Đề cương ôn tập Học kì 1 Ngữ Văn 12 Cánh diều

Bộ đề cương ôn tập Học kì 1 Ngữ Văn 12 Cánh diều với các dạng bài đa dạng có lời giải chi tiết giúp học sinh lớp 12 nắm vững được kiến thức cần ôn tập để đạt điểm cao trong bài thi Văn 12 Học kì 1.

Xem thử

Chỉ từ 80k mua trọn bộ đề cương ôn tập Học kì 1 Ngữ Văn 12 Cánh diều bản word có lời giải chi tiết:

Nội dung kiến thức Văn 12 Học kì 1 Cánh diều

I. NỘI DUNG KIẾN THỨC CẦN ÔN TẬP

A. Phần 1: Nội dung kiến thức cần ôn tập

1. Văn bản:

- Phân tích và đánh giá được sự phù hợp của người kể chuyện, điểm nhìn trong việc thể hiện chủ đề của văn bản; nhận biết và phân tích được một số yếu tố của truyện truyền kì (đề tài, nhân vật, ngôn ngữ, thủ pháp nghệ thuật,...), vai trò của yếu tố kì ảo ở truyện truyền kì trong sự so sánh với truyện cổ dân gian. Nhận biết được các giá trị nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ trong một tác phẩm văn học cụ thể.

- Nhận biết và phân tích được một số yếu tố hình thức (ngôn ngữ, xung đột, hành động, nhân vật, kết cấu, tình huống, thủ pháp trào phúng,...) và nội dung (đề tài, chủ đề, thông điệp,...) của hài kịch; phân tích và đánh giá được tác động của tác phẩm hài kịch đối với người đọc và tiến bộ xã hội.

- Nhận biết và phân tích được một số yếu tố của nhật kí, phóng sự, hồi kí như tính phi hư cấu và một số thủ pháp nghệ thuật: miêu tả, trần thuật; sự kết hợp chi tiết, sự kiện hiện thực với trải nghiệm của người viết,... trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng, thông điệp của tác phẩm. Đánh giá được tác động của tác phẩm đối với người đọc và tiến bộ xã hội.

- Phân tích, đánh giá được chủ đề, tư tưởng, thông điệp mà văn bản muốn gửi đến người đọc thông qua hình thức nghệ thuật của văn bản văn tế (kết cấu, hình tượng nhân vật, ngôn ngữ,...), thơ (cảm hứng chủ đạo, nhân vật trữ tình, hình ảnh, ngôn ngữ,...)

- Nhận biết, phân tích được nội dung và vai trò của các luận điểm, lí lẽ, bằng chứng tiêu biểu, độc đạo; mục đích, tình cảm và quan điểm của người viết; mức độ phù hợp giữa nội dung nghị luận với nhan đề của văn bản; các biện pháp làm tăng tính khẳng định, phủ định; cách lập luận và ngôn ngữ biểu cảm trong văn bản nghị luận.

a. Truyện truyền kì

Nội dung

Kiến thức

1. Khái niệm

Truyện truyền kì là một thể loại tự sự của văn học trung đại, tiếp thu từ văn học Trung Quốc. Tuy là văn học viết nhưng truyện truyền kì dựa trên truyền thống tự sự dân gian.

2. Mô típ

Người hoá thần, người chết sống lại,...

3. Nhân vật

Có sự tương giao giữa thần và người, cõi sống và cõi chết,...

4. Nội dung

Viết về những câu chuyện xảy ra trong quá khứ, thường mượn “xưa” để nói "nay”.

5. Yếu tố kì ảo

Những yếu tố kì ảo trong truyện truyền kì vừa khiến cho câu chuyện thêm hấp dẫn, thú vị vừa kín đáo phản ánh hiện thực và bộc lộ thái độ của người viết. Ở các giai đoạn văn học sau này, yếu tố kì ảo vẫn có thể được sử dụng như một thủ pháp để thể hiện tư tưởng, chủ đề của tác phẩm.

6. Mối quan hệ giữa truyện truyền kì với truyện cổ dân gian

- Truyện truyền kì và truyện cổ dân gian cùng có chung mô hình về thế giới: sự song song tồn tại có tác động qua lại của thế giới người (cõi trần) và thần tiên, ma quỷ (thiên đình, cõi âm).

