10+ Cảm nhận về nhân vật vợ nhặt (điểm cao)

Bài văn Cảm nhận về nhân vật vợ nhặt điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

Dàn ý Cảm nhận về nhân vật vợ nhặt

1. Mở bài

- Giới thiệu sơ qua về tác giả, tác phẩm, hình tượng nhân vật người "vợ nhặt".

2. Thân bài

a) Vài nét sơ lược về nhân vật Thị

- Là nạn nhân thê thảm nhất của nạn nhân năm 1945.

- Nạn đói đã cướp đi của Thị tất cả: tên tuổi, quê quán, gia đình.

- Xuất hiện nhỏ bé, đáng thương.

- Được nhặt như cọng rơm, cọng rác.

=> Phản ánh chân thực tình trạng khốn khổ của nhân dân ta trong nạn đói khủng khiếp do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra.

b) Tính cách của nhân vật Thị

- Trước khi về làm vợ Tràng, Thị là một người cong cớn, chỏng lỏn. Thị đẩy xe cho Tràng hòng được ăn.

- Nạn đói đã cướp của Thị nhân cách đoan chính của con người.

- Khi theo Tràng về làm vợ, Thị đã hoàn toàn thay đổi:

+ Ý thức được thân phận người vợ “theo không”.

+ Trên đường về Thị vô cùng ngượng ngịu, cái nón rách ta nghiêng nghiêng che khuất mặt.

+ Chỉ dám ngồi mớm ở mép giường.

+ Sau đêm tân hôn Thị trở thành người vợ hiền hậu đúng mực.

c) Ý nghĩa của nhân vật Thị

- Thể hiện khao khát hạnh phúc, bộc lộ giá trị nhân đạo của tác phẩm.

- Đem lại làn gió mới cho xóm ngụ cư, cho gia đình cụ Tứ, khiến Tràng trở thành người đàn ông chín chắn.

- Đem đến niềm hi vọng về việc trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không đóng thuế nữa mà phá kho thóc của Nhật để chia cho người đói.

=> Hướng Tràng theo cách mạng.

d) Nghệ thuật của tác phẩm

- Xây dựng tình huống truyện độc đáo.

- Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn: cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc.

- Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn, thể hiện tâm lí tinh tế.

- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi.

3. Kết bài

- Khẳng định lại vai trò, giá trị nhân vật.

- Nêu suy nghĩ riêng.

Cảm nhận về nhân vật vợ nhặt - mẫu 1

Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc và tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim Lân. Chuyện kể về Tràng ở cùng xóm, làm nghề đánh xe bò thuê. Giữa lúc đói khủng khiếp, còn khó có miếng ăn cho mình, bỗng nhặt được vợ. Kim Lân đã tạo ra tình huống nhặt vợ rất độc đáo, đồng thời sử dụng ngôn ngữ bình dân tự nhiên, mộc mạc để khắc họa tính cách của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ đến vợ chồng Tràng, nhân vật nào cũng sống động, chân thực.

Trước khi về làm vợ Tràng, thị là một người phụ nữ tài giỏi, táo bạo và liều lĩnh. Buổi đầu gặp mặt, Thị đã chủ động làm quen, đẩy xe bò cho Tràng và “mỉm cười” với Tràng. Lần thứ hai gặp mặt, cô “bỏ chạy”, “thừa nhận” và vẫn “ngại ngùng” đứng trước Tràng. Hơn nữa, Thị còn chủ động đi xin ăn. Khi được Tràng rủ đi ăn bánh cuốn, Thị cắm mặt ăn liền một mạch bốn bát bánh cuốn. Ăn xong, nàng còn quệt đũa ngang miệng, khen ngon.Trong cơn đói khát tột cùng, nàng gần như đánh mất nhân cách, sự tế nhị của con người.

