(Siêu ngắn) Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ - Kết nối tri thức

Bài viết soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ trang 61, 62, 63, 64, 65, 66 siêu ngắn gọn sách Ngữ văn 10 Kết nối tri thức giúp học sinh lớp 10 dễ dàng soạn văn 10.

* Yêu cầu

(Siêu ngắn) Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ | Kết nối tri thức

* Phân tích bài viết tham khảo:

Những điệu xanh của mùa xuân (Đọc Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính)

- Nêu ấn tượng trước sự gợi mở của nhan đề và câu mở đầu bài thơ

- Phân tích mạch triển khai hệ thống hình ảnh trong bài thơ

- Phân tích phép đối, phép điệp và hiệu quả thẩm mĩ mà các phép tu từ này gợi ra

- Liên hệ, so sánh với thơ truyền thống để làm rõ những nét mới mẻ của bài thơ

- Khẳng định giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân bản của bài thơ. 

Gợi ý trả lời câu hỏi

Câu 1 (trang 64 sgk Ngữ văn 10 Tập 1): Tác giả bài viết cảm nhận và phân tích bài thơ Mùa xuân xanh của Nguyễn Bính vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ. Cách cảm nhận và phân tích đó có những ưu thế gì nổi bật?

Trả lời:

Giúp người đọc cảm nhận bài thơ một cách dễ hơn, rõ ràng hơn và không bị bỏ quên một chi tiết nào của bài thơ.

Câu 2 (trang 64 sgk Ngữ văn 10 Tập 1): Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là gì?

Trả lời:

Thực chất là chỉ ra được những đặc sắc nghệ thuật của bài, bao gồm: từ ngữ, hình ảnh, cách tổ chức nhịp điệu, nhạc điệu, cách liên kết mạch cảm xúc và hình ảnh,...

Câu 3 (trang 64 sgk Ngữ văn 10 Tập 1): Người viết đã đánh giá bài thơ như thế nào? Nêu nhận xét khái quát về tính thuyết phục của đánh giá đó.

Trả lời:

Người viết đánh giá: “Mùa xuân xanh” là bài thơ của niềm vui sống, của sự chan hoà giữa con người với tạo vật, là khúc dạo đầu của tình yêu lứa đôi. Những giá trị nhân bản ấy lại được thể hiện bằng một thứ ngôn từ thơ ca tự nhiên, giản dị nhưng vẫn có tính hiện đại.

=> Đánh giá vô cùng thuyết phục bởi nó được đặt ở kết bài, tác giả nêu ra những khái quát chung nhất về bài thơ qua những luận điểm đã phân tích ở trên.

* Thực hành viết

1. Chuẩn bị viết

- Lựa chọn bài thơ sẽ được phân tích, đánh giá. Cân nhắc để chọn đúng bài thơ đã thật sự làm bạn rung cảm và tin vào giá trị nghệ thuật của nó. 

+ Bài thơ “Thu hứng” của Đỗ Phủ.

- Tìm đọc tham khảo những bài viết, ý kiến liên quan đến bài thơ bạn sẽ phân tích, đánh giá

2. Tìm ý, lập dàn ý

a. Tìm ý

- Đọc lại bài thơ đã lựa chọn. Có thể đọc thầm hoặc đọc thành tiếng để cảm nhận đầy đủ hơn về âm điệu, nhịp điệu của nó. Chú ý những cách diễn đạt lạ, có thể lần đầu mình bắt gặp và những hình ảnh gây ấn tượng. Sau khi đọc, hãy suy nghĩ vì sao bài thơ lại có những cách tổ chức và kết hợp ngôn từ đặc biệt như vậy?

+ Nhan đề bài thơ “Thu hứng” (Cảm xúc mùa thu)

+ Nhịp điệu chậm rãi, thể hiện âm điệu thiết tha, da diết

- Thử liên kết âm điệu, nhịp điệu, ngôn ngữ, hình ảnh của bài thơ và chú ý xem mạch liên kết này có thể đem đến cho bạn sự bất ngờ nào trong cảm xúc, liên tưởng và nhận thức.

+ Mạch cảm xúc bài thơ theo lối tả cảnh ngụ tình, cảnh và tình hòa quyện với nhau.

- Khi phân tích nội dung nghệ thuật của bài thơ, chú ý vận dụng các thao tác so sánh và liên tưởng một cách thích hợp.

- Cần tập trung vào những phương diện hình thức nghệ thuật và nội dung của bài thơ mà người đọc xem là độc đáo, mới mẻ, thú vị.

+ Điểm độc đáo của bài thơ là những hình ảnh tả cảnh chứa chan cảm xúc và thể hiện tiếng lòng của nhà thơ.

- Khi đánh giá bài thơ, cần chú ý đầy đủ các giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân văn của nó.

b. Lập dàn ý

- Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về bài thơ (tác giả, thời điểm ra đời, nơi xuất bản, đánh giá chung của dư luận,....) và nêu các vấn đề chính sẽ được tập trung phân tích trong bài viết.

