8 tác phẩm Truyện quan trọng ôn thi vào 10 môn Văn năm 2024

Tài liệu ôn thi vào lớp 10 môn Ngữ Văn phần truyện giới thiệu tới các em nội dung chính, những kiến thức cơ bản trọng tâm nhất của các tác phẩm văn xuôi quan trọng thời kì trung đại và hiện đại. Hi vọng với tài liệu Ngữ văn này sẽ giúp các em học sinh ôn tập và củng cố kiến thức hiệu quả môn Ngữ văn 9 phần truyện, từ đó chuẩn bị tốt nhất cho kì thi vào lớp 10 sắp tới.

A. Các văn bản truyện trọng tâm ôn thi vào lớp 10 


TRUYỆN

Trung đại

Chuyện người con gái Nam Xương

Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh

Hoàng Lê nhất thống chí

Hiện đại

Làng

Lặng lẽ Sa Pa

Chiếc lược ngà

Bến quê

Những ngôi sao xa xôi

B. Nội dung  

Văn bản 1: Chuyện người con gái Nam Xương 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, khi triều đình nhà Lê bắt đầu rơi vào khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền binh và gây ra những cuộc nội chiến kéo dài.

- Quê ở Trường Tân - Thanh Miện - Hải Dương.

- Về con người:

+ Nguyễn Dữ nổi tiếng là con người học rộng tài cao. Ông là học trò xuất sắc nhất của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm.

+ Là một “kẻ sĩ” có nhân cách cao thượng. Chứng kiến những mục nát của chế độ đương triều, ông chỉ làm quan có một năm rồi lui về sống ẩn dật, viết sách và phụng dưỡng mẹ già.

+ Dù vậy, qua các sáng tác, ông vẫn tỏ ra là một người luôn đau đáu đến vận mệnh của giang sơn xã tắc.

2. Tác phẩm

a. Thể loại - nguồn gốc xuất xứ

- Truyện truyền kì:

+ Là loại văn xuôi tự sự có nguồn gốc từ Trung Quốc và thịnh hành từ thời Đường. 

+ Truyện truyền kì thường mô phỏng những cắt truyện từ dân gian hoặc dã sử. Sau đó được tác giả sắp xếp lại tình tiết, bồi đắp thêm cho đời sống các nhân vật, đặc biệt là xen kẽ các yếu tố kì ảo...

- Truyện “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ:

+ Truyện ra đời vào khoảng đầu thế kỉ XVI, đó là thời kì xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong: những mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ.

+ “Truyền kì mạn lục” gồm 20 truyện, ghi chép lại những câu chuyện được lưu truyền tản mạn trong dân gian và thường có yếu tố kì ảo, đề tài phong phú.

+ Truyện mang đậm giá trị nhân văn và được đánh giá là áng “thiên cổ tùy bút” (tức áng văn hay ngàn đời).

- Chuyện người con gái Nam Xương:

+ Xuất xứ: là thiên truyện thứ 16 trong 20 thiên truyện của “Truyền kì mạn lục”. 

+ Nguồn gốc: truyện viết bằng chữ Hán, có nguồn gốc từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”, sau đó được Nguyễn Dữ tái tạo, sắp xếp lại một số tình tiết và thêm vào yếu tố kì ảo.

+ Ngôi kể: truyện được kể theo ngôi thứ 3.

b. Phương thức biểu đạt: Tự sự có kết hợp yếu tố biểu cảm.

c. Tóm tắt

Truyện kể về Vũ Thị Thiết (Vũ Nương), người huyện Nam Xương, xinh đẹp nết na được Trương Sinh - một người ít học, có tính đa nghi, cưới về làm vợ.

Gia đình đang yên ấm, hạnh phúc thì chàng Trương phải rời nhà đi lính. Ở nhà, Vũ Nương sinh con trai, đặt tên là Đản. Nàng hay đùa với con bằng cách chỉ cái bóng của mình lên vách và nói là cha Đản. Mẹ Trương Sinh vì thương nhớ con mà sinh bệnh, nàng hết lòng chăm sóc, phụng dưỡng, song ít lâu sau bà qua đời.

Khi Trương Sinh trở về, nghe theo lời con trẻ nghi ngờ vợ thất tiết. Vũ Nương một mực kêu oan, song Trương Sinh không nghe mà đánh mắng, đuổi vợ đi. Vũ Nương không tự minh oan được bèn trầm mình xuống sông tự vẫn. Một đêm thấy bóng cha trên tường, bé Đản gọi cha. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ nhưng đã muộn.

Ít lâu sau, Vũ Nương gặp Phan Lang dưới thủy cung - người cùng làng bị chết đuối, được Linh Phi cứu giúp. Khi Phan Lang trở về, Vũ Nương nhờ gửi chiếc thoa và nhắn chàng Trương lập đàn giải oan cho nàng. Trương Sinh nghe theo, lập đàn giải oan cho nàng ở bến sông ấy. Vũ Nương trở về ẩn hiện giữa dòng, nói vọng vào bờ vài lời tạ từ rồi biến mất.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Vũ Nương

- Ngay từ đầu thiên truyện, Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết, “tính tình thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”,

- Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “tam tòng, tứ đức”, “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong đó, dung chính là vẻ đẹp bên ngoài của người phụ nữ. Và vì cảm kích trước “tư dung” - vẻ đẹp bên ngoài của nàng mà Trương Sinh đã xin mẹ “đem 100 lạng nàng cưới về”. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng.

Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc họa với những nét chân dung về người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong xã hội phong kiến.

Song để có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chúng ta cần phải đặt nhân vật trong những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau:

a. Trong mối quan hệ với chồng: Nàng là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực.

Ÿ Trong cuộc sống vợ chồng bình thường:

- Nàng hiểu chồng “có tính đa nghi”, “đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Vũ Nương khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép nên không để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa.

    Vũ Nương là người phụ nữ đức hạnh, nết na, khôn khéo, hiểu chồng. Đồng thời nó đã hé lộ sự mâu thuẫn trong tính cách giữa hai người và đầy tính dự báo.

• Khi tiễn chồng đi lính:

- Nàng dặn dò chồng với những lời thiết tha, tình nghĩa:

+ Nàng đặt hạnh phúc gia đình lên trên tất cả mà xem thường những thứ vinh hoa phù phiếm: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”.

+ Nàng như thấy trước và cảm thông cho những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng ở nơi chiến trận: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao”.

+ Nàng bộc lộ sự khắc khoải, xa nhớ của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoan, lại thổn thức tâm tình”.

    Đó là những lời nói ân tình, đằm thắm, đầy ắp những yêu thương. Qua đó, cho chúng ta thấy Vũ Nương thực sự là một người vợ dịu dàng, hết mực thương chồng, thương con và thật đáng trân trọng.

• Khi xa chồng:

- Vũ Nương tỏ ra là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực. Nỗi nhớ chồng cứ đi cùng năm tháng: “mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi”, nàng lại “thổn thức tâm tình, buồn thương da diết”.

- Nàng mơ về một tương lai gần sẽ lại bên chồng như hình với bóng: Dỗ con, nàng chỉ cái bóng của mình trên vách mà rằng cha Đản.

- Tiết hạnh ấy được khẳng định trong câu nói thanh minh, phân trần sau này của nàng với chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phần từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.

    Qua tâm trạng bâng khuâng, nhớ thương, đau buồn của Vũ Nương, Nguyễn Dữ vừa cảm thông vừa ca ngợi tấm lòng son sắc, thủy chung của nàng. Và nỗi nhớ ấy, tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng chung của những người phụ nữ trong thời loạn lạc, chiến tranh.

• Khi bị chồng nghi oan:

- Nàng đã hết sức phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng trinh bạch của mình:

+ Trước hết, nàng nhắc đến thân phận của mình để có được tình nghĩa vợ chồng: “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”.

+ Tiếp theo, nàng khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, vẹn nguyên chờ chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”.

+ Cuối cùng, nàng cầu xin chồng đừng nghi oan: “Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”.

Nàng đã hết lời tha thiết, hết lòng nhún nhường để cứu vãn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Qua những lời nói tha thiết đó, nó còn cho thấy thái độ trân trọng chồng và gia đình nhà chồng của nàng.

- Không còn hi vọng, nàng nói trong đau đớn và thất vọng:

+ Hạnh phúc gia đình, “thú vui nghi gia, nghi thất” là niềm khao khát và tôn thờ cả đời giờ đã tan vỡ.

+ Tình yêu giờ đây của nàng được cụ thể bằng những hình ảnh ước lệ: "bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió".

+ Đen nỗi đau chờ chồng đến hóa đá của “cổ nhân" nàng cũng không có được: “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa".

Vậy là tình yêu, hạnh phúc gia đình vốn là cơ sở tồn tại của người vợ trẻ giờ đã không còn ý nghĩa.

- Cuối cùng, bị cự tuyệt quyền yêu, quyền hạnh phúc cũng đồng nghĩa với việc nàng bị cự tuyệt quyền tồn tại.

+ Vũ Nương mượn bến Hoàng Giang để giãi tỏ tấm lòng trong trắng mà minh oan cho mình: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mì. Nhược bằng lòng chim dạ cả, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho tôm cá, trên xin làm cơm cho diều quạ

+ Nàng tìm đến cái chết sau mọi sự cố gắng không thành.

    Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo vệ phẩm giá. Đối với người con gái đức hạnh và giàu đức hi sinh ấy, phẩm giá còn cao hơn sự sống.

• Những năm tháng sống dưới thủy cung:

- Ở chốn làn mây, cung nước nhưng nàng vẫn một lòng hướng về chồng con, quê hương và khao khát được đoàn tụ.

+ Nàng nhận ra Phan Lang người cùng làng.

+ Nghe Phan Lang kể về chuyện gia đình mà ứa nước mắt xót thương.

- Nàng khao khát được trả lại phẩm giá, danh dự:  Gửi chiếc thoa vàng, nhờ Phan Lang nói với Trương Sinh lập đàn giải oan cho mình.

- Nàng là người trọng tình, trọng nghĩa: Dù thương nhớ chồng con, khao khát được đoàn tụ nhưng vẫn quyết giữ lời hứa sống chết bên Linh Phi.

    Với vai trò là một người vợ, Vũ Nương là một người phụ nữ chung thủy, mẫu mực, lí tưởng trong xã hội phong kiến. Trong trái tim của người phụ nữ ấy chỉ có tình yêu, lòng bao dung và sự vị tha.

b. Trong mối quan hệ với mẹ chồng: Nàng là một người con dâu hiếu thảo.

-Vũ Nương đã thay Trương Sinh làm tròn bổn phận người con, người trụ cột đối với gia đình nhà chồng: Chăm sóc mẹ chồng khi già yếu, ốm đau. “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”.

- Mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, lo liệu ma chay chu đáo như đối với cha mẹ đẻ mình.

- Lời trăng trối của bà mẹ chồng trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành và công lao to lớn của Vũ Nương:Xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.

    “Đói lòng ăn khế ăn sung/ Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi” là một trong những câu ca dao nói về mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong xã hội phong kiến xưa. Song lời cảm tạ, động viên của bà mẹ đã cho thấy Vũ Nương là một người con dâu hiếu thảo. Đó là sự đánh giá xác đáng và khách quan nhất.

c. Trong mối quan hệ với con: Nàng là người mẹ yêu thương con hết mực.

- Thiếu vắng chồng, nàng vẫn một mình sinh con, và nuôi dạy con khôn lớn.

- Không chỉ trong vai trò là một người mẹ, nàng còn đóng vai trò là một người cha hết lòng yêu thương con, không để con phải thiếu thốn tình cảm.

- Nàng còn là một người mẹ tâm lí, không chỉ chăm lo cho con về mật vật chất, mà con cả về mặt tinh thần: Bé Đản sinh ra chưa biết mặt cha, lo con thiếu thốn tình cảm của cha nên chỉ vào cái bóng của mình trên vách mà bảo cha Đản. Hơn hết, nàng sớm định hình cho con về một mái ấm, một gia đình hoàn chỉnh.

Vũ Nương đã không chỉ hoàn thành tốt trách nhiệm của một người vợ, người con, người mẹ, người cha mà còn là một người trụ cột của gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng những gì hạnh phúc, tuyệt vời nhất. Thế nhưng trớ trêu thay hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng.

2. Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương

a. Nguyên nhân trực tiếp

- Chiếc bóng trên vách khiến bé Đản ngộ nhận đó là cha mình, khi người cha thật trở về thì không chịu nhận và ngây thơ, vô tình đưa ra những thông tin khiến mẹ bị oan.

    Những lời nói thật của con đã làm thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông trong lòng Trương Sinh.

b. Nguyên nhân gián tiếp

- Do cuộc hôn nhân không bình đẳng và tính cách của Trương Sinh: Vũ Nương là “con kẻ khó” được Trương Sinh đem trăm lạng vàng để cưới về. Sự đối lập giàu nghèo cộng với tính cách “đa nghi” của Trương Sinh đã sản sinh ra sự hồ đồ, độc đoán, gia trưởng sẵn sàng thô bạo với Vũ Nương.

- Trong cách cư xử với vợ, Trương Sinh đã thiếu cả lòng tin và cả tình thương.

- Do lễ giáo phong kiến hà khắc: Chế độ nam quyền đã dung túng, cổ vũ cho thói độc đoán, gia trưởng của người đàn ông, cho họ cái quyền tàn phá hạnh phúc mong manh cua người phụ nữ.

-Vũ Nương không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Trương Sinh phải đi lính, thời gian xa cách như ngọn lửa âm ỉ để thổi bùng lên trong con người vốn đa nghi, độc đoán và vô học.

3. Những chi tiết đặc sắc

a. Những chi tiết kì ảo cuối truyện

- Chi tiết kì ảo thứ nhất: Phan Lang chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến xin tha mạng, sáng hôm sau ông được người phường chài đem biếu con rùa mai xanh thì liền thả.