Về đến nhà, nhìn căn nhà bừa bộn của Tràng, chị nén tiếng thở dài đành phải thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời Tràng. Tiếng thở dài thất vọng vì hoàn cảnh của Tràng cũng chẳng khá hơn của Thị. Tràng không chỉ nghèo mà còn có mẹ già, Tràng cũng phải tự lo liệu, nếu không cuộc sống của Tràng sẽ khó khăn hơn. Hành động khép nép, tay vuốt vạt áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ thật đáng thương. Sâu thẳm bên trong con người này luôn khao khát một mái ấm thực sự nên anh quyết định gắn bó với cô, trở thành một phần của gia đình, bất chấp ngày mai có ra sao.

Sau đêm tân hôn, người phụ nữ đó thay đổi hoàn toàn tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp nhà cửa. Người đọc cũng dễ dàng nhận ra sự thay đổi đó: nếu hôm qua Thị chua ngoa, dữ dằn, ngang tàng thì hôm nay Thị dịu dàng biết bao. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận trọn vẹn sự thay đổi kỳ diệu đó: “Tràng nom Thị hôm nay đã khác lắm, ra dáng một người phụ nữ dịu dàng, đoan trang không còn e thẹn như những lần Tràng gặp ở Việt Nam ở tỉnh ngoài”.

Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, dù bữa cơm chỉ là “cháo loãng, mỗi người hết hai bát cơm”, phải ăn cháo cám nhưng Thị vẫn thấy vui. Thị mang đến cho mẹ con Tràng cuộc sống và những thông tin mới về thời cuộc. Nghe tiếng  trống thuế, nàng nói với mẹ chồng: “Ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không nộp thuế nữa, lại còn phá kho thóc của Nhật chia cho dân đói nữa”. Sự hiểu biết này của chị dường như đã giúp Tràng nhận ra con đường phía trước mà mình sẽ chọn, “trong tâm trí Tràng vẫn thấy đoàn người đói khổ đi trên đê Sộp, trước mặt là lá cờ đỏ to lớn”. Qua đó ta thấy nhân vật vợ Tràng, “cô dâu mới” cũng là một sứ giả của cách mạng.

Bằng ngòi bút tin cậy và trân trọng, Kim Lân đã dựng nên một chân dung văn chương bất hủ. Người vợ nhặt là nạn nhân điển hình nhất của nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm lu mờ tư cách và lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng sâu thẳm bên trong con người ấy vẫn là một người phụ nữ dịu dàng, nữ tính, nuôi dưỡng khát vọng hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là một người luôn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

Cảm nhận về nhân vật vợ nhặt - mẫu 2

"Vợ nhặt" là tác phẩm đặc sắc của nhà văn Kim Lân, viết về hoàn cảnh nghèo khổ của người dân trong nạn đói năm 1945, qua câu chuyện của anh Tràng và người vợ nhặt. Tác phẩm không chỉ khắc họa cảnh ngộ bi thảm của con người mà còn bộc lộ giá trị nhân văn sâu sắc trong những tình huống tưởng như tầm thường.

Tác phẩm bắt đầu với hình ảnh anh Tràng – một người đàn ông nghèo khó, bị xã hội khinh rẻ. Trái ngược với mong muốn bình thường của mỗi người là có gia đình, Tràng lại “nhặt” vợ trong hoàn cảnh bữa ăn thiếu thốn và cơn đói tăm tối đang bao trùm. Nhân vật người vợ không tên đến từ cảnh đói khát và tàn nhẫn. Cô không có gia đình, cũng không có nơi nương tựa, chỉ sống lay lắt qua những ngày tháng trôi qua như một cái bóng. Cô vợ nhặt quyết định đi theo Tràng không phải vì tình yêu mà vì cái đói, vì niềm hy vọng về một nơi nương tựa, một cuộc sống tạm bợ để không chết đói. Hình ảnh của cô lúc này thật tủi nhục và xấu hổ, nhưng đồng thời cũng là biểu tượng của sức sống mãnh liệt trong hoàn cảnh khốn cùng.

Khi về đến nhà Tràng, cô lo lắng về sự tiếp đón của gia đình Tràng và nỗi tủi nhục vì phải làm vợ một người đàn ông nghèo khó. Cô cũng lo lắng về cuộc sống tương lai và liệu có thể sống được không. Sau một thời gian, dù nhà Tràng nghèo khó, nhưng cô bắt đầu cảm nhận được sự ấm áp và hạnh phúc. Cô chăm sóc nhà cửa, làm mọi việc như một người vợ thật sự, và dần dần, sự sống lại được khôi phục trong căn nhà nghèo.

Mặc dù sống trong hoàn cảnh nghèo khổ, người vợ nhặt vẫn giữ được giá trị nhân cách và khát vọng sống. Tác phẩm không chỉ phản ánh nỗi thống khổ của người dân trong nạn đói mà còn lên án tội ác của thực dân và phát xít, đồng thời khẳng định sức mạnh của tình người và niềm hy vọng trong hoàn cảnh khó khăn.

"Vợ nhặt" của Kim Lân không chỉ là câu chuyện về sự sinh tồn mà còn là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Nhân vật người vợ nhặt thể hiện một khát khao sống mãnh liệt, hy vọng vào tương lai dù trong hoàn cảnh tuyệt vọng. Tác phẩm đã phản ánh một phần của lịch sử và cuộc sống, đồng thời ca ngợi lòng nhân ái và sức mạnh của tình người.

Cảm nhận về nhân vật vợ nhặt - mẫu 3

Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học hiện đại Việt Nam, nổi bật với tác phẩm Vợ nhặt, được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Truyện ngắn này tái hiện nạn đói Ất Dậu (1945), đồng thời khắc họa số phận của người phụ nữ nghèo đói, bất hạnh nhưng mang trong mình khát vọng sống mãnh liệt.

Nhân vật thị xuất hiện trong tác phẩm không có tên, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp. Chị chỉ được gọi là "thị", tượng trưng cho số phận của những phụ nữ nghèo khổ. Chân dung của thị là người phụ nữ gầy gò, tồi tàn, sống trong cảnh đói khổ và tăm tối. Trước khi trở thành vợ Tràng, thị ăn nói chỏng lỏn và táo bạo. Lần gặp đầu tiên, thị chủ động tiếp cận Tràng, ăn uống một cách vô tư giữa cơn đói khủng khiếp, làm lộ rõ sự mất mát nhân cách do nạn đói gây ra.

Sau khi về nhà Tràng, thị thể hiện sự chấp nhận hoàn cảnh nghèo khó của Tràng, nhưng cũng mang theo hy vọng về một mái ấm gia đình. Chị tỏ ra e ngại khi gặp bà cụ Tứ, nhưng bên trong vẫn là khát khao cuộc sống tốt đẹp hơn. Sự đói khát đã làm biến dạng nhân cách của thị, nhưng sau khi làm vợ Tràng, thị dần trở lại con người thật của mình. Chị trở thành một người vợ hiền, biết lo toan cho gia đình, thể hiện những phẩm chất của một người vợ đảm đang.

Sau khi về làm vợ Tràng, thị bắt đầu thể hiện sự chăm sóc gia đình, giúp Tràng và mẹ của anh trong cuộc sống khó khăn. Niềm hy vọng mới về tương lai sáng sủa dần xuất hiện, đặc biệt khi thị kể cho bà cụ Tứ và Tràng nghe về những sự kiện làm thay đổi niềm tin vào cuộc sống. Vợ nhặt là tác phẩm lên án tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đồng thời thể hiện sự cảm thông, xót thương với số phận người lao động nghèo. Từ những gian khổ, họ vẫn duy trì niềm hy vọng và lòng nhân ái, xây dựng hạnh phúc trong điều kiện khó khăn.

Tác phẩm Vợ nhặt đã khắc họa một cách sâu sắc hình ảnh người phụ nữ nghèo khổ nhưng mạnh mẽ trong cuộc sống. Thị, dù không có tên tuổi hay gia đình, đã tìm thấy sự ấm áp trong gia đình Tràng, đem đến một làn gió mới, làm sáng lên hy vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn trong những ngày tháng tăm tối.

Cảm nhận về nhân vật vợ nhặt - mẫu 4

Kim Lân là một nhà văn nổi bật trong nền văn học hiện thực Việt Nam, đặc biệt khi viết về người nông dân trong xã hội cũ. Tác phẩm Vợ nhặt của ông là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất, khắc họa rõ nét bức tranh khốn khó của người dân trong nạn đói năm 1945, qua nhân vật thị, người vợ nhặt của Tràng.

Thị là một người phụ nữ không tên, không tuổi, không gia đình, sống trong cảnh nghèo đói khốn khổ. Hoàn cảnh của thị phản ánh số phận bi thảm của người dân trong nạn đói 1945, khi con người không còn giá trị. Mặc dù có vẻ ngoài và cách cư xử thô lỗ, thô bạo, nhưng hành động của thị chỉ là sự phản ứng trong hoàn cảnh đói khổ. Thị sẵn sàng đánh mất nhân cách vì miếng ăn và khao khát được sống sót, dù cuộc sống có tàn tạ đến đâu. Sự khao khát sống và tìm kiếm hạnh phúc đã khiến thị nhận lời trở thành vợ Tràng. Trong mắt thị, hạnh phúc giản đơn là có một mái ấm, dù đó là một gia đình nghèo khổ, tồi tàn.

Khi về nhà Tràng, thị thể hiện những phẩm chất đáng quý. Dù thất vọng trước hoàn cảnh nghèo khó của gia đình Tràng, thị không phàn nàn mà cố gắng kiên nhẫn, tế nhị để hòa hợp với gia đình mới. Thị không chỉ là người phụ nữ chăm chỉ, tháo vát trong gia đình mà còn thể hiện sự thấu hiểu, cảm thông với mẹ chồng. Thị hiểu rằng bà cụ Tứ làm cháo cám vì nghèo khó và không muốn làm mẹ chồng buồn. Thị không cam chịu cái đói khổ, mà bày tỏ những suy nghĩ mới mẻ về cuộc sống và tương lai. Thị có niềm hy vọng vào cách mạng và tin rằng tương lai sẽ tốt đẹp hơn.

Nhân vật thị trong Vợ nhặt của Kim Lân là hình mẫu đại diện cho người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Dù sống trong nghèo khó và khốn cùng, thị vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp như khao khát sống và hy vọng vào tương lai, qua đó phản ánh tư tưởng nhân văn sâu sắc của tác giả.

Cảm nhận về nhân vật vợ nhặt - mẫu 5

Vợ nhặt là tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân, thể hiện rõ nét hiện thực khắc nghiệt của nạn đói năm 1945 qua nhân vật thị, người phụ nữ được Tràng "nhặt" về làm vợ. Truyện không chỉ phản ánh thực trạng xã hội mà còn khắc họa những phẩm chất nhân văn sâu sắc của con người trong hoàn cảnh cực kỳ khốn khó.

Trước khi làm vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh, hành động của thị phản ánh sự suy sụp về nhân cách trong cảnh đói khát tột cùng. Thị chủ động đòi ăn, ăn một mạch bốn bát bánh đúc và không ngần ngại biểu lộ sự thèm khát thức ăn. Điều này cho thấy con người trong nạn đói dễ dàng đánh mất phẩm giá, nhưng cũng bộc lộ khát khao sinh tồn mạnh mẽ. Khi về nhà Tràng, thị thất vọng trước hoàn cảnh nghèo khó, nhưng cô không phàn nàn mà chấp nhận, thể hiện sự kiên nhẫn và khát khao một mái ấm gia đình.

Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua Thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.

Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng Thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là Người truyền tin cách mạng.

Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, cách hành xử của bản thân. Nhân vật được tập trung khắc họa ở cử chỉ, hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ nhật.

Bằng ngòi bút tin yêu và trân  trọng, Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ nhân cách, lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng ẩn sâu  trong con người ấy vẫn là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ tính, biết vun vén và có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

Cảm nhận về nhân vật vợ nhặt - mẫu 6

Vợ nhặt của Kim Lân là tác phẩm xuất sắc phản ánh hiện thực khắc nghiệt của nạn đói năm 1945 và những số phận bất hạnh trong xã hội. Truyện kể về người vợ nhặt – một người phụ nữ nghèo khổ nhưng có khát vọng sống mãnh liệt, được Tràng mang về làm vợ trong hoàn cảnh khó khăn.

Người vợ nhặt không có tên, không quê quán, không gia đình, chỉ được gọi chung là “Thị”. Cô xuất hiện với hình dáng gầy gò, tả tơi, sống vất vưởng, mang đến hình ảnh khốn khó của người phụ nữ trong nạn đói. Thị táo bạo và liều lĩnh. Cô chủ động làm quen với Tràng, đẩy xe bò và xin ăn. Hành động này thể hiện sự đánh mất nhân cách trong nạn đói, nhưng cũng là dấu hiệu của khát khao sinh tồn. Thị thất vọng về hoàn cảnh nghèo khổ của Tràng, nhưng vẫn quyết định gắn bó với anh, hy vọng có một mái ấm gia đình dù nghèo khó. Cái đói khiến Thị thay đổi, từ một người táo bạo trở thành một người hiền lành, chăm chỉ. Sau khi về nhà Tràng, cô thể hiện sự chăm sóc, lo toan cho gia đình, không còn vẻ lẳng lơ, luộm thuộm.

Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói khổ, bà Tứ dành hết tình cảm cho cô con dâu mới. Chị tỏ ra là người phụ nữ am hiểu thời sự khi kể cho mẹ chồng nghe chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính cô đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm hy vọng về một sự đổi đời trong tương lai.

Qua hình ảnh người vợ nhặt, nhà văn lên án mạnh mẽ tội ác man rợ của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp; đồng thời bày tỏ sự cảm thông, xót thương trước hoàn cảnh khốn khó của những người dân lao động nghèo; thái độ trân trọng tấm lòng nhân hậu, khát vọng hạnh phúc bình dị của người lao động nghèo khổ. Dù trong công việc vất vả, họ vẫn yêu thương, quan tâm đến nhau, cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.

Tóm lại, người đàn bà không họ, không tên, không họ hàng thân thích này đã thực sự đổi đời bằng tấm lòng giàu tình yêu thương của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng trưng bày tuy không lộng lẫy nhưng gợi lên sự đầm ấm của cuộc sống gia đình. Phải chăng cô đã mang đến một luồng gió mới cho những mảnh đời đen tối của những người nghèo bên bờ vực của cùng cực.

Cảm nhận về nhân vật vợ nhặt - mẫu 7

Vợ Nhặt là tác phẩm đặc sắc và tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim Lân. Nội dung câu chuyện kể về ông Trang ở cùng xóm, làm nghề đánh xe bò thuê. Giữa nạn đói khủng khiếp, anh còn đang phải chật vật để nuôi sống bản thân thì bỗng anh dám cõng vợ đi kiếm hơn. Kim Lân đã tạo ra một tình huống lấy vợ hết sức độc đáo, đồng thời sử dụng ngôn ngữ dân gian mộc mạc, tự nhiên để khắc họa tính cách của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ đến vợ chồng ông Tràng, từng nhân vật đều sống động và chân thực.

Vợ nhặt của Tràng trước hết là một người cùng hoàn cảnh với vợ nhặt của mình, chỉ là một con số trống rỗng: không tên tuổi, không quê quán, không gia đình, không nghề nghiệp... Từ đầu đến cuối, Tràng đều được. chỉ được gọi là "Thị".  Một cách xưng hô suồng sã đối với chị và tất cả những người phụ nữ có hoàn cảnh và số phận đáng thương như chị. Không chỉ vậy, chân dung người phụ nữ hiện ra ngay từ đầu cũng không dễ thấy: đó là hình ảnh người phụ nữ gầy gò, ngực lép, mặt lưỡi cày xám xịt, áo quần rách bươm như tổ đỉa. Hình ảnh cũng phần nào lột tả được con người và cuộc sống nơi phố thị.

Về tính cách đón đưa vợ cũng có chút thay đổi. Trước khi về làm vợ Tràng, Mị là một người đàn bà bạo dạn, táo bạo, liều lĩnh: lần đầu gặp, Mị chủ động làm quen với chiếc xe đẩy của Tràng, rồi “liếc” Tràng, lần thứ hai gặp thì “bỏ chạy”. "Nói đắc thắng" mà vẫn "đứng ngồi không yên" trước Tràng. Ngoài ra, Thị còn ngỏ ý xin ăn, khi Tràng mời ăn bánh chưng, Thị đã cúi đầu ăn bốn bát bánh chưng. Ăn xong, cô vẫn dùng đũa Lau miệng, anh hết lời khen ngợi... Tất cả những biểu hiện trên thị trường này suy cho cùng đều là do đói, đói nhất thời có thể làm biến dạng tính cách của một người.

Nhưng khi trở thành vợ của Tràng, cô lại trở về con người thật của mình là một người phụ nữ dịu dàng, nhút nhát, lễ phép và có trách nhiệm, bằng chứng là cô nhìn Tràng một cách thảm hại và bẽn lẽn vào lúc hoàng hôn. Làm vợ được một ngày, cô ấy dậy sớm, dọn dẹp, thu dọn nhà cửa. Đây là hình ảnh người vợ biết lo toan cho cuộc sống gia đình – hình ảnh người vợ đảm, dâu ngoan. Một ngày đói, trong bữa tiệc cưới, thị hình ảnh người ta đi phá kho thóc của Nhật, thị kể chuyện Bắc Giang cho mẹ chồng nghe, chứng tỏ thị là một người phụ nữ biết thời sự. Chính cô đã cho mẹ và chồng hy vọng đổi đời trong tương lai. Những nét tính cách của cô làm nổi bật vẻ đẹp của người phụ nữ thời xưa chịu thương chịu khó.

Nhiều người cho rằng trong truyện ngắn Vợ nhặt đã chiếm đoạt; Nhân vật bà cụ Tứ, một người mẹ nhân hậu, từng trải khiến người đọc cảm động. Điều này không sai, nhưng đọc đến những dòng cuối, điều ám ảnh tâm trí người đọc là hình ảnh người vợ của ông Tràng. Bằng lối miêu tả chân thực, sinh động và tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh người vợ nhặt - một người phụ nữ vô danh.

Đó là minh chứng quan trọng vạch trần và lên án tội ác dã man của Nhật, Pháp đã gây ra nạn đói khủng khiếp, đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được sống đàng hoàng làm người. Qua tác phẩm Vợ Nhặt, nhà văn Kim Lân gián tiếp khẳng định: Trong cảnh nghèo khó, hoạn nạn, cái chết cận kề, nếu những người nghèo biết đùm bọc lẫn nhau, biết sẻ chia vật chất, thương yêu nhau thì cứu được người. Những người này nhất định sẽ sống một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc.

Trong tác phẩm này, mặc dù người phụ nữ chỉ đảm nhận một nhân vật bên cạnh Tràng nhưng người phụ nữ không tên, không gia đình, không tên tuổi, không cha mẹ ấy đã thực sự đổi đời bằng tấm lòng giàu có, lòng nhân hậu của Tràng và người mẹ của Tràng. không hoa mỹ, nó gợi lên sự đầm ấm của cuộc sống gia đình, có lẽ nó mang đến một làn gió mát.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học