- Thân bài

+ Mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình (nhân vật trữ tình muốn biểu đạt điều gì, thông qua hình tượng nào, với cái nhìn và thái độ ra sao...)

+ Sự phát triển của hình tượng chính (qua các khổ, đoạn trong bài) và tính độc đáo của những phương tiện ngôn từ đã được sử dụng (từ ngữ, cách gieo vần, ngắt nhịp, các biện pháp tu từ,...)

+ Nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề  tài, chủ đề, thể loại (của chính nhà thơ hoặc của những tác giả khác)

- Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ, ý nghĩa của bài thơ đối với người viết bài nghị luận. 

Dàn ý tham khảo:

* Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Đỗ Phủ và bài thơ Thu hứng

* Thân bài:

a. Bốn câu thơ đầu miêu tả cảnh mùa thu

- Hình ảnh: ngọc lộ, phong thụ lâm: đây là những hình ảnh quen thuộc của mùa thu Trung Quốc.

+ Ngọc lộ: miêu tả hạt sương móc trắng xoá, dày đặc, hình ảnh tiêu điều, ảm đạm

+ Phong thụ lâm: cảnh sắc mùa thu cùng nỗi sầu ly biệt

- Núi vu, kẽm vu: đây là hai địa danh tại Trung Quốc.

- Khí tiêu sâm: mùa thu hiu hắt, ảm đạm

=> Không gian thiên nhiên vừa có chiều cao, chiều rộng và chiều sâu, không gian lạnh lẽo, xác xơ, ảm đạm.

=> Diễn tả cảm xúc buồn, cô đơn, lạnh lẽo của tác giả

- Điểm nhìn được thay đổi từ lòng sông đến miền quan ải, không gian được mở rộng.

+ Tầng xa: ở giữa dòng sông thăm thẳm là " sóng vọt lên tận lưng trời"

+ Tầng cao: miền quan ải với hình ảnh mây sa sầm giáp mặt đất.

+ Tầng rộng: mặt đất, bầu trời, dòng sông đều cho ta hình dung về một không gian rộng lớn.

- Hình ảnh đối lập, phóng đại: sóng - vọt lên tận trời, mây - sa sầm xuống mặt đất

=> Sự vận động trái chiều của những hình ảnh không gian kì vĩ, tráng lệ.

=> Tâm trạng con người ngột ngạt, bí bách

Bốn câu thơ là bức tranh mùa thu xơ xác, tiêu điều, mênh mông, đó phải chăng là xã hội Trung Quốc thời loạn lạc, bất an.

b. Bốn câu thơ sau: tình cảm đối với mùa thu

- Hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ:

+ Khóm cúc nở hoa - tuôn dòng lệ: tâm sự buồn của nhà thơ

+ Cô chu: hình ảnh con thuyền cô độc

=> Hình ảnh gợi sự trôi nổi, lưu lạc của con người, khát vọng về quê của tác giả.

+ Lưỡng khai: nỗi buồn trải dài từ quá khứ tới hiện tại

+ Nhất hệ: dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc tình của nhà tác giả

+ Cố viên tâm: đó là tấm lòng hướng về quê cũ, thân phận của kẻ tha hương

- Sự tương đồng giữa người và cảnh vật:

+ Tình - cảnh: nhìn cúc nở mà lòng tuôn giọt lệ

+ Quá khứ hiện tại: hoa cúc nở hai lần năm ngoái

+ Sự vật - con người: sợi dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc chặt tâm hồn người.

Hai câu thơ diễn tả nỗi lòng đau buồn, tha thiết nhớ quê

- Các hình ảnh:

+ Mọi người nhộn nhịp may áo rét

+ Giặt quần áo chuẩn bị cho mùa đông tới

- Âm thanh: tiếng chày đập vải

=> Âm thanh báo hiệu một mùa đông sắp về, nỗi thổn thức, lẻ loi, cô đơn nỗi mong nhớ trở về quê hương.

c. Nghệ thuật

+ Lời thơ buồn, thấm đẫm tâm trạng

+ Bút pháp đối lập, tả cảnh ngụ tình

+ Ngôn ngữ ước lệ tượng trưng

* Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị bài thơ.

3. Viết

Bài viết tham khảo

Thiên nhiên, bốn mùa xuân, hạ, thu đông từ lâu đã không còn là đề tài mới lạ trong thơ ca tự cổ chí kim. Thiên nhiên qua từng thời đại tuy được nhìn dưới những lăng kính khác nhau song đều là thiên nhiên của tâm trạng, là cảnh nhuốm màu cảm xúc. Cảnh hay được nhắc đến trong thơ là trăng, hoa, tuyết, vân…mùa thì có xuân, đông, hạ và đặc biệt là mùa thu. Viết về mùa thu, nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc Đỗ Phủ có bài “ Cảm xúc mùa thu”.

