Ôn thi vào lớp 10 Bến quê năm 2024

Nhằm mục đích giúp học sinh nắm chắc kiến thức môn Ngữ văn lớp 9 để chuẩn bị tốt cho kì thi vào lớp 10 năm 2024, VietJack tổng hợp toàn bộ nội dung trọng tâm của tác phẩm Bến quê đầy đủ, chi tiết.

Truyện ngắn Bến quê 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Minh Châu (1932 - 1989), quê huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

- Ông thuộc thế hệ các nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

- Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền Văn học Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của ông được thể hiện rõ qua hai giai đoạn.

+ Trước 1975, với quan niệm con người mang vẻ đẹp của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nên những nhân vật, hình mẫu lí tưởng, đại diện cho vẻ đẹp của cộng đồng và mang tầm vóc lịch sử. 

+ Sau 1975, Nguyễn Minh Châu đã có những tìm tòi và đổi mới sâu sắc trong tư tưởng nghệ thuật và quan niệm về con người. Nhà văn đã xây dựng được những nhân vật ở góc độ đời sống riêng tư cá nhân với tính cách lưỡng diện, đa chiều, phức tạp của xã hội.

- Phong cách sáng tác: Có sự kết hợp hài hòa giữa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn; hình tượng nhân vật được soi thấu trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp; giọng điệu thì trầm tĩnh, khắc khoải.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Bến quê” được sáng tác năm 1985. Tác phẩm được coi như là một bản di chúc nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.

- Truyện được in trong tập truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh Châu.

b. Ý Nghĩa nhan đề

- “Bến quê” trước hết là một danh từ và mang đến nhiều lớp nghĩa.

+ Ở lớp nghĩa thực, nó là một bến sông gắn liền bãi bồi bên kia sông Hồng mà nhân vật Nhĩ nhìn thấy từ khung cửa sổ nhà mình.

+ Ở lớp nghĩa biểu tượng, nó ẩn dụ cho tất cả những gì gần gũi, bình dị, thân thương nhất trong cuộc đời của mỗi con người; cho những điều mà tâm hồn con người gắn bó, yêu thương.

c. Tóm tắt

    Nhĩ là người đã từng đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới nhưng cuối đời lại nằm liệt giường vì một căn bệnh hiểm nghèo. Anh không thể tự mình dịch chuyển lấy mười phân trên chiếc giường kế bên cửa sổ. Mọi sinh hoạt của bản thân anh phải bám níu với vợ con. Chính những lúc ấy, anh mới cảm nhận hết được nỗi vất vả và đức hi sinh của vợ.

    Vào một buổi sáng mùa thu, Nhĩ nhìn qua cửa số và phát hiện bãi bồi quen thuộc bên kia sông mang vẻ đẹp lạ kì mà anh chưa một lần sang thăm. Trong anh, bỗng bừng lên khao khát được đặt chân lên vùng đất ấy.

    Anh sai thằng Tuấn - con trai thay anh sang bên kia sông. Thế nhưng, thằng Tuấn lại mải sa vào đám cờ thế để lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Nhĩ cố sức đu mình, nhoài người, giơ cánh tay ra ngoài cửa sổ “khoát khoát” như ra hiệu một cách khẩn thiết cho một người nào đó đi nhanh kẻo lỡ chuyến đò.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện 

- Tác giả đã xây dựng được những tình huống trớ trêu và đầy nghịch lí.

+ Nhĩ vốn là người từng đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới, nhưng vào lúc cuối đời, căn bệnh quái ác đã trói buộc anh trên chiếc giường bệnh bên góc cửa sổ. Chính lúc đó, anh chợt nhận ra những vẻ đẹp giản dị, thiêng liêng tồn tại ngay bên cạnh, nhưng bỗng hóa xa xôi. Đó là một tình huống trớ trêu và đầy nghịch lí. 

+ Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông và khao khát được đặt chân lên đó, nhưng chính anh lại đang không thể thực hiện được những sinh hoạt cho dù nhỏ nhất của bản thân. Anh gửi gắm tất cả niềm khao khát ấy lên cậu con trai, nhưng vì ham chơi, Tuấn đã để lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày. Như vậy, tình huống nghịch lí thứ nhất đã đẩy nghịch lí thứ hai lên cao trào.

- Tình huống truyện mang tính nhận thức và triết lí sâu sắc.

+ Nhận thức về cuộc đời: Cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất ngờ, những điều nghịch lí ngẫu nhiên vượt ra ngoài những dự định, ước muốn, hiểu biết của con người.

+ Mở ra triết lí mang tính tổng kết của cuộc đời, qua những suy ngẫm của nhân vật: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được nhưng cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”, thường hướng đến những điều cao xa mà vô tình bỏ quên những vẻ đẹp gần gũi, giản dị mà đầy ý nghĩa ngay xung quanh mình.

2. Nhân vật Nhĩ

a. Những cảm nhận và phát hiện của Nhĩ về vẻ đẹp của thiên nhiên

- Nhĩ cảm nhận và phát hiện ra những vẻ đẹp của thiên nhiên khi anh đang ở trong một cảnh ngộ rất éo le:

+ Anh vốn từng ngang dọc nhiều nơi trên thế giới: “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”.

+ Cuộc sống hiện tại, vì căn bệnh hiểm nghèo khiến anh phải nằm liệt một chỗ, không thể tự mình di chuyển lấy vài phân. Và bằng trực quan, anh cảm nhận được thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu nữa.

    Hoàn cảnh ấy đã buộc Nhĩ phải sống chậm lại. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn để nhân vật bộc lộ những cảm nhận và suy nghĩ một cách tự nhiên.

- Nhĩ lần lượt phát hiện ra những vẻ đẹp xung quanh rất đỗi giản dị, gần gũi bằng một cảm xúc tinh tế.

+ Những chùm hoa bằng lăng bên cửa số lúc cuối mùa, đang thưa thớt và đậm sắc hơn.

+ Xa xa là dòng sông Hồng mang “một màu đỏ nhạt, mặt sông thì như rộng thêm ra”. 

+ Vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước”. 

+ Bãi bồi bên kia sông, cả một vùng phù sa đang phô ra màu vàng thau xen lẫn màu xanh non.

    Những phát hiện thiên nhiên được Nhĩ cảm nhận từ gần đến xa, từ thấp đến cao khiến cho cảnh thiên nhiên vừa có chiều rộng, lại vừa có chiều sâu.

    Không gian, cảnh sắc ấy vốn là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi, vậy mà bỗng trờ nên đẹp đẽ như một phát hiện, khám phá đặc biệt.

b. Những phát hiện của Nhĩ về con người và cuộc sống

- Bằng những linh cảm, trực giác, anh cảm nhận một cách rõ nét về quỹ thời gian còn lại của đời mình.

+ Anh thấy sắc màu của hoa bằng lăng trở thành một màu tím thẫm.

+ Anh hỏi Liên về tiếng lở đất ở dốc đứng của con sông khi con lũ dồn về.

- Nhĩ cảm nhận, thấu hiểu được biết bao phẩm chất tốt đẹp tiềm ẩn từ Liên.

+ Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp bình dị và mộc mạc của vợ qua “tấm áo vᔓnhững ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh”.

+ Anh cảm nhận được một người phụ nữ tần tảo và giàu đức hy sinh. Nhĩ nói viên Liên – “suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm... mà em vẫn nín thin”, Liên chỉ trả lời — “có sao đâu... miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này”.

+ Một người vợ đảm đang và quan tâm chồng hết mực: Liên chăm chút anh từ miếng ăn, ấm thuốc đến việc an ủi, động viên.

+ Nhĩ còn cảm nhận được một người vợ tinh tế và thấu hiểu chồng: Liên lảng tránh những câu hỏi của anh về bài đất lở, bởi chị hiểu những suy nghĩ, dự cảm không lành trong anh.

+ Một người phụ nữ giàu lòng vị tha và đức khiêm nhường qua bước chân rất nhẹ trên những bậc thang gỗ đã mòn lõm.

    Nhĩ đã cảm nhận và thấu hiểu một cách trọn vẹn những vất vả, nhọc nhằn, sự hi sinh thầm lặng của Liên. Từ đó, anh thêm trân trọng vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn và yêu thương vợ hơn.

- Nhĩ cũng cảm nhận tình làng, nghĩa xóm qua những nét đáng yêu của những đứa trẻ hàng xóm, tay “chua lòm mùi nước dưa"...

    Nguyễn Minh Châu đã để cho Nhĩ khám phá, phát hiện và cảm nhận những điều gần gũi, giản dị và thân thuộc với mình nhất, để cho anh tự nhận ra bến đậu bình yên của cuộc đời không phải tìm đâu nơi chân trời, góc bể mà chính là gia đình, là xóm làng, là quê hương.

- Nhĩ phát hiện ra ý nghĩa của bãi bồi bên kia sông.

+ Đó là một mảnh đất màu mờ, mang theo hơi thở của cuộc sống: "một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non - những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thơ của đất màu mỡ".

+ Là hiện thân cho tất cả những điều bình thường, gần gũi nhưng bỗng chốc trở nên xa xôi: "một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến”.

+ Từ những phát hiện đó, anh khao khát được một lần đặt chân lên bãi bồi song vấp phải hàng loạt những nghịch lí: Nghịch lí đầu tiên là anh không còn khả năng, cơ hội để thực hiện khao khát kia của mình; Nghịch lí thứ hai là Nhĩ dồn ước mơ của mình vào cậu con trai, nhưng đứa con lại không hiểu được ước muốn của anh mà thực hiện một cách miễn cưỡng, rồi bị những trò chơi vô bổ cuốn đi và bỏ lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.

+ Nhĩ không trách con, bởi anh hiểu khi còn trẻ thì người ta thường bỏ qua và không nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống. Để qua đó anh đúc rút qui luật phổ biến của đời người: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được cái vòng vèo hoặc chùng chình”.

    Nguyễn Minh Châu đã xây dựng rất thành công nhân vật Nhĩ. Anh là một nhân vật tư tưởng của tác phẩm để nhà văn để gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, hãy tránh xa những cái vòng vèo, chùng chình để tìm về với bến quê đích thực.

3. Những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng

Trong truyện, có rất nhiều những hình ảnh được miêu tả mang hai lớp nghĩa, đó là lớp nghĩa thực và lớp nghĩa biểu tượng.

- Hình ảnh bãi bồi: “màu vàng thau xen với màu xanh non — những màu sắc tha thuộc quả như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực khung cảnh thiên nhiên với đất đai màu mỡ.

+ Lóp nghĩa biểu tượng: Đó là vẻ đẹp gần gũi, thân thuộc để biểu tượng cho một bến sông quê hay rộng hơn chính là quê hương, xứ sở.

- Hình ảnh bông hoa bằng lăng lúc cuối mùa: “hoa đã vẫn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn”; “những cánh hoa bằng lăng càng thâm màu hơn - một màu tím thẳm như bóng tối”

+ Lóp nghĩa thực: Tả thực những bông hoa bằng lăng với những sắc màu đặc trưng lúc cuối mùa.

+ Lóp nghĩa biếu tượng: Biểu tượng cho bước đi của không gian và thời gian và cho biết sự sống của Nhĩ đang ở vào những ngày cuối cùng.

- Hình ảnh của một bờ đất lơ: “một cái bờ đất lở dốc đứng của bờ bên này, và đêm đêm cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đá đổ òa vào giấc ngủ”.

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực sự dữ dội, chảy xiết của những cơn lũ đầu nguồn mỗi khi bão về với sức công phá ghê gớm.

+ Lớp nghĩa biểu tượng: Biểu tượng cho sự sống của Nhĩ đang vào giai đoạn lụi tàn.

- Hình ảnh của Nhĩ với những hành động và cử chỉ lúc cuối truyện: “mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long lanh chứa một nỗi mê say đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”.

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực một sự cố gắng, nôn nóng, thúc giục của Nhĩ với thân tàn, lực kiệt để báo hiệu với một ai đó.

+ Lớp nghĩa biểu tượng: Biểu tượng cho sự thức tỉnh của nhân vật, Nhĩ đã khám phá ra được những vẻ đẹp bình dị, bền vững trong sự sống ở những giây phút cuối cùng.

    Những lớp nghĩa này gắn bó, thống nhất với nhau là một dụng ý nghệ thuật của tác giả để truyền tải chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu cho thấy những vẻ đẹp giản dị, gần gũi xung quanh chúng ta với những nghịch lí cuộc đời để từ đó gửi gắm những suy ngẫm, trải nghiệm của nhân vật về giá trị đích thực của gia đình và quê hương.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo và đầy nghịch lí.

- Hệ thống hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật giàu chất suy tư thể hiện rất rõ nội tâm của nhân vật Nhĩ.

Xem thêm các tài liệu Văn ôn thi vào lớp 10 năm 2024 hay khác:

Đã có lời giải bài tập lớp 10 sách mới: