10+ Cảm nhận về nhân vật Tràng (điểm cao)
Bài văn Cảm nhận về nhân vật Tràng điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Cảm nhận về nhân vật Tràng
- Cảm nhận về nhân vật Tràng (mẫu 1)
- Cảm nhận về nhân vật Tràng (mẫu 2)
- Cảm nhận về nhân vật Tràng (mẫu 3)
- Cảm nhận về nhân vật Tràng (mẫu 4)
- Cảm nhận về nhân vật Tràng (mẫu 5)
- Cảm nhận về nhân vật Tràng (mẫu 6)
- Cảm nhận về nhân vật Tràng (mẫu 7)
- Cảm nhận về nhân vật Tràng (mẫu 8)
- Cảm nhận về nhân vật Tràng (mẫu 9)
- Cảm nhận về nhân vật Tràng (mẫu 10)
Dàn ý Cảm nhận về nhân vật Tràng
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Kim Lân và truyện ngắn Vợ nhặt.
- Đôi nét về nhân vật Tràng cùng những phẩm chất cao đẹp.
- Có thể đi từ hình tượng người nông dân rồi dẫn đến nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt.
2. Thân bài
- Xuất thân nghèo khó và hoàn cảnh éo le của nhân vật Tràng: Dân ngụ cư, công việc chỉ đẩy xe bò, sống cùng mẹ già.
- Ngoại hình của nhân vật Tràng: Xấu xí, thô kệch, là nông dân bình dị không có gì đặc biệt.
- Tràng là một nhân vật có tính cách nhân hậu và cởi mở.
- Nhân vật Tràng là người có ý thức và khát khao về hạnh phúc.
- Phân tích tình huống nhặt được vợ.
- Phân tích diễn biến tâm lý của Tràng khi nhặt được vợ.
3. Kết bài
- Nêu những suy nghĩ chung về nhân vật Tràng trong tác phẩm.
- Khái quát nội dung cùng giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc. Đồng thời tác phẩm này cũng phản ánh chân thực bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của những người nông dân.
Cảm nhận về nhân vật Tràng - mẫu 1
Số phận người nông dân trong xã hội luôn là nguồn cảm hứng sáng tác cho những nhà văn. Ở người nông dân luôn có những nét bình dị chất phác lại vừa thay mặt đại diện tiêu biểu cho tính cách con người Việt Nam – chịu thương, chịu khó, cần cù và nhân hậu. Điển hình như anh Tràng ngờ nghệch nhưng giàu tình yêu thương trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
Tràng là một người nghèo, không có công việc ổn định và sống trong hoàn cảnh khó khăn, ngôi nhà của anh tồi tàn và luôn đối mặt với nạn đói. Cuộc sống của anh nghèo đói, mờ mịt, với không khí u ám, không có ánh sáng và lửa. Dù sống trong cảnh nghèo khó, Tràng luôn thể hiện lòng nhân hậu và sự vị tha. Anh sẵn sàng đãi người phụ nữ lạ một bữa ăn đầy đủ, dù chính bản thân cũng đang phải vật lộn với đói khổ. Tràng quyết định cưới cô gái ấy, thể hiện tấm lòng rộng mở và hi sinh.
Mặc dù hoàn cảnh khó khăn, Tràng vẫn quyết định nuôi nấng người vợ nhặt. Điều này cho thấy sự hiểu biết sâu sắc của Tràng về nỗi khổ của người khác, và anh sẵn sàng sẻ chia dù mình cũng chưa có đủ. Quyết định của Tràng không phải vì danh lợi mà là vì lòng thương người. Tràng là hiện thân của người nông dân nghèo với phẩm chất nhân hậu và lòng yêu thương. Anh không cần sự tuyên dương hay báo đáp mà chỉ làm điều tốt vì tình người. Trong bối cảnh đói nghèo, Tràng vẫn giữ được vẻ đẹp của lòng nhân ái.
Nói theo một cách khi cảm nhận về nhân vật Tràng, ta thấy nhân vật này như một chiếc phao cứu sinh cho tất cả những người vợ nhặt. Tràng đã làm một điều tốt mà ít người dân có thể làm được trong lúc mạng sống luôn bị rình rập đe dọa bởi nạn đói này nhưng Tràng không vênh váo vì điều đó hay cũng không cần báo đáp. Đó mới đây là vẻ đẹp của người nông dân nghèo. Tuy họ không có gì cả nhưng vẫn sẵn sàng cứu giúp người khác. Họ không cần ai tuyên dương vì việc làm tốt của mình. Tràng là hiện thân chân thật nhất của vẻ đẹp ấy.
Cảm nhận về nhân vật Tràng - mẫu 2
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương . Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông . Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị, biết hướng tới tương lai tươi đẹp.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi vọng vào ngày mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng. Đọc lướt qua câu chuyện ta ngỡ như việc “nhặt vợ” của Tràng là tình cờ nhưng nghĩ cho kĩ ta sẽ thấy rằng việc làm ấy xuất phát từ tình yêu thương của con người chân chính. Tình thương người đã cho anh quyết định dứt khoát là đưa người đàn bà xa lạ về chung sống. Hành động ấy của Tràng còn tiềm ẩn khát vọng hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.
Chính khát vọng và tình thương đã làm cho Tràng biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài đến bên trong tâm hồn. “ Mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường . Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với cách miêu tả ấy dương như trước mắt người đọc là một anh Tràng khác hẳn. Từ một con người mang mặc cảm về thân phận, một trái tim cằn cỗi nay lại hồi sinh . Về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy ” ngượng nghịu” rồi cứ thế ” đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật: “hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.
Khi đã có vợ rồi niềm vui sướng trong anh tràng ngập. Dường như anh đã quên đi cuộc sống tối tăm thường nhật và cảm nhận một sự thay đổi. Tràng ý thức được trách nhiệm, bổn phận của người chồng, người chủ gia đình “ Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng…Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Từ một con người cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới…
Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945. Cái đói huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo, dở khóc, dở cười giữa Tràng và Thị, một mối duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói.
Cảm nhận về nhân vật Tràng - mẫu 3
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê, lam lũ hồn hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân vật Tràng, một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương, luôn khao khát hạnh phúc gia đình giản dị, biết hướng tới tương lai tươi đẹp.
Hoàn cảnh sống của Tràng là sống trong một xóm ngụ cư, đó là tập thể những con người sống không định cư một chỗ mà chỉ sống cho qua ngày. Đặc biệt họ là những người ở nơi khác dạt đến chứ không phải người dân chính gốc ở đây. Hoàn cảnh sống của Tràng là sống trong nạn đói năm 1945. Gia đình chỉ còn mẹ già là bà cụ Tứ, em gái thì đi lấy chồng còn cha thì đã mất. Hai mẹ con nương tựa vào nhau để mà sống sót qua nạn đói này. Tràng thì làm nghề kéo xe bò thuê nên cũng chưa đến mức phải chết đói. Sáng nào Tràng đi làm cũng chứng kiến biết bao nhiêu là xác người chết, rồi những người sống thì lại bồng bế dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma. Không khí vẩn lên những mùi hôi thối tanh tủa của xác người. Tràng làm, ăn, ngủ trong tiếng quạ kêu trên những gốc đa và tiếng người khóc khi nhà có người chết đói. Tóm lại Tràng sinh ra trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn của đất nước.
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân khắc họa số phận người nông dân trong nạn đói 1945, đặc biệt là nhân vật Tràng – một người đàn ông nghèo, xấu xí nhưng có tấm lòng nhân hậu. Qua nhân vật này, tác giả làm nổi bật vẻ đẹp giản dị, thô kệch nhưng đầy tình yêu thương của người nông dân trong hoàn cảnh khốn khó. Tràng là người có ngoại hình xấu xí, với dáng đi ngật ngưỡng, quai hàm bạnh và thân hình to lớn. Trong nạn đói, Tràng trở nên mệt mỏi, không còn vẻ vui vẻ mà chỉ còn lại dáng đi khổ sở, mất đi sự tự tin và sự sống động. Điều này phản ánh tình trạng tăm tối của cuộc sống trong nạn đói.
Tràng là người ngờ nghệch, không có suy nghĩ thấu đáo, nhưng khi gặp một phụ nữ đói khát, anh quyết định mời cô ăn và đưa cô về làm vợ chỉ sau vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc. Dù hoàn cảnh khó khăn, Tràng vẫn sẵn sàng nhận người vợ nhặt, thể hiện tấm lòng nhân ái. Tràng lấy vợ trong hoàn cảnh nghèo đói, điều mà ít người có thể nghĩ tới. Tuy nhiên, anh không ngờ rằng sự việc này lại mang đến niềm vui to lớn trong cuộc sống. Tràng cảm nhận hạnh phúc gia đình giản dị nhưng vô cùng quan trọng, cảm giác như một giấc mơ trở thành hiện thực.
Mặc dù vợ là người nhặt về trong lúc hoạn nạn, Tràng không hề coi thường mà luôn trân trọng vợ, coi việc lấy vợ là điều nghiêm túc. Anh sẵn sàng đối diện với khó khăn, nghèo đói để nuôi dưỡng tổ ấm, vượt qua lo lắng về tương lai. Sau khi cưới vợ, Tràng cảm thấy vui mừng như từ giấc mơ thức dậy. Anh nhận thức được trách nhiệm của mình đối với gia đình, mong muốn tạo dựng tổ ấm và cố gắng chăm sóc cho vợ con. Tràng thay đổi từ người khổ đau sang yêu đời và có ý thức sâu sắc về trách nhiệm gia đình.
Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng trong tâm trí Tràng là biểu tượng cho một tương lai mới. Đây là khát vọng đổi thay cuộc sống, thể hiện niềm tin vào sự thay đổi, một sự chuyển mình trong cuộc đời Tràng, từ nghèo khó sang hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Nhân vật Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân không chỉ là hình ảnh của người nông dân nghèo, xấu xí mà còn là biểu tượng của tình yêu thương, lòng nhân hậu và khát vọng về hạnh phúc gia đình. Qua Tràng, tác giả gửi gắm thông điệp về sức mạnh của tình người và hy vọng vào một tương lai tươi sáng dù trong hoàn cảnh khó khăn.
Có thể nói rằng, “Vợ nhặt” là một bức tranh sống động về đời sống người nông dân trong nạn đói 1945. Tuy rằng ở đó, con người hãy còn chìm trong bóng tối, đói nghèo và chết chóc nhưng với con mắt tinh tường, nhà văn Kim Lân vẫn phát hiện ra chiều sâu tâm hồn tốt đẹp ẩn chứa bên trong họ.
Cảm nhận về nhân vật Tràng - mẫu 4
Kim Lân là một nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm khắc họa chân thực cuộc sống người nông dân trong văn học hiện đại Việt Nam. Các nhân vật của ông thường là những người nghèo khổ, bần cùng, nhưng lại có tấm lòng nhân hậu và khát vọng hạnh phúc. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, kể về Tràng, một người lao động nghèo khổ nhưng đầy tình yêu thương và khao khát có được một gia đình hạnh phúc.
Vợ nhặt được viết trong bối cảnh nạn đói 1945, khi hàng triệu người dân phải chịu cảnh chết đói và khổ cực. Cảnh tượng trong xóm ngụ cư với mùi xác người và không khí chết chóc đã phản ánh sự tăm tối của thời kỳ này. Mặc dù hoàn cảnh vô cùng khó khăn, Tràng đã đưa một người phụ nữ xa lạ về làm vợ chỉ sau vài câu đùa và bát bánh đúc. Hành động này không chỉ xuất phát từ lòng thương người mà còn thể hiện khát vọng hạnh phúc gia đình mà trước đó Tràng không dám mong ước.
Khi có vợ, Tràng cảm nhận được niềm vui sướng và nhận thức rõ ràng về trách nhiệm của một người chồng, người chủ gia đình. Anh cảm thấy mình nên người và có bổn phận chăm lo cho vợ con trong tương lai. Tràng, từ một người vô tư, cục mịch, đã bắt đầu nghĩ đến những vấn đề xã hội và khao khát sự đổi đời. Cảnh những người nghèo đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng đã thể hiện khát vọng thay đổi của Tràng và những người dân nghèo trong xóm.
Tràng cảm nhận được sự thay đổi trong chính ngôi nhà của mình, từ một nơi bừa bộn, nhếch nhác trở thành tổ ấm hạnh phúc. Anh nhận thấy trách nhiệm của mình đối với gia đình và cảm thấy yêu quý ngôi nhà hơn bao giờ hết. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng và đoàn người nghèo đói tiến về phía kho thóc Nhật tượng trưng cho niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng.
Vợ nhặt không chỉ là câu chuyện về một người nông dân nghèo tìm thấy hạnh phúc giản dị, mà còn phản ánh khát vọng đổi đời và tình yêu thương trong hoàn cảnh nghèo khó. Kim Lân đã thành công khi khắc họa tâm lý nhân vật sâu sắc, đồng thời gửi gắm thông điệp về niềm tin vào tương lai và sự đổi mới qua những hình ảnh giản dị nhưng đầy ý nghĩa.
Cảm nhận về nhân vật Tràng - mẫu 5
Kim Lân nhà văn thường viết về người nông dân, truyện ngắn Vợ nhặt mang giá trị tư tưởng nhân đạo lớn dù cuộc sống nghèo khổ, cơ cực nhưng vẫn yêu thương đùm bọc nhau. Trong đó nhân vật Tràng là một trong những con người tốt bụng, nhân hậu.
Truyện Vợ nhặt được tác giả viết vào thời điểm khi mà nạn đói đang hoành hành dữ dội và cướp đi mạng sống của rất nhiều người. Tràng và gia đình của mình cũng đang vật lộn để mưu sinh. Trong truyện nhân vật Tràng được tác giả miêu tả với bề ngoài xấu xí, thô kệch, nghèo khó, rách rưới. Anh Tràng làm nghề kéo xe bò thuê. Tràng có đủ các yếu tố để trở nên ế vợ. Điều làm cả xóm bất ngờ đó chính là Tràng có vợ mà là vợ nhặt, ai cũng ngạc nhiên và xen lẫn lo lắng khi thời buổi này nuôi thêm người sẽ túng quẫn hơn.
Tràng và gặp người vợ của mình khi thấy cô ta sắp chết đói, với lòng nhân hậu Tràng cho ăn và quyết định cưu mang về làm vợ. Bắt đầu từ đây diễn biến tâm lý của nhân vật có nhiều thay đổi từ suy nghĩ ăn uống không có mà còn đèo bồng cho đến “chậc, kệ”, anh mong muốn một mái ấm gia đình nhiều hơn là lo sợ về cái đói trước mắt.Lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc của nhân vật này đã lấn áp nghịch cảnh đen tối.
Từ một kẻ xấu xí, thô kệch nay đã có vợ, Tràng có nhiều sự thay đổi đáng kể, “Tràng quên hết cảnh sống ê chè, tăm tối phía trước”, “trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”, sau khi cưới trong lòng thấy khác lạ nhà cửa, sân vườn sạch sẽ, mẹ và nàng dâu cùng nhau làm lụng sự đoàn kết yêu thương nhau làm cậu ấm lòng. Giờ đây nhân vật Tràng thấu hiếu được giá trị của tình cảm gia đình trọn vẹn, Tràng càng yêu vợ và thấy có trách nhiệm với mẹ. Trong cảnh nghặt ngèo của cuộc sống nhưng con người như Tràng vẫn hướng đến tình cảm gia đình, đùm bọc, che chở người thân vượt qua ranh giới sống chết.
Hình ảnh cảm động nhất có thể kể đến là cả nhà cùng ăn nồi cháo cám đắng ngắt, khó nuốt nhưng cả nhà vẫn vui vẻ ăn ngon lành. Tràng hiểu rõ tình cảnh hiện tại và bằng lòng với nghèo khổ để hướng đến hạnh phúc, sự nghèo đói không thể ngăn con người khát khao hạnh phúc.
Nhân vật Tràng được tác giả tập trung miêu tả trước trong và sau khi lấy vợ, diễn biến tâm lý thay đổi thể hiện nhân phẩm của nhân vật dù nghèo đói, bần hàn nhưng vẫn yêu thương,đùm bọc nhau và khát khao hạnh phúc gia đình như bao con người khác.
Cảm nhận về nhân vật Tràng - mẫu 6
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân phản ánh một phần cuộc sống khốn khổ của người dân trong nạn đói năm 1945. Nhân vật Tràng, một người đàn ông nghèo khổ sống ở xóm ngụ cư, đã vô tình "nhặt" vợ trong hoàn cảnh bi đát ấy. Qua tình huống này, tác giả khắc họa vẻ đẹp phẩm chất của những con người thấp cổ bé họng, nghèo đói nhưng luôn khao khát một cuộc sống hạnh phúc.
Tràng là người đàn ông nghèo khổ, làm nghề kéo xe bò, sống trong một xóm ngụ cư tiêu điều. Anh bị xã hội khinh rẻ và sống trong cô đơn, nhưng Tràng không hề buồn bã mà luôn sống vô tư, hòa đồng với lũ trẻ trong xóm. Tràng là người đơn giản, không tính toán, ngay cả việc lấy vợ cũng chỉ vì một câu đùa và bốn bát bánh đúc. Tuy không phải tình yêu, nhưng hành động này thể hiện sự nhân hậu và lòng thương cảm với người phụ nữ nghèo đói.
Khi có vợ, Tràng cảm nhận được niềm hạnh phúc giản dị và bắt đầu ý thức về trách nhiệm của một người chồng, người chủ gia đình. Anh quyết định thay đổi và chăm lo cho gia đình, mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Tràng, từ một người vô tư, đã bắt đầu quan tâm đến xã hội và khát vọng đổi đời. Anh mơ tưởng về một tương lai tươi sáng, với hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc Nhật dưới lá cờ đỏ sao vàng, tượng trưng cho niềm hy vọng vào sự thay đổi. Mặc dù cuộc sống hiện tại của Tràng vẫn còn tăm tối, nhưng trong lòng anh đã xuất hiện tia sáng hy vọng về một con đường mới, về một tương lai tốt đẹp hơn nhờ sự thay đổi cách mạng.
Vợ nhặt không chỉ là câu chuyện về một người đàn ông nghèo có được hạnh phúc giản dị mà còn là hình ảnh của những con người khốn khó trong xã hội trước cách mạng, luôn khao khát một cuộc sống tốt đẹp. Kim Lân đã khéo léo khắc họa tâm lý nhân vật, thể hiện thông điệp về hy vọng và sự thay đổi qua những con người nghèo khó nhưng đầy nhân hậu.
Cảm nhận về nhân vật Tràng - mẫu 7
“Vợ nhặt” là một truyện ngắn xuất sắc có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, Kim Lân viết ngay sau cách mạng tháng Tám, nhưng bị mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (1954), tác giả dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn. Ta đã từng bắt gặp một ông Hai trong “Làng”, một con người đậm chất “Kim Lân”, đậm chất làng quê. Nhân vật Tràng trong “Vợ nhặt” cũng là một con người như thế.
Bối cảnh truyện diễn ra trong một xóm ngụ cư nghèo nàn, nơi cái chết đe dọa từng ngày. Kim Lân miêu tả cái chết một cách rùng rợn qua hình ảnh những người chết, mùi thối của xác, và sự dật dờ của những người sống như những bóng ma. Từ đó, ranh giới giữa sự sống và cái chết vô cùng mong manh. Tràng là một phu xe nghèo, sống trong cảnh nhà cửa bừa bãi, ăn mặc rách rưới. Anh có ngoại hình xấu xí, ngờ nghệch và thô kệch, giống như nhiều người dân nghèo khác. Cuộc sống của Tràng dường như là một chuỗi dài cô độc và buồn tẻ.
Dù nghèo khó, Tràng không thiếu tấm lòng nhân hậu. Anh sẵn sàng giúp đỡ người đàn bà nghèo khổ Thị Nở. Hành động nhặt vợ từ một câu nói đùa của Tràng không chỉ là sự ngẫu nhiên, mà ẩn chứa tình thương vô bờ dành cho con người cùng cảnh ngộ. Tràng không chỉ giúp Thị Nở mà còn mua bánh đúc cho cô và lo cho vợ một bữa ăn đàng hoàng. Tràng không coi việc có vợ là điều bất ngờ hay kỳ lạ. Anh sẵn sàng đón nhận và trân trọng người vợ nghèo khó của mình. Dù hoàn cảnh khó khăn, Tràng vẫn mua dầu thắp đèn, hành động ấy chứng tỏ lòng tôn trọng và tình yêu dành cho người vợ, dù đó là một cuộc hôn nhân đầy bất ngờ.
Dù sống trong cảnh nghèo khó, Tràng vẫn luôn khát khao hạnh phúc. Sự xuất hiện của vợ đã thay đổi hoàn toàn tâm trạng và cuộc sống của anh. Tràng cảm nhận được niềm vui, sự ấm áp khi nhìn thấy vợ và mẹ đang quét dọn nhà cửa, khiến ngôi nhà trở thành tổ ấm thực sự. Kim Lân thông qua hình tượng Tràng muốn gửi gắm thông điệp sâu sắc: dù trong hoàn cảnh tăm tối, con người vẫn không ngừng vươn lên, vẫn khao khát hạnh phúc và cuộc sống. Tràng, dù nghèo khó, vẫn duy trì được khát vọng sống và khát vọng hạnh phúc, là biểu tượng của sự kiên cường và sự sống chiến thắng cái chết.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân không chỉ là một tác phẩm phản ánh hiện thực đau thương của nạn đói năm 1945 mà còn là bức tranh về nghị lực sống và tình người trong những thời khắc khốn khó. Nhân vật Tràng, qua những hành động và tâm trạng, đã thể hiện sức sống mãnh liệt, khát khao hạnh phúc và tình yêu thương trong hoàn cảnh tuyệt vọng.
Cảm nhận về nhân vật Tràng - mẫu 8
Kim Lân là một trong những nhà văn điển hình của nền văn chương hiện thực Việt Nam, ông thường viết về nông thôn và người nông dân. Vợ nhặt là truyện viết về hình ảnh người dân cày trong nạn đói năm 1945. khi kể tới tác phẩm này người đọc không thể ko nhắc đến anh cu Tràng, nhân vật vật chính của truyện được tác kém chất lượng vun đắp rất thành công.
Nhân vật anh cu Tràng xuất hiện có hình “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ sở hữu vài chi tiết ấy, người đọc cũng đã tưởng tượng được dung mạo xấu xí của một anh dân cày nghèo rách mồng tơi. Là một gã trai nghèo, xấu xí, lại là dân cư ngụ. Anh lặng thầm sống cùng mẹ già trong nếp nhà xiêu bên mảnh vườn rúm ró những đám cỏ dại. Anh thật thân thiện dễ mến nên được lũ trẻ con coi như người bạn. đấy cũng là chàng trai cần lao khỏe khoắn yêu đời giữa cuộc sống đói nghèo lam lũ. Giữa ngày đói câu hò của anh như xua tan mỏi mệt, mang cảm giác vui vui. Anh cũng thật hào phóng lúc mời cô gái món quà quê. Anh cu Tràng chỉ có vài câu “tầm phơ tầm phào” mà sở hữu người nữ giới theo về làm cho vợ.
Khi có vợ, khi đầu Tràng thấy lo sợ, nhưng sau đấy thì thấy phởn phơ, vui mừng, Tràng phát triển thành một con người phóng khoáng, quên đi hết những cay cực tối tăm trên đời, chấp nhận cuộc sống khốn khó cùng vợ vượt qua đa số. Lúc vợ chồng Tràng ăn bữa ăn trước tiên sau đêm tân hôn đã khiến cho người đọc cảm động. Mặc dù “nồi cháo cám” không ngon, đắng chát và khó ăn nhưng hắn vẫn ăn rất ngon lành. Vì hắn biết, hắn hiểu gia đạo, hiểu thị trấn hội, hiểu thời thế đang trong cảnh cùng cực, bần hàn. Trong nạn đói năm 1945, Tràng ko phải là 1 cá biệt mà sở hữu hầu hết người nghèo khổ như anh. thế cục Tràng là một minh chứng tiêu biểu cho số mệnh người dân nghèo trước cách mạng tháng tám.
Sở hữu bút pháp tả chân cộng cách thức vun đắp cảnh huống truyện độc đáo, tái hiện diễn biến tâm lí nhân vật 1 cách cụ thể. Kim Lân đã cho người đọc thấy được hình ảnh của người dân cày nghèo nhưng luôn giàu ái tình thương. Qua đó để thấy được khao khát được sống, được hạnh phúc của các người dân cày lúc bị đẩy đến cùng cực.
Cảm nhận về nhân vật Tràng - mẫu 9
Tràng là một thanh niên đứng tuổi, hình hài thô tháp, lại còn là kẻ nghèo nhất trong xóm ngụ cư. Nhà tràng chỉ là một căn lều dúm dơ, xiêu vẹo mà có thể gió thổi bay lúc nào không biết. Từ cái hoàn cảnh ấy, có thể khẳng định: Tràng sẽ không bao giờ mơ đến chuyện lấy vợ.
Nhưng điều đáng quý ở Tràng là ngay cả trước thực trạng ấy, một thực trạng bi thảm anh vẫn trếu táo, tự trào, còn biết bông đùa. Thế rồi trong một lần tình cờ đang gò lưng kéo xe thóc vào dốc tỉnh. Tràng tự hò một câu để an ủi mình cho đỡ mệt. Điều quan trọng là câu hò ấy có cụm “ cơm trắng mấy giò” và dĩ nhiên mấy tiếng ấy lập tức làm cho những người phụ nữ đã mấy ngày ngồi vêu ra ở chợ không thể không để ý, và đã có một ả sán lại gần,biến sự đùa của Tràng thành sự thật.
Tràng không ngờ mình đói lại còn có kẻ đói hơn mình. Tràng cho người phụ nữ ấy ăn, tình thương người đã dẫn Tràng đến vơi nghĩa cử hào hiệp trong cơn đói khát. Tràng không chỉ cho người phụ nữ ấy ăn như là cách bố thí mà Tràng còn cho Thị ăn bằng của tình yêu thương, sự đồng cảm và bằng sự cưu mang, chia sẻ. Nhưng rồi một tình huống không ngờ rằng người phụ nữ ấy không những cần tràng một bựa ăn mà còn muốn tìm ở Tràng một điểm tựa suốt đời.
Khi biết Tràng chưa có vợ, người phụ nữ đã dũng cảm tiến lên để được làm vợ Tràng. Vậy là với Tràng lúc này,không còn là chuyện bông lơn, bỡn cợt nữa mà là trở thành chuyện hệ trọng của cả cuộc đời người. Tràng ứng xử hoàn toàn khác, một cách nghiêm túc, đứng đắn và anh đã chủ động vào chợ sắm cho Thị mấy thứ và “ ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê”. Với Tràng đó có thể là những thứ dẫn cưới, một cổ cưới chăng?
Từ giây phút này Tràng đã sống với Thị như những người đang yêu và được yêu, cũng cho thấy cũng từ tình thương mà chuyển đến tình yêu là chuyện quá bất ngờ và đột ngột. Nhưng Tràng không hề lung túng, bối rối trước tình huống đó. Rồi chính anh cũng chủ động dắt người con gái ấy về để tình mẹ một cách đàng hoàng, nghiêm túc. Thú vị thay, con đường từ chợ về nhà vốn dĩ là con đường tử thần ngự trị, con đường của sự chết chóc, nay đã trở thành một con đường xôn xao, rạo rực của ái tình. Mà Tràng là một nửa làm nên sự xôn xao, rạo rực ấy.
Về đến nhà, tuy chưa tin được rằng là mình đã có vợ, nhưng Tràng đã biết làm tròn nhiệm vụ của một người chồng. Tràng đã biết cùng với vợ làm nên một tổ ấm trong cảnh cơ hàn. Tràng đã cảm nhận được cái đẹp của tình yêu, cái giá của ái ân, hạnh phúc “phởn phơ hư…” Chính Tràng trong cơn đói khát như một thân phận, bèo bọt đã dạt trôi đến với một thân phận bèo bọt khác, nhưng cả hai đã không làm cho nhau bèo bọt hơn nữa. Ngược lại đã biết nương tựa vào nhau để sống, để hướng tới tương lai.
Kim Lân đã có những trang viết rất hay để miêu tả tâm lý nhân vật. Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo, đó chính là tình người và hi vọng.
Cảm nhận về nhân vật Tràng - mẫu 10
Kim Lân là nhà văn có sở trường về những người nông dân, nông thôn trong đó nổi tiếng nhất phải kể tới tác phẩm Vợ nhặt. Vợ nhặt là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, thế nhưng, giữa sự lay lắt đói khát ấy, người ta lại thấy le lói thứ ánh sáng của sự yêu thương, đùm bọc, của sự san sẻ, khát khao hạnh phúc cùng hướng về sự sống của con người. Thông qua hình tượng nhân vật Tràng, ta có thể thấy được vẻ đẹp của tình thương cùng sức sống mãnh liệt bên trong con người trong nạn đói.
Nói tới Tràng, người ta nhắc tới một con người mà cả ngoại hình hay tính cách, gia cảnh đều thuộc hạng “cùng đinh”. Về ngoại hình, người ta thấy Tràng là một anh chàng vừa thô kệch vừa xấu xí “cái mặt thô kệch”, “đôi mắt nhỏ tí”, “thân hình to lớn vập vạp”, “cái lưng to rộng như lưng gấu”. Không chỉ thế, Tràng còn là người dân xóm ngụ cư sống bằng nghề kéo thóc thuê, ngôi nhà của mẹ con Tràng lụp xụp, rách nát xung quanh mọc đầy cỏ dại. Đến tài ăn nói, Tràng cũng không có, Tràng chỉ biết nói thô lỗ, cộc cằn, lại còn cái tật “vừa đi vừa nói”, “lảm nhảm những điều hắn nghĩ”. Với những điều này, thật khó để Tràng có được một người vợ ngay cả trong điều kiện thường, càng trở nên xa vời khi nạn đói xảy ra. Thế nhưng, cuộc đời không khỏi có những bất ngờ, Tràng nghèo đến vậy, lại xấu xi đến thế, lại đang giữa những năm tháng đói khát ấy thế mà Tràng lại có “vợ”, thậm chí là “nhặt” được vợ. Thật quá bất ngờ!
Tình huống ấy xảy ra khi Tràng kéo xe thóc đi qua và gặp Thị đang ngồi bên lề đường chờ “nhặt hạt rơi vãi”. Lúc ấy, hắn chỉ chợt “hò một câu cho đỡ nhọc” rằng: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”, dứt câu thì Thị đã “ton ton” chạy ra đẩy xe với Tràng, còn “liếc mắt, cười tít” với hắn. Chính điều đó đã làm Tràng ấn tượng với Thị, bởi “từ cha sinh mẹ để đến giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ thế”. Qua thời gian sau, hắn gặp lại Thị, nhưng lúc ấy Thị đã gầy gộc, tiều tụy hơn” áo quần tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Thị đã “sưng sỉa” lên với Tràng, đòi Tràng mời ăn, nhận được sự đồng ý của Tràng, Thị đã “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”. Trong cuộc gặp gỡ tình cờ ấy, Tràng đùa với Thị rằng: “Này nói đùa có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Ấy vậy mà Thị theo Tràng về thật. Chỉ với hai lần gặp, bốn bát bánh đúc, cùng câu nói nửa đùa nửa thật của hắn, hắn đã có “vợ”.
Câu nói của Tràng là đùa, nhưng ẩn chứa trong đó là khao khát có được mái ấm của riêng mình, khao khát tình yêu và hạnh phúc, và Thị có lẽ chính là người giúp hắn được điều ấy. Hắn nói đùa mà Thị thì đồng ý thật, đến lúc ấy hắn mới “chợn” nghĩ: “Thóc gạo này đến thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Thế nhưng “sau không biết nghĩ thế nào”, liệu có phải là cái khao khát hạnh phúc trong lòng hắn bừng lên mà hắn “chặc lưỡi một cái: chậc, kệ” hay chăng?
Tràng và Thị đến với nhau giữa lúc cái đói đang hoành hành khắp nơi, “người chết như ngả rạ”. Biết rõ rằng đến với nhau là một gánh nặng giữa lúc đói khát này, thế nhưng anh chàng Tràng lại rất vui vẻ đón nhận, sẵn sàng san sẻ sự sống vốn đã ít ỏi cho Thị. Bởi trong lòng anh luôn khao khát hạnh phúc, khao khát về mái ấm đã len lỏi trong anh từ rất lâu rồi, và giờ đây, nó có thể đã trở thành hiện thực. Trên đường Tràng và Thị trở về, niềm vui hiện rõ trên mặt Tràng, hắn hớn hở “có một vẻ gì phởn phơ khác thường. Hắn tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”, khác hẳn với hình ảnh “đi từng bước mệt mỏi” như ngày trước. Trong niềm vui ấy, Tràng đã quên đi hết tất cả, “quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả những ngày tháng trước mắt”, bởi trong lòng hắn chỉ có niềm hạnh phúc và “tình nghĩa giữa hắn và người đàn bà đi bên”.
Cái cảm giác ấy mơn man da thịt hắn, “tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống lưng” hắn, mà hắn chưa bao giờ cảm nhận được. Tràng không định nghĩa được nó, nhưng niềm vui sướng thì hiện rõ trên gương mặt, tràn ngập trong tâm hồn hắn, khiến hắn “thích chí ngửa cổ cười khanh khách”. Cái cảm giác hạnh phúc, niềm vui khi có gia đình, có được một người vợ để yêu thương, hắn chưa từng được hưởng cái cảm giác sung sướng, hạnh phúc ấy một lần.
Đến khi về tới nhà, lần đầu tiên trong đời, ở chính trong căn nhà mình, hắn lại trở nên ngượng nghịu, lúng túng, hắn gắt lên khi bà cụ Tứ – mẹ hắn đi đâu về muộn. Hắn còn cảm thấy “sờ sợ”, mà “chính hắn cũng không hiểu sao hắn sợ”. Ở người đàn ông này, ta cảm nhận được những thái cực trái ngược sau khi anh ta “nhặt” vợ. Cảm giác vui sướng, nhưng cũng lo sợ, hạnh phúc nhưng cũng lo lắng, anh vui bởi lẽ cái niềm khao khát bấy lâu của mình đã thành hiện thực, còn lo lắng bởi lẽ anh không biết cái đói sẽ còn hành hạ con người ta đến bao giờ, liệu họ có còn sống qua cái giai đoạn này chăng?
Bao nhiêu lo lắng, hỗn độn trong tâm trí người đàn ông ấy, hắn còn chưa thật sự tin rằng hắn đã có vợ. Hắn còn đang mơ màng, còn “ngờ ngợ như không phải thế”. Phải chăng niềm vui quá bất ngờ khiến Tràng chưa thể nào tin ngay được điều đó? Đến khi nói chuyện với mẹ, được bà cụ dặn dò, Tràng cũng vâng dạ vô cùng ngoan ngoãn – những điều mà lần đầu tiên có được trong ngôi nhà ấy.
Kim Lân đã khéo léo dựng lên một tình huống éo le nhưng cũng thật bất ngờ, rất hợp lý, bao hàm cả giá trị nhân đạo và giá trị nội dung sâu sắc. Đây chính là sự yêu thương mà Kim Lân dành đến cho những người nông dân nghèo, những người lao động chất phác.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Cảm nhận về nhân vật vợ nhặt
- Cảm nhận về nụ cười trong cuộc sống
- Cảm nhận về số phận của Vũ Nương
- Cảm nhận về sông Hương
- Cảm nhận về tác phẩm Trao duyên
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều