Soạn bài Tổng kết lịch sử văn học - ngắn nhất Cánh diều

Soạn bài Tổng kết lịch sử văn học trang 114 → trang 123 ngắn nhất mà vẫn đủ ý được biên soạn bám sát sách Ngữ văn lớp 12 Cánh diều giúp học sinh soạn văn 12 dễ dàng hơn.

I. Tổng kết lịch sử văn học

Khái lược lịch sử văn học Việt Nam

Văn học Việt Nam gắn liền với sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, là nền văn học có hàng nghìn năm lịch sử với nhiều thành tựu to lớn, rực rỡ.

Văn học Việt Nam gồm hai bộ phận có quan hệ mật thiết với nhau: văn học dân gian và văn học viết.

PHẦN I: VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM

1. Văn học dân gian là gì?

Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể, thường gắn liền và tham gia vào mọi mặt sinh hoạt của đời sống cộng đồng; thể hiện nhận thức, tư tưởng, tình cảm của nhân dân về tự nhiên, xã hội và con người.

2. Những đặc trưng của văn học dân gian

Văn học dân gian có ba đặc trưng lớn:

- Thứ nhất, văn học dân gian mang tính truyền miệng. Truyền miệng là phương thức sáng tác và lưu truyền của văn học dân gian. Do tồn tại và lưu truyền bằng miệng nên tác phẩm văn học dân gian có những dị bản (bản khác nhau).

- Thứ hai, văn học dân gian mang tính tập thể. Phương thức sáng tác tập thể có liên quan tới phương thức truyền miệng của văn học dân gian. Tác phẩm được hình thành, lúc đầu có thể do một người khởi xướng, sáng tác, nhưng sau đó, những người khác tiếp tục bổ sung, chỉnh sửa trong quá trình lưu truyền. Do phương thức truyền miệng mang tính tập thể để dễ nhớ, dễ thuộc, dễ lưu truyền, để tiêu biểu cho cả cộng đồng nên có những cốt truyện, nhân vật, tình tiết, hình ảnh,... lặp lại ở nhiều tác phẩm khác nhau, làm thành mô típ trong văn học dân gian:

- Thứ ba, văn học dân gian mang tính nguyên hợp. Trong văn học dân gian, nhiều khi các yếu tố ngôn từ, âm nhạc, vũ điệu,... quyện hòa vào nhau, không chia tách.

Càng về sau, càng gần thời hiện đại, tính nguyên hợp trong văn học dân gian càng mờ nhạt. Vì vậy, bên cạnh khuynh hướng thưởng thức văn học dân gian trong mối liên hệ với làn điệu, lối diễn xướng, khung cảnh diễn xuất.... còn có khuynh hướng ngày càng phổ biến là thưởng thức văn học dân gian giống như thưởng thức văn bản văn học viết (đọc, ngâm, xem bằng mắt).

3. Hệ thống thể loại của văn học dân gian

Có thể xếp thể loại văn học dân gian vào những loại hình tự sự, trữ tình, kịch một cách tương đổi như sau:

- Loại hình tự sự dân gian

+ Thần thoại: thể loại văn xuôi, thường kể về các vị thần sáng tạo thế giới tự nhiên và văn hóa, phản ánh nhận thức, cách hình dung của thời cổ đại về nguồn gốc thế giới, đời sống con người, phản ánh khát vọng chinh phục tự nhiên và sáng tạo văn hóa.

+ Sử thi: thể loại văn vần hoặc văn xuôi kết hợp với văn vần, xây dựng những hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng, kể lại những sự kiện có ý nghĩa quan trọng đối với toàn thể cộng đồng.

+ Truyền thuyết: thể loại văn xuôi kể lại những sự kiện, nhân vật lịch sử (hoặc có liên quan đến lịch sử), thường dùng yếu tố tưởng tượng để huyền thoại hóa, lí tưởng hóa sự kiện, nhân vật được kể, phản ánh ý thức về lịch sử của nhân dân: ngưỡng mộ, tôn vinh những người có công đối với đất nước, dân tộc, cộng đồng, đôi khi phê phán những mặt hạn chế của nhân vật lịch sử.

+ Truyện cổ tích: thể loại văn xuôi có cốt truyện và hình tượng được hư cấu, kể về những nhân vật như người mồ côi, người con riêng, người em út, người dũng sĩ, người thông minh tài trí, chàng ngốc,..., qua đó thể hiện quan niệm đạo đức, lí tưởng và ước mơ về hạnh phúc, công lí của nhân dân.

+ Truyện thơ: thể loại tự sự bằng thơ, kết hợp phương thức tự sự với trữ tình, phản ánh số phận và khát vọng của con người về tình yêu, hạnh phúc lứa đôi và sự công bằng xã hội.

Ngoài ra, trong thể loại tự sự dân gian còn có truyện ngụ ngôn, truyện cười, vè.

- Loại hình trữ tình dân gian

Ca dao, dân ca là thể loại trữ tình dân gian bằng văn vần, diễn tả đời sống nội tâm của con người.