Đỗ Phủ (712 – 770) xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và thơ ca, suốt đời sống trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông sáng tác rất nhiều và để lại cho đời hàng ngàn bài thơ có nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử thời ông đang sống và chan chứa lòng yêu nước thương đời. Với những đóng góp to lớn cho nền thi ca Trung Quốc nói riêng và nền văn hóa nhân loại nói chung, Đỗ Phủ đã được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.

Bài thơ “ Cảm xúc mùa thu” thuộc chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu.. Tứ Xuyên là vùng núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương nhà thơ mấy ngàn dặm. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loan đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người. Hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc bi thương là cảm xúc chủ đạo của “ Cảm xúc mùa thu” vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh đất nước loạn lạc, rối ren.

Mở đầu bài thơ, tác giả vẽ nên bức tranh cảnh vật rừng núi mùa thu đẹp nhưng tiêu điều, xơ xác:

“ Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.”

(Lác đác rừng phong hạt móc sa,

Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.

Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Chỉ với vài nét chấm phá, Đỗ Phủ đã thể hiện được cái thần của một chiều thu ở Quý Châu trong vị trí tương đối cao để hướng tầm mắt bao quát toàn cảnh. Cảnh có xa, có rộng đều được thu lại nơi con mắt tinh tế của thi nhân:

“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm”

(Lác đác rừng phong hạt móc sa)

Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu gợi lên một cảnh rừng chuyển lá đỏ là tượng trưng cho sự li biệt. Cùng với rừng phong lá đỏ, hình ảnh hạt móc sa là những giọt sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu, gợi sự lạnh lẽo giăng mắc dày đặc càng làm xơ xác thêm rừng phong.

Tầm mắt từ ngắm nhìn cảnh thu ở rừng phong, tác giả chuyển sang cảnh thu ở vùng núi non:

“Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm”

Nhắc đến Vu sơn, Vu giáp là người đọc nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia, toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vũ nổi tiếng hiểm trở và hùng vĩ của được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Suốt cả chiều dài bảy trăm dặm, núi tiếp núi dọc đôi bờ sông, quanh năm mây mù bao phủ. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Vào mùa thu, khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng li sầu của Đỗ Phủ lại càng thêm tối tăm, ảm đạm.

Đến hai câu thơ tiếp theo vẫn là cảnh nhưng được nhìn ở một tầm thấp hơn:

“Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.”

(Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm,

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)

Cảnh thu hiện lên qua hình ảnh con sông ở thượng nguồn nhiều ghềnh thác, nước chảy xiết và hình ảnh “ mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Nước sông chảy xiết nên giữa lòng sông, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời. Hình ảnh: “ Mặt đất mây đùn cửa ải xa” tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Cảnh ở đây không nhuốm màu bi thương tàn tạ như hai câu thơ đầu mà có phần vừa hoành tráng vừa dữ dội. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ.

Ở bốn câu thơ sau, trước cảnh thư, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình:

“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.”

(Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,

Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)

Hoa cúc là hình ảnh đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, điều đó không có gì mới. Điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa nhà thơ lại rơi lệ. Vì sao vậy? Vì nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu, xa nhà, xã quê. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào, làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả “ Cô chu nhất hệ cố viên tâm” (Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ).

Hai câu kết:

“Hàn y xứ xứ thôi đao xích

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.”

(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,

Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)

Câu thơ bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn nhưng không đủ sức làm nhộn nhịp không gian mà càng làm nổi bật hơn nỗi buồn mênh mang. Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở mọi người rằng mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh nhanh cho việc may áo ấm nhưng cũng khiến nhà thơ chạnh lòng nghĩ tới những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang… “Ngôn tận nhi ý bất tận” (lời hết mà ý không hết).

Thực ra viết về mùa thu của thiên nhiên cũng là nhà thơ đang viết về một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời. Chiến tranh liên miên, Đỗ Phủ phiêu bạt muôn nơi và ôm ấp một hi vọng mong manh là được trở về quê cũ. Ước mơ ấy cũng là ước mơ chung của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Vì vậy, hàm ẩn sau những câu thơ thu là một tâm hồn đau đáu nỗi thương đời, thương người của Đỗ Phủ. Chính nỗi lòng ấy đã mang thơ Người đến gần chúng ta và sống cùng chúng ta.

4. Chỉnh sửa, hoàn thiện

- Đọc lại và kiểm tra bài viết, đồng thời đối chiếu với các yêu cầu của đề bài, mục đích mà người viết đặt ra

- Thử tóm tắt lại bài viết (khoảng 120 chữ) để tự đánh giá về mức độ chặt chẽ và sự sáng rõ của các luận điểm

- Chỉnh sửa các lỗi về chính tả và ngữ pháp.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 10 Kết nối tri thức siêu ngắn, hay khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 10 hay khác:


Giải bài tập lớp 10 Kết nối tri thức khác