịch chuyển lấy mười phân trên chiếc giường kế bên cửa sổ. Mọi sinh hoạt của bản thân anh phải bám níu với vợ con. Chính những lúc ấy, anh mới cảm nhận hết được nỗi vất vả và đức hi sinh của vợ.

    Vào một buổi sáng mùa thu, Nhĩ nhìn qua cửa số và phát hiện bãi bồi quen thuộc bên kia sông mang vẻ đẹp lạ kì mà anh chưa một lần sang thăm. Trong anh, bỗng bừng lên khao khát được đặt chân lên vùng đất ấy.

    Anh sai thằng Tuấn - con trai thay anh sang bên kia sông. Thế nhưng, thằng Tuấn lại mải sa vào đám cờ thế để lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Nhĩ cố sức đu mình, nhoài người, giơ cánh tay ra ngoài cửa sổ “khoát khoát” như ra hiệu một cách khẩn thiết cho một người nào đó đi nhanh kẻo lỡ chuyến đò.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện 

- Tác giả đã xây dựng được những tình huống trớ trêu và đầy nghịch lí.

+ Nhĩ vốn là người từng đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới, nhưng vào lúc cuối đời, căn bệnh quái ác đã trói buộc anh trên chiếc giường bệnh bên góc cửa sổ. Chính lúc đó, anh chợt nhận ra những vẻ đẹp giản dị, thiêng liêng tồn tại ngay bên cạnh, nhưng bỗng hóa xa xôi. Đó là một tình huống trớ trêu và đầy nghịch lí. 

+ Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông và khao khát được đặt chân lên đó, nhưng chính anh lại đang không thể thực hiện được những sinh hoạt cho dù nhỏ nhất của bản thân. Anh gửi gắm tất cả niềm khao khát ấy lên cậu con trai, nhưng vì ham chơi, Tuấn đã để lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày. Như vậy, tình huống nghịch lí thứ nhất đã đẩy nghịch lí thứ hai lên cao trào.

- Tình huống truyện mang tính nhận thức và triết lí sâu sắc.

+ Nhận thức về cuộc đời: Cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất ngờ, những điều nghịch lí ngẫu nhiên vượt ra ngoài những dự định, ước muốn, hiểu biết của con người.

+ Mở ra triết lí mang tính tổng kết của cuộc đời, qua những suy ngẫm của nhân vật: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được nhưng cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”, thường hướng đến những điều cao xa mà vô tình bỏ quên những vẻ đẹp gần gũi, giản dị mà đầy ý nghĩa ngay xung quanh mình.

2. Nhân vật Nhĩ

a. Những cảm nhận và phát hiện của Nhĩ về vẻ đẹp của thiên nhiên

- Nhĩ cảm nhận và phát hiện ra những vẻ đẹp của thiên nhiên khi anh đang ở trong một cảnh ngộ rất éo le:

+ Anh vốn từng ngang dọc nhiều nơi trên thế giới: “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”.

+ Cuộc sống hiện tại, vì căn bệnh hiểm nghèo khiến anh phải nằm liệt một chỗ, không thể tự mình di chuyển lấy vài phân. Và bằng trực quan, anh cảm nhận được thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu nữa.

    Hoàn cảnh ấy đã buộc Nhĩ phải sống chậm lại. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn để nhân vật bộc lộ những cảm nhận và suy nghĩ một cách tự nhiên.

- Nhĩ lần lượt phát hiện ra những vẻ đẹp xung quanh rất đỗi giản dị, gần gũi bằng một cảm xúc tinh tế.

+ Những chùm hoa bằng lăng bên cửa số lúc cuối mùa, đang thưa thớt và đậm sắc hơn.

+ Xa xa là dòng sông Hồng mang “một màu đỏ nhạt, mặt sông thì như rộng thêm ra”. 

+ Vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước”. 

+ Bãi bồi bên kia sông, cả một vùng phù sa đang phô ra màu vàng thau xen lẫn màu xanh non.

    Những phát hiện thiên nhiên được Nhĩ cảm nhận từ gần đến xa, từ thấp đến cao khiến cho cảnh thiên nhiên vừa có chiều rộng, lại vừa có chiều sâu.