- Loại hình sân khấu dân gian

Chèo, tuồng đồ, trò diễn có tích truyện là các tác phẩm sân khấu dân gian, có sự kết hợp giữa kịch bản với nghệ thuật diễn xuất, giữa trữ tình và trào lộng để ca ngợi những tấm gương đạo đức hoặc phê phán, đả kích cái xấu trong xã hội.

Ngoài ra, trong văn học dân gian còn các thể loại khác như tục ngữ, câu đố,...

* Trả lời câu hỏi:

Câu 1 (trang 116 sgk Ngữ văn 12 Tập 2): Em hiểu văn học dân gian là gì? Lấy dẫn chứng để làm rõ cách hiểu đó.

Trả lời:

- Văn học dân gian: là kho tàng tác phẩm nghệ thuật ngôn từ được sáng tạo và lưu truyền qua nhiều thế hệ bởi đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Những tác phẩm này không chỉ mang giá trị thẩm mỹ mà còn phản ánh đời sống vật chất, tinh thần, quan niệm về thế giới và con người của nhân dân ta qua các thời kỳ lịch sử.

Ví dụ những thành ngữ về lao động sản xuất thể hiện rõ bài học được đúc kết qua quá trình làm việc lâu dài, quan sát cẩn thận.

- Con trâu là đầu cơ nghiệp.

- Đừng giống buồm trong bão giông.

- Đào nương không sợ uổng công, đắp phai chớ sợ phí sức.

 - Nhất canh trì, nhì canh viên, tam canh điền

- Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống

- Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền.

- Tấc đất tấc Vàng.

- Năm trước được cau, năm sau được lúa.

- Trăng mờ tốt lúa nỏ, trăng tỏ tốt lúa sâu.

- Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa.

Câu 2 (trang 116 sgk Ngữ văn 12 Tập 2): Văn học dân gian có những đặc trưng lớn nào? Lấy ví dụ để làm sáng tỏ những đặc trưng đó.

Trả lời:

- Tính truyền miệng: tác phẩm được lưu truyền qua nhiều thế hệ bằng hình thức truyền miệng, từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Ví dụ: Truyện cổ tích Tấm Cám được lưu truyền qua nhiều thế hệ bằng hình thức kể chuyện, không có tác giả cụ thể.

- Tính tập thể: là sản phẩm sáng tạo của nhiều người, thuộc nhiều thế hệ qua những thời gian và không gian khác nhau.

Ví dụ: Ca dao là sản phẩm sáng tạo của nhiều người trong cộng đồng, được lưu truyền qua nhiều thế hệ.

- Tính nguyên hợp: kết hợp nhiều thể loại nghệ thuật với nhau như: thơ, ca, nhạc, múa, tạo nên sự sinh động, hấp dẫn cho tác phẩm.

Ví dụ: Chèo “Quan Âm Thị Kính” kết hợp thơ ca, âm nhạc, múa để kể lại câu chuyện.

Câu 3 (trang 116 sgk Ngữ văn 12 Tập 2): Tìm hiểu về hệ thống thể loại văn học dân gian:

a) Lập sơ đồ về hệ thống thể loại văn học dân gian.

b) Liên hệ với các tác phẩm văn học dân gian đã được học để dẫn ra ví dụ cụ thể cho mỗi thể loại đã nêu ở mục a.

Trả lời:

Soạn bài Tổng kết lịch sử văn học | Ngắn nhất Soạn văn 12 Cánh diều

b) Ví dụ

* Tự sự dân gian :

- Thần thoại: Bọc trăm trứng, Hê-ra-clet đi tìm táo vàng ..

- Sử thi: Đăm Săn, Xinh Nhã,...

- Truyền thuyết: Sơn Tinh Thủy Tinh, Bánh Chưng Bánh giày, Sự tích Hồ Gươm,...

- Truyện cổ tích: Tấm Cám, Thạch Sanh, Sọ Dừa ..

- Truyện thơ: Thạch Sanh, Hoa Tiên,...

* Trữ tình dân gian:

- Ca dao: Ca dao than thân, ca dao về thời tiết, ca dao tục ngữ về lao động sản xuất,...

- Dân ca: Dân ca Bắc Bộ,..

* Sân khấu dân gian:

- Chèo: Quan Âm Thị Kính, Xúy Vân giả dại

- Tuồng: Nghêu Sò Ốc Hến, Mộc Quế Anh dâng cây,..

PHẦN II: VĂN HỌC VIẾT VIỆT NAM

Văn học viết Việt Nam phát triển qua hai thời kì lớn là thời kì văn học trung đại (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX) và thời kì văn học hiện đại (từ đầu thế kỉ XX đến nay).

1. Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX

Văn học Việt Nam trong mười thế kỉ này trải qua hai giai đoạn lớn.

1.1. Văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII

- Về bối cảnh lịch sử:

Sau chiến thắng Bạch Đằng (năm 938), Ngô Quyền xưng vương, dân tộc ta giành được quyền độc lập, tự chủ, kết thúc nghìn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc. Tuy nhiên, nhân dân ta vẫn luôn phải tiến hành những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, lập nhiều kì tích trong bảo vệ đất nước (chống Tống thế kỉ X, chống Mông Nguyên thế kỉ XIII, chống Minh thế ki XV). Sau các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc là công cuộc xây dựng đất nước trong hòa bình. Chế độ phong kiến Việt Nam đạt tới đỉnh cao cực thịnh ở nửa cuối thế kỉ XV, nhưng bước sang thế kỉ XVI, chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng.