- Chi tiết kì ảo thứ hai: Phan Lang chết đuối vì có công nên được Linh Phi cứu sống, gặp Vũ Nương, rồi được rẽ nước đưa về dương thế.

- Chi tiết kì ảo thứ ba: Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang, Vũ Nương ẩn hiện giữa dòng, nói lời từ biệt rồi biến mất.

    Chi tiết kì ảo là sự sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ trong tác phẩm, thể hiện tính chất truyền kì của truyện và tạo nên những giá trị thẩm mĩ mới mà truyện cố tích “Vợ chàng Trương” không có.

b. Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo cuối truyện

- Làm nên đặc trưng của thể loại truyền kì,

- Yếu tố thực đan xen yếu tố kì ảo làm cho câu chuyện thêm li kì, hấp dẫn, kích thích trí tưởng tượng của người đọc.

- Làm tăng thêm giá trị hiện thực và ý nghĩa nhân văn cho tác phẩm.

- Tạo nên một kết thúc có hậu ở một ý nghĩa nào đó:

+ Một mặt, thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, sự chiến thắng của cái thiện, cái đẹp. Thể hiện nỗi khát khao cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ.

+ Mặt khác, những chi tiết ấy có tác dụng hoàn chỉnh thêm nét đẹp trong tính cách của Vũ Nương:  Dù ở một thế giới khác, nhưng nàng vẫn tha thiết hướng về gia đình, quê hương và khát khao được minh oan.

- Tuy nhiên, yếu tố kì ảo chỉ làm giảm chứ không làm mất đi tính bi kịch của thiên truyện: Vũ Nương hiện về rực rỡ, uy nghi nhưng chỉ là một sự hiển linh trong thoáng chốc. Tất cả chỉ là ảo ảnh “loang loáng mờ nhạt” trên sông mà dần biến đi mất. Tức là vẫn còn xa cách, vẫn là sự chia li âm dương đôi ngả. Hạnh phúc, sự đoàn tụ là những điều lớn lao cuối cùng của Vũ Nương cũng không dành được, mà đã vĩnh viễn trôi xuôi. Vũ Nương không trở về, cái lí mà nàng đưa ra là vì ân đức của Linh Phi, nhưng chủ yếu là vì xã hội ấy đâu có đất cho những người tốt như nàng, đặc biệt là những người phụ nữ. Chi tiết Phan Lang được rẽ nước trở về nhân gian còn Vũ Nương thì không thể là một minh chứng đanh thép.

4. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo

a. Giá trị hiện thực

+ Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực số phận bất hạnh của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến qua hình tượng nhân vật Vũ Nương.

+ Lên án hiện thực xã hội phong kiến với đầy những bất công, vô lí. Xã hội ấy đã dung túng chế độ nam quyền hà khắc, trọng nam khinh nữ, cho người đàn ông cái quyền chà đạp lên số phận người phụ nữ. Ở xã hội đó, người phụ nữ không thể đứng ra để bảo vệ giá trị nhân phẩm của mình.

+ Phản ánh xã hội phong kiến với những mâu thuẫn gây ra những cuộc chiến tranh phi nghĩa liên miên, làm cho đời sống người dân rơi vào bi kịch, bế tắc.

b. Giá trị nhân đạo

+ Khám phá, bênh vực, trân trọng những vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương.

+ Thể hiện niềm tin vào một tương lai tốt đẹp: Đề cao giáo trị nhân văn “ở hiền thì gặp lành” và gửi gắm những ước mơ tốt đẹp ngàn đời của nhân dân ta.

+ Qua số phận đầy ngang trái, thiệt thòi, bất công của nhân vật Vũ Nương, tác phẩm thể hiện sự thấu hiểu, xót xa và niềm cảm thông sâu sắc của tác giả.

+ Lên tiếng tố cáo chế độ độ phong kiến, chế độ nam quyền đã chà đạp lên quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc của con người. Đó cũng chính là giá trị nhân văn muôn thuở của nhân loại.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- “Chuyện người con gái Nam Xương” đã thể hiện niềm cảm thương sâu sắc đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Qua đó khẳng định những vẻ đẹp phẩm chất quý báu của họ.

- Tác phẩm còn như một thông điệp vượt thời gian: Tất cả mọi người đều có quyền sống và quyền hạnh phúc. Đặc biệt là những người phụ nữ, họ có quyền bình đẳng để phát huy tài năng và phẩm chất của mình. Đó cũng chính là những biểu hiện của một xã hội hiện đại, văn minh.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo: xoay quanh sự ngộ nhận, hiểu lầm lời nói của bé Đản. Chi tiết cái bóng trở thành điểm mấu chốt của tình huống truyện khiến cốt truyện được thắt nút, mơ nút, thay đổi sau khi nó xuất hiện.

- Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: Dẫn dắt tình huống hợp lí; xây dựng lời thoại của nhân vật, đan xen với lời kể của tác giả. Đặc biệt là sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực và kì ảo.

- Có sự kết hợp hài hòa các phương thức biểu đạt: tự sự, biểu cảm.

Văn bản 2: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Phạm Đình Hổ (1768 - 1839), người làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương.

- Ngay từ nhỏ, ông đã tỏ ra là một người có chí hướng: “Làm người con trai phải lập thân hành đạo... Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời

- Là một người có nhân cách cao thượng, sống trong thời buổi đất nước loạn lạc, nhiễu nhương, nên dù nhiều lần được vua vời ra làm quan, nhưng được ít lâu lại xin về ẩn dật.

- Ông để lại nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc đủ các lĩnh vực: văn học, triết học, lịch sử, địa lí,... tất cả đều viết bằng chữ Hán.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ

- Đoạn trích nằm trong tác phẩm “Vũ Trung tùy bút” (tùy bút viết trong những ngày mưa) được viết khoảng đầu đời Nguyễn (thế kỉ XIX). Tác phẩm gồm 88 mẩu truyện nhỏ, ghi chép lại hiện thực đen tối của lịch sử nước ta.

- Tác phẩm vừa có giá trị văn chương đặc sắc, vừa là những tài liệu quý về sử học, địa lí và xã hội học.

b. Thể loại

- Tùy bút là thể loại ghi chép một cách chân thực, sinh động về những người, sự kiện cụ thể có thực. Trong đó, tác giả bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại.

- Tùy bút ghi chép một cách tản mạn, tùy theo cảm hứng chủ quan của tác giả, bởi vậy cấu trúc không bị ràng buộc, song vẫn theo một tư tưởng, cảm xúc chủ đạo, và vì thế nó cũng giàu chất trữ tình.

c. Bố cục: hai phần

- Phần một: Từ đầu đến “biết đó là triệu bất tường”: Những thú ăn chơi của Chúa Trịnh.

- Phần hai: Còn lại: Sự tham lam, nhũng nhiễu của quan lại trong phủ Chúa.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Thói ăn chơi của Chúa Trịnh và các quan lại cận thần trong phủ Chúa

- Thú chơi đèn đuốc:

+ Chúa cho xây dựng thật nhiều cung điện, đình đài để thỏa thú “chơi đèn đuốc”, ngắm cảnh đẹp. Vì vậy “xây dựng đình đài cứ liên miên”, dần đến hao tiền tốn của.

+ Chúa bày ra nhiều cuộc dạo chơi tốn kém ở các li cung. Đó là những cung điện, lâu đài xa chốn kinh thành.

+ Đặc biệt, chúa thường xuyên tổ chức những cuộc dạo chơi ở Hồ Tây “tháng ba bốn lần" huy động động người hầu kẻ hạ, các nội thần, các quan hộ giá, nhạc công... bày ra nhiều trò giải trí lố lăng, tốn kém.

- Thú chơi cây cảnh:

+ Chúa dùng quyền lực để cưỡng đoạt, vơ vét những của quý trong thiên hạ như “trân cầm, dị thú”, “cơ mộc quái thạch”. Đó không phải là sự hưởng thụ cái đẹp chính đáng mà là sự chiếm đoạt.

+ Quang cảnh phủ Chúa được gợi ra bằng những cảnh tượng rùng rợn, bí hiểm, ma quái. “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ đổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Nó không phải là một cuộc sống bình thường, vì nó gợi nên sự chết chóc - một sự sống cận kề cái chết, với ngày tận thế.

    Có thể thấy cách sống của các vua chúa thời phong kiến suy tàn là chỉ lo ăn chơi xa xỉ, không lo việc nước, ăn chơi bằng quyền lực thiếu văn hóa. Nó như dự báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại.

2. Sự tham lam, nhũng nhiễu của bọn quan lại trong phủ Chúa

-Tác giả đã vạch trần thủ đoạn “mượn gió bẻ măng” của bọn hoạn quan, cung giám: Lợi dụng uy quyền của các chúa để vơ vét của cải trong thiên hạ: vừa ăn cướp, vừa la làng.

- Thủ đoạn này đã nhiều lần gây tai họa cho dân lành: các nhà giàu bị họ vu cho là giấu vật cung phụng, thường phải bỏ của ra kêu van chí chết".

    Vua nào, tôi ấy, tham lam, nham hiểm, mặc sức vơ vét của dân

    Tác giả đã kết thúc bài tùy bút bằng cách ghi lại một sự việc có thực đã từng xảy ra ngay trong nhà mình. Điều đó khiến người đọc tin vào sự chân thực của câu chuyện; thấy được sự thật thối nát trong phủ chúa là điều không thể chối cãi. Đồng thời, Phạm Đình Hổ đã kín đáo gửi gắm thái độ bất bình, phê phán.

III. Tổng kết

1. Nội dung

    Tác phẩm đã phản ánh một cách chân thực đời sống xa hoa của phủ Chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê - Trịnh.

2. Nghệ thuật

- Lối văn ghi chép sự việc cụ thể, chân thực và sinh động.

- Thủ pháp liệt kê làm nhấn mạnh thói ăn chơi xa xỉ và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại trong phủ Chúa

Văn bản 3: Hoàng Lê nhất thống chí

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Ngô gia văn phái: Một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Thanh Oai (tỉnh Hà Tây cũ). Trong đó có hai tác giả chính là:

+ Ngô Thì Chí (1753 - 1788) làm quan dưới thời Lê Chiêu Thống.

+ Ngô Thì Du (1772 - 1840) làm quan dưới triều Nguyền.

- Họ là những nhà Nho mang nặng tư tưởng trung quân, ái quốc. Ngô Thì Chí từng chạy theo Lê Chiêu Thống khi Nguyền Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai. Ông cũng chính là người dâng “Trung hưng sách” bàn kế để khôi phục nhà Lê và chống lại nhà Tây Sơn.

- Họ là những cây bút trung thực và có tư tưởng tiến bộ. Họ đã phản ánh được một cách chân thực, sống động những sự kiện lịch sử dân tộc trong khoảng ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX.

2. Tác phẩm

a. Thể loại

- “Hoàng Lê nhất thống chí “được viết theo thể chí - một thể văn ghi chép sự vật, sự việc. Một thể loại văn vừa có tính văn học, vừa có tính lịch sử lại vừa mang tính triết lí (hiện tượng văn - sử - triết bất phân).

- Nếu xét về tính chân thực, tác phẩm có thể được xếp loại kí sự lịch sử. Song, nếu xét về phương diện nghệ thuật: kết cấu, giọng điệu trần thuật... thì tác phẩm thuộc vào loại tiểu thuyết lịch sử. Tác phẩm được viết theo kiểu chương hồi, trong đó gồm 17 hồi.

b. Hoàn cảnh sáng tác

- “Hoàng Lê nhất thống chí” là tác phẩm được viết bằng chữ Hán, ghi chép về sự thống nhất đất nước của vương triều nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn diệt Trịnh.

- Tác phẩm được viết ở nhiều thời điểm nổi tiếp nhau, từ giai đoạn cuối triều Lê đến đầu triều Nguyễn và do một số tác giả kế tục nhau viết.

- Tác phẩm được viết bởi hai tác giả chính: Ngô Thì Chí viết bảy hồi đầu, Ngô Thì Du viết bảy hồi tiếp sau, còn ba hồi cuối có thể do một người khác viết vào khoảng cuối hoặc đầu triều Nguyền.

c. Vị trí đoạn trích

- Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc hồi thứ mười bốn của tác phẩm, ca ngợi chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung cùng nghĩa quân Tây Son. Đồng thời, miêu tả sự thất bại tham hại của quân tướng nhà Thanh cùng số phận của bè lũ vua tôi hại nước, hại dân Lê Chiêu Thống.

d. Tóm tắt

    Tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở lui quân về núi Tam Điệp. Ngày 25 tháng Chạp năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi vua (hiệu là Quang Trung) ở Phú Xuân, tự mình đốc suất lại binh để chuẩn bị tiến quân ra Bắc diệt Thanh.

    Dọc đường vua Quang Trung cho tuyển thêm lính, mở cuộc duyệt binh lớn và chia quân thành các ngả để tiến ra Bắc. Ra chỉ dụ tướng lĩnh, mở tiệc khao quân vào ngày 30 tháng Chạp, hẹn đến ngày mồng 7 Tết thắng lợi sẽ mở tiệc ăn mừng ở Thăng Long.

    Đội quân của Quang Trung đánh đen đâu thắng đến đó khiến quân Thanh đại bại. Rạng sáng ngày mồng 3 Tết, nghĩa quân đã tiến vào Thăng Long, bí mật bao vây đồn Hạ Hồi, dùng mưu để quân giặc đầu hàng và hạ đồn một cách dễ dàng.

    Ngày mồng 5 Tết, nghĩa quân tiến công vào đồn Ngọc Hồi. Quân giặc chống trả quyết liệt, cuối cùng phải chịu đầu hàng, Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử, Tôn Sĩ Nghị vội vã tháo chạy về nước, vua Lê Chiêu Thống cùng gia quyến trốn chạy theo.

e. Bố cục: Ba phần

- Phần một: Từ đầu đến “năm Mậu thân 1788”. Tin quân Thanh đã chiếm thành Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, thân chinh cầm quân dẹp giặc.