    Không gian, cảnh sắc ấy vốn là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi, vậy mà bỗng trờ nên đẹp đẽ như một phát hiện, khám phá đặc biệt.

b. Những phát hiện của Nhĩ về con người và cuộc sống

- Bằng những linh cảm, trực giác, anh cảm nhận một cách rõ nét về quỹ thời gian còn lại của đời mình.

+ Anh thấy sắc màu của hoa bằng lăng trở thành một màu tím thẫm.

+ Anh hỏi Liên về tiếng lở đất ở dốc đứng của con sông khi con lũ dồn về.

- Nhĩ cảm nhận, thấu hiểu được biết bao phẩm chất tốt đẹp tiềm ẩn từ Liên.

+ Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp bình dị và mộc mạc của vợ qua “tấm áo vᔓnhững ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh”.

+ Anh cảm nhận được một người phụ nữ tần tảo và giàu đức hy sinh. Nhĩ nói viên Liên – “suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm... mà em vẫn nín thin”, Liên chỉ trả lời — “có sao đâu... miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này”.

+ Một người vợ đảm đang và quan tâm chồng hết mực: Liên chăm chút anh từ miếng ăn, ấm thuốc đến việc an ủi, động viên.

+ Nhĩ còn cảm nhận được một người vợ tinh tế và thấu hiểu chồng: Liên lảng tránh những câu hỏi của anh về bài đất lở, bởi chị hiểu những suy nghĩ, dự cảm không lành trong anh.

+ Một người phụ nữ giàu lòng vị tha và đức khiêm nhường qua bước chân rất nhẹ trên những bậc thang gỗ đã mòn lõm.

    Nhĩ đã cảm nhận và thấu hiểu một cách trọn vẹn những vất vả, nhọc nhằn, sự hi sinh thầm lặng của Liên. Từ đó, anh thêm trân trọng vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn và yêu thương vợ hơn.

- Nhĩ cũng cảm nhận tình làng, nghĩa xóm qua những nét đáng yêu của những đứa trẻ hàng xóm, tay “chua lòm mùi nước dưa"...

    Nguyễn Minh Châu đã để cho Nhĩ khám phá, phát hiện và cảm nhận những điều gần gũi, giản dị và thân thuộc với mình nhất, để cho anh tự nhận ra bến đậu bình yên của cuộc đời không phải tìm đâu nơi chân trời, góc bể mà chính là gia đình, là xóm làng, là quê hương.

- Nhĩ phát hiện ra ý nghĩa của bãi bồi bên kia sông.

+ Đó là một mảnh đất màu mờ, mang theo hơi thở của cuộc sống: "một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non - những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thơ của đất màu mỡ".

+ Là hiện thân cho tất cả những điều bình thường, gần gũi nhưng bỗng chốc trở nên xa xôi: "một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến”.

+ Từ những phát hiện đó, anh khao khát được một lần đặt chân lên bãi bồi song vấp phải hàng loạt những nghịch lí: Nghịch lí đầu tiên là anh không còn khả năng, cơ hội để thực hiện khao khát kia của mình; Nghịch lí thứ hai là Nhĩ dồn ước mơ của mình vào cậu con trai, nhưng đứa con lại không hiểu được ước muốn của anh mà thực hiện một cách miễn cưỡng, rồi bị những trò chơi vô bổ cuốn đi và bỏ lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.

+ Nhĩ không trách con, bởi anh hiểu khi còn trẻ thì người ta thường bỏ qua và không nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống. Để qua đó anh đúc rút qui luật phổ biến của đời người: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được cái vòng vèo hoặc chùng chình”.

    Nguyễn Minh Châu đã xây dựng rất thành công nhân vật Nhĩ. Anh là một nhân vật tư tưởng của tác phẩm để nhà văn để gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, hãy tránh xa những cái vòng vèo, chùng chình để tìm về với bến quê đích thực.

3. Những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng

Trong truyện, có rất nhiều những hình ảnh được miêu tả mang hai lớp nghĩa, đó là lớp nghĩa thực và lớp nghĩa biểu tượng.

- Hình ảnh bãi bồi: “màu vàng thau xen với màu xanh non — những màu sắc tha thuộc quả như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực khung cảnh thiên nhiên với đất đai màu mỡ.

+ Lóp nghĩa biểu tượng: Đó là vẻ đẹp gần gũi, thân thuộc để biểu tượng cho một bến sông quê hay rộng hơn chính là quê hương, xứ sở.

- Hình ảnh bông hoa bằng lăng lúc cuối mùa: “hoa đã vẫn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn”; “những cánh hoa bằng lăng càng thâm màu hơn - một màu tím thẳm như bóng tối”

+ Lóp nghĩa thực: Tả thực những bông hoa bằng lăng với những sắc màu đặc trưng lúc cuối mùa.

+ Lóp nghĩa biếu tượng: Biểu tượng cho bước đi của không gian và thời gian và cho biết sự sống của Nhĩ đang ở vào những ngày cuối cùng.

- Hình ảnh của một bờ đất lơ: “một cái bờ đất lở dốc đứng của bờ bên này, và đêm đêm cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đá đổ òa vào giấc ngủ”.

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực sự dữ dội, chảy xiết của những cơn lũ đầu nguồn mỗi khi bão về với sức công phá ghê gớm.

+ Lớp nghĩa biểu tượng: Biểu tượng cho sự sống của Nhĩ đang vào giai đoạn lụi tàn.

- Hình ảnh của Nhĩ với những hành động và cử chỉ lúc cuối truyện: “mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long lanh chứa một nỗi mê say đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”.

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực một sự cố gắng, nôn nóng, thúc giục của Nhĩ với thân tàn, lực kiệt để báo hiệu với một ai đó.

+ Lớp nghĩa biểu tượng: Biểu tượng cho sự thức tỉnh của nhân vật, Nhĩ đã khám phá ra được những vẻ đẹp bình dị, bền vững trong sự sống ở những giây phút cuối cùng.

    Những lớp nghĩa này gắn bó, thống nhất với nhau là một dụng ý nghệ thuật của tác giả để truyền tải chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu cho thấy những vẻ đẹp giản dị, gần gũi xung quanh chúng ta với những nghịch lí cuộc đời để từ đó gửi gắm những suy ngẫm, trải nghiệm của nhân vật về giá trị đích thực của gia đình và quê hương.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo và đầy nghịch lí.

- Hệ thống hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật giàu chất suy tư thể hiện rất rõ nội tâm của nhân vật Nhĩ.

Văn bản 24: Những ngôi sao xa xôi 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.

- Bà bắt đầu cầm bút từ những năm 1967 và trở thành nữ nhà văn chuyên viết về truyện ngắn.

- Lê Minh Khuê thuộc số ít các nhà văn đương đại Việt Nam có tác phẩm được chọn đưa vào chương trình sách giáo khoa.

- Những sáng tác của bà có sự chuyển biến rõ nét qua hai giai đoạn.

+ Trước 1975, hầu hết sáng tác của Lê Minh Khuê tập trung tái hiện cuộc chiến đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Họ là những con người tự nguyện dấn thân, tham gia cuộc chiến tranh ác liệt với tất cả sức mạnh của lí tưởng cách mạng.

+ Sau 1984, sáng tác của bà mới thực sự có sự chuyến biến trong đề tài và cảm hứng sáng tác, phản ánh đời sống xã hội và con người trên tinh thần đổi mới. Xuất hiện trong truyện ngắn của bà kiểu nhân vật cô đơn, tha hóa, nghịch dị.

- Phong cách sáng tác: Truyện ngắn của Lê Minh Khuê thể hiện một ngòi bút dung dị giàu nữ tính; một giọng điệu đa sắc thái: khi thì tự hào, ngợi ca, khi lại mỉa mai, châm biếm, lúc lại trữ tình, suy tư; ngôn ngữ mang màu sắc trong trẻo;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” là một trong những tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê được viết năm 1971. Đó là thời điếm mà cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt.