- Về văn học:

Văn học có bước ngoặt lớn: xuất hiện văn học viết bên cạnh văn học dân gian. Văn học viết gồm hai thành phần: văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm.

+ Ở phương diện nội dung, xét trên những nét lớn, văn học giai đoạn này mang nội dung yêu nước với âm hưởng hào hùng. Từ thế kỉ XVI, văn học chuyển hướng từ cảm hứng ngợi ca đất nước và vương triều phong kiến sang cảm hứng phê phán hiện thực xã hội, nhất là những biểu hiện suy thoái về đạo đức.

+ Ở phương diện nghệ thuật, về ngôn ngữ, lúc đầu các sáng tác chỉ sử dụng chữ Hán, sau đó, vào khoảng cuối thế kỉ XIII, bước đầu sử dụng chữ Nôm để sáng tác. Từ thế kỉ XV, sáng tác chữ Nôm đã có những thành tựu lớn với thơ Nôm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,... Về thể loại, lúc đầu chủ yếu là những thể loại văn học tiếp thu từ Trung Quốc (thơ Đường luật, phú, chiếu, hịch...); từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII, thể loại dân tộc hóa - thơ Nôm Đường luật có những thành tựu nổi bật.

+ Tác phẩm, tác giả tiêu biểu: Chiếu dời đô (Lý Công Uẩn), Sông núi nước Nam (khuyết danh), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Phú sông Bạch Đằng (Trượng Hán Siêu), Đại cáo bình Ngô, Quốc âm thi tập, Ức Trai thi tập (Nguyễn Trãi), Bạch Vân quốc ngữ thi tập (Nguyễn Binh Khiêm), Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ),...

1.2. Văn học từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX

- Về bối cảnh lịch sử:

Đất nước có nhiều biến động bởi nội chiến phong kiến, bởi phong trào nông dân khởi nghĩa và cuộc chiến tranh vệ quốc làm “thay đổi sơn hà”. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn của Nguyễn Huệ đã cùng một lúc dẹp cả thù trong, giặc ngoài, thống nhất đất nước. Phong trào Tây Sơn suy yếu, triều Nguyễn khôi phục quyền lực, đất nước nằm trong hiểm họa xâm lược từ phương Tây (1858), cuối cùng rơi vào tay thực dân Pháp năm 1884. Nhân dân ta tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước bất khuất, kiên cường đứng lên chống giặc ngoại xâm với sức mạnh quật khởi. Chế độ phong kiến từ suy tàn đến suy vong. Xã hội Việt Nam bước đầu chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây.

- Về văn học:

Văn học phát triển mạnh mẽ với nhiều đỉnh cao, nhiều thành tựu nghệ thuật lớn. Văn học thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX được mệnh danh là giai đoạn văn học cổ điển với hàm nghĩa là thành tựu rực rỡ nhất, nhiều đỉnh cao nghệ thuật trở thành điển phạm, kết tinh từ đời trước, thành khuôn mẫu cho đời sau. Nửa cuối thế kỉ XIX - giai đoạn cuối của văn học trung đại vẫn có nhiều thành tựu nghệ thuật nổi bật trước khi văn học dân tộc chuyển mình sang thời kì văn học hiện đại.

+ Ở phương diện nội dung, văn học từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX xuất hiện trào lưu nhân đạo chủ nghĩa. Điểm đặc sắc của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học giai đoạn này là tiếng nói đòi quyền sống, đòi quyền hạnh phúc và đấu tranh giải phóng con người. Văn học hướng về những con người nhỏ bé, hướng về người phụ nữ để nói lên cả những đau khổ và khát vọng của họ. Văn học hướng đến con người trần thế, bước đầu phản ánh cả con người cá nhân. Văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XIX mang nội dung yêu nước với âm hưởng bi tráng. Bên cạnh giá trị nhân đạo, văn học giai đoạn này còn mang giá trị hiện thực sâu sắc.

+ Ở phương diện nghệ thuật, về ngôn ngữ: Sáng tác chữ Hán tiếp tục có những thành tựu lớn ở cả thơ và văn xuôi. Đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ và rực rỡ của văn học chữ Nôm. Tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ văn học giàu và đẹp mà Truyện Kiều (Nguyễn Du) chính là sự kết tinh tiêu biểu nhất; với tài sử dụng tiếng Việt, Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”. Sáng tác chữ Nôm còn làm nên tên tuổi của nhiều tác giả lớn như Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương.... Từ cuối thế kỉ XIX, chữ Quốc ngữ từng bước khẳng định vị thế trên văn đàn, nhưng thành tựu nổi bật vẫn thuộc về các sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm. Về thể loại: Cả thể loại tiếp thu nước ngoài, thể loại dân tộc hóa và thể loại văn học nội sinh đều đạt được những thành tựu lớn. Một số sáng tác bằng chữ Quốc ngữ theo lối văn xuôi du nhập từ phương Tây cho thấy sự chuyển biến của văn học dân tộc từ thời kì trung đại sang thời kì hiện đại.

+ Tác giả, tác phẩm tiêu biểu: Chinh phụ ngâm (chữ Hán của Đặng Trần Côn, bản dịch chữ Nôm hiện hành chưa rõ tác giả), thơ chữ Hán và Truyện Kiều của Nguyễn Du, thơ của Hồ Xuân Hương, Truyện Lục Vân Tiên, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiều, thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm của Nguyễn Khuyến, thơ chữ Nôm của Trần Tế Xương,...

* Trả lời câu hỏi:

Câu 1 (trang 119 sgk Ngữ văn 12 Tập 2): Phân tích một biểu hiện về mối quan hệ giữa bối cảnh lịch sử và văn học trong văn học Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII.

Trả lời:

- Giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn học, tạo nên mối quan hệ mật thiết, tương tác qua lại giữa hai lĩnh vực này.

- Lịch sử cung cấp cho văn học nguồn tư liệu dồi dào, phong phú để sáng tác. Các sự kiện lịch sử quan trọng như chiến thắng chống Ngô, chống Minh, nội chiến Trịnh - Nguyễn,... được ghi chép, phản ánh trong nhiều tác phẩm văn học như “Bình Ngô đại cáo” (Nguyễn Trãi), “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn), “Hoàng Lê nhất thống chí” (Ngô Sĩ Liên),... Bên cạnh đó, những biến đổi xã hội như Nho giáo du nhập, sự phân hóa giai cấp,... cũng được phản ánh trong các tác phẩm như “Truyền kì mạn lục” (Nguyễn Dữ), …

- Nội dung sáng tác:

+ ca ngợi những chiến công hiển hách của dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước, ý chí độc lập, tự chủ;

+ lên án những thế lực áp bức, bất công, thể hiện niềm tin vào cuộc sống.

→ Mối quan hệ giữa bối cảnh lịch sử và văn học trong giai đoạn này cho thấy văn học không chỉ đơn thuần là phản ánh hiện thực, mà còn là tiếng nói của thời đại, góp phần định hướng dư luận xã hội, phục vụ cho mục đích chính trị, giáo dục.

Câu 2 (trang 119 sgk Ngữ văn 12 Tập 2): Đặc điểm của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX là gì? Bằng các tác phẩm mà em đã học, hãy làm sáng tỏ đặc điểm đó.

Trả lời:

- Điểm nổi bật của chủ nghĩa nhân đạo trong giai đoạn này:

+ sự lên án những thế lực áp bức, bất công

+ khẳng định giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người.

- Tác phẩm tiêu biểu cho trào lưu nhân đạo chủ nghĩa giai đoạn này là “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du.

+ Tác phẩm đã khắc họa thành công bi kịch cuộc đời của Thúy Kiều, một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng phải chịu nhiều bất hạnh do xã hội phong kiến áp bức.

+ Qua bi kịch của Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện niềm thương cảm sâu sắc cho số phận con người, đồng thời lên án xã hội phong kiến thối nát đã chà đạp lên quyền sống, quyền hạnh phúc của con người.

→ Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX có giá trị to lớn về mặt tư tưởng và nghệ thuật. Nó đã góp phần thể hiện tiếng nói lương tâm của xã hội, đồng thời khơi gợi lòng trân trọng, yêu thương đối với những con người nhỏ bé, yếu thế trong cuộc sống.

Câu 3 (trang 119 sgk Ngữ văn 12 Tập 2): Hãy chuyển phần viết về văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX thành bảng tổng kết với những nội dung dưới đây:

Văn học

Bối cảnh lịch sử

Tình hình văn học

Khái quát

Nội dung

Nghệ thuật

(ngôn ngữ, thể loại)

Tác phẩm, tác giả tiêu biểu

Thế kỉ X-XVII

 

 

 

 

 

Thế kỉ XVIII – XIX

 

 

 

 

 

Trả lời:

Văn học

Bối cảnh lịch sử

Tình hình văn học

Khái quát

Nội dung

Nghệ thuật

(ngôn ngữ, thể loại)

Tác phẩm, tác giả tiêu biểu

Thế kỉ X- XVIII

- Đất nước trải qua nhiều biến động lịch sử: Bắc thuộc, độc lập, Minh thuộc, Lê - Nguyễn.

- Xã hội phong kiến phát triển.

- Nho giáo du nhập ảnh hưởng mạnh mẽ.

Xuất hiện văn học viết: Văn học chữ Nôm và văn học chữ Hán

- Nội dung yêu nước với âm hưởng hào hùng.

- Từ thế kỉ XVI, cảm hứng ngợi ca đất nước và vương triều phong kiến sang cầm hứng phê phán xã

hội với những suy thoái về đạo đức.

- Lúc đầu các sáng tác chỉ sử dụng chữ

Hán.

- Sau đó, vào khoảng cuối thế kỉ XIII, bước đầu sử dụng chữ Nôm để sáng tác.