- Phần hai: Tiếp theo đến “kéo vào thành”. Cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn.

- Phần ba: Còn lại: Sự đại bại của quân Thanh và số phận thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Hình tượng người anh hùng Quang Trung

a. Nhà lãnh đạo quyết đoán, mạnh mẽ và bản lĩnh phi thường

- Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn hành động một cách mạnh mẽ, nhanh gọn và rất quyết đoán: Nghe tin giặc chiếm thành Thăng Long, không hề nao núng mà “định thân chinh cầm quân đi ngay”.

- Chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc lớn: 

+ Tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung để yên lòng dân rồi thân chinh cầm quân ra Bắc.

+ Trên đường tiến quân ra Bắc, tranh thủ gặp Nguyễn Thiếp để hỏi về kế sách, đặc biệt là thu hút sự ủng hộ của tầng lớp sĩ phu.

+ Tuyển mộ được hơn một vạn tinh binh và mở cuộc duyệt binh lớn.

+ Ra phủ dụ tướng sĩ: Một mặt, vạch trần âm mưu xâm lược của nhà Thanh, cho thấy bộ mặt tàn bạo của kẻ thù; mặt khác, giữ nghiêm kỉ luật, khích lệ tinh thần chiến đấu của binh lính.

    Tính cách mạnh mẽ, quyết đoán, đầy bản lĩnh là đặc điểm của những bậc quân vương tài chí. Và với tính cách ấy, Nguyễn Huệ xứng đáng được nhân dân tôn thờ và gửi gắm niềm tin để trở thành linh hồn của nghĩa quân Tây Sơn.

b. Bậc minh vương có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén

- Là một bậc quân vương, thống lĩnh cả vạn tinh binh, vua Quang Trung đã tỏ ra được là một người sáng suốt, nhạy bén trong việc nhận định tình hình thế cuộc và tương quan lực lượng giữa ta và địch. Điều đó được thể hiện trong lời phủ dụ với quân lính khi ở Nghệ An:

+ Vua Quang Trung đã khẳng định chủ quyền dân tộc. “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng... Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta”.

+ Tiếp đó, ông lên án hành động ngang ngược, phi nghĩa của giặc trái với đạo trời của quân Thanh: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải”.

+ Để khích lệ tinh thần tướng sĩ dưới quyền, ông đã nhắc lại truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm của các bậc minh vương trong lịch sử: “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tô...

+ Từ những gương trên, ông kêu gọi quân lính hãy “đồng tâm hiệp lực”.

+ Cuối cùng, ông ra kỉ luật nghiêm khắc theo phép nhà binh: Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.

    Lời phủ dụ đã như một bài hịch ngắn gọn mà súc tích, sâu sắc để kích thích lòng yêu nước, truyền thống anh hùng dân tộc.

- Đó còn là một bậc minh quân sáng suốt, nhạy bén trong việc dùng người và xét đoán bề tôi:

+ Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với Lân và Sở, ta thấy: ông rất hiểu tình thế buộc phải rút quân để bảo toàn lực lượng của hai vị tướng này. Đúng ra thì “quân thua chém tướng”. Nhưng ông hiểu lòng họ, sức ít không thể địch nổi quân hùng tướng hổ nhà Thanh.

+ Đối với Ngô Thì Nhậm, ông hiểu tường tận năng lực, khả năng “đa minh túc trí” của vị quân sĩ này. Việc Lân và Sở rút chạy, Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao sau này.

    Ông là một bậc minh quân, rất hiểu tướng sĩ, khen chê đúng người đúng việc và ân uy rạch ròi.

c. Bậc quân vương có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng

- Quang Trung tự tin vào tài cầm quân của mình, tin vào các tướng lĩnh và tin ở chính nghĩa của dân tộc. Bởi vậy, mới khởi binh, ông đã chắc thắng và dự kiến cả ngày chiến thắng:Phương lược tiến đánh đã tính sẵn. Chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh...

- Đang lo việc đánh giặc, Quang Trung đã tính sẵn cả kế hoạch sau chiến thắng (kế hoạch cho mười năm sau), tìm cách ngoại giao với giặc để có thể dẹp “việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”,...

    Chính tinh thần, ý chí quyết thắng hừng hực của vua Quang Trung đã lan tỏa đến từng quân sĩ để kích thích ý chí quật cường trong họ.

d. Bậc kì tài về quân sự - có tài thao lược hơn người

- Vua Quang Trung thân chinh cầm quân, đốc suất quân sĩ, tổ chức chiến dịch làm nên cuộc hành quân thần tốc nổi tiếng trong lịch sử. Cuộc hành quân thần tốc đến nay vẫn còn khiến chúng ta khâm phục:

+ Ngày 25 tháng Chạp bắt đầu xuất quân từ Phú Xuân (Huế).

+ Vượt khoảng 350 km đường đèo, núi, đến ngày 29 đã tới Nghệ An.

+ Tổ chức tuyển quân, duyệt binh chỉ trong một ngày.

+ Ngay hôm sau, vượt khoảng 150 km, tiến ra Tam Điệp.

+ Đêm 30 tháng Chạp “lập tức lên đường” tiến thẳng Thăng Long. Vừa hành quân vừa đánh giặc và giữ bí mật đến bất ngờ.

- Hành quân xa liên tục và gấp gáp, lại là đi bộ hẳn sẽ mệt mỏi, rã rời, song quân đội của Quang Trung vẫn chỉnh tề. Mặc dù quân đội đó không phải toàn lính thiện chiến nhưng dưới sự chỉ huy tài tình của vua Quang Trung, tất cả đã trở thành quân đội dũng mãnh, “tướng ở trên trời rơi xuống, quân chui ở dưới đất lên", đánh đâu thắng đó.

- Ông dùng chiến thuật một cách linh hoạt, ít hao tổn binh lực:

+ Ở trận Hạ Hồi, bằng chiến thuật nghi binh đã giúp nghĩa quân chiến thắng vẻ vang mà không tốn một hòm tên, mũi đạn.

+ Ở trận Ngọc Hồi, cho quân làm những tấm ván ghép, bên ngoài phủ rơm dấp nước nên binh lính tiến sát đồn mà không bị đạn hỏa công.

    Quang Trung là sức mạnh, là nội lực của nghĩa quân Tây Sơn, đại diện cho vẻ đẹp của một dân tộc anh hùng.

e. Một vị anh hùng lẫm liệt trong chiến đấu

- Vua Quang Trung là một tổng chỉ huy thực sự của chiến dịch. Ông hoạch định đường lối chiến lược, chiến thuật, tự mình thống lĩnh một mũi tiên phong, xông pha nơi chiến trận,...

- Dưới sự lãnh đạo của Quang Trung, nghĩa quân Tây Sơn đã chiến thắng áp đảo quân thù.

- Hình ảnh nhà vua lẫm liệt trên lưng voi, trực tiếp chỉ huy trận đánh, dũng mãnh, tài ba được khắc họa nổi bật và là linh hồn của cuộc tiến công vĩ đại của dân tộc.

    Hình ảnh vua anh hùng Quang Trung xông pha nơi chiến trận với tư thế dũng mãnh, “tả đột hữu xông", oai phong lẫm liệt xứng đáng là biểu tượng đẹp nhất về người anh hùng trong văn học trung đại.

2. Sự đại bại của quân Thanh và số phận thảm hại của bọn vua tôi phản nước, hại dân

a. Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh

- Đối lập với hình ảnh của nghĩa quân Tây Sơn:

+ Tướng Tôn Si Nghị: “sợ mất mật, ngựa không còn kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dân bọn lính kị mà của mình chuồn trước qua câu phao, rồi nhằm hướng Bắc mà chạy"; Sầm Nghi Đống thì thắt cổ tự tử.

+ Quân “đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều... đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa".

- Cả một đội binh hùng tướng mạnh mấy chục vạn người diễu võ dương oai giờ đây chi còn biết tháo chạy “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”.

- Nguyên nhân của sự thất bại:

+ Tướng lĩnh thì kiêu căng, chủ quan, bỏ ngoài tai những lời cảnh báo của vua tôi Lê Chiêu Thống, chỉ lo ăn chơi, hưởng lạc trên chiến thắng.

+ Do sự bất tài, tham sống sợ chết, nên chưa đánh đã chạy.

+ Lính tráng thì ô hợp, buông lỏng kỉ cương: Rời doanh trại để đi kiếm củi và buôn bán ở chợ.

    Miêu tả sự đại bại của quân xâm lược nhà Thanh với âm điệu nhanh, mạnh, gấp gáp đã gợi sự đại bại liên tiếp và nhanh chóng của kẻ thù, đồng thời gợi tâm trạng hả hê, sung sướng của người cầm bút.

b. Số phận thảm bại của bọn vua tôi phản nước, hại dân

- Lê Chiêu Thống và bề tôi trung thành của ông ta đã vì lợi ích riêng của dòng họ mà mù quáng “cõng rắn cắn gà nhà” và đặt vận mệnh của dân tộc vào tay kẻ thù xâm lược.

- Họ không còn tư cách của bậc quân vương mà phải chịu số phận nhục nhã của kẻ cầu cạnh, van xin và kết cục chịu chung số phận thảm hại của kẻ vong quốc: Lê Chiêu Thống cũng vội vã cùng kẻ thân tín chạy bán sống, bán chết, “luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều mệt lử”, chỉ biết “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”.

    Miêu tả sự thảm bại của bọn vua tôi phản nước, hại dân Lê Chiêu Thống bằng một giọng văn chậm rãi, có khi chững lại khi miêu tả những giọt nước mắt để gợi thái độ ngậm ngùi của người cầm bút.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- “Hoàng Lê nhất thống chí” - hồi mười bốn - “Đánh Ngọc Hồi, quán Thanh bị thua trận, bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài” là bức tranh sinh động về người anh hùng Nguyễn Huệ - vị vua văn võ toàn tài. Đồng thời, cũng thấy được tình cánh thất bại ê chề, khốn đốn, nhục nhã của bọn vua quan bán nước Lê Chiêu Thống.

2. Nghệ thuật

- Lựa chọn trình tự kể theo diễn biến của các sự kiện lịch sử.

- Khắc họa nhân vật lịch sử với ngôn ngữ kể, tả chân thực, sinh động.

- Giọng điệu trần thuật thê hiện thái độ của tác giả với vương triều Lê, với chiến thắng của nhân dân, dân tộc với bọn cướp nước.

Văn bản 4: Làng 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Kim Lân (1920 - 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ra và lớn lên trên một làng quê trù phú và giàu truyền thống văn hóa ở Từ Sơn - Bắc Ninh.

- Con người: Kim Lân là người nghiêm khắc với bản thân, nghiêm túc với công việc.

- Kim Lân bắt đầu “cầm bút” từ những năm 1941, lựa chọn cho mình sở trường truyện ngắn và nhanh chóng trở thành một cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại.

- Ông là một trong những nhà văn am hiểu sâu sắc về nông thôn và người nông dân. Bởi vậy, ông lựa chọn đề tài về người nông dân để phát huy sở trường của mình.

+ Trước Cách mạng tháng Tám: Tái hiện được cuộc sống, sinh hoạt văn hóa và những thú vui bình dị chốn thôn quê như: đánh vật, chọi gà, thả chim,...

+ Sau Cách mạng tháng Tám: Khám phá vẻ đẹp tâm hồn người nông dân. Đó là những con người với cuộc sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn chăm chỉ làm lụng, tràn đầy niềm tin vào tương lai.

- Phong cách nghệ thuật: Kim Lân có một lối viết tự nhiên, chậm rãi, nhẹ nhàng, hóm hỉnh và giàu cảm xúc; cách miêu tả rất gần gũi, chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Làng” được viết năm 1948. Đây là thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

-Tác phẩm được đăng lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ năm 1948.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Xuyên suốt tác phẩm, nhà văn kể về làng chợ Dầu nhưng không lấy tên tác phẩm là “Làng Chợ Dầu” Nếu lấy tên tác phẩm là “Làng chợ Dầu” thì câu chuyện sẽ trở thành chuyện riêng của một cái làng cụ thể; ông Hai sẽ trở thành người nông dân cụ thể của làng chợ Dầu ấy. Như vậy, chủ đề, tư tưởng của truyện bị bó hẹp, không mang ý nghĩa khái quát.

- Tác giả đã sử dụng một danh từ chung là “Làng”, mang ý nghĩa khái quát để đặt tên cho tác phẩm. Đó sẽ là một câu chuyện về những làng quê nước ta trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp; ông Hai sẽ trở thành nhân vật biểu tượng cho người nông dân Việt Nam yêu làng, yêu nước. Như vậy, chủ đề, tư tưởng, ý nghĩa của truyện được mở rộng.

c. Tóm tắt

    Ông Hai người làng chợ Dầu, trong kháng chiến, buộc phải rời làng đi tản cư. Là một người nông dân yêu làng tha thiết: ông hay khoe về làng mình; ngày nào cũng ra phòng thông tin vờ xem tranh ảnh để lắng nghe tin tức về làng. Ruột gan ông cứ múa lên, trong đầu bao nhiêu ý nghĩ vui thích khi nghe về những chiến công của làng.

    Một hôm, tại quán nước, ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt gian theo giặc. Ông cảm thấy khổ tâm, nhục nhã và xấu hổ vô cùng, về nhà, ông nằm vật ra giường nhìn lũ con mà nước mắt trào ra. Ông không dám đi đâu, chỉ ru rú ở nhà, norm nớp lo sợ. Ông Hai lâm vào hoàn cảnh bế tắc khi bà chủ nhà có ý đuổi khéo gia đình ông, nhưng không thể về làng vì về làng là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Ông chỉ biết tâm sự với đứa con về nỗi lòng của mình.

    Chỉ khi thông tin được cải chính, rằng làng chợ Dầu vẫn kiên cường đánh giặc ông mới vui vẻ và phấn chấn hẳn lên. Ông đi khoe với bác Thứ, với mọi người: nhà ông bị giặc đốt, làng ông bị giặc phá, về nhà, ông vui vẻ mua quà cho lũ con.

d. Ngôi kể

- Truyện được kể theo ngôi thứ ba.

- Tác dụng: Làm cho câu chuyện trở nên khách quan và tạo cảm nhận giác chân thực cho người đọc.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện và ý nghĩa của tình huống truyện 

- Tình huống truyện đặc sắc: Ông Hai nghe tin làng chợ Dầu làm Việt gian theo Tây.

+ Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống đối nghịch với tình cảm, niềm tự hào: Một con người vốn yêu làng và luôn hãnh diện về nó thì bỗng nghe tin làng lập tề theo giặc.

+ Tình huống bất ngờ ấy đã bộc lộ một cách sâu sắc, mạnh mẽ tình yêu làng, yêu nước và tinh thần kháng chiến của ông Hai.

- Ý nghĩa của tình huống truyện:

+ Về mặt kết cấu của truyện: Tình huống này phù hợp với diễn biến của truyện, tô đậm tình yêu làng, yêu nước của người nông dân Việt Nam mà tiêu biểu là nhân vật ông Hai.

+ Về mặt nghệ thuật: Tình huống truyện đã tạo nên một cái thắt nút cho câu chuyện, tạo điều kiện để bộc lộ mạnh mẽ tâm trạng và phẩm chất của nhân vật, góp phần thế hiện chủ đề của tác phẩm.

2. Diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai

a. Người nông dân mang tình yêu làng tha thiết

- Ông tự hào, hãnh diện về làng và kể về nó với niềm say mê, náo nức đến lạ thường:

+ Trước Cách mạng tháng Tám: Ông khoe con đường làng lát toàn đá xanh, trời mưa đi chẳng lấm chân; ông khoe sinh phần của một vị quan tổng đốc trong làng;...

+ Khi kháng chiến bùng nổ: Ông khoe về một làng quê đi theo kháng chiến làm cách mạng; ông kể một cách rành rọt những hộ, những ụ, những giao thông hầm hào;...

- Khi buộc phải tản cư, ông Hai đã rất nhớ về làng:

+ Ông thường xuyên chạy sang nhà bác Thứ để kể lể đủ thứ chuyện về làng, để vơi đi cái nỗi nhớ làng.

+ Ông kể cho sướng cái miệng, cho vơi cái lòng mà không cần biết người nghe có thích hay không.

+ Ông thường xuyên theo dõi tình hình của làng cũng như tình hình chiến sự.

    Tạo ra một hoàn cảnh đặc biệt, Kim Lân đã thể hiện một cách rất tự nhiên, chân thực tình cảm, niềm tự hào của ông Hai với làng chợ Dâu của mình.

b. Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc

• Ban đầu, ông chết lặng vì đau đớn, tủi hồ như không thế điều khiển được cơ thê của mình: “Cổ ông lão nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng hẳn đi, tưởng như không thở được”.

- Cái tin ấy quá bất ngờ và khi trấn tĩnh lại, ông còn cố không tin vào cái tin dữ ấy. Nhưng rồi những người tản cư kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”, “mắt thấy tai nghe”, làm ông không thể không tin.

Sau giây phút ấy, tất cả dường như sụp đổ, tâm trí ông bị ám ảnh, lo lắng, day dứt:

- Ông vờ lảng ra chỗ khác, rồi về thẳng nhà. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”.

- Về đến nhà ông nằm vật ra giường, nhìn lũ con, tủi thân mà “nước mắt ông cứ tràn ra”.

- Muôn vàn nỗi lo ùa về trong tâm trí ông:

+ Ông lo cho số phận của những đứa con rồi sẽ bị khinh bỉ, hắt hủi vì là trẻ con làng Việt gian: “Chúng nó cùng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu”.

+ Ông lo cho bao nhiêu người tản cư làng ông sẽ bị khinh, tẩy chay, thù hằn, ghê tởm: “Chao ôi! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian!... Suốt cái nước Việt Nam này người ta ghê tởm, người ta thù hằn cái giống Việt gian bán nước...”

+ Ông lo cho tương lai của gia đình rồi sẽ đi đâu, về đâu, làm ăn sinh sống ra sao: “Rồi đây biết làm ăn, buôn bán làm sao? Ai người ta chứa”.

    Một loạt những câu hỏi gợi lên tâm trạng khủng hoảng, rối rắm, không có lối thoát của ông Hai.

- Trong trạng thái khủng hoảng, giận dữ ông nam chặt hai tay mà rít: “chúng bay ăn miếng cơm hay ăn miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhà thế này”.

- Niềm tin bị phản bội, những mối nghi ngờ bùng lên và giằng xé trong ông: “ông kiểm điểm từng người trong óc”.

Mấy ngày sau đó, ông hoang mang, sợ hãi khi phải đối diện với cuộc sống xung quanh:

- Ông không dám đi đâu, chỉ quẩn quanh ở nhà và nghe ngóng tình hình bên ngoài: “một đám đông tủm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng nói cười xa xa ông cũng chột dạ”.

- Lúc nào ông cũng nơm nớp, hoang mang, lo sợ tưởng như người ta để ý đến, bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam nhông... là ông lùi ra một góc, nín thít: “Thôi lại chuyện ấy rồi!”

- Ông không dám nói chuyện với vợ, hay ông không dám nhìn thẳng vào thực tế phũ phàng đang làm ông đớn đau.

• Tình yêu làng quê và tinh thần yêu nước đã dẫn đến cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai.

- Ông Hai rơi vào tình trạng khủng hoảng, tuyệt vọng và bế tắc hoàn toàn:

+ Ông thoáng có ý nghĩ “hay là trơ về làng” - rồi ông lại gạt bỏ ý nghĩ về làng, bởi “làng đã theo Tây, về làng là rời bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ, là cam chịu trở về kiếp sống nô lệ”.

+ Buộc phải lựa chọn một, ông đã tự xác định một cách đau đớn nhưng dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù”.

    Quyết định của ông Hai đã khẳng định tình yêu nước mạnh mẽ, thiêng liêng, rộng lớn, bao trùm lên tình cảm của làng quê. Điều gì đã khiến ông có sự lựa chọn dứt khoát đó? Phải chăng chính niềm tin vào Đảng, cách mạng, kháng chiến đã hướng ông có được sự lựa chọn đó.

- Nhưng dù đã dứt khoát như thế, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm với nơi mà ông đã sinh ra, lớn lên và gắn bó gần hết cuộc đời. Bởi vậy, ông muốn được tâm sự, như để phân bua, để minh oan, cởi bỏ nỗi lòng.

+ Ông trút hết nỗi lòng vào những lời thủ thỉ, tâm sự với đứa con ngây thơ, bé bỏng.

+ Tình yêu sâu nặng với làng, nên ông muốn lí trí và trái tim bé bỏng của con phải khắc sâu, ghi nhớ câu: “Nhà ta ở làng chợ Dầu” - nơi chôn rau cắt rốn của bố con ông.

+ Ông nhắc cho con về tấm lòng thủy chung với kháng chiến, với cụ Hồ của bố con ông: “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu, trên có soi xét cho bố con ông”.

+ Ông khẳng định tình cảm sâu nặng, bền vững và rất thiêng liêng ấy: “Cái lòng của bố con ông là như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai”.

    Dưới hình thức trò chuyện, tâm với đứa con, nhưng thực chất là lời tự vấn, để tự minh oan và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình với làng, kháng chiến, cách mạng; để làm vơi đi phần nào những khổ tâm đã dằn vặt ông bấy lâu nay.

    Qua diễn biến tâm trạng của ông Hai, Kim Lân đã khám phá và làm nổi bật những nét đẹp trong tâm hồn người nông dân cách mạng: hài hòa giữa lòng yêu làng và tình yêu nước, nhiệt tình cách mạng.

c. Khi nghe tin làng cải chính

- Khi nghe tin cải chính làng chợ Dầu không theo giặc, như có một phép hồi sinh khiến thái độ ông Hai thay đổi hẳn: “Cái mặt buồn thiu mọi ngày bong tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.

- Nó giúp rũ sạch mọi đau khổ, tủi nhục, bế tắc và đưa ông trở lại với “thói quen” cũ, lật đật đi khắp nơi khoe làng: “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn! Ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên đây cải chính cái tin làng Dầu chúng tôi đi Việt gian ấy mà. Láo, Láo hết! Toàn là sai sự mục đích cả”.

- Phải chăng, khi niềm tin và tình yêu bị phản bội, bị dồn nén trong những dằn dặt, khủng hoảng quá lâu dễ khiến con người ta có những suy nghĩ không bình thường?

+ Đối với người nông dân, căn nhà là tất cả cơ nghiệp, là biết bao công cày cuốc mà nên. Vậy mà ông sung sướng, hê hả loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt nhẵn!” một cách tự hào như một niềm vui, niềm hạnh phúc.

+ Nhưng ngôi nhà là tài sản riêng, dù có mất nhưng danh dự vẫn còn, thế là ông vui, ông hạnh phúc.

+ Đó là minh chứng hùng hồn, chứng minh cho làng ông, cho bố con gia đình ông và những người tản cư trên đây không theo giặc, vẫn một lòng thủy chung, tình nghĩa và sẵn sàng hi sinh tất cả cho kháng chiến.

    Ông Hai chỉ là một người nông dân bình thường như bao người nông dân khác nhưng ông đã biết hi sinh tài sản riêng của mình cho kháng chiến. Điều này cho thấy cuộc kháng chiến chống Pháp đã đi sâu vào tiềm thức của người dân để trở thành cuộc kháng chiến toàn dân.

- Ông phấn khởi mua quà về chia cho các con và có ý định nuôi con lợn để ăn mừng,...

     Tình yêu làng và lòng yêu nước của ông Hai thực sự sâu sắc và khiến người đọc vô cùng cảm động. Tin cải chính đã trả lại cho ông tình yêu, niềm tự hào sâu sắc về làng. Nó đã xây dựng lên trong ông những “bức tường thành” vững chắc không súng đạn nào có thể công phá, cháy rụi được.

3. Những đặc sắc về nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện: Tác giả đặt nhân vật vào tình huống cụ thể để thử thách nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ chiều sâu tư tưởng và chủ đề của truyện.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật:

+ Khắc họa thành công nhân vật ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu nước tha thiết,...

+ Tác giả miêu tả rất cụ thể những diễn biến nội tâm từ suy nghĩ, hành động đến ngôn ngữ,...

+ Với thủ pháp nghệ thuật đối thoại và độc thoại nội tâm đã diễn tả một cách chính xác và mạnh mẽ những ám ảnh, day dứt của nhân vật.

     Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc người nông dân và thế giới tinh thần của họ.

- Nghệ thuật sử dụng ngôn từ rất đặc sắc:

+ Ngôn ngữ truyện mang tính khẩu ngữ và lời ăn, tiếng nói hàng ngày của người nông dân.

+ Lời kể chuyện và lời nói của nhân vật có sự thống nhất về sắc thái, giọng điệu. 

+ Ngôn ngữ nhân vật vừa có nét chung của người nông dân Việt Nam cần cù, chịu khó, lại vừa mang đậm những nét cá tính riêng của nhân vật nên rất sinh động.

- Cách trần thuật truyện tự nhiên, linh hoạt với những chi tiết sinh hoạt, đời sống hàng ngày xen vào với mạch tâm trạng khiến cho truyện sinh động hơn.

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Kim Lân đã tái hiện thành công diễn biến tâm trạng nhân vật ông Hai để mà qua đó làm nổi bật nét đẹp trong tâm hồn người nông dân Việt Nam: vẻ đẹp của tấm lòng chất phác, nồng hậu, vừa yêu làng, lại vừa yêu nước, nhiệt tình với cách mạng.

2. Nghệ thuật

- Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ.

- Ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo.

- Sự kết hợp giữa ngôn ngừ độc thoại và đối thoại.

- Hệ thống hình ảnh chi tiết, giàu sức gợi.

Văn bản 5: Lặng lẽ Sa Pa 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Thành Long (1925 - 1991), quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

- Ông bắt đầu “cầm bút” từ kháng chiến chống Pháp và chọn truyện ngắn cùng bút kí làm sở trường của mình.

- Nguyễn Thành Long là một trong những cây bút có nhiều đóng góp cho nền văn xuôi cách mạng nói riêng và văn học Việt Nam hiện đại nói chung.

-Tác phẩm của ông tập trung vào hai đề tài lớn: cuộc đấu tranh chống Mĩ của nhân dân Liên khu Vcông cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

- Phong cách sảng tác: Truyện ngắn của Nguyễn Thành Long nhẹ nhàng, tình cảm, thường pha chút chất kí; ngôn ngữ trong sáng, giàu chất thơ; và luôn xây dựng được những nhân vật mang tính hình tượng;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” được sáng tác năm 1970. Tác phẩm là kết quả của chuyến đi thâm nhập thực tế Lào Cai về đề tài cuộc sống, con người trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

- Tác phẩm được in trong tập “Giữa trong xanh” năm 1972.

b. Ý nghĩa nhan đề

- Nhan đề “Lặng lẽ Sa Pa” là một nhan đề giàu chất thơ, góp phần khắc họa chủ đề, tư tưởng của tác phẩm:

+ Lặng lẽ gợi đến một khung cảnh rất êm đềm, thanh tĩnh của Sa Pa.

+ Nhưng “Lặng lẽ” chỉ là cái không khí bên ngoài của cảnh vật. Đằng sau vẻ lặng lẽ ấy là sự miệt mài, nhiệt huyết, hăng say để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

    Dưới vẻ lặng lẽ của Sa Pa luôn có những con người âm thầm làm việc, cống hiến cho sự đổi thay của đất nước. Họ chính là những dòng sông cuộn chảy mang phù sa bồi đắp cho đất nước thêm đẹp giàu.

c. Tóm tắt

    “Lặng lẽ Sa Pa” kể về nhân vật anh thanh niên hai bảy tuổi, sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m quanh năm chỉ có mây mù bao phủ. Công việc chính của anh là công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Trước những trách nhiệm nặng nề của công việc, bốn năm anh chưa về nhà một lần. Anh luôn thèm cảm giác được gặp gỡ và trò chuyện với mọi người. Bởi vậy, anh đã dùng cây chắn ngang đường để mong được tiếp xúc, làm quen với mọi người.

    Trong một lần tình cờ, anh có cơ hội được gặp gỡ, trò chuyện với một ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ. Anh mời họ lên nhà chơi. Nơi anh ở ngăn nắp, gọn gàng đã tạo được ấn tượng tốt với ông họa sĩ. Anh thanh niên tâm sự, chia sẻ với họ về cuộc sống, niềm đam mê công việc và sở thích đọc sách, nuôi gà, trồng hoa của mình.

    Ông họa sĩ đã cảm nhận được vẻ đẹp phẩm chất của anh thanh niên và định vẽ một bức chân dung về anh. Nhưng anh đã từ chối và giới thiệu ông kĩ sư dưới vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ đất sét, mà theo anh là đáng để vẽ hơn. Cô kĩ sư sau khi trò chuyện với anh đã nhận ra mối tình nhạt nhẽo của mình và yên tâm nhận công tác ở Lai Châu.

    Sau ba mươi phút trò chuyện, họ chia tay. Anh thanh niên tiếp tục với công việc của mình. Trước khi tạm biệt, anh không quên biếu hai người một làn trứng gà và tặng cô gái một bó hoa đẹp.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện và hệ thống nhân vật

- Tình huống truyện khá đơn giản, đó chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ giữa một anh thanh niên làm công tác khi tượng trên đỉnh Yên Sơn với bác lái xe và hai hành khách.

- Tác dụng:

+ Để cho nhân vật chính là anh thanh niên xuất hiện một cách tự nhiên, khách quan, không đột ngột.

+ Được soi chiếu, đánh giá và cảm nhận một cách khách quan từ những nhân vật khác.

+ Các nhân vật trong truyện dần xuất hiện một cách tự nhiên, lặng lẽ đã góp phần làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

- Hệ thống nhân vật:

+ Nhân vật chính là anh thanh niên, hiện lên như một bức chân dung. Song chưa được xây dựng thành một tính cách hoàn chỉnhhầu như chưa có cá tính.

+ Các nhân vật trong truyện, từ nhân vật chính đến các nhân vật phụ đều không có tên riêng, chỉ được gọi tên qua đặc điểm giới tính, nghề nghiệp, tuổi tác (anh thanh niên, bác lái xe, ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, ông kĩ sư, anh cán bộ,...).

+ Các nhân vật phụ xuất hiện có vai trò làm nổi bật phẩm chất của nhân vật chính

    Hệ thống nhân vật được xây dựng theo dụng ý nghệ thuật của tác giả để thể hiện chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Họ là những con người vô danh (không tên), ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, giới tính, ở nhiều nơi trên đất nước đang ngày đêm lặng lẽ, say mê trong công việc để cống hiến cho đất nước. Điều đó làm tăng thêm sức khái quát của tác phẩm.

2. Bức tranh thiên nhiên của Sa Pa

- Thiên nhiên Sa Pa hiện lên êm đềm, lãng mạn và thật sống động: “Nắng bất ngờ bắt đầu lên tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xưa, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên những vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe...”

+ Sử dụng biện pháp liệt kê để phô bày tất cả những nét riêng, đặc trưng và độc đáo của thiên nhiên Sa Pa. vẻ đẹp ấy làm say đắm lòng người và như mời gọi con người hãy đến vùng đất này để khám phá, thưởng thức.

+ Sử dụng biện pháp nhân hóa qua hình ảnh “nắng... đốt cháy rừng cây”, “nắng mạ bạc cả con đèo” gợi không gian như bừng sáng, khiến cảnh vật thêm lung linh, rực rỡ.

- Nghệ thuật nhân hóa nắng... đốt cháy rừng cây”, “mây bị nắng xua” khiến cho cảnh vật sống động như mang được linh hồn của thiên nhiên Sa Pa.

    Tác giả đã khắc họa được một bức tranh tráng lệ, rực rỡ, thơ mộng với những đường nét, hình khối, màu sắc đặc trưng của thiên nhiên Sa Pa. Và đó còn là cái nền để Nguyễn Thành Long tô đậm, khắc sâu vẻ đẹp của con người.

3. Nhân vật anh thanh niên

a. Một người yêu nghề và có tinh thần trách nhiệm trong công việc

- Một người yêu nghề, dám chấp nhận hi sinh:

+ Chấp nhận sống và làm việc trong một hoàn cảnh, môi trường đặc biệt: Trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600m, quanh năm chỉ có cỏ cây và mây mù lạnh lẽo.

+ Coi công việc như một người bạn: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?... Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi, cháu buồn chết mất”.

+ Tìm thấy những ý nghĩa trong công việc: “báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”.

+ Tự hào và hạnh phúc bởi anh không chỉ giúp ích cho lao động mà cả trong chiến đấu: Phát hiện một đám mây khô giúp không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm Rồng.

- Có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc:

+ Làm việc một mình trên đỉnh núi cao, không có ai giám sát song anh vẫn luôn tự giác, tận tụy: Mỗi ngày đều bốn lần đi “ốp” để báo về nhà, không ngần ngại những đêm mưa tuyết,...

+ Tác phong làm việc khoa học, nghiêm túc, đúng giờ giấc và chính xác đến từng phút: Anh đếm từng phút trong cuộc gặp gỡ vì sợ hết ba mươi phút.

+ Anh luôn hoàn thành xuất sắc công việc của mình.

    Anh thanh niên là hiện thân cho những con người lao động mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước thêm giàu đẹp.

b. Một người có tinh thần lạc quan và yêu tha thiết cuộc sống

- Anh biết tạo ra niềm vui trong cuộc sống của mình bằng việc trồng đủ các loài hoa rực rỡ để làm đẹp cho ngôi nhà mình ở; nuôi gà, nuôi ong để làm giàu nguồn lương thực cho mình.

- Luôn tự trau dồi bản thân bằng cách đọc qua sách, để nâng cao hiểu biết và chất lượng cuộc sống.

- Không chỉ sắp xếp, tổ chức công việc một cách khoa học, mà ngay trong cuộc sống anh cũng thật gọn gàng, ngăn nắp: Một căn nhà ba gian sạch sẽ khiến ông họa sĩ phải trầm trồ và bất ngờ.

c. Một con người chân thành, cởi mở và hiếu khách

- Thể hiện ở nỗi thèm người, muốn được nhìn ngắm, trò chuyện với con người. Vì thế, anh đã lấy khúc cây chắn ngang đường để dừng những chuyến xe hiếm hoi.

- Khi gặp được người thì anh mừng đến mức tất tả, cuống cuồng như không kiềm được cảm xúc: “Anh chạy vụt đi, cũng tất tả như khi đến”, “Người con trai nói to những điều đáng lẽ người ta chỉ nghĩ".

- Anh là một người thân thiện, cởi mở ngay cả với những người mới gặp lần đầu: Niềm nở, hồ hởi không giấu lòng, pha trà, tặng hoa và cả quà ăn đường.

- Trân trọng từng giây từng phút gặp gỡ: Đem từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu.

- Anh quan tâm, chu đáo đến cả những người tình cờ gặp gỡ và sẵn sàng yêu thương, sẻ chia: Nghe bác lái xe kể về việc vợ mình bị bệnh, anh đã lặng lẽ đi tìm củ tam thất để bác gái ngâm rượu uống.

    Anh thanh niên xứng đáng trở thành biểu tượng cho phẩm chất và con người nơi mảnh đất Sa Pa.

d. Một con người khiêm tốn

- Công việc của anh đang làm góp một phần quan trọng cho những bước chuyển mình của đất nước: phụ vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu. Nhưng anh lại cho những đóng góp của mình là vô cùng nhỏ bé so với bao người khác.

- Khi ông hoạ sĩ xin kí hoạ chân dung, anh từ chối, e ngại: “Không, không, đừng vẽ cháu! Để cháu giới thiệu với bác những người khác đáng cho bác vẽ hơn”.

    Qua những nét phác họa của Nguyễn Thành Long, anh thanh niên hiện lên thật chân thực, sinh động, đẹp đẽ. Giữa thiên nhiên im lặng, hắt hiu, giữa cái lặng lẽ muôn thuở của Sa Pa đã vang lên những âm thanh trong sáng, những sắc màu lung linh của những con người lao động mới như anh.

4. Các nhân vật phụ

a. Nhân vật ông họa sĩ

- Tuy không phải là nhân vật chính của truyện, nhưng ông họa sĩ có vị trí quan trọng, mang quan điểm trần thuật của tác giả. Người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sát, miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của truyện.

- Trước hết, ông là một nghệ sĩ chân chính, nghiêm túc, say mê đi tìm cái đẹp: “Hơn bao nhiêu người khác, ông biết rất rõ sự bất lực của nghệ thuật, của hội họa trong cuộc hành trình vĩ đại của cuộc đời... Đối với chính nhà họa sĩ, vẽ bao giờ cũng là một việc khó, nặng nhọc, gian nan”.

- Ngay từ những phút đầu gặp anh thanh niên, ông họa sĩ đã xúc động và bối rối. “Vì họa sĩ đã bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết. Ôi! Một nét thôi cùng đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác”,

- Trước chàng trai trẻ đáng yêu, ông họa sĩ bồng thấy như “nhọc quá” vì những điều người ta suy nghĩ về anh.

- Những lời tâm sự anh thanh niên, khiến ông chấp nhận những thử thách của quá trình sáng tác.

    Những cảm xúc và suy tư của ông họa sĩ về anh thanh niên và về những vấn đề của nghệ thuật, của đời sống được gợi lên từ câu chuyện của anh thanh niên, đã làm cho chân dung nhân vật chính thêm sáng đẹp và tạo được chiều sâu tư tưởng của tác phẩm.

b. Nhân vật cô kĩ sư

- Cô kĩ sư là một hình ảnh đẹp đẽ, biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ: cô vừa tốt nghiệp đã tình nguyện lên miền núi Lai Châu nhận nhiệm vụ.

- Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, được nghe những điều anh tâm sự, chia sẻ về bản thân và những người khác khiến cô “bàng hoàng”.

- Cái “bàng hoàng” như một sự va đập giúp cô bừng dậy những tình cảm và suy nghĩ lớn lao, đẹp đẽ:

+ Cô đánh giá, kiểm điểm đúng hơn mối tình đầu nhạt nhèo mà cô đã từ bỏ. 

+ Vững tin và quyết tâm về quyết định cho chuyến ra đi đầu đời của mình.

- Từ quý mến, khâm phục cô dần dần thấy biết ơn vô cùng anh thanh niên. Không phải chỉ vì bó hoa to mà anh tặng mà còn vì “một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”,

    Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và những suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Đó là sự đồng cảm về lí tưởng của thế hệ thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ. Đồng thời, qua tâm tư, cảm xúc của cô kĩ sư, ta nhận ra vẻ đẹp và sức mạnh của nhân vật anh thanh niên.

c. Nhân vật bác lái xe

- Là người xuất hiện từ đầu tác phẩm, bác là người dần dắt, giới thiệu một cách sơ lược và kích thích sự chú ý về nhân vật chính của tác phẩm - “người cô độc nhất thế gian”.

- Bác là một người yêu nghề và có trách nhiệm với công việc: Đã có ba mươi năm lái xe và hiểu tường tận Sa Pa.

- Là một con người niềm nở và cởi mở: Trên khuôn mặt hồ hởi, bác giới thiệu về thiên nhiên và cảnh sắc Sa Pa; chia sẻ với ông họa sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên.

- Có một tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa.

- Bác là cầu nối giữa anh thanh niên với cuộc đời: Bác mua sách giúp anh; giới thiệu anh với những người bạn mới;...

    Mặc dù chỉ xuất hiện qua một vài chi tiết của truyện nhưng bác họa sĩ là một phần quan trọng giúp nhân vật anh thanh niên xuất hiện một cách tự nhiên và góp phần dẫn dắt chuyện.

d. Những nhân vật được giới thiệu gián tiếp

- Đó là những con người làm việc miệt mài, cống hiến thầm lặng. Anh bạn trên trạm đỉnh Phan-xi-păng cao 3142m; ông kĩ sư vườn rau dưới Sa Pa ngày ngày ngồi im trong vườn su hào rình xem cách ong lấy phấn, thụ phấn cho hoa su hào.

- Dám hi sinh cả tuổi trẻ và hạnh phúc cá nhân: Anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét, luôn trong tư thế sẵn sàng chờ sét, “nửa đêm mưa gió, rét buốt, mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra” và mười một năm chưa ngày nào xa cơ quan.

    Trong tác phẩm, những nhân vật này không xuất hiện một cách trực tiếp mà chỉ được giới thiệu gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên. Song, họ đã thể hiện được những phẩm chất vàng trong tâm hồn, cách sống và góp phần làm sáng tỏ chủ đề, tư tưởng của truyện được mở rộng. 

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” khắc họa thành công hình ảnh những con người lao động lặng lẽ, say mê mà tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên. Qua đó tác giả đã khẳng định vẻ đẹp của những người lao động trong công cuộc xây dựng xã hội mới.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện hợp lí với cách trần thuật tự nhiên.

- Truyện có sự kết hợp giữa phương thức tự sự, miêu tả, biểu cảm và bình luận.

- Lời văn mượt mà, trau chuốt, giàu chất thơ và chất hội họa.

Văn bản 6: Chiếc lược ngà 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Quang Sáng (1932 - 2014), quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

- Ông là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ.

- Nguyễn Quang Sáng bắt đầu “cầm bút” từ những năm 1952 và thử sức mình trên nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn, kí,...

- Ông sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu ở chiến trường Nam Bộ. Vì thế sáng tác của ông xoay quanh con người, cuộc sống vùng Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến và sau hòa bình.

- Phong cách sáng tác: Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng là lối viết chân chất, mộc mạc, bình dị cộng với giọng văn đậm chất Nam Bộ...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” được viết năm 1966. Đây là giai đoạn mà cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt và tác giá đang hoạt động ở chiến trường Nam Bộ.

- Truyện được in trong tập truyện ngắn cùng tên.

b. Ý nghĩa nhan đề

“Chiếc lược ngà” là hình ảnh, chi tiết trung tâm của tác phẩm, gắn kết cuộc đời tình cách của các nhân vật và góp phần khắc họa sâu nội dung truyện.

- Với bé Thu, chiếc lược ngà là ước mơ, là món quà đầu tiên và cũng là kỉ vật cuối cùng của người cha. Bởi vậy, chiếc lược ngà là kỉ vật, hình ảnh của người cha. 

- Với ông Sáu, chiếc lược ngà không chỉ là món quà ông dành tặng con mà còn là hình bóng của cô con gái yêu quý. Bởi vậy, chiếc lược ngà là tất cả tình thương, nỗi nhớ ông gửi gắm cho cô con gái bé bỏng.

- Với bác Ba, chiếc lược ngà là sự trao gửi thiêng liêng giữa người cán bộ cách mạng với đứa con gái của người đồng đội đã nằm lại nơi chiến trường.

- Với hai cha con ông Sáu, chiếc lược ngà là biểu tượng thiêng liêng bất diệt và cầu nối tình cảm sâu nặng của hai cha con.

b. Tóm tắt tác phẩm

    Ông Sáu xa nhà đi kháng chiến, mãi mới có dịp về thăm nhà với hi vọng gặp lại đứa con sau tám năm xa cách, chưa hề một lần gặp mặt. Mấy ngày đầu bé Thu không nhận ra ba do vết thẹo trên mặt làm ông không giống với người cha chụp chung bức hình với má mà em biết. Em bướng bỉnh và đối xử với ông Sáu như một người xa lạ.

    Nghe bà ngoại kể, bé Thu nhận đã cha và tình cảm cha con đà thức dậy một cách mãnh liệt. Song đó cũng là lúc ông Sáu phải trở lại chiến khu. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình thương, nỗi nhớ vào việc làm một chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp tặng thì ông đã hi sinh trong một trận càn. Lúc hấp hối, ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con gái.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện đặc sắc

- Tác giả đã xây dựng hai tình huống truyện đặc sắc:

+ Cuộc gặp gỡ của hai cha con ông Sáu sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận ra ông Sáu là ba. Đến lúc em nhận ra thì ông Sáu lại phải lên đường trở về đơn vị. Tình huống này đã bộc lộ tình cảm mãnh liệt của bé Thu với ba.

+ Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tất cả tình thương, nỗi nhớ và cá sự hi vọng vào việc làm một chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp tặng con thì ông đã hi sinh trong một trận càn. Trong lúc hấp hối ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con. Tình huống này bộc lộ tình cảm thắm thiết của ông Sáu dành cho con.

- Ý nghĩa của tình huống truyện:

+ Tình huống truyện kịch tính, chứa nhiều yếu tố bất ngờ tạo nên nghệ thuật thắt nút. Từ đó, thể hiện tình cảm cha con thiêng liêng, sâu nặng.

+ Đật nhân vật vào những tình huống éo le để những tình cảm cha con được đẩy lên đến cao trào. Qua đó, tác giả muốn khẳng định một điều hết sức thiêng liêng: Tình cảm cha con là bất tử mà không một súng đạn nào có thế chia cắt được.

1. Nhân vật bé Thu

a. Trước khi bé Thu nhận ông Sáu là ba

- Thu là một người thương cha vô cùng. Hơn ai hết, cô luôn mong cái ngày được gặp cha để được vỗ về, chở che. Bởi thế, cuộc gặp gỡ sau tám năm xa cách những tưởng hai cha con sẽ vỡ òa trong niềm hạnh phúc thì trớ trêu thay bé Thu lại bộc lộ một thái độ bất thường.

+ Trước sự xúc động, vồ vập của ông Sáu, cô bé từ ngạc nhiên đến hốt hoảng: “tròn xoe mắt”, mặt tái đi, vụt chạy và thét lên để gọi má cầu cứu.

+ Trong suốt ba ngày phép, khi ông Sáu càng dồn hết tình cảm để bù đắp cho Thu thì cô bé lại càng lạnh nhạt, xa cách, thậm chí tỏ ra ngang ngạnh, bướng bỉnh. 

+ Cô bé kiên quyết không gọi ông Sáu một tiếng ba: Nói trống không với ông Sáu (vô ăn cơm; cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái). Trong lúc khó khăn, nguy cấp khi phải chắt nước một nồi cơm to, nặng quá sức thì cô bé vẫn loay hoay, tự xoay sở.

+ Cô bé từ chối mọi sự vỗ về, chăm sóc của ông Sáu: Trong bữa cơm, ông Sáu gắp cho nó miếng trứng cá thì nó hất ra khiến cơm bắn tung tóe,... Chi tiết này đã đẩy câu chuyện lên đỉnh điểm của kịch tính.

+ Khi bị trách phạt, phản ứng lại hành động của ông Sáu, cô bé đã ngay lập tức bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua dây lòi tói cho kêu rổn rảng thật to.

- Nguyên nhân:

+ Gián tiếp: Bé Thu sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước đang chiến tranh. Bởi vậy, suốt tám năm cô bé chỉ biết mặt ba qua một tấm hình ba chụp chung với má.

+ Trực tiếp: Ngày gặp gỡ, vết thẹo trên mặt ông Sáu đã khiến cho gương mặt ông khác lạ so với hình ảnh người ba trong hình và tâm trí của cô bé.

+ Do cô bé rất yêu ba, muốn bảo vệ hình ảnh người ba của mình, không cho phép người lạ mặt kia có quyền mạo nhận.

    Sự ngang ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu không hề đáng trách. Phản ứng tâm lí của cô bé là hoàn toàn tự nhiên. Bởi sinh ra trong hoàn cảnh chiến tranh, cô bé còn quá nhỏ để hiểu được những khắc nghiệt, éo le. Và người lớn cũng không ai chuẩn bị tâm lí cho em đón nhận những điều bất thường.

    Miêu tả thái độ, hành động bất thường của cô bé, tác giả đã tái hiện hoàn cảnh cảnh éo le trong chiến tranh; đồng thời khắc họa được một cô bé bướng bỉnh, gan góc, cá tính đến kì lạ.

b. Khi bé Thu nhận ông Sáu là ba

- Sau khi nghe bà ngoại giải thích, bé Thu trở về nhà đúng vào buổi sáng ông Sáu phải lên đường về đơn vị. Cô bé đã đột ngột thay đổi trong sự ngỡ ngàng của ông Sáu và mọi người.

+ Không còn ngang ngạnh, cau có, cố chấp mà thay vào đó là khuôn mặt “sầm lại buồn rầu” “nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”.

+ Khi cô bé bắt gặp cái nhìn trìu mến và buồn rầu của ba thì “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”.

+ Khi ông Sáu khẽ cất lời từ biệt thì cô bé mới chịu kêu ba một tiếng đến xé lòng: “Ba... a... a... ba”.

+ Cô bé chạy xô lại ôm chặt lấy ba mình, hôn ba và hôn lên cả cái vết thẹo dài trên má.

+ Cô bé cất lời giữ ba ở nhà: “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con”. Đây mà một ước mơ rất thực, nó phản chiếu tình cảm gắn bó của bé Thu dành cho ba.

+ Cô chia tay ba với ao ước được ba mua cho cây lược ngà. Cho thấy cô muốn có vật kỉ niệm của ba để được thấy ba luôn bên mình.

    Trong khoảnh khắc chia li, mọi khoảng cách đã bị xóa bỏ, bé Thu không che giấu sự gắn bó và tình cảm của mình dành cho ba.

    Miêu tả những biến đổi tình cảm của bé Thu, tác giả đã một lần nữa tô đậm tình yêu thương ba của cô bé. Qua đó, ta thấy bé Thu bướng bỉnh, gan góc nhưng cũng rất giàu tình cảm.

2. Nhân vật ông Sáu

a. Trong ha ngày về phép thẫm nhà

- Trở về sau tám năm xa cách, bao nỗi nhớ thương khiến ông Sáu xúc động mãnh liệt.

+ Nôn nao trong lòng, không ghìm được xúc động khiến vết thẹo trên má đỏ ửng, giật giật, trông dễ sợ.

+ Ông háo hức, vội vã như không thể ghìm thêm giây phút nào: “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra... vội vàng với những bước chân dài”.

+ Ông kêu to hai tiếng thiêng liêng, thèm khát được gọi, được nghe bấy lâu nay: “Thu! Con”.

- Trước thái độ bất thường của con, ông rơi vào tâm trạng đau đớn, tủi hổ đến vô cùng: “anh đứng sững lại đó, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.

    Những từ miêu tả “đứng sũng lại’’, “mặt anh sầm lại’’“tay buông xuống như bị gãy” đã diễn tả được nỗi đau dường như quá lớn, quá sức chịu đựng với ông Sáu.

- Trong ba ngày phép, ông Sáu làm mọi cách để bé Thu thay đổi, kiên nhẫn chờ đợi tình cảm ở con.

+ Ông không đi đâu xa, mà luôn gần gũi, “lúc nào cũng vỗ về con”. Ông muốn bù đắp cho con suốt tám năm trời xa cách.

+ Ông không trách giận mà chỉ khe khè lắc đầu cười trước sự bướng bỉnh của con bé.

+ Thậm chí khi con bé từ chối một cách quyết liệt sự chăm sóc của ông, ông đau đớn đến độ không giữ được bình tĩnh mà đánh con một cái.

    Ông vô cùng dịu dàng, kiên nhẫn, khoan dung với con.

- Khi chia tay thì tình cảm cha con sâu nặng đà được bộc lộ rất xúc động:

+ Ông không dám lại gần con bé, “chỉ đứng nhìn nó,... với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu” cố gắng kìm giữ cái khát vọng được ôm con vào lòng.

+ Khi con bé nhận ông, ông “ghìm được xúc động và không muốn cho con nhìn thấy mình khóc, một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con”. Ông không muốn con bé trông thấy những giọt nước mắt yếu đuối của mình, đó cũng là những giọt nước mắt hạnh phúc ứa ra từ nỗi xúc động và thương con sâu sắc.

+ Ông hứa với con bé sẽ trở về với chiếc lược ngà tặng con.

    Tác giả đã tái hiện được tình cảm yêu thương con sâu sắc của ông Sáu, nó đã chiến thắng sự tàn bạo của chiến tranh, chiến thắng mọi biệt li, cách trở. Tình cảm ấy luôn vẹn nguyên, ấm áp và tràn đầy.

b. Khi ông Sáu trở lại chiến trường

- Ông luôn ân hận, khổ tâm vì nỡ trách phạt con.

- Ông dồn tất cả tình yêu và nỗi nhớ vào việc làm chiếc lược ngà tặng con.

+ Khi kiếm được khúc ngà, ông không gìm được xúc động, đã “hớn hở như một đứa trẻ được quà”.

+ Ông cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc.

+ Ông “tẩn mẩn” khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.

+ Những lúc nhớ con, ông lại mang cây lược ra ngắm và mài lên mái tóc cho cây lược thêm bóng.

    Ông Sáu đã dồn tất cả tình cảm của mình dành cho con vào việc làm chiếc lược ngà, dẫu cây lược đó chưa lần nào được chải trên mái tóc của bé Thu nhưng đã phần nào gỡ rối những mối tơ lòng, vơi đi nỗi dày vò ân hận và nuôi dưỡng khát vọng đoàn viên.

- Thậm chí, cái chết cũng không lấy đi được tình yêu con của ông Sáu.

+ Trong một trận càn, vết thương đã khiến ông kiệt sức, vậy mà ông vẫn dốc hết tàn lực, trao cây lược ngà cho đồng đội mang về cho bé Thu. Trong giây phút ấy, ông ủy thác, gửi gắm tất cả tình yêu, nỗi nhớ của mình qua ánh mắt.

+ Cây lược được trao tận tay cho bé Thu, điều đó cho thấy tình cha con đã không hề chết mà trở thành điểm tựa để nâng đỡ bé Thu trưởng thành.

    Ông Sáu trở thành một biểu tượng đẹp cho tình yêu thương; sự ân cần và che chở của người cha dành cho con mình, qua đó ta thấy được sự bất tử của tình cảm cha con. 

III. Tổng kết

1. Nội dung

- Tái hiện thành công tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

- Lên án sự tàn bạo của chiến tranh.

- Qua đó cho thấy bi kịch, tình cảm đẹp của con người trong chiến tranh.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng được tình huống truyện éo le mà độc đáo.

- Ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật.

- Lối kể chuyện tự nhiên, giàu cảm xúc.

- Sáng tạo được những hình ảnh giản dị mà giàu sức gợi.

Văn bản 7: Bến quê 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Minh Châu (1932 - 1989), quê huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

- Ông thuộc thế hệ các nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

- Nguyễn Minh Châu được đánh giá là một trong những cây bút xuất sắc nhất của nền Văn học Việt Nam hiện đại. Những sáng tác của ông được thể hiện rõ qua hai giai đoạn.

+ Trước 1975, với quan niệm con người mang vẻ đẹp của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nên những nhân vật, hình mẫu lí tưởng, đại diện cho vẻ đẹp của cộng đồng và mang tầm vóc lịch sử. 

+ Sau 1975, Nguyễn Minh Châu đã có những tìm tòi và đổi mới sâu sắc trong tư tưởng nghệ thuật và quan niệm về con người. Nhà văn đã xây dựng được những nhân vật ở góc độ đời sống riêng tư cá nhân với tính cách lưỡng diện, đa chiều, phức tạp của xã hội.

- Phong cách sáng tác: Có sự kết hợp hài hòa giữa chất triết lí cuộc đời với chất trữ tình lãng mạn; hình tượng nhân vật được soi thấu trong mối quan hệ đa chiều, phức tạp; giọng điệu thì trầm tĩnh, khắc khoải.

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Bến quê” được sáng tác năm 1985. Tác phẩm được coi như là một bản di chúc nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu.

- Truyện được in trong tập truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Minh Châu.

b. Ý Nghĩa nhan đề

- “Bến quê” trước hết là một danh từ và mang đến nhiều lớp nghĩa.

+ Ở lớp nghĩa thực, nó là một bến sông gắn liền bãi bồi bên kia sông Hồng mà nhân vật Nhĩ nhìn thấy từ khung cửa sổ nhà mình.

+ Ở lớp nghĩa biểu tượng, nó ẩn dụ cho tất cả những gì gần gũi, bình dị, thân thương nhất trong cuộc đời của mỗi con người; cho những điều mà tâm hồn con người gắn bó, yêu thương.

c. Tóm tắt

    Nhĩ là người đã từng đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới nhưng cuối đời lại nằm liệt giường vì một căn bệnh hiểm nghèo. Anh không thể tự mình dịch chuyển lấy mười phân trên chiếc giường kế bên cửa sổ. Mọi sinh hoạt của bản thân anh phải bám níu với vợ con. Chính những lúc ấy, anh mới cảm nhận hết được nỗi vất vả và đức hi sinh của vợ.

    Vào một buổi sáng mùa thu, Nhĩ nhìn qua cửa số và phát hiện bãi bồi quen thuộc bên kia sông mang vẻ đẹp lạ kì mà anh chưa một lần sang thăm. Trong anh, bỗng bừng lên khao khát được đặt chân lên vùng đất ấy.

    Anh sai thằng Tuấn - con trai thay anh sang bên kia sông. Thế nhưng, thằng Tuấn lại mải sa vào đám cờ thế để lỡ chuyến đò ngang duy nhất trong ngày. Nhĩ cố sức đu mình, nhoài người, giơ cánh tay ra ngoài cửa sổ “khoát khoát” như ra hiệu một cách khẩn thiết cho một người nào đó đi nhanh kẻo lỡ chuyến đò.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Tình huống truyện 

- Tác giả đã xây dựng được những tình huống trớ trêu và đầy nghịch lí.

+ Nhĩ vốn là người từng đặt chân đến nhiều nơi trên thế giới, nhưng vào lúc cuối đời, căn bệnh quái ác đã trói buộc anh trên chiếc giường bệnh bên góc cửa sổ. Chính lúc đó, anh chợt nhận ra những vẻ đẹp giản dị, thiêng liêng tồn tại ngay bên cạnh, nhưng bỗng hóa xa xôi. Đó là một tình huống trớ trêu và đầy nghịch lí. 

+ Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp của bãi bồi bên kia sông và khao khát được đặt chân lên đó, nhưng chính anh lại đang không thể thực hiện được những sinh hoạt cho dù nhỏ nhất của bản thân. Anh gửi gắm tất cả niềm khao khát ấy lên cậu con trai, nhưng vì ham chơi, Tuấn đã để lỡ mất chuyến đò duy nhất trong ngày. Như vậy, tình huống nghịch lí thứ nhất đã đẩy nghịch lí thứ hai lên cao trào.

- Tình huống truyện mang tính nhận thức và triết lí sâu sắc.

+ Nhận thức về cuộc đời: Cuộc sống và số phận con người chứa đầy những điều bất ngờ, những điều nghịch lí ngẫu nhiên vượt ra ngoài những dự định, ước muốn, hiểu biết của con người.

+ Mở ra triết lí mang tính tổng kết của cuộc đời, qua những suy ngẫm của nhân vật: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được nhưng cái điều vòng vèo hoặc chùng chình”, thường hướng đến những điều cao xa mà vô tình bỏ quên những vẻ đẹp gần gũi, giản dị mà đầy ý nghĩa ngay xung quanh mình.

2. Nhân vật Nhĩ

a. Những cảm nhận và phát hiện của Nhĩ về vẻ đẹp của thiên nhiên

- Nhĩ cảm nhận và phát hiện ra những vẻ đẹp của thiên nhiên khi anh đang ở trong một cảnh ngộ rất éo le:

+ Anh vốn từng ngang dọc nhiều nơi trên thế giới: “đã từng đi tới không sót một xó xỉnh nào trên trái đất”.

+ Cuộc sống hiện tại, vì căn bệnh hiểm nghèo khiến anh phải nằm liệt một chỗ, không thể tự mình di chuyển lấy vài phân. Và bằng trực quan, anh cảm nhận được thời gian của đời mình chẳng còn bao lâu nữa.

    Hoàn cảnh ấy đã buộc Nhĩ phải sống chậm lại. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà văn để nhân vật bộc lộ những cảm nhận và suy nghĩ một cách tự nhiên.

- Nhĩ lần lượt phát hiện ra những vẻ đẹp xung quanh rất đỗi giản dị, gần gũi bằng một cảm xúc tinh tế.

+ Những chùm hoa bằng lăng bên cửa số lúc cuối mùa, đang thưa thớt và đậm sắc hơn.

+ Xa xa là dòng sông Hồng mang “một màu đỏ nhạt, mặt sông thì như rộng thêm ra”. 

+ Vòm trời như cao hơn, “những tia nắng sớm đang từ từ di chuyển từ mặt nước”. 

+ Bãi bồi bên kia sông, cả một vùng phù sa đang phô ra màu vàng thau xen lẫn màu xanh non.

    Những phát hiện thiên nhiên được Nhĩ cảm nhận từ gần đến xa, từ thấp đến cao khiến cho cảnh thiên nhiên vừa có chiều rộng, lại vừa có chiều sâu.

    Không gian, cảnh sắc ấy vốn là những hình ảnh quen thuộc, gần gũi, vậy mà bỗng trờ nên đẹp đẽ như một phát hiện, khám phá đặc biệt.

b. Những phát hiện của Nhĩ về con người và cuộc sống

- Bằng những linh cảm, trực giác, anh cảm nhận một cách rõ nét về quỹ thời gian còn lại của đời mình.

+ Anh thấy sắc màu của hoa bằng lăng trở thành một màu tím thẫm.

+ Anh hỏi Liên về tiếng lở đất ở dốc đứng của con sông khi con lũ dồn về.

- Nhĩ cảm nhận, thấu hiểu được biết bao phẩm chất tốt đẹp tiềm ẩn từ Liên.

+ Nhĩ phát hiện ra vẻ đẹp bình dị và mộc mạc của vợ qua “tấm áo vᔓnhững ngón tay gầy guộc âu yếm vuốt ve bên vai anh”.

+ Anh cảm nhận được một người phụ nữ tần tảo và giàu đức hy sinh. Nhĩ nói viên Liên – “suốt đời anh chỉ làm em khổ tâm... mà em vẫn nín thin”, Liên chỉ trả lời — “có sao đâu... miễn là anh sống, luôn luôn có mặt anh, tiếng nói của anh trong gian nhà này”.

+ Một người vợ đảm đang và quan tâm chồng hết mực: Liên chăm chút anh từ miếng ăn, ấm thuốc đến việc an ủi, động viên.

+ Nhĩ còn cảm nhận được một người vợ tinh tế và thấu hiểu chồng: Liên lảng tránh những câu hỏi của anh về bài đất lở, bởi chị hiểu những suy nghĩ, dự cảm không lành trong anh.

+ Một người phụ nữ giàu lòng vị tha và đức khiêm nhường qua bước chân rất nhẹ trên những bậc thang gỗ đã mòn lõm.

    Nhĩ đã cảm nhận và thấu hiểu một cách trọn vẹn những vất vả, nhọc nhằn, sự hi sinh thầm lặng của Liên. Từ đó, anh thêm trân trọng vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn và yêu thương vợ hơn.

- Nhĩ cũng cảm nhận tình làng, nghĩa xóm qua những nét đáng yêu của những đứa trẻ hàng xóm, tay “chua lòm mùi nước dưa"...

    Nguyễn Minh Châu đã để cho Nhĩ khám phá, phát hiện và cảm nhận những điều gần gũi, giản dị và thân thuộc với mình nhất, để cho anh tự nhận ra bến đậu bình yên của cuộc đời không phải tìm đâu nơi chân trời, góc bể mà chính là gia đình, là xóm làng, là quê hương.

- Nhĩ phát hiện ra ý nghĩa của bãi bồi bên kia sông.

+ Đó là một mảnh đất màu mờ, mang theo hơi thở của cuộc sống: "một thứ màu vàng thau xen với màu xanh non - những màu sắc thân thuộc quá như da thịt, hơi thơ của đất màu mỡ".

+ Là hiện thân cho tất cả những điều bình thường, gần gũi nhưng bỗng chốc trở nên xa xôi: "một chân trời gần gũi, mà lại xa lắc vì chưa hề bao giờ đi đến”.

+ Từ những phát hiện đó, anh khao khát được một lần đặt chân lên bãi bồi song vấp phải hàng loạt những nghịch lí: Nghịch lí đầu tiên là anh không còn khả năng, cơ hội để thực hiện khao khát kia của mình; Nghịch lí thứ hai là Nhĩ dồn ước mơ của mình vào cậu con trai, nhưng đứa con lại không hiểu được ước muốn của anh mà thực hiện một cách miễn cưỡng, rồi bị những trò chơi vô bổ cuốn đi và bỏ lỡ chuyến đò duy nhất trong ngày.

+ Nhĩ không trách con, bởi anh hiểu khi còn trẻ thì người ta thường bỏ qua và không nhận ra những giá trị đích thực của cuộc sống. Để qua đó anh đúc rút qui luật phổ biến của đời người: “Con người ta trên đường đời thật khó tránh được cái vòng vèo hoặc chùng chình”.

    Nguyễn Minh Châu đã xây dựng rất thành công nhân vật Nhĩ. Anh là một nhân vật tư tưởng của tác phẩm để nhà văn để gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, hãy tránh xa những cái vòng vèo, chùng chình để tìm về với bến quê đích thực.

3. Những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng

Trong truyện, có rất nhiều những hình ảnh được miêu tả mang hai lớp nghĩa, đó là lớp nghĩa thực và lớp nghĩa biểu tượng.

- Hình ảnh bãi bồi: “màu vàng thau xen với màu xanh non — những màu sắc tha thuộc quả như da thịt, hơi thở của đất màu mỡ”

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực khung cảnh thiên nhiên với đất đai màu mỡ.

+ Lóp nghĩa biểu tượng: Đó là vẻ đẹp gần gũi, thân thuộc để biểu tượng cho một bến sông quê hay rộng hơn chính là quê hương, xứ sở.

- Hình ảnh bông hoa bằng lăng lúc cuối mùa: “hoa đã vẫn trên cành, cho nên mấy bông hoa cuối cùng còn sót lại trở nên đậm sắc hơn”; “những cánh hoa bằng lăng càng thâm màu hơn - một màu tím thẳm như bóng tối”

+ Lóp nghĩa thực: Tả thực những bông hoa bằng lăng với những sắc màu đặc trưng lúc cuối mùa.

+ Lóp nghĩa biếu tượng: Biểu tượng cho bước đi của không gian và thời gian và cho biết sự sống của Nhĩ đang ở vào những ngày cuối cùng.

- Hình ảnh của một bờ đất lơ: “một cái bờ đất lở dốc đứng của bờ bên này, và đêm đêm cùng với con lũ nguồn đã bắt đầu dồn về, những tảng đất đá đổ òa vào giấc ngủ”.

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực sự dữ dội, chảy xiết của những cơn lũ đầu nguồn mỗi khi bão về với sức công phá ghê gớm.

+ Lớp nghĩa biểu tượng: Biểu tượng cho sự sống của Nhĩ đang vào giai đoạn lụi tàn.

- Hình ảnh của Nhĩ với những hành động và cử chỉ lúc cuối truyện: “mặt mũi Nhĩ đỏ rựng một cách khác thường, hai mắt long lanh chứa một nỗi mê say đầy đau khổ, cả mười đầu ngón tay Nhĩ đang bấu chặt vào cái bậu cửa sổ, những ngón tay vừa bấu chặt vừa run lẩy bẩy. Anh đang cố thu nhặt hết mọi chút sức lực cuối cùng còn sót lại để đu mình nhô người ra ngoài, giơ một cánh tay gầy guộc ra phía cửa sổ khoát khoát y như đang khẩn thiết ra hiệu cho một người nào đó”.

+ Lớp nghĩa thực: Tả thực một sự cố gắng, nôn nóng, thúc giục của Nhĩ với thân tàn, lực kiệt để báo hiệu với một ai đó.

+ Lớp nghĩa biểu tượng: Biểu tượng cho sự thức tỉnh của nhân vật, Nhĩ đã khám phá ra được những vẻ đẹp bình dị, bền vững trong sự sống ở những giây phút cuối cùng.

    Những lớp nghĩa này gắn bó, thống nhất với nhau là một dụng ý nghệ thuật của tác giả để truyền tải chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Truyện ngắn “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu cho thấy những vẻ đẹp giản dị, gần gũi xung quanh chúng ta với những nghịch lí cuộc đời để từ đó gửi gắm những suy ngẫm, trải nghiệm của nhân vật về giá trị đích thực của gia đình và quê hương.

2. Nghệ thuật

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo và đầy nghịch lí.

- Hệ thống hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng.

- Ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật giàu chất suy tư thể hiện rất rõ nội tâm của nhân vật Nhĩ.

Văn bản 8: Những ngôi sao xa xôi 

I. Những nét chính về tác giả - tác phẩm

1. Tác giả

- Lê Minh Khuê sinh năm 1949, quê ở huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.

- Bà bắt đầu cầm bút từ những năm 1967 và trở thành nữ nhà văn chuyên viết về truyện ngắn.

- Lê Minh Khuê thuộc số ít các nhà văn đương đại Việt Nam có tác phẩm được chọn đưa vào chương trình sách giáo khoa.

- Những sáng tác của bà có sự chuyển biến rõ nét qua hai giai đoạn.

+ Trước 1975, hầu hết sáng tác của Lê Minh Khuê tập trung tái hiện cuộc chiến đấu của tuổi trẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Họ là những con người tự nguyện dấn thân, tham gia cuộc chiến tranh ác liệt với tất cả sức mạnh của lí tưởng cách mạng.

+ Sau 1984, sáng tác của bà mới thực sự có sự chuyến biến trong đề tài và cảm hứng sáng tác, phản ánh đời sống xã hội và con người trên tinh thần đổi mới. Xuất hiện trong truyện ngắn của bà kiểu nhân vật cô đơn, tha hóa, nghịch dị.

- Phong cách sáng tác: Truyện ngắn của Lê Minh Khuê thể hiện một ngòi bút dung dị giàu nữ tính; một giọng điệu đa sắc thái: khi thì tự hào, ngợi ca, khi lại mỉa mai, châm biếm, lúc lại trữ tình, suy tư; ngôn ngữ mang màu sắc trong trẻo;...

2. Tác phẩm

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” là một trong những tác phẩm đầu tay của Lê Minh Khuê được viết năm 1971. Đó là thời điếm mà cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt.

- Tác phẩm được đưa vào tuyến tập “Nghệ thuật truyện ngắn thế giới” và xuất bản ở Mĩ.

b. Ý Nghĩa nhan đề

- “Những ngôi sao xa xôi” vừa mang ý nghĩa cụ thể, vừa gợi đến ý nghĩa tượng trưng:

+ Nó gắn liền với hình dung, tưởng tượng của Phương Định về những ngọn đèn trên quảng trường thành phố. Và những ngọn đèn đó lung linh như những ngôi sao trong truyện cổ tích về xứ sở thần tiên chợt hiện lên trong cảm xúc của Phương Định.

+ “Những ngôi sao” thường nhỏ bé, không dễ nhận ra, và lại ở một vị trí xa xôi, vì thế nó đòi hỏi phải khám phá, kiếm tìm mới phát hiện được vẻ đẹp, sức cuốn hút của nó.

+ “Những ngôi sao” gợi vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, mơ mộng và lãng mạn của những thiếu nữ Hà Thành trẻ trung, xinh đẹp.

+ “Những ngôi sao xa xôi” là ước mơ, khát vọng về một cuộc sống hòa bình giữa khoảnh khắc bàng hoàng của bom đạn, chiến tranh, dường như trở nên xa xôi.

+ “Những ngôi sao” còn là biểu tượng cho vẻ đẹp sáng ngời của chú nghĩa anh hùng, cách mạng trong tâm hồn của những nữ thanh niên xung trên tuyến đường Trường Sơn nói riêng và chống Mĩ nói chung: lạc quan, yêu đời, dũng cảm, kiên cường,...

    “Những ngôi sao xa xôi” là một nhan đề đậm chất lãng mạn, đặc trưng cho văn học Việt Nam thời kì chống Mĩ cứu nước.

c. Tóm tắt

    “Những ngôi sao xa xôi” kể về cuộc sống, chiến đấu của ba cô thanh niên xung phong thuộc tổ trinh sát mặt đường: Phương Định, Nho và chị Thao. Họ sống trong một cái hang, dưới chân cao điểm. Công việc của họ là hàng ngày quan sát máy bay địch ném bom, đo khối lượng đất đá để san lấp hố bom, đánh dấu những quả bom chưa nổ và phá bom. Công việc vô cùng nguy hiểm, luôn phải đối mặt với cái chết, song họ vẫn bình tĩnh và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

    Công việc nguy hiểm là vậy nhưng họ vẫn lạc quan, hồn nhiên, mơ mộng và rất gắn bó, yêu thương nhau cho dù mỗi người một cá tính. Trong một lần phá bom, Nho bị thương, hai người đồng đội hết sức lo lắng và chăm sóc. Một cơn mưa đá vụt đến và vụt đi đã gợi trong lòng các cô gái sự tiếc nuối và biết bao nỗi niềm hoài niệm, khát khao.

d. Ngôi kể và tác dụng của ngôi kể

- Truyện được trần thuật theo ngôi kể thứ nhất. Người kể chuyện là nhân vật Phương Định. Đó là một điểm nhìn lí tưởng, phù hợp để miêu tả hiện thực cuộc chiến đấu ở một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn một cách chân thực.

- Truyện viết về chiến tranh, những chi tiết bom đạn, chiến đấu, hy sinh là không thể thiếu nhưng chủ yếu vẫn hướng vào thế giới nội tâm để làm hiện lên vẻ đẹp trong tâm hồn của những nữ thanh niên xung phong. Tạo được hiệu quả như vậy là nhờ vào việc lựa chọn nhân vật kể chuyện là nhân vật Phương Định.

- Mặt khác, cách kể chuyện ở ngôi thứ nhất đã tạo ra sự gần gũi, thân mật giữa người kể và người đọc nên dễ dàng truyền tải nội dung.

II. Trọng tâm kiến thức

1. Nhân vật Phương Định

a. Nữ thanh niên xung phong mang phẩm chất anh hùng 

- Phương Định đảm nhiệm một công việc vô cùng vất vả và nguy hiểm: Cô thuộc tổ trinh sát mặt đường trên tuyến đường Trường Sơn; "khi có bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom”.

- Quả cảm, kiên cường và giàu lòng yêu nước: Ba năm đảm nhiệm trên tuyến đường Trường Sơn, phải đảm nhận một công việc mà dầu đã làm bao nhiêu lần cũng không thể quen, vẫn luôn thấy căng thẳng đến mức "thần kinh căng như chão”"tim đập bất chấp cả nhịp điệu".

- Phẩm chất anh hùng của Phương Định được Lê Minh Khuê thử thách trong một lần phá bom nổ chậm. Cô đã thể hiện:

+ Có tinh thần trách nhiệm, quên mình vì công việc: “Tôi có nghĩ tới cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn cái chính: liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai?”

+ Bình tĩnh, tự tin chiến thắng nỗi sợ hãi của mình: Khi đến gần quả bom, cô không cúi khom mà đi thẳng người như một sự thách thức.

+ Dũng cảm, gan dạ đối đầu với những nguy hiểm: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt”, nhưng cô không hề bỏ cuộc.

    Phương Định là biểu tượng cho vẻ đẹp anh hùng, quả cảm, kiên cường của thế hệ nữ thanh niên xung phong thời chống Mĩ.

b. Một cô gái xinh đẹp, nhạy cảm và lãng mạn

- Những tưởng bom đạn, chiến tranh khiến cho tâm hồn, cảm xúc của những thanh niên xung phong trở nên chai sạn, thô ráp. Nhưng Phương Định vẫn hiện lên mang những nét đẹp trẻ trung và đầy nữ tính.

+ Cô quan tâm tới hình thức bên ngoài: Luôn chăm chút cho ngoại hình và rất tự hào về một đôi mắt có cái nhìn sao mà xa xăm.

+ Cô rất tự tin và tự hào về nét riêng của mình: Cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn và tự đánh giá về ngoại hình của mình, thấy bản thân mình là một cô gái khá.

+ Cô thích làm duyên và đắm mình trong những cảm xúc riêng tư: Thích ngắm mình trong gương và làm điệu trước các anh bộ đội.

- Cô cũng rất hồn nhiên, yêu đời và mang một tâm hồn mơ mộng:

+ Trong những khoảng thời gian không làm nhiệm vụ, cô thích hát để quên đi những căng thẳng và thêm yêu đời: Cứ thuộc một điệu nhạc nào đó là cô lại bịa lời bài hát để ngân nga.

+ Hồn nhiên, vui thích cuống cuồng trước một cơn mưa đá bất ngờ giữa rừng.

+ Thả hồn trong những kỉ niệm xa xôi: Cô nhớ về những căn nhà nhỏ bên quảng trường thành phố; những khung cửa sổ, những ngôi sao trên bầu trời Hà Nội,... Những kỉ niệm này đã nuôi dường, sưởi ấm tâm hồn cô trong cuộc chiến gian khổ và khốc liệt.

    Phương Định vào chiến trường ba năm, hàng ngày phải đối mặt với khó khăn gian khổ nhưng cô vẫn giữ gìn vẹn nguyên thế giới tâm hồn mình. Đó chính là biểu hiện của sức sống mãnh liệt của cô gái trẻ đất Hà Thành.

c. Gắn bó, yêu thương với tất cả đồng đội

+ Luôn quan tâm, lo lắng cho đồng đội: Khi đồng đội ở trên cao điểm, còn Phương Định trong hang để trực điện đài cô đã gắt với đội trưởng; sốt ruột chạy ra ngoài một tí;...

+ Yêu thương, chăm sóc chu đáo cho đồng đội như đứa em trong nhà: Cô bóc kẹo cho Nho ăn; khi Nho bị thương thì lo lắng, chăm sóc tận tình cho Nho và cảm thấy đau đớn như chính mình bị thương; chỉ muốn bế Nho ở trên tay.

+ Cô rất thấu hiểu những cảm xúc, tâm trạng chị Thao khi Nho bị thương, và coi chị như người chị cả trong gia đình.

    Lê Minh Khuê đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Phương Định, một người thiếu nữ trẻ trung, mơ mộng giữa chiến tranh khốc liệt vẫn tràn đầy niềm tin yêu. Cô xứng đáng trở thành biểu tượng nữ anh hùng trong văn xuôi chống Mĩ.

2. Nhân vật chị Thao

- Chị Thao là tổ trưởng tổ trinh sát mặt đường. Khi làm nhiệm vụ, chị tỏ ra là một người điềm tĩnh, quyết đoán và rất táo bạo.

+ Trong những khoảnh khắc người khác có thế “thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu” nhưng chị bình tĩnh đến phát sợ: Khi sắp phải băng mình lên trên cao điểm chị vẫn bóc bánh quy để ăn ngon lành.

+ Trở về từ trận chiến dữ dội, ác liệt trên cao điểm, chị vẫn bình thản như không.

+ Trong mọi hoàn cảnh, chị luôn có những mệnh lệnh đầy quyết đoán: Khi có trận chiến, chị lệnh cho Phương Định ở lại hang để trực điện đài còn chị và Nho thì lên mặt đường; Lúc Nho bị thương, dù rất lo lắng, mặt tái đi, mắt mờ đi như không có sự sống nhưng chị không khóc;...

    Chị Thao là người bình tĩnh, cứng cỏi nhất của tổ trinh sát mặt đường.

- Bên ngoài công việc, chị còn hiện lên với một tâm hồn nhạy cảm, đầy nữ tính và giàu tình cảm.

+ Một tâm hồn lãng mạn, yêu ca hát: Chị hay hát dù rằng giọng chị rất chua và sai nhạc; Chị có ba quyển sổ dày để chép bài hát.

+ Như bao cô gái khác, chị cũng thích làm đẹp: lông mày của chị thì tỉa nhỏ như cái tăm; áo lót của chị thì cái nào cũng thêu chỉ màu.

+ Chị Thao cũng có những nỗi sợ hãi rất nữ tinh: rất sợ máu và sợ vắt.

+ Chị lo lắng, quan tâm cho những người đồng đội nhưng rất kín đáo: khi Nho bị thương mặt thì tái nhợt, mắt thì mờ trắng như không còn sự sống; chị cuống quýt quanh quẩn bên Nho;....

    Qua vẻ đẹp đầy nữ tính đà tạo nên chiều sâu tư tưởng cho nhân vật và đưa nhân vật trở nên gần gũi, sống động hơn, như một nữ anh hùng trong cuộc sống đời thường.

3. Nhân vật Nho

- Nho là người ít tuổi nhất trong tổ trinh sát mặt đường nên được các chị yêu chiều như một cô em út trong gia đình. Nhưng trong công việc, cô hiện lên thật cứng rắn, mạnh mẽ và can đảm.

+ Có tinh thần trách nhiệm, cứng rắn trong công việc: Cùng với các chị trong tổ trinh sát, cô dũng cảm đối mặt với đạn bom, khói lửa để hoàn thành công việc.

+ Cô cũng rất gan dạ, dũng cảm, kiên cường trước những khó khăn: Khi bị thương, dù áp lực của đạn bom khiến cho cô xanh tái đi và cảm thấy như không thở được nhưng cô không kêu rên một tiếng.

- Bên cạnh đó, Nho đã hiện lên với những nét rất đáng yêu.

+ Cô có cái cổ tròn, với những nét vẻ xinh xắn, nhỏ nhắn, dễ thương như một que kem trắng bé nhỏ, khiến cho Phương Định yêu thương muốn bế ở trên tay.

+ Nho rất hay vòi vĩnh, làm nũng các chị và hay đòi ăn kẹo.

    Dẫu ít tuổi nhất trong tổ trinh sát mặt đường, song Nho đã mang phẩm chất tốt đẹp và những cá tính riêng khó lẫn so với các chị.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Trong truyện ngăn “Những ngôi sao xa xôi”, Lê Minh Khuê đã khắc họa thành công những nữ thanh niên xung phong trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Với những phẩm chất anh hùng, cách mạng, họ xứng đáng trở thành biểu tượng cho thế hệ vàng của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.

2. Nghệ thuật

- Nghệ thuật miêu tả nhân vật, đặc biệt là ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật.

- Ngôn ngữ trần thuật rất phù hợp với nhân vật.

- Câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập gợi không khí ác liệt của chiến trường.

Xem thêm các tài liệu Văn ôn thi vào lớp 10 năm 2024 hay khác:

Đã có lời giải bài tập lớp 10 sách mới: