Đề cương ôn tập Giữa kì 2 Ngữ Văn 12 Cánh diều
Bộ đề cương ôn tập Giữa kì 2 Ngữ Văn 12 Cánh diều với các dạng bài đa dạng có lời giải chi tiết giúp học sinh lớp 12 nắm vững được kiến thức cần ôn tập để đạt điểm cao trong bài thi Văn 12 Giữa kì 2.
Chỉ từ 80k mua trọn bộ đề cương ôn tập Giữa kì 2 Ngữ Văn 12 Cánh diều bản word có lời giải chi tiết:
- B1: gửi phí vào tk:
1053587071
- NGUYEN VAN DOAN - Ngân hàng Vietcombank (QR) - B2: Nhắn tin tới Zalo VietJack Official - nhấn vào đây để thông báo và nhận giáo án
Nội dung kiến thức Văn 12 Giữa kì 2 Cánh diều
I. NỘI DUNG KIẾN THỨC CẦN ÔN TẬP
1. Văn bản:
- Vận dụng những hiểu biết về bối cảnh lịch sử, tác giả, đặc điểm văn nghị luận, truyện ngắn, thể loại thơ Đường luật để đọc hiểu một số tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh. Hiểu được vẻ đẹp tâm hồn, tư tưởng, tài năng, phong cách nghệ thuật của Người.
- Nhận biết, phân tích được một số yếu tố hình thức (ngôn từ, giọng điệu, diễn biến tâm lí, bối cảnh, điểm nhìn trần thuật,…) và nội dung (chủ đề, tư tưởng và cảm hứng) trong tiểu thuyết hiện đại.
a. Phong cách nghệ thuật
Nội dung |
Kiến thức |
1. Khái niệm |
- Phong cách là sự độc đáo về tư tưởng cũng như về nghệ thuật thể hiện thành những phẩm chất thẩm mĩ trong sáng tác của những nhà văn ưu tú, có tài năng điêu luyện. - Phong cách là hệ thống những đặc điểm về mặt hình thức, bao gồm các thủ pháp nghệ thuật, các phương tiện diễn đạt, tạo nên tính độc đáo của một hiện tượng văn học và khu biệt hiện tượng này với hiện tượng khác. => Phong cách nghệ thuật là những nét độc đáo cả về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật được thể hiện thống nhất, tương đối ổn định ở một hiện tượng văn học. - Phong cách còn để chỉ tính độc đáo, thống nhất của một trào lưu hay dòng văn học (phong cách cổ điển, phong cách lãng mạn,...) hoặc phong cách một thời đại. |
2. Một số phong cách nhà văn nổi bật ở Việt Nam |
Phong cách của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, phong cách của Hồ Chí Minh trong Nhật kí trong tù; hoặc phong cách nghệ thuật của một tác giả như phong cách Nam Cao, Nguyễn Tuân, Tố Hữu, Nguyễn Bính,... |
b. Văn chính luận
Nội dung |
Kiến thức |
1. Khái niệm |
Văn chính luận là một thể văn nghị luận, trong đó người viết trực tiếp bàn luận về những vấn đề cấp thiết, mang tính thời sự thuộc nhiều lĩnh vực đời sống: chính trị, kinh tế, triết học, văn hoá,... |
2. Mục đích |
Tác động đến dư luận xã hội đương thời, đến lối sống, đến các quyền lợi chính trị hiện hành; đề xuất việc củng cố hoặc thay đổi chúng cho phù hợp với quyền lợi giai cấp hoặc với lí tưởng xã hội, đạo đức. |
3. Đặc điểm nổi bật |
Phong cách chính luận nổi bật ở tính luận chiến, tính cảm xúc. Nó gần gũi với giọng điệu, kết cấu và chức năng của lời diễn thuyết. |
4. Vai trò |
Văn chính luận có vai trò hết sức quan trọng trong đời sống tinh thần của dân tộc, nhất là trong các cuộc kháng chiến giữ nước và trong đấu tranh xã hội. |
c. Tiểu thuyết hiện đại
Nội dung |
Kiến thức |
1. Khái niệm |
Tiểu thuyết hiện đại là tiểu thuyết được sáng tác bởi các nhà văn không chấp nhận các khuôn mẫu của tiểu thuyết truyền thống, muốn cách tân, thể nghiệm những hình thức, kĩ thuật mới. |
2. Thời điểm hình thành |
- Ở phương Tây, tiểu thuyết hiện đại hình thành vào khoảng đầu thế kỉ XVII. Các nhà tiểu thuyết hiện đại sáng tạo ra những hình thức tiểu thuyết mới: tiểu thuyết tình cảm, tiểu thuyết lãng mạn, tiểu thuyết hiện thực, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết trào phúng, tiểu thuyết tâm lí,... - Ở Việt Nam, tiểu thuyết hiện đại là tiểu thuyết được sáng tác bằng chữ Quốc ngữ, xuất hiện từ khoảng cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Đây là những tiểu thuyết có nội dung và hình thức khác hẳn với tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán và truyện thơ viết bằng chữ Nôm. |
3. Ý nghĩa của tiếp nhận tiểu thuyết hiện đại vào Việt Nam |
Các nhà tiểu thuyết hiện đại Việt Nam tiếp thu tinh thần và hình thức của tiểu thuyết hiện đại phương Tây nhằm không ngừng đổi mới thể loại, phản ánh và góp phần giải quyết những vấn đề phức tạp, thời sự, cấp thiết của thời đại. |
d. Phong cách hiện thực và phong cách hiện đại
|
Phong cách hiện thực |
Phong cách hiện đại |
1. Khái niệm |
Phong cách hiện thực trong văn học lấy việc miêu tả, tái hiện đời sống chính xác như nó vốn có làm nguyên tắc thẩm mĩ cơ bản. |
Phong cách hiện đại trong văn học thế giới xuất hiện từ khoảng cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX. Phong cách hiện đại việc phá vỡ các giới hạn và khuôn mẫu cứng nhắc của những phong cách văn học truyền thống làm nguyên tắc thẩm mĩ cơ bản. |
2. Đặc điểm của nhà văn |
Các nhà văn có phong cách hiện thực thường đưa vào tác phẩm những chi tiết, sự việc thường ngày; khám phá diễn biến tâm lí khách quan của nhân vật trong mối liên hệ chặt chẽ với hoàn cảnh xã hội. |
Các nhà văn có phong cách hiện đại ưa thích thử nghiệm các kĩ thuật văn học mới lạ như dùng nhiều điểm nhìn trần thuật, thay đổi linh hoạt về giọng điệu, xoá nhoà ranh giới thể loại, kết cấu phi tuyến tính, dòng tâm tư,... nhằm phản ánh cuộc sống hiện tại và cách tân, đổi mới văn học. |
3. Ví dụ |
Chiến tranh và hòa bình của Lép Tôn-xtôi (Lev Tolstoy), Số đỏ của Vũ Trọng Phụng,… |
Ông già và biển cả của Ơ-nít Hê-minh-uê (Ernest Hemingway), Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh,… |
e. Bảng hệ thống hóa thông tin về các văn bản đọc
Bài |
Văn bản |
Tác giả |
Loại, thể loại |
Đặc điểm nổi bật |
|
Nội dung |
Hình thức |
||||
6 |
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh – Cuộc đời và sự nghiệp |
Nhóm biên soạn |
Nghị luận văn học |
- Văn bản đem đến những thông tin về bối cảnh lịch sử, văn hóa Việt Nam cuối thế kỉ 19 – đầu thế kỉ 20, quê hương, gia đình, cuộc đời của Nguyễn Ái Quốc và sự nghiệp văn học của Người. - Sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh thường phản ánh và gắn chặt với sự nghiệp cách mạng của Người, là một phong cách nghệ thuật vừa đa dạng, vừa thống nhất. Bác không chỉ là một nhà văn, nhà thơ lớn mà còn là một người lãnh đạo cách mạng tài ba của Việt Nam. |
Bài viết đã đề cập đến cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với sức thuyết phục cao bởi lập luận chặt chẽ, chứng cứ phong phú, xác thực, cụ thể. |
Tuyên ngôn độc lập |
Hồ Chí Minh |
Văn chính luận |
Bản tuyên ngôn mở đầu bằng những câu trích dẫn từ "Tuyên ngôn độc lập" của Mỹ, "Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền" của Pháp để khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Tiếp đó, bản tuyên ngôn lên án tội ác của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam trong đó hơn 80 năm chúng xâm lược chúng ta. Đó là tội ác về kinh tế, chính trị, văn hóa, tội bán nước hai lần cho Nhật. Bản tuyên ngôn nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa và thắng lợi của nhân dân ta. Bản tuyên ngôn kết thúc bằng lời tuyên bố quyền độc lập tự do và ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập tự do của toàn dân tộc. |
- Là một áng văn chính luận mẫu mực với lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn. - Dẫn chứng xác thực, lấy ra từ lịch sử cụ thể.
|
|
Nhật kí trong tù – Ngắm trăng, Lai Tân |
Hồ Chí Minh |
Thất ngôn tứ tuyệt |
Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên say mê và phong thái ung dung của Bác ngay cả trong cảnh tù đày. |
- Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt giản dị. - Hình ảnh thơ trong sáng, đẹp đẽ. - Ngôn ngữ lãng mạn. - Màu sắc cổ điển và hiện đại song hành. |
|
Vi hành |
Nguyễn Ái Quốc |
Truyện ngắn |
- Tố cáo chế độ chính sách dã man, bịp bợm của thực dân. - Lên án chính sách ngu dân, đầu độc người dân bằng thuốc phiện, rượu. - Bản chất của những tên thực dân lừa bịp, mang danh khai hóa nhưng thực chất cướp nước. - Tố cáo chế độ nhà tù giam cầm người yêu nước trên khắp đất Pháp. => Tác phẩm có sức chiến đấu mạnh mẽ. |
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo. - Truyện được viết dưới dạng một bức thư – lối văn tự do, phóng túng và đa giọng điệu: từ giễu cợt mỉa mai, phê phán đả kích đến trữ tình tự sự. ⇒ Tác phẩm tiêu biểu cho bút pháp văn xuôi hiện đại. - Cách kể truyện tự nhiên, hóm hỉnh, kết hợp giữa kể và tả. |
|
7 |
Hạnh phúc của một tang gia |
Vũ Trọng Phụng |
Tiểu thuyết |
Tố cáo xã hội nhố nhăng, suy tàn, thối nát. Miêu tả cái "đám cứ đi", nhà văn muốn phơi bày tất cả sự giả dối, bịp bợm, vô đạo đức của xã hội thượng lưu. Từ đó nhà văn đả kích châm biếm sâu cay, thâm thuý những thói xấu xa của xã hội đương thời. |
- Xây dựng những chi tiết mâu thuẫn trào phúng ấn tượng. - Nghệ thuật xây dựng và phát triển các tình huống. - Giọng văn mỉa mai, thủ pháp cường điệu, nói quá được sử dụng một cách linh hoạt. - Ngòi bút miêu tả sắc sảo. |
Ánh sáng cứu rỗi |
Bảo Ninh |
Tiểu thuyết |
Văn bản kể lại kỉ niệm bi thảm, thương tâm và hiểm nghèo nhất trong kí ức chiến tranh của Kiên. Qua đó, nhân vật được hiện lên với 1 hình ảnh thật đẹp và thể hiện được sự đoàn kết, đồng hành cùng nhau để vượt qua những khó khăn, thử thách nơi chiến trường tàn khốc. |
- Cốt truyện độc đáo, lôi cuốn. - Sử dụng ngôi thứ ba, là lời độc thoại của nhân vật do người kể chuyện mượn để làm điểm tựa.
|
|
Đêm trăng và cây sồi |
Lép Tôn-xtôi |
Tiểu thuyết |
Đoạn trích kể về cuộc gặp gỡ vô tình giữa An-đrây và Na-ta-sa trong chuyến đi đến nhà bá tước Rô-xtốp. Thể hiện những thay đổi trong tâm trạng của An-đrây trong và sau chuyến đi đến nhà bá tước Rô-xtốp. |
- Nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lí con người đặc sắc. - Sử dụng ngôn ngữ độc thoại, đối thoại linh hoạt, tinh vi.
|
................................
................................
................................
Các dạng bài Văn 12 Giữa kì 2 Cánh diều
II. MỘT SỐ DẠNG BÀI TẬP MINH HỌA
1. Dạng 1: Đọc – hiểu
Bài tập 1. Đọc ngữ liệu sau và trả lời câu hỏi:
THUẾ MÁU(1)
(Nguyễn Ái Quốc)
1. CHIẾN TRANH VÀ “NGƯỜI BẢN XỨ(2)
Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-na-mít (Annamite)”(3) bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta. Ấy thế mà cuộc chiến tranh vui tươi vừa bùng nổ, thì lập tức họ biến thành những đứa “con yêu”, những người “bạn hiển” của các quan cai trị phụ mẫu nhân hậu, thậm chí của cả các quan toàn quyền lớn, toàn quyền bé nữa. Đùng một cái, họ (những người bản xứ) được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”.
Nhưng họ đã phải trả bằng một cái giá khá đắt cái vinh dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ cho cái công lí và tự do mà chính họ không được hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng hoặc đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu. Trong lúc vượt biển, nhiều người bản xứ, sau khi được mời chứng kiến cảnh kì diệu của trò biểu diễn khoa học về phóng ngư lôi(4), đã được xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc của các loài thuỷ quái. Một số khác đã bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng vùng Ban-căng (Balcan)(5), lúc chết còn tự hỏi phải chăng nước mẹ muốn chiếm ngôi nguyên phi trong cung cấm vua Thổ, - chả thế sao lại đem nướng họ ở những miền xa xôi ấy? Một số khác nữa thì anh dũng đưa thân cho người ta tàn sát trên bờ sông Mác-nơ (Marne), hoặc trong bã lầy miền Săm-pa-nhơ (Champagne)(6), để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp chỉ huy và lấy xương mình chạm nên những chiếc gậy của các ngài thống chế(7).
Cuối cùng, ở hậu phương, những người làm kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm, tuy không phải hít hơi ngạt của bọn “bô-sơ”(8), nhưng lại nhiễm phải những luồng khí độc đỏ ối của người Pháp; đằng nào cũng thế thôi, vì những kẻ khốn khổ ấy cũng đã khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt vậy. Tổng cộng có 700 000 người bản xứ đã đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, 80 000 người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa!
II. CHẾ ĐỘ LÍNH TÌNH NGUYỆN
Một bạn đồng nghiệp nói với chúng tôi: Dân lao khổ bản xứ ở Đông Dương từ bao đời nay bị bóp nặn bằng đủ mọi thứ thuế khoá, sưu sai, tạp dịch(9), bằng cưỡng bức phải mua rượu và thuốc phiện theo lệnh quan trên, từ 1915 – 1916 tới nay, lại - còn phải chịu thêm cái vạ mộ lính nữa.
Những biến cố trong mấy năm gần đây là cái cớ để người ta tiến hành những cuộc lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương. Những người bị bắt đều bị nhốt vào trại lính với đủ thứ tên: Lính khố đỏ, lính thợ chuyên nghiệp, lính thợ không chuyên nghiệp,...
Theo ý kiến của tất cả các cơ quan có thẩm quyền không thiên vị được giao cho sử dụng ở châu Âu “vật liệu biết nói” châu Á, thì vật liệu này đã không đưa lại kết quả tương xứng với chi phí rất lớn về chuyên chở và bảo quản.
Sau nữa, việc săn bắt thứ “vật liệu biết nói” đó, mà lúc bấy giờ người ta gọi là “chế độ lính tình nguyện” (danh từ mỉa mai một cách ghê tởm) đã gây ra những vụ những lạm(10) hết sức trắng trợn.
Đây! Chế độ lính tình nguyện ấy được tiến hành như thế này: Vị “chúa tỉnh” mỗi viên công sứ(11) ở Đông Dương quả là một vị “chúa tỉnh” – ra lệnh cho bọn quan lại dưới quyền, trong một thời hạn nhất định phải nộp cho đủ một số người nhất định. Bằng cách nào, điều đó không quan trọng. Các quan cứ liệu mà xoay xở. Mà cái ngón xoay xở kiểu D(12) thì các ông tướng ấy thạo hết chỗ nói, nhất là xoay xở làm tiền.
Thoạt tiên, chúng tóm những người khoẻ mạnh, nghèo khổ, những người này phải chịu chết thôi không còn kêu cứu vào đâu được. Sau đó, chúng mới đòi đến con cái nhà giàu. Những ai cứng cổ thì chúng tìm ngay ra dịp để sinh chuyện với họ hoặc với gia đình họ, và nếu cần, thì giam cổ họ lại cho đến khi họ phải dứt khoát chọn lấy một trong hai con đường: “Đi lính tình nguyện, hoặc xì tiền ra”.
Những người bị tóm đi như thế còn hào hứng gì nữa với cái nghề cột vào cổ họ. Cho nên, bước chân vào trại lính là họ liền tìm mọi cơ hội để trốn thoát.
Còn những người nào thấy không thể thoát khỏi số phận hẩm hiu, thì tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất, mà thông thường hơn cả là bệnh đau mắt toét chảy mủ, gây ra bằng cách xát vào mắt nhiều thứ chất độc, từ vôi sống đến mủ bệnh lậu.
Ấy thế mà trong một bản bố cáo với những người bị bắt lính, Phủ toàn quyền Đông Dương, sau khi hứa hẹn ban phẩm hàm cho những người lính sẽ còn sống sót và truy tặng những người sẽ hi sinh “cho Tổ quốc”, đã trịnh trọng tuyên bố rằng:
“Các bạn đã tấp nập đầu quân, các bạn đã không ngần ngại rời bỏ quê hương xiết bao trìu mến để người thì hiến: xương máu của mình như lính khố đỏ, kẻ thì hiến dâng cánh tay lao động của mình như lính thợ”.
Nếu quả thật người An Nam phấn khởi đi lính đến thế, tại sao lại có cảnh, tốp thì bị xích tay điệu về tỉnh lị, tốp thì trước khi xuống tàu, bị nhốt trong một trường trung học ở Sài Gòn, có lính Pháp canh gác, lưỡi lê tuốt trần, đạn lên nòng sẵn? Những cuộc biểu tình đổ máu ở Cao Miên, những vụ bạo động ở Sài Gòn, ở Biên Hoà và ở nhiều nơi khác nữa, phải chăng là những biểu hiện của lòng sốt sắng đầu quân “tấp nập” và “không ngần ngại"?
[...]
III. KẾT QUẢ CỦA SỰ HI SINH
Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng(13) rồi, thì những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền nhà ta bỗng dưng im bặt như có phép lạ, và cả người “Nê-grô” (negroid)(14) lẫn người “An-na-mít” mặc nhiên trở lại “giống người bẩn thỉu”.
Để ghi nhớ công lao người lính An Nam, chẳng phải người ta đã lột hết tất cả của cải của họ, từ chiếc đồng hồ, bộ quần áo mới toanh mà họ bỏ tiền túi ra mua, đến các vật kỉ niệm đủ thứ,... trước khi đưa họ đến Mác-xây (Marseille) xuống tàu về nước, đó sao? Chẳng phải người ta đã giao họ cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập họ vô cớ đó sao? Chẳng phải người ta đã cho họ ăn như cho lợn ăn và xếp họ như xếp lợn dưới hầm tàu ẩm ướt, không giường nằm, không ánh sáng, thiếu không khí đó sao? Về đến xứ sở, chẳng phải họ đã được một quan cai trị biết ơn đón chào nồng nhiệt bằng thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!” đó sao?
Thế là những “cựu binh” – đúng hơn là cái xác còn lại – sau khi đã dũng cảm bảo vệ chính nghĩa và công lí nay tay không trở về với chế độ bản xứ của họ, một chế độ không biết gì đến chính nghĩa và công lí cả.
Theo báo chí Đông Dương thì thương binh người Pháp bị mất một phần thân thể và vợ con của tử sĩ người Pháp đều được cấp môn bài(15) bán lẻ thuốc phiện.
Như thế là trong một việc mà chính quyền thuộc địa đã phạm tới hai tội ác đối với nhân loại. Một mặt, họ vẫn chưa thoả khi tự tay làm cái việc bỉ ổi của người đầu độc, mà còn muốn lôi kéo vào đây cả những nạn nhân đáng thương hại của cuộc huynh đệ tương tàn(16) nữa. Mặt khác, họ coi rẻ tính mạng và xương máu của những kẻ đã bị họ lừa bịp, đến nỗi tưởng rằng chỉ cần quẳng cho những người này khúc xương thối ấy là đủ để đền bù được một cánh tay bị mất hoặc mạng của một người chồng. Chúng tôi chắc rằng thương binh và quả phụ chiến tranh sẽ đá văng món quà nhơ nhớp ấy và nhổ vào mặt kẻ tặng quà. Chúng tôi cũng tin chắc rằng thế giới văn minh và người Pháp lương thiện sẽ đứng về phía chúng tôi lên án bọn cá mập thực dân đang không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để vơ vét cho đầy túi.
[...]
(In trong Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 25-33)
* Chú thích:
(1) Thuế máu: Phần văn bản trên được trích từ Chương 1 (Thuế máu) trong Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Bản án chế độ thực dân Pháp được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản lần đầu tại Pa-ri năm 1925, tại Việt Nam năm 1946. Tác phẩm gồm 12 chương và phụ lục Gửi thanh niên Việt Nam, tố cáo những tội ác tày trời của thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội,... và tình cảnh khốn cùng của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa Pháp trên thế giới.
(2) Người bản xứ: người dân ở một đất nước được nói đến với hàm ý coi khinh (theo quan điểm của chủ nghĩa thực dân).
(3) An-na-mít: (từ tiếng Pháp) chỉ người Việt Nam, thuộc về Việt Nam.
(4) Ngư lôi: một loại vũ khí thả xuống nước, dùng sức điện để phá huỷ chiến hạm quân địch.
(5) Ban-căng: một bán đảo nằm ở giữa biển A-đờ-ri-a-tích (Adriatic) và biển Đen, ngay góc đông nam của châu Âu.
(6) Săm-pa-nhơ: một vùng đất ở đông bắc nước Pháp.
(7) Thống chế: như Nguyên soái (thường dùng nói về quân hàm trong quân đội các nước tư bản).
(8) Bô-sơ: (từ tiếng Pháp) có nghĩa xấu, chỉ quân đội Đức.
(9) Sưu sai, tạp dịch: sưu (hay thuế thân), còn gọi là thuế đinh, thuế đầu người, là thứ sưu/ thuế căn cứ vào cư dân địa phương, mỗi dân đinh (đàn ông trong độ tuổi quy định: thường là 18 – 60 tuổi) đều phải nộp cho nhà nước trong chế độ phong kiến cũng như trong chế độ thực dân - phong kiến. Bên cạnh sưu đóng bằng hiện vật hoặc hiện kim, còn có sưu dịch đóng bằng sức lao động, thường là những công việc lao động nặng nhọc mà dân đinh phải làm cho nhà nước; sưu sai, tạp dịch: chỉ việc sưu nói chung.
(10) Những lạm: lạm dụng quyển hành để gây phiền hà và lấy của.
(11) Công sứ: viên chức người Pháp đứng đầu bộ máy cai trị cấp tỉnh ở Việt Nam thời Pháp thuộc, được thiết lập ở Trung Kì và Bắc Kì.
(12) D: chữ đầu của từ “débrouillard” (tiếng Pháp), có nghĩa là “xoay xở, tháo vát”.
(13) Khi đại bác đã ngấy thịt đen, thịt vàng: một cách chơi chữ của tác giả, nói về cái chết của người da đen và da vàng.
(14) Nê-grô: chỉ những người da đen.
(15) Môn bài: giấy cho phép mở cửa hàng buôn bán.
(16) Huynh đệ tương tàn: anh em tàn sát lẫn nhau.
Câu 1. Giải thích nhan đề Thuế máu. Từ nhan đề và các đề mục (Chiến tranh và “người bản xứ”, Chế độ lính tình nguyện, Kết quả của hi sinh), xác định chủ đề và thông điệp của văn bản.
Câu 2. Phân tích cách miêu tả thái độ của các quan cầm quyền thực dân Pháp đối với dân bản xứ, trước, trong và sau chiến tranh. Cách miêu tả đó có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm?
Câu 3. Cảm hứng chủ đạo của văn bản là gì?
Câu 4. Nhận xét về nghệ thuật viết phóng sự của Nguyễn Ái Quốc (kết cấu, cách sử dụng số liệu, từ ngữ, giọng văn, thủ pháp trào phúng, các biện pháp tu từ,... trong việc thể hiện tư tưởng tác phẩm).
Câu 5. Anh/ chị có suy nghĩ, cảm xúc gì về “chế độ lính tình nguyện” của thực dân Pháp đối với người dân bản xứ?
................................
................................
................................
Xem thêm đề cương ôn tập Ngữ Văn 12 Cánh diều có lời giải hay khác:
- Giáo án lớp 12 (các môn học)
- Giáo án điện tử lớp 12 (các môn học)
- Giáo án Toán 12
- Giáo án Ngữ văn 12
- Giáo án Vật Lí 12
- Giáo án Hóa học 12
- Giáo án Sinh học 12
- Giáo án Địa Lí 12
- Giáo án Lịch Sử 12
- Giáo án Lịch Sử 12 mới
- Giáo án GDCD 12
- Giáo án Kinh tế Pháp luật 12
- Giáo án Tin học 12
- Giáo án Công nghệ 12
- Giáo án GDQP 12
- Đề thi lớp 12 (các môn học)
- Đề thi Ngữ văn 12
- Đề thi Toán 12
- Đề thi Tiếng Anh 12 mới
- Đề thi Tiếng Anh 12
- Đề thi Vật Lí 12
- Đề thi Hóa học 12
- Đề thi Sinh học 12
- Đề thi Địa Lí 12
- Đề thi Lịch Sử 12
- Đề thi Giáo dục Kinh tế Pháp luật 12
- Đề thi Giáo dục quốc phòng 12
- Đề thi Tin học 12
- Đề thi Công nghệ 12