10+ Cảm nhận về sông Hương (điểm cao)
Bài văn Cảm nhận về sông Hương điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Cảm nhận về sông Hương
- Cảm nhận về sông Hương (mẫu 1)
- Cảm nhận về sông Hương (mẫu 2)
- Cảm nhận về sông Hương (mẫu 3)
- Cảm nhận về sông Hương (mẫu 4)
- Cảm nhận về sông Hương (mẫu 5)
- Cảm nhận về sông Hương (mẫu 6)
- Cảm nhận về sông Hương (mẫu 7)
- Cảm nhận về sông Hương (mẫu 8)
- Cảm nhận về sông Hương (mẫu 9)
- Cảm nhận về sông Hương (các mẫu khác)
Dàn ý Cảm nhận về sông Hương
a) Mở bài
- Tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường: là nhà văn của xứ Huế, ông có sức liên tưởng tưởng tượng dồi dào, lối hành văn mê đắm, ông chuyên viết về bút kí.
- Tác phẩm là tùy bút tiêu biểu cho phong cách văn chương của tác giả: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc bén và suy tư đa chiều.
- Hình tượng trung tâm của tác phẩm là hình tượng con sông Hương.
b) Thân bài
* Dòng sông thiên nhiên
- Ở thượng nguồn:
+ Là “bản trường ca của rừng già” “rầm rộ dưới bóng cây đại ngàn”, “mãnh liệt qua những ghềnh thác”; lúc lại dịu dàng say đắm dưới dặm dài chói lọi hoa đỗ quyên ...”
+ “cô gái Di - gan”: phóng khoáng, man dại, tâm hồn tự do, trong sáng, bản tính gan dạ, có sức mạnh bản năng
+ Sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”.
- Sông Hương từ thượng nguồn đến Huế:
+ Sông Hương “như một người gái đẹp nằm ngủ mơ màng...” được đánh thức bởi tiếng gọi của tình yêu, bắt đầu hành trình gian truân, “tìm kiếm có ý thức” đến với Huế, lần đầu đến với tình yêu một mặt rất e lệ, một mặt táo bạo chủ động “vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”.
• Sông Hương có nhịp chảy chậm rãi, “mềm như tấm lụa” (liên hệ hình ảnh sông Đà như “áng tóc trữ tình”),
• Từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ: mang dáng vẻ trầm mặc khi chảy qua những lăng tẩm, đổi dòng chuyển hướng liên tục.
• Từ chân đồi Thiên Mụ đến lúc gặp Huế: “vui hẳn lên”, “kéo một nét thẳng” vì tìm đúng đường về
• Giáp mặt Huế, sông Hương không gặp Huế ngay mà “uốn một cánh cung ...tình yêu” như một người con gái bẽn lẹn, ngại ngùng.
- Trong lòng Huế
+ Tác giả so sánh sông Hương với những dòng sông nổi tiếng trên thế giới, sông Hương chỉ thuộc về một thành phố duy nhất, giống như người con gái chung thủy.
+ Sông Hương mang đến cho Huế một vẻ đẹp cổ xưa dân dã: “ánh lửa thuyền chài ... xưa cũ”, trôi đi chậm như một mặt hồ.
+ Người con gái đắm say tình tứ khi bên người mình yêu, người con gái tài hoa “tài nữ đánh đàn trong đêm khuya”.
- Từ biệt Huế ra biển:
+ Như một người con gái lưu luyến, thủy chung từ biệt người yêu.
=> Tác giả chủ yếu cảm nhận vẻ đẹp sông Hương từ góc độ tình yêu khiến sông Hương hiện lên như một người con gái chung tình hết lòng vì tình yêu.
* Dòng sông lịch sử
- Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của Huế, của đất nước: “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ”, chứng kiến những mất mát đau thương của các cuộc khởi nghĩa thế kỉ XIX, ...
- Sông Hương như một công dân có ý thức trách nhiệm sâu sắc với đất nước: “biết hiến đời mình để làm nên chiến công”,...
- Là một người con gái anh hùng: cùng gắn bó với Huế qua nhiều cuộc chiến đấu anh hùng trong thời kì trung đại, đến cách mạng tháng Tám,...
* Dòng sông văn hóa
- Sông Hương là “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”: toàn bộ âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều và bản Tứ đại cảnh đều được sinh thành trên sông nước sông Hương.
- Là người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya: không bao giờ lặp lại trong cảm hứng của các thi nhân
c) Kết bài
- Nêu cảm nhận về hình tượng sông Hương.
- Đánh giá nghệ thuật nổi bật: liên tưởng độc đáo, sử dụng từ ngữ đặc sắc, văn phong tao nhã, thành công trong nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Hương.
- Qua tác phẩm ta cảm nhận được niềm tự hào tha thiết của tác giả với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế cũng như đất nước.
Cảm nhận về sông Hương - mẫu 1
“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về dòng sông trữ tĩnh, thơ mộng của Huế. Mạch cảm xúc của bài kí chính là vẻ đẹp đặc trưng, riêng biệt của con sông duy nhất chảy qua dòng thành phố Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã rất tài tình khi lột tả được hết vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của Huế này.
Có lẽ vì đặc trưng của thể loại bút kí nên lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường rất phóng khoáng, điêu luyện, nhẹ nhàng và mềm mại. Với một tấm lòng yêu Huế, yêu cảnh sắc thiên nhiên, yêu sông Hương nên Hoàng Phủ Ngọc tường đã khoác lên bài kí một màu sắc, âm hưởng riêng có của Huế.
Dòng sông Hương được tác giả ngợi ca “dòng sông duy nhất chảy qua thành phố Huế”, dòng sông vắt mình qua thành phố, chứng kiến bao nhiêu đổi thay của mảnh đất này.
Cái nhìn đầu tiên của tác giả khi viết về sông Hương là cái nhìn từ vùng thượng nguồn. Sông Hương ở vùng thượng nguồn mang vẻ đẹp thật khác lạ. Vẻ đẹp của dòng sông lúc này khiến tác giả liên tưởng đến cô gái Di gan phóng khoáng, mê dại, đầy sức hút. Qua ngòi bút của tác giả, sông Hương hiện lên thật kì vĩ “sông Hương tựa như một bản trường ca của rừng già, khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua nhiều ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên rừng”. Chỉ với một vài chi tiết và Hoàng Phủ Ngọc Tường đã lột tả được vẻ đẹp lúc mãnh liệt, lúc dịu êm của sông Hương. Có lẽ đây chính là đặc trưng của sông hương khi ở thượng nguồn, hứng chịu nhiều biến đổi của thời tiết.
Thật độc đáo khi dưới con mắt của tác giả, sông hương tựa như “Cô gái di gan phóng khoáng và man dại với bản lĩnh gan dạ, tâm hồn tự do và trong sáng”. Có lẽ đây là phép nhân hóa đầy ẩn ý nhằm gợi lên nét đẹp hoang sơ nhưng hấp dẫn của con sông này. Như vậy có thể thấy được qua ngòi bút phóng khoáng của tác giả, sông Hương vùng thượng nguồn toát lên vẻ đẹp kì bí, hùng vĩ và đầy cá tính.
Tuy nhiên đây mới chỉ là ở thượng nguồn, cùng Hoàng Phủ Ngọc tường khám phá vẻ đẹp của dòng sông này khi chảy về thành phố Huế. Có lẽ người đọc sẽ bất ngờ với vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại và uyển chuyển của nó. Tác giả đã ví sông Hương như “người tình dịu dàng và chung thủy của cố đô”. Không phải vô duyên vô cớ mà tác giả lại đi ví von so sánh đầy tính nghệ thuật như vậy.
Sông Hương khi chảy về thành phố có sức hấp dẫn tuyệt vời đối với người đọc. Ở đây chúng ta nhận ra một lối viết nhẹ nhàng, tinh tế, rất mực tài hoa của tác giả. Ông vẽ lên vẻ đẹp của sông hương không chỉ bằng ngôn ngữ mà còn bằng cả trái tim đầy tình yêu thương. Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, sông Hương như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” – một vẻ đẹp màu màu sắc của câu chuyện cổ tích tuyệt đẹp. Và sông hương bỗng “chuyển dòng liên tục” “ôm lấy chân đồi Thiên Mụ”, “trôi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Một sự diễn tả quá trữ tình, quá độc đáo khiên ngưỡng đọc khó cưỡng lại được vẻ đẹp tuyệt vời này.
Sông hương vừa mềm mại, vừa dịu dàng “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Sự chuyển đổi màu sắc theo mùa, theo thời gian như thế này đã làm nên một nét đặc trưng cho những ai muốn ngắm nhìn sông hương thật lâu.
Hoàng Phủ Ngọc Tường tả sông hương như vẽ, vẽ lên một bức tranh hoàn mĩ và tuyệt vời nhất về dòng sông huyền thoại này. Sông Hương tạo nên nét đẹp của đất cố đô Huế, ẩn mình trong trầm tích của nét văn hóa hàng nghìn năm lịch sử.
Thú vị nhất là đoạn sông hương chảy trong lòng Huế, tác giả cứ ngỡ rằng sông Hương tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu nên tươi vui hẳn lên.
Vẻ đẹp của dòng sông này được cảm nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhìn bằng con mắt của hội họa, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông hương như điệu slow chậm rãi sâu lắng, trữ tình…Một vẻ đẹp khiến người khác phải ngỡ ngàng và đắm say chẳng thể dứt ra.
Sông hương còn là chứng nhân lịch sử, là “người” chứng kiến sự đổi thay của cố đô Huế từng ngày. Trong sách Dư địa chí “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành phú xuân của anh hùng nguyễn huệ…”
Có thể nói rằng để cảm nhận sông hương với nhiều góc độ, nhiều vẻ đẹp khác nhau, Hoàng Phủ Ngọc tường phải có trái tim nhạy cảm, yêu và thương tha thiết dòng sông thơ mộng này. Một lối viết giản dị, nhẹ nhàng nhưng đầy lôi cuốn đã khiến độc giả không thể để dứt mạch cảm xúc. Tác giả đã phát huy được đặc trưng của thể loại bút kì đầy sắc bén và tình cảm này.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông này” thực sự là bài bút kí độc đáo. Sông hương hiện lên với tất cả vẻ đẹp mà nó mang.
Cảm nhận về sông Hương - mẫu 2
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn chuyên viết về bút kí, một loại văn giàu tính chân thực của đời sống. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự keets hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy tổng hợp đa chiều đa diện. Sự nghiệp văn chương của ông để lại rất nhiều trong đó tập bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” 1986 là một tập văn tiêu biểu. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được lấy làm tựa đề cho tập bút kí nói trên là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phần đầu bài bút kí này tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp đa chiều đa diện của dòng sông Hương xứ Huế trong mối quan hệ với địa lí lịch sử thi ca. Tìm hiểu sâu sắc bài bút kí chúng ta sẽ thấy được sắc diện và tâm hồn của dòng sông Hương thơ mộng.
Bài viết mang tính bút kí nên nhà văn khi giới thiệu về dòng sông Hương tác giả bắt đầu từ phía thượng nguồn của dòng sông. Một nhận xét chung của tác giả về dòng sông Hương khi ở thượng nguồn “là một bản trường ca của rừng già”. Bản trường ca này thể hiện hai cung bậc mạnh mẽ hoang dại và dịu dàng say đắm.
Trước hết vì dòng sông sinh ra giữa rừng già giữa đại ngàn nên nó mang âm hưởng của vùng núi cao vực sâu, nó ‘rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn’. Tuy nhiên “cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài cói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Cũng có lúc nó “phóng khoáng và man dại như cuộc đời của cô gái Digan” ở vùng nước Nga xa xôi.
Ngoài những dáng vẻ nói trên, cái nhìn tổng thể của nhà văn là sông Hương ở phía thượng nguồn có “tâm hồn sâu thẳm”, “đã đóng kín ở cữ rừng và ném chìa khóa trong những hang đá’ như giữ nguyên điều bí ẩn của mình. Qua vài nét phác thảo của nhà văn sông Hương phía đại ngàn có sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng đầy cá tính bí ẩn.
Khác với sông Hương ở thượng nguồn, sông Hương khi về phía đồng bằng ở ngoại vi thành phố Huế đã có một hình dáng và một màu sắc mới. Cảm nhận vẻ đẹp sông hương ở ngoại vi thành phố Huế của tác giả là luôn uốn lượn xanh thẳm và trầm mặc.
Khi “ra khỏi vùng núi”, sông Hương “chuyển mình một cách liên tục” nó vòng khúc nó vặn mình, khi thì “theo hướng nam bắc”, khi “sang hướng tây bắc”, khi “về phía đông bắc”, rồi “xuôi dần về Huế”. Về với vùng thấp sông Hương “mềm như tấm lụa xanh thẳm”. Nhìn chung sông Hương khi về phía đồng bằng nó chạy qua những vùng đồi những rừng thông có lăng mộ của các vua chúa với giấc ngủ nghìn năm nên sông Hương có “vẻ đẹp trầm mặc nhất”.
Nếu như sông Hương ở phía thượng nguồn hoang dã man dại thì sông Hương khi về đồng bằng có vẻ đẹp uốn lượn trầm mặc. Đoạn sông Hương chảy qua thành phố Huế được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường tả một cách cụ thể và tinh tế hơn. Đoạn sông này vừa mang dáng dấp xanh thẳm dịu dàng của đoạn sông ở phía ngoại ô nhưng lại vừa có nét rất riêng của nó là mềm mại dịu dàng yên tĩnh.
Sông Hương “khi giáp mặt thành phố”, nó “vui tươi hẳn lên”. Nét nổi bật của dòng sông qua thành phố là “uốn một cánh cũng rất nhẹ” rồi “mềm hẳn đi” như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Khi đi qua thành phố sông Hương “trôi đi chậm thực chậm cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”. Nếu như liên hệ với dòng sông Neva ở nước Nga xa xôi chảy qua thành phố với tốc độ rất nhanh “không kịp cho lũ hải âu nói điều gì với ban” thì sông Hương lại “chảy lặng lờ” như một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” và khi bắt đầu ra khỏi Huế “con sông như ngập ngừng vấn vương” một nỗi lòng. Đúng như nhà thơ Thanh Hải viết:
“Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”
Ở những phần trên của bài bút kí nhà văn đặt dòng sông Hương trong mối quan hệ với những đại ngàn với những lăng tẩm trầm mặc, với thành phố Huế mộng mơ để mà ca ngợi vẻ đẹp của nó. Thì đến đoạn cuối của đoạn trích này nhà văn đã đặt dòng sông trong mối quan hệ với lịch sử và thơ ca của dân tộc, để từ đó nói lên vẻ đẹp mang tính tầm vóc của dòng sông.
Theo tác giả sông Hương có quan hệ với lịch sử dân tộc từ rất lâu đời. Nó là “dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua hùng”, là “biên giới phía nam của tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, là “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” ở thế kỉ 18, nó gắn với “những cuộc khởi nghĩa bi tráng” của nhân dân ta thế kỉ 19, nó chứng kiến “những chiến công rung chuyển của thời đại cách mạng tháng tám”, nó “cổ vũ nồng nhiệt cho chiến công năm Mậu Thân”.
Không những gắn liền với lịch sử mà sông Hương còn là một dòng sông thi ca. Điều đặc biệt của sông Hương là bất cứ nghệ sĩ nào phản ánh về nó cũng không lặp lại nhau không trùng nhau về ý nghĩa sáng tạo. Đã rất nhiều thi nhân viết về sông Hương với những vẻ đẹp rất khác nhau. Với Tản Đà là “dòng sông trắng lá cây xanh”, với Cao Bá Quát là “như kiếm dựng trời xanh”, với bà huyện Thanh Quan là “bóng chiều bảng lảng”, với Tố Hữu là “dòng sông gắn liền với sức mạnh tâm hồn”.
Với một vốn kiến thức phong phú uyên bác về lịch sử văn hoá văn chương, với một văn phong tao nhã hào hoa tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dựng lên một chân dung về sông Hương với một vẻ đẹp rất đa chiều đa dạng.
Cảm nhận về sông Hương - mẫu 3
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn có phong cách độc đáo và sở trường về thể bút kí, tuỳ bút. Lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cấu tạo bởi hệ thống ngôn từ nghệ thuật sang trọng, ám ảnh, đậm chất trữ tình của cái tôi uyên bác, tài hoa.
Ông là một trí thức yêu nước, đã từng gắn bó đời mình với cuộc kháng chiến chống Mỹ gian khổ, anh hùng của dân tộc. Để rồi, sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, ông đã chắp bút viết tập kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”. Trong tác phẩm, nhà văn gắn bó lòng yêu nước, tinh thần dân tộc với tình yêu sâu sắc dành cho thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hoá lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công say mê tìm tòi, tích lũy cả một đời người. Tất cả những phẩm chất ấy đã được thể hiện rất rõ qua việc ông tái hiện lại vẻ đẹp của dòng sông Hương như một nhân vật trữ tình, với những nét tính cách phức tạp, biến đổi một cách kì diệu trong không gian thời gian. Tất cả được phô diễn qua những lời văn giàu chất trí tuệ, kết hợp giữa tự sự và trữ tình tài hoa, mê đắm.
Sông Hương hiện ra qua sự kết hợp nhiều góc nhìn khác nhau của Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ địa lý, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật… “hình như chỉ sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất. Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn mãnh liệt qua những ghềnh thác”. Nhưng rồi cũng có những lúc sông Hương “trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Viết tùy bút, theo Nguyễn Tuân là “lối chơi độc tấu”, “mạch văn tràn chảy tùy theo cảm hứng”. Đặc trưng này xác đáng với những lời văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả về sông Hương. Nhà văn đã đưa người đọc đến những liên tưởng bất ngờ, khi ông so sánh “Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Ông cho rằng sông Hương là đứa con của rừng già với một tâm hồn tự do và trong sáng, để rồi rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình để khi ra khỏi rừng, “sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở”.
Với đôi mắt khảo sát nghiêm túc của nhà địa lí có một tầm văn hoá sâu rộng, kết hợp vốn ngôn từ nghệ thuật phong phú mượt mà giàu chất thi họa, Hoàng Phủ Ngọc Tường tái hiện thủy trình của sông Hương từ vùng trung du trở xuống, nó liên tục chuyển dòng, “theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó”. Nhà văn đã đặt sông Hương vào giữa cảnh quan núi đồi, lăng tẩm, bãi biển vùng ngoại ô tây-nam thành phố Huế, gương mặt Hương Giang trong xanh phẳng lặng tạo nên những mảng phản quang nhiều màu sắc trên nền trời tây nam thành phố, “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn dòng sông Hương như một chủ thể có ý thức góp phần tôn vinh thêm vẻ đẹp của xứ Huế. Và trước khi về với Huế, sông Hương trôi lặng thầm giữa một vùng không gian “Bốn bề núi phủ mây phong. Mảnh trăng thiên cổ bóng tùng vạn niên”. Giữa đám quần sơn lô xô, ở phía tây thành Huế, nơi dành cho giấc ngủ ngàn năm của các bậc vua chúa thời Nguyễn, sông Hương hiện ra với vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi kéo dài mãi “giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”. Đến khi sông Hương đổ vào thành phố tương lai của nó, “nó đã kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam-đông bắc…, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như vành trăng non”. Nhà văn đã dành cho sông Hương một tình cảm trìu mến, thân thương. Có như vậy, ông mới liên tưởng trạng thái sông Hương uốn một cánh cũng rất nhẹ sang cồn Hến như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Đôi mắt sâu sắc của nhà văn đã nhìn ra mối quan hệ biện chứng giữa dòng sông Hương mềm mại với con người xứ Huế. Sông Hương dịu dàng, duyên dáng như đã góp phần hình thành nên tính cách nết na, ý nhị của người con gái cố đô.
Với một trình độ văn hoá uyên bác, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh vẻ đẹp của sông Hương với nhiều dòng sông nổi tiếng thế giới như sông Seine của Pari, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét, sông Nê-va của Nga,… Từ đó mà ông đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo của dòng sông Hương vào buổi đêm về, “vẫn lập lòe trong đêm sương, những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được”. Nhà văn quý điệu chảy lững lờ của sông Hương qua thành Huế. Ông cho rằng “Đây là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy… chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng.”
Có thể nói rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn hoá Huế, ông không chỉ nhìn sông Hương trôi ở trong thì hiện tại, ngày ngày mang phù sa và nguồn nước ngọt trao tặng vô tư cho những cánh đồng Châu Hoà, cho cuộc sống người dân xứ Huế; mà ông còn nhìn sông Hương như là khởi nguồn cho những giá trị tinh thần lịch sử. Sông Hương trong quá khứ qua các triều đại phong kiến vàng son, nó đã từng mang cái tên Linh giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam Tổ quốc nước Đại Việt. Nó đã từng vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của anh hùng Nguyễn Huệ, rồi nó đi suốt qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ góp phần làm nên những chiến công lẫy lừng vang dội cả thế giới như lời đại tướng Võ Nguyên Giáp đã phát biểu: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.
Từ hiện thực kiêu hùng của Huế, mà Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Sông Hương là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết dưới màu cỏ lá xanh biếc”. Mặt khác, sông Hương cũng là cội nguồn của thi ca nghệ thuật. Có biết bao văn nhân, thi sĩ đã từng rung động với dòng sông Hương như Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Tản Đà, Tố Hữu. Nhà văn đã tin rằng “có một dòng sông thi ca về sông Hương và tôi hy vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ”. Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường giang như kiếm lập thanh thiên”. Tản Đà thấy “dòng sông trắng, lá cây xanh”. Hàn Mặc Tử thì lại so sánh tôn vinh sông Hương như sông ngân hà: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay”. Thu Bồn nhìn dòng nước lững lờ của sông Hương mà bâng khuâng “con sông dùng dằng con sông không chảy/Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Và với Nguyễn Trọng Tạo, Hương Giang lãng đãng một bầu khí quyển huyền thoại thi ca giúp nhà thơ thăng hoa những vần mê đắm:
“Con sông đám cưới Huyền Trân
Bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn
Hèn chi thơm thảo nỗi buồn
Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ
Con sông nửa thực nửa mơ
Nửa mong Lí Bạch, nửa chờ Khuất Nguyên”
Đất nước Việt Nam có rất nhiều dòng sông chảy qua mọi miền xứ sở, và nó đã kịp chảy vào trong những vần thơ, trang văn tuyệt vời. Bạn đọc từng xót xa với Hoàng Cầm khi nghe tin sông Đuống bị quân thù chiếm đóng. Nhà thơ đã thốt lên: “Sông Đuống trôi đi/Một dòng lấp lánh/Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Công chúng yêu văn cũng đã chiêm ngưỡng vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của “Đà Giang độc bắc lưu” qua những “trang hoa” xuất sắc của nhà tuỳ bút hàng đầu Nguyễn Tuân. Giờ chúng ta lại tìm đến với sông Hương-dòng sông chỉ tự thu mình khiêm tốn trong lãnh địa Thừa Thiên Huế, nhưng qua những trang kí tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường sông Hương hiện ra với những vẻ đẹp dịu dàng, tinh tế, góp phần làm cho Huế trở nên một bức tranh sơn thuỷ hữu tình. Hơn thế, sông Hương còn là dòng sông lịch sử, văn hoá, thơ ca, nghệ thuật. Nó đã là một phần trong đời sống tâm linh của người Huế trầm mặc, sâu sắc. Câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi lên trong miền tình cảm của bạn đọc nhiều băn khoăn về một dòng sông ngỡ là quá quen, hoá ra lại có nhiều bí ẩn cần được khám phá thêm. Có như vậy, chúng ta mới hiểu sâu sắc hơn về quê hương đất nước, tự hào hơn về giang sơn cẩm tú Việt Nam.
Cảm nhận về sông Hương - mẫu 4
Có ai về xứ Huế mộng mơ mà không một lần ngắm nhìn dòng sông Hương huyền diệu. Con sông đã làm nên nét đặc trưng của xứ Huế. Bởi vậy mà, nó đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho nghệ thuật trong đó có văn chương. Và một trong những tác phẩm nổi tiếng về sông Hương chính là tùy bút "ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nổi bật của tác phẩm này là hình tượng sông Hương đẹp, đầy màu sắc.
Trước hết, sông Hương là "bản trường ca của rừng già". Sông Hương gắn liền với đại ngàn Trường Sơn hùng vĩ. Con sông toát lên vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt vừa hùng tráng trữ tình như bản trường ca bất tận của thiên nhiên: "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Câu văn dài gợi dậy cái dư vang của trường ca. "Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời mình như một cô gái Digan phóng khoáng man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng". Đây là một liên tưởng thú vị độc đáo. Bằng việc ví sông Hương với cô gái Digan, tác giả đã khắc sâu vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh mẽ. Sông Hương hiện lên như một con người có cá tính, có tâm hồn với vẻ đẹp hoang dại đầy tình tứ. Khi ra khỏi rừng, "sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở". Cách gọi này giúp người đọc có thêm một cách nhìn, một sự hiểu biết về vẻ đẹp hùng vĩ đầy chất thơ. Sông Hương còn là một đấng sáng tạo. Nó đã tạo nên, gìn giữ và bảo tồn văn hóa của một vùng xứ sở.
Nhà văn tiếp tục hình dung sông Hương như "người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại" được người tình mong đợi đến đánh thức. Từ đây, thủy trình của sông Hương khi nó bắt đầu về xuôi như một cuộc tìm kiếm có ý thức. Người tình nhân đích thực của một người con gái đẹp trong câu truyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Thủy trình của sông Hương được miêu tả với sức sống mới, vóc dáng mới. Dòng sông chuyển dòng một cách kiên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột uốn mình qua những đường cong thật mềm. Hành trình khá gian truân, vượt qua nhiều thử thách: "từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Những câu văn miêu tả dòng chảy địa lý tự nhiên của dòng sông, biến dòng chảy ấy trở thành một hành trình của người con gái đẹp duyên dáng.
Vào giữa lòng thành phố, sông Hương "vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc". "Sông Hương nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quí của mình". Sông Hương phẳng lặng đã khiến cho cảnh vật phố Huế trở nên mộng mị, ảo diệu, nhẹ nhàng. Sông Hương như "điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế". Sông Hương như một giai điệu chậm rãi khiến cho mọi cảnh vật, mọi thứ xô bồ như một phút lặng. Sông Hương còn được ví với "tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya". Tác giả đã gợi đến một nét đẹp văn hóa của Huế gắn với dòng sông thơ mộng: nhã nhạc cung đình Huế. Nhã nhạc phải được biểu diễn trên sông vào đêm khuya mới cảm nhận hết được vẻ đẹp âm nhạc và màu sắc văn hóa đặc trưng ở nơi đây.
Khi rời khỏi thành phố, sông Hương như một "người tình thủy chung". Khúc ngoặt về hướng Đông của dòng sông trong con mắt của người nghệ sĩ là biểu hiện của nỗi vấn vương, cả một chút lẳng lơ kín đáo. Nhà văn hình dung sông Hương như nàng Kiều trở lại gặp Kim Trọng để nói lời thề trước khi đi xa.
Dòng sông Hương là dòng sông của lịch sử, của thi ca. Trong lịch sử, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản anh hùng ca, ghi dấu bao chiến công oanh liệt của dân tộc. Từ dòng sông biên thùy của các vua Hùng, đến bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt thời trung đại. Thế kỉ mười tám nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của các cuộc khởi nghĩa, và từ đấy sông Hương đã đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám của những chiến công rung chuyển. Không chỉ lịch sử mà còn là thi ca. Dòng sông không bao giờ tự lặp lại mình. Nó luôn mang vẻ đẹp mới. Nó có khả năng khơi nguồn cảm hứng mới cho các nhà văn nghệ sĩ. Một cảm hứng vô tận, nhiều sắc màu.
Cảm nhận về sông Hương - mẫu 5
Cuối cùng sông Hương đã đến được với thành phố của mình, con sông mang một vẻ đẹp độc. Sông Hương như một điệu slow tình cảm của Huế. Lưu tốc của con sông khác hẳn với dòng sông khác. Phải chăng vì quá yêu thành phố của mình, con sông Hương muốn nhìn ngắm thành phố của mình lâu hơn trước khi rời xa nó. Đó là tình cảm của dòng sông hương với Huế hay chính là tình cảm đặc biệt mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương và xứ Huế. Sông Hương như người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya.
Viết về sông Hương giữa lòng thành phố Huế tác giả không quên những nét đẹp văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng. Ở góc độ âm nhạc tác giả gọi sông Hương là người tài nữ đánh đàn. Sông Hương được ví như người tình dịu dàng và thủy chung. Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đến bất ngờ, lí thú, thể hiện tình yêu say đắm với con sông.
Đó là những nét bút thật “dịu dàng, tình tứ, đắm đuối”: “chiếc cầu trắng ở thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vầng trăng non”, sông Hương “uốn một cánh cung rất nhẹ sang cồn Hến”, đường cung ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu, “nghìn cánh hoa đăng bồng bềnh” làm dòng sông thêm lộng lẫy, con sông ngập ngừng như có “những vấn vương của một nỗi lòng, không nỡ rời xa thành phố…”. Quả đúng như câu thơ Thu Bồn: “Con sông dùng dằng, con sông không chảy Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”.
Cảm nhận về sông Hương - mẫu 6
Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn xứ Huế. Ông nổi tiếng với những tập bút kí và có sức liên tưởng, tưởng tượng dồi dáo, lối hành văn khiến người đọc mê đắm. Trong tác phẩm Ai đặt tên cho dòng sông hương cũng vậy, đây là tùy bút tiêu biểu cho phong cách của tác giả. Với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và trữ tình, giữa nghị luận sắc biến và tư duy đa chiều, tác giả đã khái quát và thể hiện lên vẻ đẹp con sông Hương. Đây là vẻ đẹp tiêu biểu của cố đô thi ca.
“Ai đã từng đặt tên cho dòng sông” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong thể loại bút ký. Tác phẩm viết về sông hương với những góc nhìn đa chiều, đặc sắc, đặc biệt vấn đề tâm linh vô cùng huyền bí.
Đọc tác phẩm, độc giả như đang tìm hiểu về một cuốn bách khoa toàn thư bởi nó chứa đựng sâu rộng mọi lĩnh vực về văn hóa, lịch sử, địa lý và văn học, nghệ thuật, thậm chí tâm linh. Tuy nhiên, mục đích cuối cùng của con người vẫn là hướng đến thiên nhiên, sống hòa quyện vào thiên nhiên.
Trong đoạn mở đầu bài bút ký, sông hương được nhà văn tái hiện như một dòng sông chân thật, được khám phá và nhìn nhận, đánh giá bằng những gì trước mắt. Dòng sông có nhiều đoạn chảy mang nhiều vẻ đẹp khác nhau, khi thì như dải lụa trong trẻo vắt ngang thượng nguồn, khi thì như một bản trường ca của rừng già, chảy ào ào dưới bóng cây đại ngàn, lúc thì mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, cuộn xoáy vào những đáy vực sâu. Thêm vào đó, dòng sông lại mang thêm vẻ đẹp dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu hoa đỗ quyên. Quá nhiều vẻ đẹp trên một dòng sông. Điều này càng cho thấy tác giả yêu sâu sắc thế nào, thấu hiểu thế nào mới có thể lột tả được chân thật vẻ đẹp đa chiều của sông hương. Hiếm có dòng sông nào lại mang trong mình nhiều vẻ đẹp đến thế, giống như “dữ dội và dịu êm”. Đặc biệt, tác giả đã thổi vào con sống một nhân cách, một tâm hồn với biện pháp sử dụng nhân hóa. Khi sông chảy qua dải Trường Sơn, nó như một con người thật sự, biến uốn éo mình, bung xõa từng địa hình. Chảy qua núi rừng Sông Hương khéo léo tạo thành những đường cong mềm mại hai bên sỏi đá. Về đến Huế, nó rũ bỏ hình ảnh hoang dại của mình trở thành dòng sông êm đềm, du dương, dịu dàng. Giữa khung cảnh yên bình này, sông Hương như một nàng thơ xứ Huế, vừa mộng mơ dịu dàng mà cũng đỗi đằm thắm, làm say đắm khách quan. Dòng sông Hương càng tô điểm thêm vẻ đẹp của Huế, tạo nền tảng cho hàng trăm bài thi ca về Huế về Sông Hương. Sông hương chính là khơi nguồn sáng tạo của biết bao thi sĩ. Nhưng phải khẳng định rằng, chỉ có Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có đủ tình yêu, sự tinh tế, quan sát chi tiết các dòng chảy sông Hương, cảm nhận được vẻ đẹp đa chiều mà con sông mang lại. Để rồi đến Huế sông Hương lại ôm trọn Huế, trở thành điểm nhấn của Huế, như tấm gương khổng lồ phản chiếu vẻ đẹp biển ảo của Huế.
Ít ai có thể hình dung rằng, dòng sông Hương lại là nhân chứng của lịch sử, chứng kiến bao sự đổi thay của nơi đây. Chúng ta mới chỉ nhìn thấy vẻ đẹp sông Hương qua con mắt người đời, trần trụi, chân thật. Nhưng dưới con mắt của bậc tài hoa Hoàng Phủ Ngọc Tường, dòng sông Hương còn là nhân chứng hào hùng của dân tộc, không chỉ chứng kiến mà còn tham gia vào cuộc đấu tranh trường kì. Ở thế kỉ 18, sông Hương soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, một trăm năm sau lại soi bóng những cuộc khởi nghĩa bi tráng của nhân dân. Dòng sông Hương đã khắc sâu bao nhiêu xương máu của dài đất hiền đổ xuống sông. Không những vậy, sông Hương còn chứng kiến cuộc chiến đấu CMT8 – cuộc chiến đấu rung chuyển thoải đại và cổ vũ nồng nhiệt cho chiến công năm Mậu Thân. Sông Hương không chỉ mang trong mình vẻ đẹp tự nhiên vốn có mà nó còn mang trong mình những di tích lịch sử, trở thành một nhân chứng đắt giá, sống cùng dân tộc và đau cùng dân tộc. Sông Hương mềm mại dịu dàng cũng đã từng nhường chỗ cho sự anh dũng, kiên cường trong suốt những thăng trầm của lịch sử. Càng đọc những áng văn lịch sử về sông Hương, chúng ta lại càng thấy gắn bố, yêu con sông này tha thiết. Cái tên Sông Hương mới dịu dàng, nên thơ làm sao, vậy mà cũng có những giai đoạn lịch sử nó lại hào hùng đến thế.
Vẻ đẹp của sông Hương không chỉ dừng ở vẻ đẹp tự nhiên và vẻ đẹp lịch sử, mà nó còn là vẻ đẹp văn hóa. Sông Hương chính là “người mẹ phù sa cua vùng văn hóa xứ sở”. Bởi toàn bộ âm nhạc cổ điển Huế, những bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều hay bản Tứ Đại cảnh đều được sinh thành trên dòng sông thương nhớ này. Các tác phẩm thi ca nổi tiếng đã được hình thành trên dòng sông Hương, vậy còn gì tuyệt vời hơn. Dòng sông trở thành đề tài cho biết bao nhà thơ, thi sĩ sáng tác. Vậy mà kì lạ sao, không có một tác phẩm nào trùng lặp với nhau. Mỗi tác phẩm đều là một câu chuyện khác nhau, đều nói về sông Hương nhưng cầu từ không giống nhau.
Ông nhắc đến những dòng thơ hài hòa của Tàn Đà hay của Cao Bá Quát đều là những áng văn chương hay để đời. Vậy mà nhắc đến sông Hương đều có những màu sắc, hình ảnh khác nhau. Như Tản Đà : “Dòng sông trắng – lá cây xanh”, còn Cao Bá Quát : “như kiếm dựng trời xanh”. Tất cả các ngôn từ đều mang theo vẻ đẹp hiền hòa hoặc mạnh mẽ, dữ dội. Nhưng tựu chung lại, dòng sông vẫn được các nhà thơ, nhà văn tái hiện lại bằng tất cả tình cảm, sự yêu thương sâu sắc và ngưỡng mộ. Bởi phải yêu lắm mới có thể viết lên những áng thơ, áng văn và những câu hát trữ tình đến vậy.
Phân tích vẻ đẹp sông Hương khiến ta càng thấy trầm trồ trước vẻ đẹp của đất nước, thêm yêu quý cảnh đẹp non sông, gấm vóc. Và khiến ta càng hiểu rằng, phải có một tình yêu nồng nàn với sông Hương thế nào, phải am hiểu văn hóa, lịch sử con người thế nào, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới cho ra đời được tùy bút tuyệt vời đến thế. Càng đọc càng thấy hay, càng thấy tự hào ngưỡng mộ về dòng sông Hương dịu dàng mà mạnh mẽ. Có thể nói đây là tùy bút đặc sắc bậc nhất Việt Nam vào nền văn học hiện đại. Qua bài phân tích chúng ta cũng hiểu thêm rằng niềm tự hào tha thiết của tác giả đối với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế, đất nước. Bài văn cũng cho thấy sự quan sát sắc sảo của tác giả, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
Vẻ đẹp của sông hương qua bài kí Ai đặt tên cho dòng sông Hương đã góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông cũng là đối với quê hương, đất nước. Với biện pháp nghệ thuật liên tưởng độc đáo, từ ngữ sắc sảo, văn phong tao nhã và nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Hương, tác giả đã mang đến cho đời một kiệt tác tuyệt vời và khiến cho độc giả càng thêm yêu đất nước hơn.
Cảm nhận về sông Hương - mẫu 7
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trí thức yêu nước, am hiểu sâu rộng về nhiều lĩnh vực và nổi bật với thể loại bút kí. Sự đặc sắc trong tác phẩm của ông nằm ở việc kết hợp tinh tế giữa trí tuệ và cảm xúc, giữa lý luận sắc bén và những suy tư sâu lắng, được thể hiện qua kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, và địa lý, với lối viết nội tâm súc tích và tài hoa. Bài bút kí 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' là một tác phẩm xuất sắc được viết tại Huế năm 1981 và xuất bản trong tập sách cùng tên của ông.
Tác phẩm miêu tả cảnh đẹp của sông Hương, mối liên hệ của nó với lịch sử và văn hóa của xứ Huế cũng như của đất nước. Từ đó, nhà văn bày tỏ niềm tự hào sâu sắc về dòng sông Hương, về xứ Huế yêu quý và về tổ quốc. Sông Hương, từ nguồn cội, gắn bó mật thiết với dãy Trường Sơn, tựa như một bản trường ca của rừng già với những nhịp điệu hùng tráng và dữ dội: khi ầm ầm giữa cây cối đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt thác ghềnh, khi cuộn xoáy như cơn lốc ở đáy vực sâu, và lúc nhẹ nhàng say đắm giữa những dặm đỏ rực của hoa đỗ quyên rừng.
Với cái nhìn nhân hóa, sông Hương giống như một cô gái Di-gan tự do và hoang dại, với bản lĩnh dũng cảm và tâm hồn trong sáng. Theo tác giả, nếu chỉ nhìn sông Hương từ khuôn mặt của kinh thành mà không khám phá nguồn gốc của nó, người ta khó có thể hiểu hết vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn của dòng sông mà nó không muốn bộc lộ. Tại thượng nguồn, sông Hương thể hiện sức mạnh và vẻ đẹp của một sức sống mãnh liệt và hoang dại. Khi chảy về Huế, sông Hương mang nhiều vẻ đẹp khác nhau, gắn liền với đặc trưng văn hóa và không gian của kinh thành Huế. Trước khi trở thành người tình dịu dàng của cố đô, sông Hương đã trải qua một hành trình gian truân và thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ hành trình của dòng sông giống như cuộc tìm kiếm người tình lý tưởng trong một câu chuyện tình yêu cổ tích.
Đoạn mô tả sông Hương chảy qua đồng bằng và ngoại ô thành phố thể hiện sự tinh tế và tài hoa trong cách viết của tác giả. Độc giả khó lòng rời mắt khỏi sức hấp dẫn của những động từ diễn tả dòng chảy sống động qua các địa danh của Huế. Giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, sông Hương là “cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng khi ra khỏi vùng núi, giống như nàng tiên được đánh thức, sông Hương bừng lên sức trẻ và niềm khao khát thanh xuân với những chuyển dòng liên tục, những khúc quanh đột ngột, vẽ hình cung tròn ôm chân đồi Thiên Mụ, rồi “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, “trôi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”… Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương có lúc “mềm như tấm lụa” khi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” lúc qua các dãy đồi núi phía Tây Nam thành phố và mang vẻ đẹp trầm mặc khi qua các lăng tẩm, đền đài đầy kiêu hãnh âm u trong những rừng thông u tịch, cho đến lúc bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung khi nghe tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, giữa những xóm làng trung du đầy tiếng gà…
Hai bút pháp kể và tả được kết hợp khéo léo và tài hoa trong đoạn văn làm nổi bật vẻ đẹp của sông Hương qua phối cảnh kỳ thú với thiên nhiên xứ Huế phong phú và hài hòa. Khi chảy qua Huế, sông Hương như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố yêu quý, “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dòng sông mềm mại như một tiếng “vâng” không nói của tình yêu. Nằm giữa lòng thành phố yêu quý, sông Hương giống như sông Seine ở Paris, sông Danube ở Budapest, nhưng qua cách diễn tả tinh tế của tác giả, sông Hương được cảm nhận với nhiều góc độ: từ cái nhìn hội họa, sông Hương và các chi lưu tạo nên những đường nét tinh tế của vẻ đẹp cổ kính cố đô; qua cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng và trữ tình, và từ cái nhìn lãng mạn của trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ. Điều này được thể hiện trong phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ ra điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Theo tác giả, khúc quanh bất ngờ đó tựa như một “nỗi vương vấn”, và dường như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu…
Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thời kỳ các vua Hùng, khi nó được gọi là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, “nó vinh dự soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế kỷ XVIII; “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỷ XIX với những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và các chiến công của hai cuộc chiến tranh vệ quốc sau này..
Sông Hương, với cuộc đời và thi ca, là nhân chứng kiên cường qua những thăng trầm của cuộc đời. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị nhưng khác thường của dòng sông là khi được gọi, nó biết cách tự hiến mình để trở thành một chiến công, rồi lại trở về cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Nét đặc sắc của đoạn văn là tình yêu say đắm với dòng sông được thể hiện qua tài năng của một cây bút trí thức, tổng hợp từ kiến thức sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lý và văn chương, cùng một phong cách viết tao nhã, nội tâm, tinh tế và tài hoa.
Trích đoạn bài kí 'Ai đã đặt tên cho dòng sông?' đã khắc họa vẻ đẹp của Huế và tâm hồn người Huế qua cái nhìn sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dòng sông Hương. Ông xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về Huế, một cây bút yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí góp phần nuôi dưỡng tình yêu và niềm tự hào đối với dòng sông cũng như quê hương đất nước.
Cảm nhận về sông Hương - mẫu 8
'Ai đã đặt tên cho dòng sông' là một bài bút kí đầy cảm xúc của Hoàng Phủ Ngọc Tường về con sông Hương. Nhắc đến Huế, người ta nghĩ ngay đến sông Hương, và khi nhắc đến sông Hương, hình ảnh của Huế lại hiện lên rõ nét. Những địa danh nổi tiếng như Ngự Bình, sông Hương, chùa Thiên Mụ, các lăng tẩm của các vua triều Nguyễn,... đều góp phần tạo nên vẻ đẹp của cố đô Huế. Bạn tôi từng hát trong một đêm liên hoan văn nghệ đầu năm học:
Đã đôi lần đến với Huế mộng mơ
Tôi ôm ấp một tình yêu dịu ngọt...
Sông Hương mang vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng và tình tứ. Theo chân tác giả, chúng ta khám phá vẻ đẹp của sông Hương từ nguồn cho đến khi nó rời khỏi kinh thành Huế. Tại đầu nguồn, sông Hương như 'bản trường ca của rừng già, ầm ào giữa những cánh rừng đại ngàn, mạnh mẽ vượt qua ghềnh thác'... Con sông quê mẹ trở nên 'dịu dàng và quyến rũ giữa những dặm dài rực rỡ sắc đỏ của hoa đỗ quyên rừng'. Sông Hương hiện lên như 'một cô gái Di-gan phóng khoáng trước khi trở thành 'người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở'. Đến chân núi Kim Phượng, nó đã đổi thay hình dạng kỳ diệu, giấu kín những 'cuộc hành trình gian truân' mà nó đã vượt qua.
Từ ngã ba Tuần đến chân đồi Thiên Mụ, sông Hương như 'một cô gái đang mơ màng' sau khi vượt cánh đồng Châu Hóa đầy hoa đại, được đánh thức bởi 'người tình mong đợi'. Sông Hương chuyển dòng, uốn lượn và 'chuyển dòng liên tục' như một thiếu nữ làm duyên. Qua điện Hòn Chén, Ngọc Trản, sông Hương đi qua bãi Nguyệt Biều, Lương Quán, rồi 'ôm lấy chân đồi Thiên Mụ' để lắng nghe tiếng chuông chùa ngân vang trong hoàng hôn. Qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo, sông Hương như mê mải ngắm nhìn các thành quách, lăng tẩm vua chúa, qua các đồi thông xanh mướt, sông Hương trở nên 'mềm như tấm lụa', với mặt nước lấp lánh như cô gái thay đổi màu áo 'sớm xanh, trưa vàng, chiều tím'. Trong phong cảnh 'Bốn bề núi phủ mây phong // Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng vạn niên' của Khiêm Lãng, sông Hương mang vẻ đẹp 'trầm mặc như triết lý, như cổ tích'. Nó trở nên phẳng lặng, mơ màng và tình tứ hơn với âm thanh 'bát ngát tiếng gà' của các xóm làng trung du.
Sông Hương trở nên rộng rãi hơn, từ đôi bờ sông, thuyền xuôi ngược nhỏ bé như con thoi' còn tiếng hò giã gạo, điệu lí của dân chài vọng lại lúc khuya. Đoạn sông từ ngã ba Tuần đến đồi Thiên Mụ, sông Hương trở nên xinh đẹp hơn trong cảnh sắc thiên nhiên muôn màu, mang vẻ đẹp u tịch của chùa chiền, thành quách, lăng tẩm, và chứa đựng vẻ đẹp cổ kính của lịch sử và văn hóa. Sông Hương đã gặp người tình mong đợi. Trong vùng bãi xanh biếc ngoại ô Kim Long, sông Hương rạng rỡ và 'vui tươi' khi nhìn thấy cầu Tràng Tiền, chiếc cầu trắng 'in ngần trên bầu trời, nhỏ nhắn như vành trăng non'. Đây là niềm vui hạnh phúc gặp gỡ. Cồn Giã Viên và Cồn Hến như hai cù lao xanh níu giữ sông Hương lại để tâm tình. Sông Hương trở nên mềm mại, nước êm đềm hơn, trong xanh hơn, và nhà thơ Thu Bồn đã từng rung cảm hát lên:
'Con sông dùng dằng, con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu'.
Hoàng Phủ Ngọc Tường cho thấy sông Hương là con sông 'nằm ngay thành phố yêu quý', làm tôn 'Huế đẹp và thơ', là 'cô gái Huế xinh đẹp, dịu dàng và đa tình' theo lời của một du khách Ý. Ai đã từng ngắm sông Hương trong đêm hội hoa đăng rằm tháng bảy mới cảm nhận được sự thanh tịnh và mơ màng khi nhìn 'hàng trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh' từ điện Hòn Chén trôi về. Tình người tỏa sáng giữa tình sông nước. Dưới cầu Tràng Tiền, sông Hương 'ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng'. Đó là ân nghĩa, ân tình.
Sông Hương rời kinh thành với nhiều ngập ngừng và lưu luyến. Mỗi cuộc giã biệt đều man mác buồn. Giữa màu xanh của tre trúc và vườn cau vùng Vĩ Dạ, sông Hương đổi dòng, uốn lượn để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh, 'như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói', tác giả bài kí cho rằng đó là 'nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu'. Tại đây, có nhiều ca nhi hát và đàn Nam ai, Nam bình nổi tiếng. Ở nơi chia tay này, sông Hương 'có cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người'. Hoàng Phủ Ngọc Tường nhắc lại và bỏ lửng câu thơ Kiều để diễn tả tình lưu luyến của sông Hương với tấm lòng son sắt thủy chung: 'Còn non còn nước, còn dài/ Còn về, còn nhớ,...'.
Du khách nào đã đến Vĩ Dạ, thưởng thức tiếng đàn tranh từ một ngôi nhà cổ vang vọng, và đọc những câu thơ của Hàn Mặc Tử: 'Vườn ai mướt quá xanh như ngọc / Lá trúc che ngang mặt chữ điền...', sẽ thấy sông Hương không chỉ đẹp về cảnh sắc thiên nhiên mà còn gợi nhớ vẻ đẹp lịch sử, văn hóa của dòng sông. Sông Hương - dòng sông của lịch sử, thơ ca, và văn hóa, là ngọc bích của cố đô Huế'. Nhiều thi nhân đã viết thơ về dòng sông thơ mộng. Tản Đà ví sông Hương như 'dòng sông trắng, lá cây xanh'. Cao Bá Quát cảm nhận sông Hương 'như kiếm dựng trời xanh'. Tố Hữu, người con yêu quý của Huế, đã viết: 'Hương Giang ơi! Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình...'.
Thời các vua Hùng, sông Hương là 'con sông biên thùy xa xôi'; thời Trần - Lê là 'con sông viễn châu'; nơi Nguyễn Huệ lên ngôi và đánh bại 20 vạn quân Tôn Sĩ Nghị. Ngày 23/8/1945, cờ đỏ sao vàng tung bay trên đỉnh Ngọ Môn. Huế có 99 chùa, Đông Ba, Gia Hội, Diệu Đế... và nhiều lăng tẩm cổ kính. Huế và sông Hương đều mang vẻ đẹp sâu xa của 'trầm tích văn hóa, lịch sử'. Dân làng hoa ở Huế đã nấu nước trăm loài hoa thơm đổ xuống sông để sông Hương mang cái tên 'con sông Thơm'. Ai còn nhớ huyền thoại đó? Và để nhớ Huế là nhớ sông Hương, nhớ màu tím Huế trong chiếc áo cưới của người con gái Huế.
Tôi thật sự xúc động khi đọc và học bài kí nổi tiếng 'Ai đã đặt tên cho dòng sông' của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Dòng sông thật đẹp, bài kí cũng rất hay và thú vị, thể hiện niềm tự hào về giang sơn gấm vóc.
Cảm nhận về sông Hương - mẫu 9
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn lừng danh của văn học Việt Nam hiện đại, nổi bật với thể loại tùy bút và bút ký. Các tác phẩm của ông không chỉ mang đậm chất trữ tình mà còn thể hiện tư duy sâu sắc và trí tuệ. Tập bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được xuất bản năm 1981, sau sự kiện 1975, là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông, khắc họa một cách sinh động và chân thực vẻ đẹp của sông Hương và tâm hồn của vùng đất nơi đây.
Tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn nhận sông Hương từ hai góc độ: địa lý và văn hóa lịch sử. Từ góc độ địa lý, sông Hương hiện lên như một bản trường ca của rừng già, với nhiều sắc thái khác nhau: lúc mạnh mẽ và rầm rộ giữa cây cối đại ngàn, lúc dịu dàng và say đắm giữa những rặng hoa Đỗ Quyên. Sông Hương không chỉ là một dòng sông, mà còn như một cô gái Di-gan với vẻ đẹp hoang dại và kỳ bí. Khi rời khỏi rừng, sông Hương trở nên dịu dàng, trí tuệ, như một bến đỗ bình yên sau những thử thách. Sông đã góp phần tạo nên sự phồn thịnh cho Huế qua hàng thế kỷ.
Khi trở về châu thổ và thành phố Huế, sông Hương tựa như một người tình, tràn đầy sức sống và khao khát. Dòng sông uốn lượn mềm mại, mang đến vẻ đẹp biến hóa, từ đường cong uyển chuyển đến những gam màu của nước: “sáng xanh, trưa vàng, chiều tím”. Khi qua các khu vực cổ kính của Huế, sông Hương như hòa quyện với vẻ đẹp trầm mặc và triết lý của nơi đây. Vào vùng ngoại ô Kim Long, sông Hương thể hiện sự vui tươi, như một người trở về với quê hương yêu dấu.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sử dụng nhiều động từ và từ ngữ địa lý để làm nổi bật vẻ đẹp của dòng sông khi đến với Huế. Sông Hương, khi gặp thành phố, đã hòa quyện với vẻ đẹp của cầu Tràng Tiền, tạo nên một bức tranh hài hòa và lãng mạn. Dòng sông chảy chậm rãi, như một phần của nhịp sống thành phố, và gợi nhớ đến nhiều hình ảnh và cảm xúc khác nhau. Cuộc gặp gỡ giữa sông Hương và Huế giống như một cuộc hội ngộ đầy cảm xúc.
Rời khỏi thành phố, sông Hương lưu luyến gặp lại Huế lần cuối, như một nỗi vương vấn trong tình yêu. Dưới góc nhìn địa lý, sông Hương vừa thơ mộng, vừa mạnh mẽ, giống như một cuộc tìm kiếm tình yêu trong câu chuyện cổ tích. Qua góc nhìn văn hóa và lịch sử, sông Hương hòa nhập với đời sống văn hóa và lịch sử của cố đô. Từ màu sắc sông Hương đến các câu hò, điệu hát, sông Hương không chỉ là hình ảnh địa lý mà còn là phần hồn của văn hóa Huế.
Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nghiên cứu kỹ lưỡng về sông Hương, từ thời kỳ các vua Hùng đến các cuộc chiến tranh và cách mạng. Sông Hương luôn đồng hành với lịch sử dân tộc, từ thời kỳ cổ đại đến hiện đại. Nó vừa là chứng nhân lịch sử, vừa gánh vác nhiệm vụ vinh quang của lịch sử. Đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một dòng sông mà còn là biểu tượng của thời gian và văn hóa. Tác giả đã khắc họa sông Hương với sự yêu mến và tinh tế, thể hiện tình cảm sâu sắc của mình đối với quê hương và đất nước.
Cảm nhận về sông Hương - mẫu 10
Tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là một bài bút ký nổi tiếng của Hoàng Phủ Ngọc Tường, một nhà văn gắn bó sâu sắc với xứ Huế. Tác phẩm không chỉ khắc họa vẻ đẹp của dòng sông Hương mà còn lột tả được linh hồn của mảnh đất mộng mơ này.
Với thể loại bút ký, tác giả đã ghi lại cảm xúc và tình cảm của mình một cách chân thực và sâu sắc. Bằng giọng văn tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm nổi bật vẻ đẹp thơ mộng của sông Hương, con sông duy nhất chảy qua thành phố Huế, mang đậm dấu ấn đặc trưng mà không nơi nào có được. Điều này không chỉ khiến tác giả mà cả người dân Huế cũng cảm thấy tự hào.
Dưới ngòi bút đầy tình cảm của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương hiện lên với vẻ đẹp mê hoặc và đa diện, từ những góc nhìn khác nhau về thời gian và không gian. Tác giả mô tả sông Hương ở thượng nguồn với hình ảnh “một cô gái Di-gan phóng khoáng và hoang dại” và cũng như “bản trường ca của rừng già”, lúc rầm rộ và mãnh liệt, lúc lại “dịu dàng và say đắm” với màu đỏ của hoa Đỗ Quyên. Vẻ đẹp ấy vừa hoang dại vừa bình dị, thể hiện được đặc trưng của xứ Huế thơ mộng.
Khi về thành phố Huế, sông Hương trở nên quyến rũ hơn bao giờ hết. Sông Hương, từ hình ảnh một cô gái hoang dại, đã “vượt qua vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản”, trở nên “xanh thẫm, trầm mặc như triết lý”. Khi gặp tiếng chuông Thiên Mụ, sông Hương trở nên rạng rỡ như nắng mới, uốn cong như một cánh cung nhẹ nhàng. Những hình ảnh nhẹ nhàng và lãng mạn của sông Hương khi về với thành phố khiến người đọc cảm thấy sửng sốt và mê đắm.
Sông Hương không chỉ là chứng nhân của những biến động và thăng trầm của thành phố Huế, mà còn là hình ảnh của một thời kỳ không thể quên. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện tình yêu và sự trân trọng đối với dòng sông và mảnh đất Huế qua những câu văn tinh tế. Đọc tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận được vẻ đẹp thơ mộng và lãng mạn của sông Hương, và mong muốn một lần đặt chân đến Huế để trải nghiệm những điều tuyệt vời nhất của vùng đất này.
Cảm nhận về sông Hương - mẫu 11
Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại Huế. Quê gốc ở làng Bích Khê, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, song gần như suốt cuộc đời, ông gắn bó với xứ Huế yêu thương. Tâm hồn nhà văn thấm đẫm đặc trưng của văn hóa Huế. Năm 1960, ông tốt nghiệp ban Việt – Hán Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, tốt nghiệp khoa Triết – Văn Đại học Huế. Sau đó, ông về dạy tại trường Quốc học Huế. Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ, ông đã giữ các chức vụ: Tổng thư kí Hội Văn học nghệ thuật Trị Thiên – Huế. Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên.
Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt. Hoàng Phủ Ngọc Tường là nhà văn có sở trường về bút kí. Các sáng tác của ông có một phong cách riêng khó lẫn, thể hiện ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,… Tất cả được thể hiện qua lối hành văn giàu cảm xúc và tài hoa. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn là nhà thơ trữ tình đằm thắm có những vần thơ đậm chất suy tưởng về con người và cuộc đời. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học và nghệ thuật năm 2007. Tác phẩm chính về văn xuôi : Ngôi sao trên đỉnh Phù Văn Lâu (1971), Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông? (1987), Hoa trái quanh tôi (1995), Ngọn núi ảo ảnh (1999), Miền gái đẹp (2001). Thơ: Những dấu chân qua thành phố(1976), Người hái phù dung (1992)… Tùy bút Ai đã đặt tên cho dòng sông ? được tác giả viết tại Huế tháng 1 – 1981, in trong tập kí cùng tên. Đoạn trích nằm ở phần đầu của thiên tùy bút này.
Đặc điểm của thể văn tùy bút là hết sức lãng mạn, bay bổng, ngẫu hứng, không tuân theo một quy phạm chặt chẽ nào. Nhân vật chính của tùy bút là cái tôi của tác giả. Vì thế, muốn hiểu bài văn, người đọc cần phải thấy được cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Đó là một cái tôi tài hoa với vốn văn hóa sâu rộng, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, say mê cái đẹp của cảnh vật và con người xứ Huế. Bài kí miêu tả vẻ đẹp của sông Hương, mở rộng ra là xứ Huế đẹp đẽ và thơ mộng; ca ngợi lịch sử vẻ vang, bề dày văn hóa của cố đô Huế và chiểu sâu tâm hồn người Huế. Thông qua đó thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào của tác giả về non sống gấm vóc, về những giá trị tinh thần thiêng liêng và cao quý của dân tộc. Bố cục đoạn trích gồm ba phần: Phần thứ nhất: Từ đầu đến… dưới chân núi Kim Phụng: vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn.
Phần thứ hai: Tiếp theo đến… quê hương xứ sở: vẻ đẹp của sông Hương khi chảy qua đồng bằng, ngoại vi và thành phố Huế rồi đổ ra biển. Phần còn lại: vẻ đẹp của sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, với cuộc đời và thi ca.
Bằng sự quan sát sắc sảo và năng lực cảm nhận tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phản ánh sinh động và thú vị vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ của sông Hương ở thượng nguồn và hạ lưu. Hành trình của sông Hương từ thượng nguồn xuôi về biển là hành trình của tâm hồn xứ Huế, được tác giả miêu tả và thể hiện ở nhiều cung bậc khác nhau: vừa mãnh liệt, sối nổi; vừa sâu lắng, thiết tha; vừa bình thản, trí tuệ. Phần thứ nhất giống như khúc nhạc dạo đầu của bản trường ca về quê hương đất nước với những hình ảnh tuyệt đẹp để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Tác giả so sánh sông Hương ở thượng nguồn như một bản trường ca của rừng già với tiết tấu hùng tráng, dữ dội: khi rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc mãnh liệt vượt qua ghềnh thác, khi cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, lúc dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng.
Tác giả phát hiện ra vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng… Khi về đồng bằng, chính rừng già đá chế ngự sức mạnh bản năng ở người con gái của mình. Từ đó, sông Hương nhanh chóng mang sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở. Nghệ thuật nhân hóa được sử dụng đắc địa và khai thác tối đa đã mang lại cho sông Hương một linh hồn giống như con người. Theo tác giả, nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành Huế mà không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì người ta khó mà hiểu hết được bản chất của sông Hương và vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó đã không muốn bộc lộ. Tác giả đã kín đáo ngụ ý rằng: muốn hiểu đầy đủ về một con người, một miền đất, rộng ra là một đất nước, một dân tộc thì phải biết rõ về quá khứ; nếu không thì chẳng bao giờ hiểu đúng về hiện tại và xác định đước tương lai.
Đoạn tả sông Hương chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố Huế thể hiện nét lịch lãm, tài hoa trong lối hành văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Người đọc cảm nhận được sức hấp dẫn kì lạ toát lên từ hàng loạt động từ diễn tả dòng chảy sống động qua những địa danh khác nhau của xứ Huế, gợi ra những liên tưởng kì thú: Phải nhiều thế kỉ qua đi, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại. Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó… Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trân để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách…
Vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, sông Hương mềm như tấm lụa khi chảy qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím, êm ả lúc lượn qua những dãy đồi núi phía tây nam thành phố. Dòng sông mang vẻ đẹp trầm mặc khi chảy qua lăng tẩm, đền đài, là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch… để rồi sau đó bừng sáng khi gập tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà… Phải là người con của Huế, gắn bó yêu thương máu thịt với Huế thì Hoàng Phủ Ngọc Tường mới viết được những câu văn đầy chất thơ và rưng rưng cảm xúc như vậy. Ở đoạn này, hai bút pháp kể và tả kết hợp nhuần nhuyễn; sự phối hợp hài hòa giữa màu sắc và âm thanh làm nổi bật vẻ đẹp của từng khúc sông Hương. Tác giả sử dụng khéo léo, tài tình phép tu từ thường thấy trong thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ… khiến đoạn văn giống như bài thơ trữ tình làm xao xuyến lòng người.
Dường như sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như nhũng vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở cồn Giã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến ; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Sông Hương giống sống Xen của Pa-ri, sống Đa-nuýp của Bu-đa-pét ở chỗ là đều chảy qua giữa lòng thành phố. Tác giả quan sát và cảm nhận sông Hương ở nhiều góc độ. Ở đoạn này, tác giả miêu tả vẻ đẹp của sông Hương từ góc độ văn hóa. Bằng con mắt của họa sĩ, tác giả thấy các nhánh của sông Hương tạo ra những đường nét uyển chuyển, mềm mại, làm nên vẻ đạp cổ kính của cố đô: Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh Sông Đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp phố thị, với những cây đa, cây dừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những nơi ấy, vẫn lập loè trong đêm sương những ánh lữa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được.
Từ góc độ âm nhạc, tác giả cảm nhận sông Hương giống như điệu slow chậm rãi, sâu lắng, trữ tình: Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi, chợt thấy quý điệu chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố… Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ảnh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng. Các chi tiết về phong tục, lễ hội qua cảm quan nhạy bén của tác giả cũng trở thành họa, thành nhạc, thành tình, thành thơ. Những câu văn dài với nhịp điệu du dương, êm ái làm cho tâm hồn người đọc tràn đầy cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến. Với tác giả thì sông Hương là cội nguồn của dòng nhạc cung đình Huế, là cảm xúc của Nguyễn Du để viết Truyện Kiều: Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày, hoặc trên sân khấu nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt rước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya. Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu. Và từ đó, những bản đàn đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kĩ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua – Đục như tiếng suối mới sa nửa vời…". Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là Tứ đại cảnh!".
Với cái nhìn đắm say của một nghệ sĩ, tác giả thấy sông Hương khi rời thành phố giống như người tình dịu dàng và chung thủy. Điều này được diễn tả bằng một phát hiện thú vị: …Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ… Cũng theo tác giả, khúc quanh rẽ ngoặt thật bất ngờ đó có một cái gì rất lạ với tự nhiên và rất giống con người, tựa như một nỗi vương vấn và dường như còn có cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu… Ra biển, sông Hương rất nhớ thành phố. Nỗi nhớ ấy đọng trong lời thề: “Còn non, còn nước, còn dài, còn về, còn nhớ…”. Lời thề ấy vang vọng khắp lưu vực sông Hương thành giọng hò dân gian ; ấy là tấm lòng người dân nơi Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở. Vẫn là so sánh kết hợp với nhân hóa ẩn dụ nhưng tác giả đã sáng tạo ra những hình ảnh đầy ấn tượng, đậm đà nét đẹp văn hóa xứ Huế.
Trong mối quan hệ với lịch sử dân tộc, sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca chiến trận ghi lại những vinh quang từ thuở còn là một dòng sông biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó mang tên là Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi. Sông Hương là dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt, Nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ vào thế kỉ mười tám ; nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa ; nó chứng kiến thời đại mới với cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao chiến công rung chuyển đất trời qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ xâm lược cửa dân tộc ta. Sông Hương là nhân chứng lịch sử chứng kiến mùa xuân Mậu Thân (1968), thời điểm quân dân ta mở cuộc tổng tiến công vào sào huyệt Mĩ – ngụy và sông Hương cũng chứng kiến tội ác hủy diệt của chúng đối với các di sản văn hóa, lịch sử trên đất Huế.
Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường gắn bó với từng con người xứ Huế, là dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Sông Hương không chỉ là bản hùng ca tấu lên bao chiến công trong lịch sử, mà còn là một nhân chứng nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm của đất nước. Tuy nhiên, điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường của dòng sông là ở chỗ : Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình cho một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc đời bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho sông Hương không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Sông Hương gắn với cuộc đời các nghệ sĩ và thi ca. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên muôn màu muôn vẻ trong trí tưởng tượng phong phú của tác giả: Có một dòng thi ca về sông Hương, và tôi hi vọng đã nhận xét một cách công bằng về nó khi nói rằng dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Mỗi nhà thơ đều có một khám phá riêng về nó : từ xanh biếc thường ngày, nó bỗng thay màu thực bất ngờ, “dòng sông trắng, lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, từ tha thướt mơ màng, nó chợt nhiên hùng tráng lên “như kiếm dựng trời xanh" trong khí phách của Cao Bá Quát; từ nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong hồn thơ Bà Huyện Thanh Quan, nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu. Và ở đây, một lần nữa, sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều, trong cái nhìn thắm thiết tình người của tác giả Từ ấy.
Có thể nói nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn van là tình yêu say đắm đối với dòng sông được thể hiện bằng tài năng của một cây bút giàu cảm xúc và trí tuệ, tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa, lịch sử, địa lí, văn chương cùng một văn phong tao nhã và tinh tế. Sông Hương đã sống những thế kỉ quang vinh với nhiệm vụ lịch sử và thẩm mĩ của nó. Trong bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ?, Hoàng Phủ Ngọc Tường khẳng định chân lí: vẻ đẹp huyền diệu của sông Hương là cội nguồn sinh ra vẻ đẹp của tâm hồn Huế. Trong cảm nhận tinh tế và lãng mạn của tác giả, toàn bộ thủy trình của dòng sông tựa như một cuộc tìm kiêm có ý thức người tình nhân đích thực của người con gái trong một câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích. Giá trị nghệ thuật của đoạn văn tăng lên qua từng chi tiết và cuối cùng thì thăng hoa bằng câu chuyện về một nhà thơ già: Có một nhà thơ từ Hà Nội đã đến đây, tóc bạc trắng, lặng ngắm dòng sông, ném mẩu thuốc lá xuống chân cầu, hỏi với trời, với đất, một câu thật bâng khuâng: Ai đã đặt tên cho dòng sông?
Để rồi đến phần thứ ba của bài kí, tác giả lí giải tên dòng Hương Giang bằng huyền thoại đầy chất thơ: Người làng Thành Trung có nghề trồng rau thơm. Ở đây có một huyền thoại kể rằng, vì yêu quý con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sống cho làn nước thơm tho mãi mãi. Ai đã đặt tên cho dòng sông ? Có lẽ huyền thoại trên đã giải đáp câu hỏi ấy chăng? Giai thoại đó khiến cho dòng sông vốn đã nên thơ càng thêm thơ mộng : Hương là hương thơm của ngàn hoa đổ xuống làm cho làn nước thơm tho mãi mãi. Thơm tự ngàn năm, thơm đến ngày nay và mãi mãi về sau. Cả bài kí toát lên vẻ đẹp diệu kì của sông Hương bởi trí tưởng tượng phong phú, bay bổng đầy sáng tạo và ngòi bút tài hoa của tác giả. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhìn sông Hương như một cô gái Huế, có lúc như là một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại, nhưng nói chung vẫn là một thiếu nữ tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình và kín đáo, lẳng lơ nhưng rất mực chung tình, khéo trang sức mà không lòe loẹt phô phang, giống như những cô dâu Huế ngày xưa kiêu sa trong sắc áo dài màu điều lục.
Bài bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? giúp chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ, nên họa, nên nhạc của cảnh sắc thiên nhiên xứ Huế, đặc biệt là sông Hương ; thấy được bề dày lịch sử, văn hóa của Huế và những nét duyên dáng riêng của tâm hồn con người vùng đất cố đô này. Với một tâm hồn nghệ sĩ đa tình đa cảm, một vốn văn hóa phong phú về Huế và trước hết với một tình cảm gắn bố thiết tha đối với Huế, tác giả đã huy động triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với vốn ngôn ngữ giàu có của mình để diễn tả vẻ đẹp và chất thơ của Huế, thể hiện tập trung nhất ở dòng sông Hương – một biểu tượng sinh động của xứ Huế ngàn năm văn hiến.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Cảm nhận về tác phẩm Trao duyên
- Cảm nghĩ về Tết cổ truyền
- Cảm nhận về tình mẫu tử
- Cảm nhận về tình thu trong bài Câu cá mùa thu
- Cảm nhận về Trần Quốc Toản
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều