Ôn thi vào lớp 10 Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga năm 2024

Nhằm mục đích giúp học sinh nắm chắc kiến thức môn Ngữ văn lớp 9 để chuẩn bị tốt cho kì thi vào lớp 10 năm 2024, VietJack tổng hợp toàn bộ nội dung trọng tâm của tác phẩm Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga đầy đủ, chi tiết.

Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm.

1. Tác giả

- Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), sinh ra ở làng Tân Thới, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định.

- Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu có nhiều đau khổ, bất hạnh:

+ Sinh ra là một cậu ấm con quan, song chẳng bao lâu thì cha bị cách chức, tuổi thơ sớm phải lận đận.

+ Năm hai sáu tuổi, ông bị mù, khiến đường công danh nghẽn lối, đường tình duyên trắc trở. Bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ tan vỡ, ông về quê dạy học, làm thuốc và sống cảnh nghèo nàn, thanh bạch.

- Ông là người có nghị lực sống phi thường, không chịu gục ngã trước số phận oan nghiệt. Ông can đảm ghé vai nhiều trọng trách:

+ Là một thầy thuốc, ông không tiếc sức mình cứu nhân độ thế.

+ Là một thầy giáo, ông đặt việc dạy người cao hơn dạy chữ và danh tiếng cụ đồ Chiểu vang khắp miền lục tỉnh.

+ Là một nhà thơ, Nguyễn Đình Chiểu để lại cho đời bao áng thơ bất hủ, hướng cho con người đến những giá trị chân - thiện - mĩ.

+ Là một nhà quân sự, ông tích cực tham gia kháng chiến với vai trò là người tham mưu và kiên quyết không bị giặc mua chuộc.

     Dù ở cương vị nào ông cũng làm việc hết mình và để lại một tấm gương sáng cho đời.

- Sự nghiệp văn học: Bao gồm hai đề tài chính:

+ Đề tài đạo lí: “Truyện Lục Văn Tiên ”, “Ngư tiều y thuật vấn đáp ”...

+ Đề tài yêu nước: “Chạy giặc”, “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc”, “Văn tế Trương Định”...

    Trong các nhà văn Việt Nam xưa và nay, Nguyễn Đình Chiểu là một trong những nhà văn có nhiều đau khổ, bất hạnh nhất nhưng ông đã sống một cuộc đời thanh bạch, cao cả, đầy nghị lực, khí phách và để lại cho đời một sự nghiệp văn chương có giá trị lớn.

2. Tác phẩm

a. Tóm tắt “Truyện Lục Vân Tiên”

    Lục Vân Tiên là con một gia đình thường dân ở quận Đông Thành. Chàng là một học trò nghèo khôi ngô, văn võ song toàn. Trên đường lên kinh dự thi, chàng đánh tan bọn cướp và cứu Kiều Nguyệt Nga.

    Cảm ân cứu mạng, Nguyệt Nga đã tay vẽ một bức chân dung chàng và luôn giữ bên mình. Sau đó Nguyệt Nga theo cha về quê, còn Vân Tiên ghé thăm gia đình Võ Công là người đã hứa gả con gái cho chàng và gặp những người bạn tốt là Hớn Minh, Vương Tử Trực, những kẻ xấu là Trịnh Hâm và Bùi Kiệm.

    Sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất liền vội vã bỏ thi về chịu tang. Chàng quá khóc thương mẹ đến nỗi mù cả hai mắt. Sau đó chàng bị bọn lang băm, phù thủy lừa gạt lấy hết tiền, bị Trịnh Hâm đẩy xuống sông nhưng được con Gia Long và vợ chồng Ngư Ông cứu giúp.

    Vân Tiên tìm đến nhà Võ Công thì bị từ hôn và bị bỏ vào hang sâu. Vân Tiên lại được thần núi và ông Tiên cứu giúp, rồi chàng lại được gặp Hớn Minh vì chống cường quyền phải bỏ chốn vào rừng. Họ sống với nhau trong một ngôi chùa.

    Về phần Kiều Nguyệt Nga, từ ngày được Vân Tiên cứu khỏi tay bọn cướp đã tự thề nguyện thủy chung, gắn bó với chàng. Cho nên, khi quan Thái sư trong triều muốn hỏi nàng cho con trai hắn thì nàng đã từ chối, để rồi bị bắt đi cống giặc Ô Qua. Vì thế, Kiều Nguyệt Nga nhảy xuống sông tự vẫn nhưng nàng được Phật bà quan âm cứu giúp rồi trôi dạt vào vườn nhà Bùi Kiệm. Bùi Kiệm ép nàng lấy hắn nhưng nàng bỏ trốn và được một bà lão trong rừng đưa về nuôi.

    Lại nói về Vân Tiên ở chùa với Hớn Minh, nhờ thuốc tiên lại sáng mắt ra. Chàng trở về quê nhà, gặp gia đình mình và gia đình Kiều Nguyệt Nga. Rồi chàng đỗ Trạng nguyên và được nhà vua cử đi dẹp giặc Ô Qua. Thắng trận trở về, chàng gặp lại Kiều Nguyệt Nga. Từ đấy hai người nên duyên vợ chồng sống một cuộc đời hạnh phúc. Còn bọn giặc ác đều bị trừng trị.

b. Kết cấu của truyện

- Truyện có kết cấu theo kiểu truyền thống của loại truyện Phương Đông, xoay quanh cuộc đời nhân vật chính là Lục Vân Tiên.

- Kết cấu có tinh ước lệ: Người tốt thường gặp nhiều gian truân, trắc trở, bị kẻ xấu hãm hại, lừa gạt. Nhưng họ vẫn được phù trợ, cưu mang (nhờ người hoặc thần linh), cuối cùng được đền trả xứng đáng, còn kẻ xấu bị trừng trị.

    Kiểu kết cấu này vừa phản ánh chân thực cuộc đời vốn đầy rẫy những bất công, vô lí; vừa nói lên khát vọng ngàn đời của nhân dân: Thiện thắng ác, ở hiền thì gặp lành.

c. Xuất xứ đoạn trích

- Vị trí đoạn trích: Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” nằm ở phần đầu “Truyện Lục Vân Tiên”

- Tác phẩm được viết khoảng đầu những năm 50 của thế kỉ XIX, dài hơn hai nghìn câu thơ (2082) được viết theo thể thơ lục bát.

- Nội dung của truyện nhằm truyền dạy những đạo lí tốt đẹp để làm người:

+ Đề cao tình nghĩa giữa con người với con người trong xã hội: tình cảm vợ chồng, tình nghĩa anh em, tình cảm bạn bè,...

+ Nêu cao tinh thần hiệp nghĩa, sẵn sàng cứu khổ phò nguy.

+ Thể hiện khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng và nhưng điều tốt đẹp trong cuộc đời: Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, thiện thắng ác, chính nghĩa thắng gian tà,...

- Đặc điểm thể loại: Đây là truyện thơ Nôm mang tính chất truyện để kể hơn để đọc, để xem. Vì thế, nó dễ biến thành những hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian như “kể thơ”, “nói thơ”, “hát”. Nó chú trọng hành động của nhân vật hơn là nội tâm.

d. Bố cục: Hai phần

- Phần một: 14 câu đầu: Lục Vân Tiên đánh cướp Phong Lai để cứu Kiều Nguyệt Nga.

- Phần hai: Còn lại: Cuộc chuyện trò giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.

I. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Lục Vân Tiên

- Nhân vật Lục Vân Tiên được khắc họa theo mô típ của truyện Nôm truyền thống: Một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, tài giỏi, nghĩa hiệp ra tay giải cứu cho một cô gái xinh đẹp thoát nạn, rồi từ ân nghĩa đến tình yêu.

    Mô típ này thể hiện khát vọng, mong ước của nhân dân và tác giả về một xã hội có những con người tài đức, luôn sẵn sàng ra tay giúp người, giúp đời.

a. Khi đánh cướp Phong Lai

• Như một vị hảo hán mang tinh thần nghĩa hiệp:

“Vân Tiên ghé lại bên đàng

Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.

Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ!

Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”

- Hành động “ghé lại bên đàng" cho thấy chàng không băn khoăn, do dự khi đánh cướp Phong Lai. Nó phù hợp với tinh thần hăm hở của chàng trai trẻ vừa rời ghế nhà trường muốn lập công danh, thi thố tài năng để giúp đời, giúp người. Gặp bọn cướp Phong Lai là một thử thách, song là một cơ hội cho chàng hành động.

- Hành động gan góc, mau lẹ “bẻ cây làm gậy” chứng tỏ chàng không màng an nguy của bản thân.

- Hành động nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên được xuất phát:

+ Từ tinh thần chính trực, thái độ bất bình, trước những điều xấu xa, tàn ác.

+ Từ tấm lòng nhân nghĩa, giàu tình yêu thương, luôn sẵn sàng bênh vực cho những kẻ yếu đuối và bảo vệ cho lẽ phải.

• Một vị anh hùng quả cảm có võ nghệ cao cường:

“Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:

Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây

Trước gây việc dữ tại mầy

Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng

Vân Tiên tả đột hữu xông,

Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.”

- Nguyễn Đình Chiểu đã đặt chàng vào một trận đánh không cân sức: một bên là tướng cướp hùng hổ, hung dữ, đông đúc, được trang bị đầy đủ vũ khí với một bên là thân cô, thế cô.

    Nghệ thuật tương phản đã được tác giả sử dụng để tô đậm sự quả cảm của Lục Vân Tiên.

- Hình ảnh Lục Vân Tiên xung trận được miên tả như một dũng tướng với khí thế áp đảo:

+ Cụm từ “tả đột hữu xông”, rất giàu giá trị tạo hình, cho thấy chàng đang làm chủ tình thế và tung hoành giữa đáng cướp.

+ Tác giả so sánh Lục Vân Tiên với một chiến tướng vào loại bậc nhất trong Tam Quốc là Triệu Tử Long.

+ Nhịp điệu thơ nhanh, mạnh đã tạo nên cho trận đánh một khí thế hào hùng, sôi động.

    Lục Vân Tiên mang tầm vóc của người anh hùng mạnh mẽ, phi thường.

- Cuối cùng, chàng đã giành được chiến thắng vẻ vang trước đả cướp Phong Lai:

“Lâu la bốn phía vỡ tan

Đều quăng gươm giảo tìm đàng chạy ngay

Phong Lai trở chẳng kịp tay

Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.”

+ Chính nghĩa đã chiến thắng, cả một đảng cướp vỡ tan, hoảng sợ bỏ chạy.

+ Tướng cướp Phong Lai “trở chẳng kịp tay” bỏ mạng dưới cây gậy của người anh hùng.

    Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh kết tinh của nhân dân, của chính nghĩa nên nó chiến thắng tuyệt đối.

    Hành động mạnh mẽ của Vân Tiên thể hiện được khát vọng của nhân dân về một người anh hùng có sức mạnh phi thường, võ nghệ cao cường luôn bênh vực kẻ yếu, chiến thắng thế lực tàn bạo

b. Khi trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga

- Lục Vân Tiên thế hiện là một con người giàu lòng nhân hậu:

Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,

Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe nầy?”

+ Chàng tìm cách trấn an nỗi sợ hãi của họ bằng cách khẳng định lũ cướp đã bị tiêu diệt.

+ Sau đó, chàng hỏi han rất ân cần và khiêm nhường để họ vơi đi nỗi sợ hãi.

- Một con người biết trọng lễ nghĩa qua lối ứng xử và xưng hô:

“Khoan khoan ngồi đó chớ ra

Nàng là phận gái, ta là phận trai.”

+ Đàng hoàng, chững chạc một mực giữ gìn lễ nghĩa, khuôn phép của xã hội phong kiến khi khuyên Kiều Nguyệt Nga không xuống xe.

+ Lối xưng hô “nàng” - “ta” cho thấy tấm lòng trân trọng mà Lục Vân Tiên dành cho Kiều Nguyệt Nga, cũng như thái độ lịch sự của một con người có học, có đọc sách thánh hiền.

- Một con người hào hiệp, nghĩa khí, chính trực:

Vân Tiên nghe nói liên cười:

“Làm ơn há để trông người trả ơn

Nay đã rõ đặng nguồn cơn

Nào ai tính thiệt so hơn làm gì

Nhớ câu kiến nghĩa bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”

+ Thể hiện qua tiếng cười rất vô tư, sảng khoái khi nghe Kiều Nguyệt Nga nói đến ơn huệ. Nhưng Vân Tiên làm ơn không màng đến sự đền ơn.

+ Thể hiện trong quan niệm về người anh hùng của Lục Vân Tiên: Người anh hùng phải làm việc nghĩa như là lẽ tự nhiên của một con người chân chính.

Học đạo phái đi đôi với hành đạo. Đó là lối sống rất cao đẹp của Lục Vân Tiên.

    Lục Vân Tiên là một con người văn võ toàn tài, hào hiệp và nhân hậu. Chàng là hình mẫu trọn vẹn cho người quân tử trong xã hội phong kiến.

    Hình ảnh của Lục Vân Tiên là một hình ảnh đẹp, lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu gửi gắm niềm tin và mong ước của mình.

2. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga

a. Một tiểu thư khuê các, nề nếp, gia giáo và có học thức

- Thể hiện qua những lời giới thiệu về bản thân của nàng:

“Thưa rằng: “Tôi Kiều Nguyệt Nga

Con nầy tì tất tên là Kim Liên.

Quê nhà ở quận Tây Xuyên

Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.”

+ Nàng xuất thân trong một gia đình quyền quý, là tiểu thư khuê các, lá ngọc cành vàng, trâm anh thế phiệt - con quan tri phủ Hà Khê.

+ Lời giới thiệu rất đầy đủ, chân thành, không khoa trương, kênh kiệu đài các. Đã đáp ứng đầy đủ những lời thăm hỏi ân cần của Lục Vân Tiên, vừa bộc lộ chân thành niềm cảm kích, xúc động của mình.

- Thể hiện qua lối xưng hô của nàng với Lục Vân Tiên:

“Trước xe quân tử tạm ngôi

Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”

+ Cách xưng hô “quân tử’’, “tiện thiếp” kết hợp với hành động “lạy” và “thưa” cho thấy sự khiêm nhường, thùy mị, nết na.

+ Thể hiện sự thông minh, mực thước của nàng trong lời ăn tiếng nói.

- Thể hiện qua lời chia sẻ về hành động hiếu nghĩa nàng làm:

“Sai quân đem bức thơ về

Rước tôi qua đó định bề nghi gia

Làm con đâu dám cãi cha

Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành.”

+ Nàng không quản đường xa, thân gái dặm trường với bao nguy hiểm bất trắc, từ Tây Xuyên đến Hà Khê vì vâng theo lời cha để định bề nghi gia, nghi thất.

+ Nàng là người con hiếu thảo, sống đúng với khuôn phép gia đình và với lễ giáo phong kiến. Đó cũng chính là điểm gặp gỡ giữa nàng và Lục Vân Tiên.

    Kiều Nguyệt Nga để lại một ấn tượng tốt đẹp: thùy mị, nết na, gia giáo, thông minh, sắc sảo, có học thức.

b. Một con người có tấm lòng thủy chung, ân nghĩa

- Qua cử chỉ, lời nói với ân nhân cứu mạng:

“Trong xe chật hẹp khôn phô,

Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng.”

+ Mặc dù ý thức rất rõ về lễ giáo và hoàn cảnh của mình, song nàng vẫn định xuống xe để tạ ơn Lục Vân Tiên.

+ Nàng cất lên với những lời thật da diết, tha thiết: “cúi đầu trăm lạy”.

     Hành động đó đã phản chiếu tấm lòng sâu sắc của nàng dành cho Lục Vân Tiên.

- Trong lời cảm kích công lao cao cả của Lục Văn Tiên:

“Lâm nguy chăng gặp giải nguy

Tiết trăm năm cùng bỏ đi một hồi”

+ Trước hết, Vân Tiên đã giải vây để cứu mạng sống cho nàng.

+ Quan trọng hơn, Vân Tiên đã cứu được sự trong trắng và danh dự của nàng. 

    Ân nghĩa đó khiến nàng day dứt và không thể không báo đáp.

- Nàng băn khoăn tìm cách để trả ơn Lục Vân Tiên:

“Hà Khê qua đó cũng gần,

Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng

Gặp đây đương lúc giữa đàng

Của tiền chẳng có, bạc vàng thì không

Gẫm câu báo đức thù công

Lấy chi cho phí tâm lòng cùng ngươi.”

+ Nàng mời Lục Vân Tiên về Hà Khê để cha mình tạ ơn.

+ Nàng ý thức rằng: không gì có thể sánh bằng công ơn của Lục Vân Tiên. Bởi Nguyệt Nga là người rất coi trọng tình nghĩa và coi tình nghĩa là vô giá.

    Kiều Nguyệt Nga kết tinh cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ truyền thống. Nàng không chỉ gia giáo, nết na, có học thức mà còn rất đằm thắm nghĩa tình, cư xử có trước có sau. Bởi thế, nàng đã nguyện gắn bó cuộc đời với chàng để giữ trọn tấm lòng ân nghĩa thủy chung.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của nhân dân và tác giả. Đồng thời, đã khắc họa thành công những phẩm chất đẹp đẽ của hai nhân vật: Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.

2. Nghệ thuật

- Nhân vật được miêu tả qua hành động, cử chỉ, lời nói, ít khắc họa ngoại hình, cũng ít đi sâu vào diễn biến nội tâm, mang tính chất của văn học dân gian.

- Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị, gần với lời ăn tiếng nói thường ngày và mang tính chất địa phương Nam Bộ; phù hợp với ngôn ngữ người kể chuyện: ngôn ngữ thơ đa dạng, phù hợp với diễn biến tình tiết và tính cách nhân vật.

Xem thêm các tài liệu Văn ôn thi vào lớp 10 năm 2024 hay khác:

Lời giải bài tập lớp 10 sách mới:


Đề thi, giáo án lớp 9 sách mới các môn học