- Về thể loại, lúc đầu chủ yếu là những thể loại văn học

tiếp thu từ Trung Quốc (thơ Đường luật, phú, chiếu, hịch, ... ); từ thế kỉ XV đến thế kỉ

XVII, thể loại dân tộc hóa - thơ Nôm Đường luật có những thành tựu nổi bật, xuất hiện thể loại văn học nội sinh (do nền văn học dân tộc tự sản sinh) là truyện thơ Nôm viết theo thể thơ Đường luật.

“Chiếu dời đô” (Lý Công

Uẩn); “Sông núi nước Nam” (khuyết danh); “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn); “Phú sông

Bạch Đằng” (Trương Hán Siêu); “Đại cáo bình Ngô”, “Quốc âm thi tập”, “Ức Trai thi tập”

(Nguyễn Trãi); “Bạch Vân quốc ngữ thi tập” (Nguyễn Bỉnh Khiêm); “Truyền kì mạn lục”

(Nguvễn Dữ)

Thế kỉ XVII- XIX

Đất nước có nội chiến, phong trào nông

dân khởi nghĩa và cuộc chiến tranh vệ quốc làm “thay đổi sơn hà”.

Văn học phát triển mạnh mẽ với nhiều đỉnh cao, nhiều thành tựu nghệ thuật lớn.

- Trào lưu nhân đạo chủ nghĩa.

- Nội dung yêu nước với âm hưởng bi tráng.

Giá trị hiện thực sâu sắc.

- Sáng tác chữ Hán tiếp tục có những thành tựu lớn ở cả thơ và văn xuôi.

- Văn học chữ Nôm.

- Từ cuối thế kỉ XIX, chữ Quốc ngữ

Về thể loại:

sáng tác bằng chữ Quốc ngữ theo lối văn xuôi du nhập từ phương Tây cho thấy sự

chuyển biến của văn học dân tộc từ thời kì trung đại sang thời kì hiện đại.

“Chinh phu ngâm” ( Đặng Trần Côn)

“Truyện Kiều” (Nguyễn Du); “Truyện Lục Vân Tiên”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” (Nguyễn Đình Chiểu); thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm của Nguyễn Khuyến; thơ chữ

Nôm của Trần Tế Xương; ...

2. Văn học Việt Nam từ thế kỷ XX đến nay

2.1. Văn học từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945

- Về bối cảnh lịch sử:

Trong giai đoạn này, thực dân Pháp đã hoàn tất việc xâm chiếm Việt Nam. Xã hội có những chuyển biến sâu sắc trên tất cả các mặt từ chính trị đến kinh tế, văn hóa theo chiều hướng thoát dần khỏi những ảnh hưởng của xã hội phong kiến để mở rộng tiếp nhận văn hóa, văn minh phương Tây mà trước hết là từ Pháp. Sự xâm chiếm của thực dân Pháp dẫn đến những xung đột dân tộc (thực dân - thuộc địa), xung đột giai cấp (tư sản - vô sản), xung đột văn hóa (cũ - mới), dẫn đến sự phân hóa thành những khuynh hướng tư tưởng khác nhau. Ảnh hưởng của tư tưởng vô sản và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản ngày càng mạnh mẽ trong xã hội, nhất là trong giai cấp công nhân và tầng lớp lao động.

- Về văn học:

Văn học đổi mới theo hướng hiện đại hóa. Khái niệm hiện đại hóa được hiểu theo nghĩa văn học thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại và đổi mới theo hình thức văn học phương Tây: hình thức thể loại không bị khuôn trong tính quy phạm chặt chẽ mà tự do hơn; ngôn từ không nhiều điển cố, không thiên về biểu tượng, ước lệ mà tự nhiên và giàu chất hiện thực của đời sống; chú trọng yếu tố cá nhân trong sáng tác;... Tuy nhiên, những tinh hoa nghệ thuật của văn học truyền thống vẫn được kế thừa và phát huy theo hướng đổi mới. Hiện đại hóa văn học dẫn đến sự nở rộ của phong cách tác giả, trong đó có những phong cách lớn. Văn học phát triển với nhịp độ hết sức mau lẹ về số lượng tác giả, tác phẩm, về thể loại, thành tựu nghệ thuật,... Văn học hình thành hai bộ phận và phân hóa thành nhiều xu hướng: bộ phận văn học hợp pháp, công khai (không bị thực dân Pháp cấm đoán) với hai xu hướng chính là văn học hiện thực và văn học lãng mạn; bộ phận văn học bất hợp pháp, không công khai (thơ văn yêu nước, cách mạng bị thực dân Pháp cấm đoán). Các bộ phận, các xu hướng văn học vừa khác biệt, đấu tranh với nhau về khuynh hướng tư tưởng và quan điểm nghệ thuật vừa tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau để cùng phát triển.

+ Ở phương diện nội dung, truyền thống yêu nước của dân tộc tiếp tục được phát huy, đồng thời có sự tiếp thu những luồng tư tưởng mới: nước gắn liền với dân, tinh thần yêu nước gắn liền với đấu tranh cách mạng. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học thời kì này vẫn tiếp tục truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam, đồng thời có sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tinh thần dân chủ: sự thức tỉnh về ý thức cá nhân của người cầm bút, đối tượng chủ yếu của văn học là những con người bình thường trong xã hội, cảm thương trước những số phận, những hạng người thấp bé, đau khổ, phê phán xã hội thuộc địa phong kiến trên lập trường nhân bản vì quyền sống tự do, hạnh phúc, lương thiện,... của mỗi người.

+ Ở phương diện nghệ thuật, về ngôn ngữ: sự thay đổi quan trọng là chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán, chữ Nôm để trở thành văn tự chủ yếu trong báo chí và trong sáng tác văn học. Mặc dù văn học chữ Nôm và văn học chữ Quốc ngữ đều là văn học tiếng Việt, nhưng việc sử dụng chữ Quốc ngữ để sáng tác đem đến cho văn học nhiều lợi thế để hiện đại hóa và phát triển: đưa văn học đến gần và gắn bó với hiện thực đời sống, đưa văn học đến với đông đảo quần chúng. Về thể loại: những thể loại truyền thống có sự đổi mới với sự xuất hiện của thơ mới, tiểu thuyết, truyện ngắn hiện đại, sự ra đời của những thể loại mới như kịch nói hiện đại, phóng sự, phê bình văn học.

+ Tác phẩm, tác giả tiêu biểu, ở loại hình tự sự: truyện ngắn và tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Nam Cao, tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, truyện ngắn của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Thanh Tịnh,...; ở loại hình trữ tình: thơ của Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Tản Đà, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Chế Lan Viên, Anh Thơ, Tế Hanh, Vũ Đình Liên, Đoàn Văn Cừ,..; ở loại hình kịch: sáng tác của Nam Xương, Vũ Đình Long, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Huy Tưởng....

2.2. Văn học từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay

a) Văn học từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1975

- Về bối cảnh lịch sử:

Dưới sự lãnh dạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã tiến hành cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, tiếp đó là sự ra đời của nước Việt Nam mới - nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp chín năm gian khổ kết thúc với chiến thắng Điện Biên “chấn động địa cầu” năm 1954; hòa bình lập lại, miền Bắc bắt tay vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam sống dưới chế độ thực dân mới; cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ với Đại thắng mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

- Về văn học:

Văn học thống nhất về khuynh hướng tư tưởng, về tổ chức, quan niệm: văn thơ là vũ khí, nhà văn là chiến sĩ theo đường lối văn nghệ của Đảng. Văn học gắn bó với vận mệnh dân tộc, tập trung phản ánh hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước ở miền Nam; văn học hướng về đại chúng, tập trung phản ánh sức mạnh của quần chúng nhân dân. Văn học miền Nam, chủ yếu là văn học đô thị dưới chế độ thực dân mới trước năm 1975 có sự phân hóa thành những xu hướng tích cực và tiêu cực, trong đó xu hướng văn học tiến bộ, yêu nước và cách mạng có nhiều đóng góp đối với cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc.

+ Ở phương diện nội dung, văn học từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1975 mang cảm hứng chủ đạo là cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong hai cuộc kháng chiến cứu nước và trong công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta. Cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi trở thành đặc điểm nổi bật của văn học.

+ Ở phương diện nghệ thuật, về ngôn ngữ: có sự kết hợp giữa ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ mang đậm chất sử thi, giữa hình tượng mang vẻ đẹp tự nhiên, giản dị với hình tượng mang vé đẹp hào hùng, kì vĩ. Về thể loại: thơ và văn xuôi đều phát triển, giữa khói lửa chiến tranh, bên cạnh những thể loại “xung kích”, ngắn gọn, kịp thời như kí, truyện ngắn, vẫn xuất hiện những tác phẩm dài hơi, có dung lượng lớn với các thể loại trường ca, tiểu thuyết, kịch dài.

+ Tác phẩm, tác giả tiêu biểu, ở loại hình tự sự: truyện ngăn của Nam Cao, Tô Hoài, Kim Lân, tiểu thuyết của Nguyên Hồng, truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Minh Châu, truyện kí của Nguyễn Thi,.., ở loại hình trữ tình: thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Quang Dũng, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật,..; trường ca của Nguyễn Khoa Điềm; tùy bút của Nguyễn Tuân, Vũ Bằng,...

b) Văn học từ năm 1975 đến nay

- Về bối cảnh lịch sử:

Những khó khăn chồng chất của thời hậu chiến cùng với đường lối kinh tế mang tính chủ quan duy ý chí, xã hội nặng tính chất quan liêu, bao cấp,... đã đẩy nước ta đến cuộc khúng hoảng kinh tế - xã hội. Trước tình hình đó, năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối Đổi mới, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, bước vào thời kì phát triển mạnh mẽ, với những thành tựu to lớn. Thời đại Đổi mới đem tới cơ hội tìm đến những chuẩn giá trị mới, cơ hội mở cửa trong quan hệ hợp tác với khu vực và thế giới. Với công cuộc Đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, xã hội thay đổi về nhiều mặt theo chiều hướng tích cực, làm biến đổi toàn diện hình ảnh đất nước.

- Về văn học:

Văn học của giai đoạn Đổi mới tiếp tục ca ngợi thắng lợi của cuộc kháng chiến và khẳng định con đường đi lên của cách mạng, đồng thời có những tìm tòi, kiến giải mới về hiện thực. Văn học chuyển hướng từ cảm hứng sử thi khi viết về chiến tranh sang cảm hứng thế sự, đời tư, tiếp cận với xu hướng hiện đại và hậu hiện đại của văn học thế giới.

+ Ở phương diện nội dung, cảm hứng phê phán trên tinh thần nhân bản trước nhiều mặt trái mới nảy sinh trong xã hội hoặc hiện thực trước đó thường bị che khuất; thể hiện khát vọng hạnh phúc đời thường; triết lí về nhân sinh, thế sự hoặc lịch sử là những vấn đề nổi bật.

+ Ở phương diện nghệ thuật, về ngôn ngữ: bên cạnh việc sử dụng ngôn ngữ đời thường, tự nhiên, bình dị trong sáng tác văn chương là việc làm giàu các giá trị từ ngữ của tiếng Việt. Về thể loại: hệ thống thể loại văn học phong phú, đa dạng với nhiều tìm tòi đổi mới. Bút kí, phóng sự, tản văn nhanh nhạy trước những vấn đề của hiện thực xuất hiện khá nhiều. Trường ca với nhiều tác phẩm viết về chiến tranh. Truyện ngắn, tiểu thuyết, trong đó có nhiều tiểu thuyết lịch sử, đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Kịch nói phát triển mạnh mẽ và có những thành tựu lớn.

+ Tác giả, tác phẩm tiêu biểu, ở loại hình tự sự: truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp; tiểu thuyết của Lê Lựu, Bảo Ninh, Ma Văn Kháng: truyện kí của Minh Chuyên,.., ở loại hình trữ tình: thơ của Xuân Quỳnh, Nguyễn Quang Thiều,..., thơ và trường ca của Hữu Thỉnh, Thanh Thảo; tuỳ bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường..., ở loại hình kịch: sáng tác của Xuân Trình, Lưu Quang Vũ,...

*

Văn học Việt Nam vừa là sản phẩm vừa là động lực của quá trình hình thành và phát triển dân tộc. Phát huy thành tựu, thế mạnh vốn có của một nền văn học mang bản sắc riêng, đồng thời hòa nhập với tiến trình văn học thế giới, văn học Việt Nam sẽ ngày càng phát triến.

* Trả lời câu hỏi:

Câu 1 (trang 123 sgk Ngữ văn 12 Tập 2): Những yếu tố nào của bối cảnh xã hội đã thúc đẩy tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX?

Trả lời:

Bối cảnh xã hội thúc đẩy quá trình này:

- Ảnh hưởng văn hóa phương Tây

- Mâu thuẫn xã hội gay gắt

- Phong trào Duy Tân đề cao vai trò trí thức, cổ vũ tinh thần yêu nước, tiến bộ, ảnh hưởng đến sáng tác văn học.

- Báo chí phát triển

- Nhu cầu đổi mới văn học

Câu 2 (trang 123 sgk Ngữ văn 12 Tập 2): Vì sao nói cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi là đặc điểm nổi bật của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến năm 1975? Bằng các tác phẩm mà em đã học, hãy làm sáng tỏ điểm đó.

Trả lời:

- Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn là đặc điểm nổi bật của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975.

- Khuynh hướng sử thi được thể hiện ở những phương diện sau:

+ Đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân tộc

+ Nhân vật chính thường là những con người đại diện cho tinh hoa và khí phách, phẩm chất và ý chí của dân tộc, tiêu biểu cho lý tưởng của cộng đồng hơn là lợi ích, khát vọng cá nhân.

+ Con người chủ yếu được khám phá ở bổn phận, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ở lẽ sống lớn và tình cảm lớn.

+ Lời văn sử thi cũng thường mang giọng điệu ngợi ca, trang trọng và đẹp một cách tráng lệ hào hùng.

- Cảm hứng lãng mạn là cảm hứng khẳng định cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và hướng tới lí tưởng. Cảm hứng lãng mạn trong văn học từ 1945 - 1975 chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lý tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã nâng đỡ con người Việt Nam có thể vượt lên mọi thử thách, trong máu lửa của chiến tranh đã hướng tới ngày chiến thắng, trong gian khổ cơ cực đã nghĩ tới ngày ấm no hạnh phúc. Cảm hứng lãng mạn trở thành cảm hứng chủ đạo không chỉ trong thơ mà còn trong nhiều thể loại văn học khác.

⇒ Khuynh hướng sử thi kết hợp với cảm hứng lãng mạn làm cho văn học giai đoạn này thấm nhuần tinh thần lạc quan, đồng thời đáp ứng được yêu cầu phản ánh hiện thực đời sống trong quá trình vận động và phát triển cách mạng. Tất cả những yếu tố trên hoà hợp với nhau, tạo nên đặc điểm cơ bản của văn học VN từ 1945 - 1975 về khuynh hướng thẩm mĩ.

- Ví dụ: Bài thơ “Đất nước” – Nguyễn Khoa Điềm 

+ Chất sử thi: thể hiện khi nó tập trung phản ánh những vấn đề có ý nghĩa sống còn của đất nước: Tổ quốc còn hay mất, tự do hay nô lệ. Nhân vật chính là những con người đại diện cho phẩm chất và ý chí của dân tộc; gắn bó số phận cá nhân với số phận đất nước; luôn đặt lẽ sống của dân tộc lên hàng đầu. Giọng điệu sử thi là giọng ngợi ca, trang trọng và đẹp tráng lệ, hào hùng.

+ Chất lãng mạn: sử dụng chất liệu chính là ca dao, dân ca. Điều đáng chú ý là nhà thơ không trích dẫn nguyên văn câu ca dao mà chỉ lấy lại ý để thể hiện những liên tưởng, suy ngẫm vừa độc đáo vừa sâu sắc. Từ "Đất Nước" được viết hoa và nhắc lại nhiều lần cùng giọng thơ chính luận trữ tình đã bộc lộ suy nghĩ sâu sắc và nói lên những tình cảm tha thiết đối với đất nước.

Câu 3 (trang 123 sgk Ngữ văn 12 Tập 2):  Hãy chuyển phần viết về văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay thành bảng tổng kết với những nội dung dưới đây:

Văn học

Bối cảnh lịch sử

Tình hình văn học

Khái quát chung

Nội dung

Nghệ thuật

Tác giả

Đầu thế kỉ XX- 1945

 

 

 

 

Từ 1945 – nay

Từ 1945 – 1975

 

 

 

 

Từ 1975 – nay

 

 

 

 

Trả lời:

Văn học

Bối cảnh lịch sử

Tình hình văn học

Khái quát chung

Nội dung

Nghệ thuật

Tác giả

Đầu thế kỉ XX- 1945

- Thực dân Pháp đã hoàn tất việc xâm chiếm Việt Nam.

- Xã hội có những chuyển biến sâu sắc

- Có sự giao thoa của văn hóa phương Tây

Văn học đổi mới theo hướng hiện đại hoa. Khái niệm hiện đại hoa được hiểu theo nghĩa văn học thoát ra khỏi hệ thống thi pháp văn học trung đại và đổi mới theo

truyền thống yêu nước của dân tộc.

Có luồng tư tưởng mới: nước gắn liền với dân, tinh thần yêu nước gắn liền với đấu tranh cách mạng.

ngôn ngữ: sự thay đổi quan trọng là chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán, chữ Nôm

truyện ngắn của Thạch Lam, truyện ngắn và tiểu thuyết của Nam Cao, tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, truyện ngắn của Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan;

thơ của Hồ Chí Minh, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tố Hữu, ...;

kịch: Nguyễn Huy Tưởng, v.v.

Từ 1945- nay

Từ 1945-1975

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Mỹ kết thúc với chiến thắng

văn thơ là vũ khí, nhà văn là chiến sĩ theo đường lối văn nghệ của Đảng. Văn học gắn

cảm hứng chủ đạo là cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong hai cuộc kháng chiến cứu nước và trong công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta.

Cảm hứng lãng mạn và khuynh hướng sử thi

ngôn ngữ: kết hợp giữa ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ mang đậm chất sử thi, giữa hình tượng mang vẻ đẹp tự nhiên, giản dị với hình tượng mang vẻ đẹp hào hùng.

Về thể loại: thơ và văn xuôi đều phát triển, kí, trường ca, tiểu thuyết dài

Nam Cao, Tô Hoài, Kim Lân, Nguyên Hồng,  thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Quang Dũng, Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật; trường ca của Nguyễn Khoa Điềm;Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, v.v.

Từ 1975-nay

Đất nước đổi mới

ca ngợi thắng lợi của cuộc kháng chiến và khẳng định con đường đi lên của cách mạng, đồng thời có những tìm tòi, kiến giải mới về hiện thực. Văn học chuyển hướng từ cảm hứng sử thi khi viết về chiến tranh sang cảm hứng thế sự, đời tư; tiếp cận với xu hướng hiện đại và hậu hiện đại của văn học thế giới.

Ở phương diện nội dung, cảm hứng phê phán trên tinh thần nhân bản trước nhiều mặt trái mới nảy sinh trong xã hội hoặc hiện thực trước đó thường bị che khuất; thể hiện khát vọng hạnh phúc đời thường; triết lí về nhân sinh, thế sự hoặc lịch sử là những vấn đề nổi bật.

 

ngôn ngữ đời thường, tự nhiên, bình dị Về thể loại: phong phú, đa dạng với nhiều tìm tòi đổi mới. Bút kí, phóng sự, tản văn nhanh nhạy trước những vấn đề của hiện thực xuất hiện khá nhiều. Trường ca với nhiều tác phẩm viết về chiến tranh. Truyện ngắn, tiểu thuyết, trong đó có nhiều tiểu thuyết lịch sử,

Tác giả, tác phẩm tiêu biểu, ở loại hình tự sự: truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp; tiểu thuyết của Lê Lựu, Bảo Ninh, Ma Văn Kháng; truyện kí của Minh Chuyên; loại hình trữ tình: thơ của Xuân Quỳnh, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Quang Thiều; tuỳ bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường; loại hình kịch: sáng tác của Xuân Trình, Lưu Quang Vũ, v

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 12 Cánh diều ngắn nhất, hay khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 12 hay khác:


Giải bài tập lớp 12 Cánh diều khác