- Khác với truyện cổ dân gian, truyện truyền kì là thể loại văn học viết, nơi mà vai trò của cá tính sáng tạo đã hiện diện. Các tác giả truyện truyền kì tiếp thu những mô típ kì ảo của truyện cổ dân gian và cải biến sáng tạo những mô típ này để gửi gắm những tâm sự, những cách nhìn độc đáo về đời sống.

b. Hài kịch

Nội dung

Kiến thức

1. Khái niệm

Hài kịch là một thể loại kịch, mang đầy đủ những đặc điểm của thể loại này về cốt truyện, ngôn ngữ, xung đột, hành động kịch,... nhưng vẫn có những điểm khác biệt riêng.

2. Đặc điểm chung

Hài kịch sử dụng tiếng cười để chế giễu, phê phán, châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu, cái nhố nhăng, lố bịch, kệch cỡm, lỗi thời,... trong đời sống.

3. Xung đột trong hài kịch

Xung đột trong hài kịch thường là mâu thuẫn giữa cái xấu (cái thấp hèn) với cái tốt (cái đẹp, cái cao cả), cũng có khi là mâu thuẫn giữa cái xấu với cái xấu.

 

4. Nhân vật trong hài kịch

Nhân vật trong hài kịch thường có sự không tương xứng giữa thực chất bên trong và hành động bên ngoài, giữa suy nghĩ và hành động, lời nói và việc làm, phẩm chất, năng lực và vị trí xã hội,... hoặc có thói quen, tính cách, ứng xử,... trái với lẽ thường; vì vậy thường trở nên lố bịch, hài hước, đáng cười.

5. Hành động trong hài kịch

Hành động trong hài kịch là toàn bộ hoạt động của nhân vật (lời thoại, cử chỉ, điệu bộ, hành vi,...) tập trung bộc lộ thói tật, tính cách đáng cười của nhân vật hài kịch.

6. Ngôn ngữ trong hài kịch

Ngôn ngữ trong hài kịch bao gồm lời thoại (đối thoại, độc thoại, bàng thoại) và chỉ dẫn sân khấu. Tác giả thường sử dụng ngôn ngữ gần với đời sống và các biện pháp như: chơi chữ, nói lái, nói lắp, nhại.

7. Kết cấu của văn bản kịch

Kết cấu của văn bản hài kịch cũng được chia thành các hồi, lớp, cảnh,... Hệ thống nhân vật được tổ chức theo quan hệ đối lập để làm nổi bật xung đột.

c. Nhật kí, phóng sự, hồi kí

Nội dung

Kiến thức

1. Khái niệm

Nhật kí, phóng sự, hồi kí là những thể loại của loại hình kí nhưng có những yếu tố đặc trưng riêng.

2. Phân loại

Nhật kí ghi chép theo thứ tự ngày tháng về những sự kiện của đời sống mà tác giả là người trực tiếp tham gia hay chứng kiến; thường bộc lộ suy nghĩ, thái độ và đánh giá của người viết về con người, cuộc đời và chính bản thân mình.

Phóng sự ghi chép kịp thời, cụ thể những sự việc nhằm làm sáng tỏ trước công luận về vấn đề đặt ra từ bài viết. Vấn đề nêu lên trong bài phóng sự thường liên quan đến hoạt động và số phận của một hoặc nhiều người, có ý nghĩa thời sự đối với xã hội. Mang yếu tố chính luận: câu chuyện được xen kẽ với những suy nghĩ và bình luận ngoại đề của tác giả.

Hồi kí ghi lại những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ mà tác giả là người trực tiếp tham gia hoặc chứng kiến. Do sự cách quãng của thời gian diễn ra sự kiện nên hồi kí không ghi chép tỉ mỉ hằng ngày như nhật kí mà chỉ ghi chép dựa trên ấn tượng và hồi ức của cá nhân người viết. Hồi kí cần bảo đảm tính khách quan, chính xác về sự kiện, nhân vật, thời gian, địa điểm,...

3. Tính phi hư cấu

Tính phi hư cấu thể hiện ở những sự kiện có thực (về thời gian, địa điểm, số liệu,...) mà người viết đã trực tiếp tham gia hay chứng kiến.

4. Một số thủ pháp nghệ thuật khác

Thủ pháp nghệ thuật miêu tả kết hợp với trần thuật giúp sự kiện và con người trong tác phẩm hiện lên sinh động.

Ở thể loại nhật kí, thường sử dụng hình thức trần thuật ngôi thứ nhất, số ít. Nhật kí là thể loại độc thoại, song lời độc thoại của tác giả hoặc nhân vật lại có thể là cuộc đối thoại ngầm với người khác về con người, cuộc đời và bản thân mình.

Ở thể loại phóng sự, người viết thường bám sát hiện thực đời sống, phát hiện những sự việc, vấn đề gay cấn, có ý nghĩa thời sự để điều tra, phỏng vấn, đối thoại, ghi chép,.... nhằm cung cấp cho công chúng những bằng chứng xác thực, cụ thể để họ có thể đánh giá đúng người và việc mà họ đang quan tâm theo dõi.

Ở thể loại hồi kí, người viết thường kể lại những sự kiện dựa trên ấn tượng, hồi ức của cá nhân và chính những ấn tượng, cảm tưởng trực tiếp của tác giả lại có giá trị như một tài liệu xác thực, đáng tin cậy

d. Văn tế

Nội dung

Kiến thức

1. Khái niệm

Văn tế là thể loại văn học chủ yếu gắn với phong tục tang lễ, bày tỏ tình cảm của người còn sống đối với người đã mất. Đôi khi văn tế biến thể được dùng trong những trường hợp đùa vui hay châm biếm, đả kích.

2. Nội dung

Bài văn tế thường có hai nội dung cơ bản: tưởng nhớ người đã mất và thể hiện tình cảm của người còn sống trong giờ phút vĩnh biệt người đã mất.

3. Kết cấu

- Bốn phần:

+ Đoạn mở đầu (lung khởi) thường bàn luận chung về lẽ sống – chết hoặc cảm tưởng khái quát về người đã mất.

+ Đoạn thứ hai (thích thực) kể về cuộc đời, công đức phẩm hạnh của người đã mất (thường bắt đầu bằng cụm từ Nhớ linh xưa)

+ Đoạn thứ ba (ai vãn) nói lên niềm thương tiếc đối với người đã chết

+ Đoạn kết bày tỏ nỗi nhớ thương, lời tâm nguyện, cầu nguyện của người đứng tế Cũng có khi đoạn thứ ba và đoạn kết được ghép làm một.

4. Hình thức

Văn tế có thể được viết bằng văn xuôi cổ, có đối ; văn vần; văn biền ngẫu. Văn tế có khi được viết theo thể tự do nhưng phần nhiều văn tế phỏng theo thể phú Đường luật (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc).

5. Nghệ thuật

Văn tế thường sử dụng nhiều thán từ, những từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị biểu cảm.

e. Văn nghị luận

Nội dung

Kiến thức

1. Tính khẳng định, phủ định

- Nguyên nhân: Văn nghị luận thể hiện rất rõ thái độ, nhận thức, lập trường và quan điểm của người viết. Trước vấn đề nêu lên để bàn luận, người viết cần bày tỏ ý kiến, khẳng định cái đúng, cái tốt; bác bỏ, phê phán cái sai, cái xấu,...

- Ngôn ngữ: thường dùng các từ, các câu khẳng định, phủ định nhằm tạo cho bài văn một âm hưởng, giọng điệu mạnh mẽ,….

- Phạm vi: Tính khẳng định và phủ định không chỉ có trong văn nghị luận xã hội mà trong cả văn nghị luận văn học.

2. Lập luận và ngôn ngữ biểu cảm

- Lập luận: là cách thức trình bày và triển khai luận điểm; cách nêu vấn đề và giải quyết vấn đề; cách dùng những lí lẽ và dẫn chứng; cách sử dụng các thao tác như phân tích, giải thích, chứng minh, so sánh, đối chiếu,... để làm sáng tỏ điều tác giả muốn nói, để người đọc hiểu, tin và đồng tình với mình.

- Ngôn ngữ biểu cảm: sử dụng nhiều từ ngữ như kết từ, tình thái từ, nhằm nhấn mạnh, tạo nên giọng văn giàu màu sắc biểu cảm.

................................

................................

................................

Các dạng bài Văn 12 Học kì 1 Cánh diều

II. MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP MINH HỌA

1. Dạng 1: Đọc – hiểu

Bài tập 1. Đọc ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi:

THUẾ MÁU(1)

(Nguyễn Ái Quốc)

1. CHIẾN TRANH VÀ “NGƯỜI BẢN XỨ(2)

Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-na-mít (Annamite)”(3) bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiển” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”.

Nhưng họ đã phải trả bằng một cái giá khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ cho cái công lí và tự do mà chính họ không được hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu. Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi(4), đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng (Balcan)(5), lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ, - chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ (Marne), hoặc trong bã lầy miền Săm-pa-nhơ (Champagne)(6), để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế(7).

Cuối cùng, ở hậu phương, những người làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn “bô-sơ”(8), nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; đằng nào cũng thế thôi, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy. Tổng cộng có 700 000 người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, 80 000 người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa!

II. CHẾ ĐỘ LÍNH TÌNH NGUYỆN

Một bạn đồng nghiệp nói với chúng tôi: Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khoá, sưu sai, tạp dịch(9), bằng cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ 1915 – 1916 tới nay, lại - còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính nữa.

Những biến cố trong mấy năm gần đây là cái cớ để người ta tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương. Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: Lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp,...

Theo ý kiến của tất cả các cơ quan có thẩm quyền không thiên vị được giao cho sử dụng ở châu Âu “vật liệu biết nói” châu Á, thì vật liệu này đã không đưa lại kết quả tương xứng với chi phí rất lớn về chuyên chở và bảo quản.

Sau nữa, việc săn bắt thứ “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra những vụ những lạm(10) hết sức trắng trợn.

Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “chúa tỉnh” mỗi viên công sứ(11) ở Đông Dương quả là một vị “chúa tỉnh” – ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở kiểu D(12) thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền.

Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo khổ, những người này phải chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “Đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra”.

Những người bị tóm đi như thế còn hào hứng gì nữa với cái nghề cột vào cổ họ. Cho nên, bước chân vào trại lính là họ liền tìm mọi cơ hội để trốn thoát.

Còn những người nào thấy không thể thoát khỏi số phận hẩm hiu, thì tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất, mà thông thường hơn cả là bệnh đau mắt toét chảy mủ, gây ra bằng cách xát vào mắt nhiều thứ chất độc, từ vôi sống đến mủ bệnh lậu.

Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, Phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những người lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:

“Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến: xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”.

Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hoà và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại"?

[...]

III. KẾT QUẢ CỦA SỰ HI SINH

Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng(13) rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người “Nê-grô” (negroid)(14) lẫn người “An-na-mít” mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”.

Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ,... trước khi đưa họ đến Mác-xây (Marseille) xuống tàu về nước, đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao? Về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!” đó sao?

Thế là những “cựu binh” – đúng hơn là cái xác còn lại – sau khi đã dũng cảm bảo vệ chính nghĩa và công lí nay tay không trở về với chế độ bản xứ của họ, một chế độ không biết gì đến chính nghĩa và công lí cả.

Theo báo chí Đông Dương thì thương binh người Pháp bị mất một phần thân thể và vợ con của tử sĩ người Pháp đều được cấp môn bài(15) bán lẻ thuốc phiện.

Như thế là trong một việc mà chính quyền thuộc địa đã phạm tới hai tội ác đối với nhân loại. Một mặt, họ vẫn chưa thoả khi tự tay làm cái việc bỉ ổi của người đầu độc, mà còn muốn lôi kéo vào đây cả những nạn nhân đáng thương hại của cuộc huynh đệ tương tàn(16) nữa. Mặt khác, họ coi rẻ tính mạng và xương máu của những kẻ đã bị họ lừa bịp, đến nỗi tưởng rằng chỉ cần quẳng cho những người này khúc xương thối ấy là đủ để đền bù được một cánh tay bị mất hoặc mạng của một người chồng. Chúng tôi chắc rằng thương binh và quả phụ chiến tranh sẽ đá văng món quà nhơ nhớp ấy và nhổ vào mặt kẻ tặng quà. Chúng tôi cũng tin chắc rằng thế giới văn minh và người Pháp lương thiện sẽ đứng về phía chúng tôi lên án bọn cá mập thực dân đang không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi.

[...]

(In trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 25-33)

* Chú thích:

(1) Thuế máu: Phần văn bản trên được trích từ Chương 1 (Thuế máu) trong Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Bản án chế độ thực dân Pháp được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản lần đầu tại Pa-ri năm 1925, tại Việt Nam năm 1946. Tác phẩm gồm 12 chương và phụ lục Gửi thanh niên Việt Nam, tố cáo những tội ác tày trời của thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội,... và tình cảnh khốn cùng của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa Pháp trên thế giới.

(2) Người bản xứ: người dân ở một đất nước được nói đến với hàm ý coi khinh (theo quan điểm của chủ nghĩa thực dân).

(3) An-na-mít: (từ tiếng Pháp) chỉ người Việt Nam, thuộc về Việt Nam.

(4) Ngư lôi: một loại vũ khí thả xuống nước, dùng sức điện để phá huỷ chiến hạm quân địch.

(5) Ban-căng: một bán đảo nằm ở giữa biển A-đờ-ri-a-tích (Adriatic) và biển Đen, ngay góc đông nam của châu Âu.

(6) Săm-pa-nhơ: một vùng đất ở đông bắc nước Pháp.

(7) Thống chế: như Nguyên soái (thường dùng nói về quân hàm trong quân đội các nước tư bản).

(8) Bô-sơ: (từ tiếng Pháp) có nghĩa xấu, chỉ quân đội Đức.

(9) Sưu sai, tạp dịch: sưu (hay thuế thân), còn gọi là thuế đinh, thuế đầu người, là thứ sưu/ thuế căn cứ vào cư dân địa phương, mỗi dân đinh (đàn ông trong độ tuổi quy định: thường là 18 – 60 tuổi) đều phải nộp cho nhà nước trong chế độ phong kiến cũng như trong chế độ thực dân - phong kiến. Bên cạnh sưu đóng bằng hiện vật hoặc hiện kim, còn có sưu dịch đóng bằng sức lao động, thường là những công việc lao động nặng nhọc mà dân đinh phải làm cho nhà nước; sưu sai, tạp dịch: chỉ việc sưu nói chung.

(10) Những lạm: lạm dụng quyển hành để gây phiền hà và lấy của.

(11) Công sứ: viên chức người Pháp đứng đầu bộ máy cai trị cấp tỉnh ở Việt Nam thời Pháp thuộc, được thiết lập ở Trung Kì và Bắc Kì.

(12) D: chữ đầu của từ “débrouillard” (tiếng Pháp), có nghĩa là “xoay xở, tháo vát”.

(13) Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng: một cách chơi chữ của tác giả, nói về cái chết của người da đen và da vàng.

(14) Nê-grô: chỉ những người da đen.

(15) Môn bài: giấy cho phép mở cửa hàng buôn bán.

(16) Huynh đệ tương tàn: anh em tàn sát lẫn nhau.

Câu 1. Giải thích nhan đề Thuế máu. Từ nhan đề và các đề mục (Chiến tranh và “người bản xứ”, Chế độ lính tình nguyện, Kết quả của hi sinh), xác định chủ đề và thông điệp của văn bản.

Câu 2. Phân tích cách miêu tả thái độ của các quan cầm quyền thực dân Pháp đối với dân bản xứ, trước, trong và sau chiến tranh. Cách miêu tả đó có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm?

Câu 3. Cảm hứng chủ đạo của văn bản là gì?

Câu 4. Nhận xét về nghệ thuật viết phóng sự của Nguyễn Ái Quốc (kết cấu, cách sử dụng số liệu, từ ngữ, giọng văn, thủ pháp trào phúng, các biện pháp tu từ,... trong việc thể hiện tư tưởng tác phẩm).

Câu 5.  Anh/ chị có suy nghĩ, cảm xúc gì về “chế độ lính tình nguyện” của thực dân Pháp đối với người dân bản xứ?

................................

................................

................................

Xem thử

Xem thêm đề cương ôn tập Ngữ Văn 12 Cánh diều có lời giải hay khác:


Đề thi, giáo án lớp 12 các môn học