- Tác phẩm được đưa vào tuyến tập “Nghệ thuật truyện ngắn thế giới” và xuất bản ở Mĩ.

b. Ý Nghĩa nhan đề

- “Những ngôi sao xa xôi” vừa mang ý nghĩa cụ thể, vừa gợi đến ý nghĩa tượng trưng:

+ Nó gắn liền với hình dung, tưởng tượng của Phương Định về những ngọn đèn trên quảng trường thành phố. Và những ngọn đèn đó lung linh như những ngôi sao trong truyện cổ tích về xứ sở thần tiên chợt hiện lên trong cảm xúc của Phương Định.

+ “Những ngôi sao” thường nhỏ bé, không dễ nhận ra, và lại ở một vị trí xa xôi, vì thế nó đòi hỏi phải khám phá, kiếm tìm mới phát hiện được vẻ đẹp, sức cuốn hút của nó.

+ “Những ngôi sao” gợi vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, mơ mộng và lãng mạn của những thiếu nữ Hà Thành trẻ trung, xinh đẹp.

+ “Những ngôi sao xa xôi” là ước mơ, khát vọng về một cuộc sống hòa bình giữa khoảnh khắc bàng hoàng của bom đạn, chiến tranh, dường như trở nên xa xôi.

+ “Những ngôi sao” còn là biểu tượng cho vẻ đẹp sáng ngời của chú nghĩa anh hùng, cách mạng trong tâm hồn của những nữ thanh niên xung trên tuyến đường Trường Sơn nói riêng và chống Mĩ nói chung: lạc quan, yêu đời, dũng cảm, kiên cường,...

    “Những ngôi sao xa xôi” là một nhan đề đậm chất lãng mạn, đặc trưng cho văn học Việt Nam thời kì chống Mĩ cứu nước.

c. Tóm tắt

    “Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống, chiến đấu của ba cô thanh niên xung phong thuộc tổ trinh sát mặt đường: Phương Định, Nho và chị Thao. Họ sống trong một cái hang, dưới chân cao điểm. Công việc của họ là hàng ngày quan sát máy bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá để san lấp hố bom, đánh dấu những quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc vô cùng nguy hiểm, luôn phải đối mặt với cái chết, song họ vẫn bình tĩnh và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

    Công việc nguy hiểm là vậy nhưng họ vẫn lạc quan, hồn nhiên, mơ mộng và rất gắn bó, yêu thương nhau cho dù mỗi người một cá tính. Trong một lần phá bom, Nho bị thương, hai người đồng đội hết sức lo lắng và chăm sóc. Một cơn mưa đá vụt đến và vụt đi đã gợi trong lòng các cô gái sự tiếc nuối và biết bao nỗi niềm hoài niệm, khát khao.

d. Ngôi kể và tác dụng của ngôi kể

- Truyện được trần thuật theo ngôi kể thứ nhất. Người kể chuyện là nhân vật Phương Định. Đó là một điểm nhìn lí tưởng, phù hợp để miêu tả hiện thực cuộc chiến đấu ở một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực.

- Truyện viết về chiến tranh, những chi tiết bom đạn, chiến đấu, hy sinh là không thể thiếu nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội tâm để làm hiện lên vẻ đẹp trong tâm hồn của những nữ thanh niên xung phong. Tạo được hiệu quả như vậy là nhờ vào việc lựa chọn nhân vật kể chuyện là nhân vật Phương Định.

- Mặt khác, cách kể chuyện ở ngôi thứ nhất đã tạo ra sự gần gũi, thân mật giữa người kể và người đọc nên dễ dàng truyền tải nội dung.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Phương Định

a. Nữ thanh niên xung phong mang phẩm chất anh hùng 

- Phương Định đảm nhiệm một công việc vô cùng vất vả và nguy hiểm: Cô thuộc tổ trinh sát mặt đường trên tuyến đường Trường Sơn; "khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”.

- Quả cảm, kiên cường và giàu lòng yêu nước: Ba năm đảm nhiệm trên tuyến đường Trường Sơn, phải đảm nhận một công việc mà dầu đã làm bao nhiêu lần cũng không thể quen, vẫn luôn thấy căng thẳng đến mức "thần kinh căng như chão”"tim đập bất chấp cả nhịp điệu".

- Phẩm chất anh hùng của Phương Định được Lê Minh Khuê thử thách trong một lần phá bom nổ chậm. Cô đã thể hiện:

+ Có tinh thần trách nhiệm, quên mình vì công việc: “Tôi có nghĩ tới cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính: liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai?”

+ Bình tĩnh, tự tin chiến thắng nỗi sợ hãi của mình: Khi đến gần quả bom, cô không cúi khom mà đi thẳng người như một sự thách thức.

+ Dũng cảm, gan dạ đối đầu với những nguy hiểm: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt”, nhưng cô không hề bỏ cuộc.

    Phương Định là biểu tượng cho vẻ đẹp anh hùng, quả cảm, kiên cường của thế hệ nữ thanh niên xung phong thời chống Mĩ.

b. Một cô gái xinh đẹp, nhạy cảm và lãng mạn

- Những tưởng bom đạn, chiến tranh khiến cho tâm hồn, cảm xúc của những thanh niên xung phong trở nên chai sạn, thô ráp. Nhưng Phương Định vẫn hiện lên mang những nét đẹp trẻ trung và đầy nữ tính.

+ Cô quan tâm tới hình thức bên ngoài: Luôn chăm chút cho ngoại hình và rất tự hào về một đôi mắt có cái nhìn sao mà xa xăm.

+ Cô rất tự tin và tự hào về nét riêng của mình: Cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn và tự đánh giá về ngoại hình của mình, thấy bản thân mình là một cô gái khá.

+ Cô thích làm duyên và đắm mình trong những cảm xúc riêng tư: Thích ngắm mình trong gương và làm điệu trước các anh bộ đội.

- Cô cũng rất hồn nhiên, yêu đời và mang một tâm hồn mơ mộng:

+ Trong những khoảng thời gian không làm nhiệm vụ, cô thích hát để quên đi những căng thẳng và thêm yêu đời: Cứ thuộc một điệu nhạc nào đó là cô lại bịa lời bài hát để ngân nga.

+ Hồn nhiên, vui thích cuống cuồng trước một cơn mưa đá bất ngờ giữa rừng.

+ Thả hồn trong những kỉ niệm xa xôi: Cô nhớ về những căn nhà nhỏ bên quảng trường thành phố; những khung cửa sổ, những ngôi sao trên bầu trời Hà Nội,... Những kỉ niệm này đã nuôi dường, sưởi ấm tâm hồn cô trong cuộc chiến gian khổ và khốc liệt.

    Phương Định vào chiến trường ba năm, hàng ngày phải đối mặt với khó khăn gian khổ nhưng cô vẫn giữ gìn vẹn nguyên thế giới tâm hồn mình. Đó chính là biểu hiện của sức sống mãnh liệt của cô gái trẻ đất Hà Thành.

c. Gắn bó, yêu thương với tất cả đồng đội

+ Luôn quan tâm, lo lắng cho đồng đội: Khi đồng đội ở trên cao điểm, còn Phương Định trong hang để trực điện đài cô đã gắt với đội trưởng; sốt ruột chạy ra ngoài một tí;...

+ Yêu thương, chăm sóc chu đáo cho đồng đội như đứa em trong nhà: Cô bóc kẹo cho Nho ăn; khi Nho bị thương thì lo lắng, chăm sóc tận tình cho Nho và cảm thấy đau đớn như chính mình bị thương; chỉ muốn bế Nho ở trên tay.

+ Cô rất thấu hiểu những cảm xúc, tâm trạng chị Thao khi Nho bị thương, và coi chị như người chị cả trong gia đình.

    Lê Minh Khuê đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phương Định, một người thiếu nữ trẻ trung, mơ mộng giữa chiến tranh khốc liệt vẫn tràn đầy niềm tin yêu. Cô xứng đáng trở thành biểu tượng nữ anh hùng trong văn xuôi chống Mĩ.

2. Nhân vật chị Thao

- Chị Thao là tổ trưởng tổ trinh sát mặt đường. Khi làm nhiệm vụ, chị tỏ ra là một người điềm tĩnh, quyết đoán và rất táo bạo.

+ Trong những khoảnh khắc người khác có thế “thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu” nhưng chị bình tĩnh đến phát sợ: Khi sắp phải băng mình lên trên cao điểm chị vẫn bóc bánh quy để ăn ngon lành.

+ Trở về từ trận chiến dữ dội, ác liệt trên cao điểm, chị vẫn bình thản như không.

+ Trong mọi hoàn cảnh, chị luôn có những mệnh lệnh đầy quyết đoán: Khi có trận chiến, chị lệnh cho Phương Định ở lại hang để trực điện đài còn chị và Nho thì lên mặt đường; Lúc Nho bị thương, dù rất lo lắng, mặt tái đi, mắt mờ đi như không có sự sống nhưng chị không khóc;...

    Chị Thao là người bình tĩnh, cứng cỏi nhất của tổ trinh sát mặt đường.

- Bên ngoài công việc, chị còn hiện lên với một tâm hồn nhạy cảm, đầy nữ tính và giàu tình cảm.

+ Một tâm hồn lãng mạn, yêu ca hát: Chị hay hát dù rằng giọng chị rất chua và sai nhạc; Chị có ba quyển sổ dày để chép bài hát.

+ Như bao cô gái khác, chị cũng thích làm đẹp: lông mày của chị thì tỉa nhỏ như cái tăm; áo lót của chị thì cái nào cũng thêu chỉ màu.

+ Chị Thao cũng có những nỗi sợ hãi rất nữ tinh: rất sợ máu và sợ vắt.

+ Chị lo lắng, quan tâm cho những người đồng đội nhưng rất kín đáo: khi Nho bị thương mặt thì tái nhợt, mắt thì mờ trắng như không còn sự sống; chị cuống quýt quanh quẩn bên Nho;....

    Qua vẻ đẹp đầy nữ tính đà tạo nên chiều sâu tư tưởng cho nhân vật và đưa nhân vật trở nên gần gũi, sống động hơn, như một nữ anh hùng trong cuộc sống đời thường.

3. Nhân vật Nho

- Nho là người ít tuổi nhất trong tổ trinh sát mặt đường nên được các chị yêu chiều như một cô em út trong gia đình. Nhưng trong công việc, cô hiện lên thật cứng rắn, mạnh mẽ và can đảm.

+ Có tinh thần trách nhiệm, cứng rắn trong công việc: Cùng với các chị trong tổ trinh sát, cô dũng cảm đối mặt với đạn bom, khói lửa để hoàn thành công việc.

+ Cô cũng rất gan dạ, dũng cảm, kiên cường trước những khó khăn: Khi bị thương, dù áp lực của đạn bom khiến cho cô xanh tái đi và cảm thấy như không thở được nhưng cô không kêu rên một tiếng.

- Bên cạnh đó, Nho đã hiện lên với những nét rất đáng yêu.

+ Cô có cái cổ tròn, với những nét vẻ xinh xắn, nhỏ nhắn, dễ thương như một que kem trắng bé nhỏ, khiến cho Phương Định yêu thương muốn bế ở trên tay.

+ Nho rất hay vòi vĩnh, làm nũng các chị và hay đòi ăn kẹo.

    Dẫu ít tuổi nhất trong tổ trinh sát mặt đường, song Nho đã mang phẩm chất tốt đẹp và những cá tính riêng khó lẫn so với các chị.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Trong truyện ngăn “Những ngôi sao xa xôi”, Lê Minh Khuê đã khắc họa thành công những nữ thanh niên xung phong trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Với những phẩm chất anh hùng, cách mạng, họ xứng đáng trở thành biểu tượng cho thế hệ vàng của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.

2. Nghệ thuật

- Nghệ thuật miêu tả nhân vật, đặc biệt là ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật.

- Ngôn ngữ trần thuật rất phù hợp với nhân vật.

- Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập gợi không khí ác liệt của chiến trường.

Xem thêm các tài liệu Văn ôn thi vào lớp 10 năm 2024 hay khác:

Đã có lời giải bài tập lớp 10 sách mới: