10+ Cảm nhận về một bài thơ (điểm cao)
Bài văn Cảm nhận về một bài thơ điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
Dàn ý Cảm nhận về một bài thơ
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả và tên bài thơ.
2. Thân bài
- Khái quát về vị trí trích đoạn hoặc bố cục, mạch cảm xúc chủ đạo của khổ thơ, bài thơ.
- Phân tích bài thơ/đoạn thơ: trích thơ rồi lần lượt phân tích những từ ngữ, hình ảnh, biện pháp tu từ, v.v…. trong từng câu thơ, giải mã đúng từ ngữ, hình ảnh đó để giúp người đọc cảm thấy được những cái hay, cái đặc sắc về nội dung, nghệ thuật cảu bài thơ.
a) Phân tích khổ thơ thứ nhất
- Nêu nội dung chính của khổ thơ thứ nhất: (Trích thơ…).
- Áp dụng các thủ pháp phân tích thơ để phân tích những hình ảnh, từ ngữ, biện pháp nghệ thuật tu từ, nhịp điệu, v.v. trong từng câu thơ; giải mã những từ ngữ, hình ảnh đó có ý nghĩa gì, nó hay, đặc sắc ở chỗ nào.
- Liên hệ, so sánh với những bài thơ cùng chủ đề.
b) Phân tích khổ thơ thứ hai
- Cách làm bốn bước tương tự khổ thứ nhất.
- Rồi cứ tiếp tục như thế đến hết bài.
- (Lưu ý: đôi khi có thể phân tích hai khổ thơ cùng một lúc nếu hai khổ thơ cùng một ý nghĩa)
c) Nhận xét đánh giá bài thơ
- Đánh giá về nội dung, tư tưởng của bài thơ. (Nét đặc sắc về nội dung của bài thơ là gì? Thành công/hạn chế?)
- Đánh giá về nghệ thuật. (Thành công/hạn chế?)
- Đánh giá về phong cách tác giả. (Qua bài thơ em thấy tác giả là người như thế nào; có thể nói thêm những đặc điểm về phong cách nghệ thuật và đóng góp của nhà thơ trên văn đàn lúc bấy giờ).
3. Kết bài
- Khẳng định lại toàn bộ gia trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
- Liên hệ bản thân và cuộc sống (nếu có).
Cảm nhận về một bài thơ - mẫu 1
Xuân Quỳnh (1942 - 1988) là nhà thơ nữ nổi tiếng với phong cách thơ trẻ trung, sôi nổi và trữ tình. Xuất thân từ nông thôn, chị thường viết về những đề tài gần gũi như tình mẹ con, bà cháu, tình yêu và quê hương. Từ tập thơ đầu tay "Tơ tằm - Chồi biếc" (1963), Xuân Quỳnh đã thu hút sự chú ý và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc với nhiều tập thơ giá trị.
Tiếng gà trưa đã gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu. Tình cảm gia đình, quê hương đã làm sâu sắc thêm tình yêu đất nước. Bài thơ thể hiện nỗi nhớ da diết của người lính trẻ xa quê hương. Một tiếng gà trưa bất chợt trong xóm nhỏ đã gợi lên nỗi nhớ về quê hương, mang lại sự an ủi và tiếp thêm sức mạnh. Điệp từ "nghe" được lặp lại ba lần thể hiện sự rung động sâu sắc trong lòng người chiến sĩ.
Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
"Cục... cục tác cục ta"
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ
Quê hương hiện lên trong tâm trí với những kỉ niệm tuổi thơ thân thương, như tiếng gà trưa gợi nhớ đến ổ rơm và người bà tần tảo. Tiếng gà khiến đứa cháu xa nhà nhớ lại những lần tò mò xem gà đẻ bị bà mắng, và giờ đây, khi đã trưởng thành, cháu ao ước trở về để nghe lại những lời mắng yêu của bà. Suốt một đời lam lũ, lo toan, bà chẳng bao giờ nghĩ đến bản thân mà chỉ lo cho cháu, bởi đứa cháu đối với bà là tất cả. Bà thầm mong đàn gà thoát khỏi nạn dịch mỗi khi mùa đông tới : Để cuối năm bán gà, Cháu được quần áo mới.
Ao ước của đứa cháu có được cái quần chéo go, cái áo cánh chúc bâu còn nguyên vẹn lần hồ sột soạt và thơm mùi vải mới được nhân lên gấp bội trong lòng bà yêu cháu. Hạnh phúc gia đình giản dị, đầm ấm mà rất đỗi thiêng liêng cùng bao khát vọng tuổi thơ dường như gói gọn cả trong tiếng gà trưa:
Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc,
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.
Thông qua nỗi nhớ được khơi dậy từ tiếng gà trưa, nhà thơ Xuân Quỳnh đã miêu tả tâm hồn trong sáng, hồn nhiên và tình cảm yêu mến, kính trọng bà của một em bé nông thôn. Tình bà cháu thắm thiết đã trở thành một phần quan trọng trong đời sống tinh thần của người chiến sĩ hôm nay đang trên đường hành quân chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước:
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ
Khổ thơ cuối cùng là lời tâm sự chân thành của đứa cháu chiến sĩ trên đường ra tiền tuyến gửi về người bà kính yêu ở hậu phương. Từ tình cảm cụ thể là tình bà cháu đến tình cảm lớn lao như lòng yêu Tổ quốc, yêu xóm làng thân thuộc đều được biểu hiện bằng hình thức nghệ thuật giản dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói hằng ngày ; ấy vậy mà nó lại gây xúc động sâu xa bởi nhà thơ đã nói giúp chúng ta những điều thiêng liêng nhất của tâm hồn.
Bài thơ Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh, một lần nữa chúng ta nhận thấy rằng nhà văn Nga I-li-a Ê-ren-bua thật sáng suốt khi đúc kết nên chân lí: Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào dải trường giang Vonga, con sông Vôn-ga đi ra bể. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc.
Cảm nhận về một bài thơ - mẫu 2
Trong “lời đưa duyên” đầu tập thơ “Thơ thơ” của Xuân Diệu, ông viết: “Đây là lòng tôi đương thời sôi nổi, đây là hồn tôi vừa lúc vang ngân và đây là tuổi xuân của tôi nữa… Tôi gửi hồn tôi cho những người trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng”. Câu dẫn khiến tôi nghĩ tới bài thơ “Thơ duyên” – một trong những bài thơ hay nhất trong tập thơ của Xuân Diệu.
Xuân Diệu được người đời gọi bằng cái tên trìu mến “ông Hoàng thơ tình”. Tình yêu trong thơ Xuân Diệu đâu chỉ đơn thuần là tình yêu đôi lứa, nó còn biểu hiện phong phú và tinh tế hơn. Trong bài “Thơ duyên” cũng vậy, thi phẩm nhắc đến “duyên”, song không phải lương duyên, nhân duyên hay duyên phận. Nó là sự gắn bó hòa hợp tự nhiên lòng người với thiên nhiên, vũ trụ nên mới tạo ra một mối “duyên” đẹp như “thơ”.
Trước hết, Xuân Diệu bắt đầu bài thơ bằng bức tranh thiên nhiên đầy sức sống:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”
Trong không gian chiều, khoảng thời gian gợi buồn, là lúc một ngày sắp kết thúc, con người thèm được nghỉ ngơi thì Xuân Diệu lại vẽ một bức tranh thiên nhiên không ngơi nghỉ. Tiếng chim vẫn tiếp tục véo von, cây hoa vẫn xanh mướt, mọi vật khi thu sang cựa quậy sinh động.
Tiếp tới, thi sĩ thu hẹp không gian hơn, mọi thứ như gần gũi và chân thực hơn:
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn,
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.”
Ấy vậy thôi, chứ những câu thơ vẫn “mộng” lắm. Cái nét “nhỏ nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả” kia làm không gian như đang tan ra theo lời thơ. Chẳng thế mà Hoài Thanh nhận xét “Nó chỉ mất một ít rõ ràng để được thêm rất nhiều thơ mộng”. Hơn nữa, nội tâm còn như đang hóa thành ngoại giới khi mà mới chỉ nghe “ý bạn” thôi mà cũng thấy được “nỗi thương yêu” rồi. Thật vậy, Xuân Diệu luôn nhìn đời bằng cặp mắt “xanh non biếc rờn”.
Đến hai khổ thơ tiếp, ta không còn thấy sự hòa hợp giữa lòng người và cảnh vật nữa mà là sợi dây giao cảm giữa lòng người với lòng người:
“Em bước điềm nhiên không vướng chân,
……
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.
Bề ngoài, hai nhân vật xuất hiện trong khổ thơ như là xa lạ lắm “em bước điềm nhiên”, “anh đi lững đững” thế nhưng lòng người thì lại như “một cặp vần” hòa hợp với nhau. Thiên nhiên cũng như rơi vào cảm xúc chung ấy. “Gấp gấp” là từ láy chỉ sự khẩn trương, sôi nổi, say đắm tiến tới tình yêu.
Còn “phân vân” chỉ sự e dè, dùng dằng, chẳng dứt. Hơn nữa, con người lại có đôi chút lo sợ và dự cảm. Thế nên chim không bay, nó “nghe” ra được là trời rộng. Một chút “lạnh” chiều sương giăng thể hiện nỗi băng giá trong lòng người. Như vậy, Xuân Diệu đã thực hiện nội tâm hóa cảnh giới, thổi hồn mình và hồn tạo vật.
“Ai hay tuy lặng bước thu êm,
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm.
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.”
Cuối cùng, khổ thơ cuối kết thúc với niềm bộc bạch trực tiếp của nhân vật. Sự gắn bó hòa hợp lên cao tới mức không còn là “rung động”, yêu đương nữa mà đã như là “cưới” rồi. Cái cưới này là cưới của “lòng anh” và “lòng em”, là cái cưới trong tâm tưởng. Cái khát khao được giao cảm bộc lộ thật chân thật và trần thế. Chẳng phải một Xuân Diệu “mới nhất trong các nhà thơ Mới” ở đây chứ đâu nữa?
Tóm lại, bài “Thơ duyên” của Xuân Diệu đã chứng minh một phong cách rất Tây, rất Mới thông qua hình ảnh, ngôn từ, diễn đạt, nhịp điệu… mới mẻ và tinh tế. Có lẽ, “Thơ duyên” chính là cách riêng của Xuân Diệu làm đẹp cho đời và thể hiện tâm hồn riêng của mình. Thế nên, có ai đó đã bình “Với bài “Thơ duyên”, Xuân Diệu thực sự đã làm duyên với cuộc đời và sự làm duyên ấy chính là duyên thơ”.
Cảm nhận về một bài thơ - mẫu 3
Hồ Xuân Hương, nữ sĩ nổi tiếng thế kỉ XVIII đã được nhà thơ Xuân Diệu tôn vinh là “Bà chúa thơ Nồm”. Theo giai thoại lưu truyền trong dân gian thì bà là người đa tài, đa tình, tính cách phóng khoáng và giao thiệp rộng, có rất nhiều bạn văn chương. Tuy thế, đường tình duyên của nữ sĩ lại vô cùng lận đận, mấy lần lấy chồng đều không toại nguyện, vì thế mà bà luôn sống trong tam trạng cô đơn. Bài thơ Kể nỗi lòng (Tự tình II) có lẽ được sáng tác trong hoàn cảnh ấy.
Những cơn sóng cảm xúc đang cuộn xoáy trong lòng khiến nữ sĩ suy tư trăn trở, thao thức thâu đêm. Tiếng trống cầm canh lâu lâu lại điểm, báo thời gian đang trôi qua:
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”.
Đêm tối chậm rãi và nặng nề, phản chiếu tâm trạng buồn bã, nỗi đau dai dẳng trong lòng nữ sĩ. Cảm giác tuyệt vọng, xót xa thể hiện qua cách gọi mỉa mai "hổng nhan", hạ thấp vẻ đẹp của người phụ nữ, đồng thời thể hiện sự chai sạn, không còn cảm xúc trước cuộc sống. Tâm trạng của nữ sĩ lúc này thật bi đát và đầy chua xót. Tưởng như nỗi bất hạnh đã khiến tâm hồn hoá thành gỗ đá nhưng không phải. Trái tim còn đập nên ý thức vẫn còn, nữ sĩ đành say cho quên vậy:
“Chén rượu hương đưa say lại tĩnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.
Muốn mượn chén rượu thdm để say cho quên hết mọi đau khổ, bẽ bàng, lỡ lầm, dối trá… nhưng khổ nỗi không sao quên được. Hết say lại tỉnh mà bao hững hờ, dối trá của người đời vẫn sờ sờ ra đó và nỗi bẽ bàng, đau khổ của mình thì cũng cứ còn nguyên. Ước mong có được một mảy may bù đắp, một chút an ủi mà nào có được! vầng trăng bóng xế giống như đời mình đã ngả chiều. Chờ đợi mỏi mòn mà ước mong cũng như vầng trăng kia cứ khuyết chưa tròn. Vậy thì biết đến bao giờ trăng mới tròn, hỡi trời !
Tĩnh thì đau khổ nhưng mình vẫn còn được là mình không đến nỗi tuyệt vọng. Niềm tin của nữ sĩ vẫn còn, trước hết là tin ở lòng mình, sức mình. Lời dạy của trời đất sâu kín mà rành rành trước mắt, ngụ ở ngay trong rêu trong đá:
“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám
Đâm toạc chân mấy, đá mấy hòn”.
Rêu yếu ớt là thế mà từng đám, từng đám vẫn tung sức sống xiên ngang mặt đất đón ánh mặt trời. Đá im lìm là vậy mà hòn nọ tảng kia như đua nhau đâm toạc chân mây để khẳng định sự hiện diện của mình. Cách đặt câu. đảo ngược đưa tính từ lên trước đã nhấn mạnh sức sống bất diệt của thiên nhiên. Mình là con người nên đâu có thể dễ dàng biến thành gỗ đá được?
Con người cô độc, bất hạnh trong thời điểm đó, không gian đó dường như chợt bừng tĩnh, muốn làm theo rêu theo đá, xiên ngang, đâm toạc tất cả những gì ngăn trở, ràng buộc, giam hãm, huỷ hoại thân phận mình, cuộc đời mình. Khổ nỗi, thực tế xã hội với bao dối trá, lạnh nhạt, chưa kể áp bức, bất công… vẫn nhơn nhơn còn đó. Mà trái tim luôn rạo rực cảm xúc của nữ sĩ đâu có chịu im tiếng. Nó có nhu cầu cấp thiết là được bày tỏ và chia sẻ:
“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con!”
Mùa xuân trôi qua theo nhịp tuần hoàn của đất trời, nhưng với nữ sĩ, thời gian chỉ mang đến sự tiếc nuối vì tuổi xuân đã qua đi và tình yêu chỉ còn lại một mảnh nhỏ. Mặc dù cảm thấy chán chường và đau xót, nữ sĩ vẫn không tuyệt vọng, mong muốn tiếp tục chia sẻ tình yêu để làm dịu đi nỗi đau và hy vọng vào tương lai.
Bài thơ Tự tình 2 in đậm dấu ấn cá tính và phong cách thơ Xuân Hương. Đúng là bài thơ trĩu nặng một nỗi buồn nhưng không hể bi lụy. Cốt cách cứng cỏi, tâm hổn nhạy cảm và mạnh mẽ đã giúp nữ sĩ vượt qua bao bất hạnh của cuộc đời. Bài thơ vừa là tiếng lòng riêng của nữ sĩ, vừa lồ tiếng lòng chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến thuở ấy- Dù buồn đến đâu thì nữ sĩ vẫn đắm say, thiết tha với cuộc sống. Đó là điều cốt lõi rất đáng trân trọng của Hồ Xuân Hương – “Bà chúa thơ Nôm”.
Cảm nhận về một bài thơ - mẫu 4
Đỗ Phủ được mệnh danh là bậc thi thánh trong nền văn học Trung Hoa. Thơ của ông chất chứa một nỗi sầu tâm sự, một tấm lòng nhân đạo bao la đồng cảm, bởi sự thấu hiểu và thương cảm cho những số phận bất hạnh. Cùng viết về đề tài mùa thu, với giọng điệu buồn bã, sầu muôn thuở thì Thu hứng của Đỗ Phủ đã góp thêm một tiếng nói sâu sắc, phong phú cho mùa thu của thiên nhiên.
Bài thơ giống như một khúc ca thu não nề và buồn bã cả một tấm lòng cô đơn:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Có chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Bài thơ mở đầu với khung cảnh rừng phong hoang vu, lạnh lẽo và xơ xác, phản ánh vẻ đẹp tàn tạ, đau thương của thiên nhiên. Đỗ Phủ sử dụng thành công thi liệu cổ điển và hình ảnh ước lệ, với rừng phong và sương sa là biểu tượng của mùa thu, gợi nhớ đến sự xa cách, cô đơn và hoang vu, tương tự như trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du.
Sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ, ảm đạm, lạnh lẽo. Bức tranh mùa thu tiếp tục được khắc họa với những nét đặc tả đầy ấn tượng:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Không gian mênh mông, hoang vu được nhấn mạnh bởi hình ảnh sóng gợn lưng trời, tạo cảm giác ngột ngạt, bức bách. Mây đùn cửa ải xa làm tăng thêm sự trống trải và cô đơn. Cảnh sắc vừa hoành tráng vừa dữ dội, phản ánh nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn. Cảm xúc của nhà thơ càng rõ rệt trong những câu thơ tiếp theo:
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối tình quê
Hình ảnh khóm cúc tuôn lệ tượng trưng cho đôi mắt buồn bã của nhà thơ, rơi lệ vì nỗi nhớ quê hương. Con thuyền, biểu tượng quen thuộc trong thi ca, là phương tiện khát khao về quê nhưng cũng cô đơn, lẻ loi trôi dạt trong không gian mênh mông. Dòng lệ của Đỗ Phủ tuôn chảy qua từng câu thơ, và âm thanh cuối cùng không phải là vui tươi mà là sự buồn bã, thê lương của cảnh vật.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước
Thành bạch chày vang bóng ác tà.
Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở mọi người rằng mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh hơn cho việc may áo ấm. Lúc này, Loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người còn trấn giữ nơi ải xa, nỗi lo còn đó. Trời tối rồi (mộ), không nhìn thấy gì nữa, nhà thơ chỉ nghe thấy tiếng chày đập vải và chạnh lòng nghĩ tới những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang.
Bằng một tâm hồn thu buồn mênh mang, cô đơn, những vần thơ của Đỗ Phủ đã gây ám ảnh, gieo vào tâm trí người đọc cảnh tượng mùa thu buồn, cô đơn và lạnh lẽo. Sự kết hợp tài tình của các từ láy gợi cảm những hình ảnh ẩn dụ, những chất liệu cổ điển và hình ảnh ước lệ, Đỗ Phủ đã một lần nữa mở ra một không gian nghệ thuật đầy thu cho độc giả, một lần nữa góp thêm vào cho bản tình ca mùa thu của văn học một nét riêng.
Cảm nhận về một bài thơ - mẫu 5
Mỗi khi nhắc đến Xuân Diệu người ta sẽ nhớ ngay tới một thi sĩ với khả năng quan sát tinh tế, tình cảm say mê nồng cháy. Trong các bài thơ của ông, người đọc luôn thấy tình yêu cuộc sống, sự trân quý mọi khoảnh khắc của cuộc đời, của vạn vật và "Thơ duyên" là một trong những bài thơ như vậy. Ở bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được sự tinh tế của thi sĩ trong việc tái hiện sự trôi chảy của thời gian và hồn thu, tình thu cũng được khắc họa rõ nét qua ngòi bút tài hoa này.
"Thơ duyên" là khúc hát say mê, nhạy cảm với cuộc đời. Chữ "duyên" có thể hiểu là sự giao cảm, hòa nhịp với thiên nhiên đất trời, con người. Vốn là một con người dễ rung động trước cái đẹp, lại là người đa sầu đa cảm nên nhà thơ lại càng trân trọng sự chuyển động của thời gian và cụ thể ở bài thơ này là sự chuyển giao giữa hạ sang thu. Không chỉ đến bài thơ này thi sĩ mới viết về mùa thu mà trong tập "Thơ thơ" độc giả cũng đã bắt gặp "nàng thơ" với sự "ngẩn ngơ", u sầu trong "Đây mùa thu tới". Còn "Thơ duyên" bắt đầu với những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng.
"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền."
Khổ thơ miêu tả cảnh vật mùa thu sinh động và nên thơ, với không gian chiều mộng lãng mạn. Cảnh vật vui tươi, với "cặp chim chuyền" ríu rít trên cây me, tượng trưng cho niềm vui khi thu về. Cây me gợi nhớ Hà Nội xưa, trong khi bầu trời và lá chuyển màu ngọc, tạo cảm giác trong xanh, lan tỏa. Không gian mùa thu tươi vui, phấn khởi, như tiếng reo mừng chào đón mùa thu đến.
Nếu như đối với khổ thơ đầu, tác giả vẽ nên bức tranh thiên nhiên thì khổ kế tiếp nhà thơ đã tinh ý khi lồng vào đó chút tình cảm riêng tư.
"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu."
Tác giả chuyển từ tầm nhìn cao xuống gần, sử dụng từ láy như "nho nhỏ", "xiêu xiêu", "lả lả" để tạo cảm giác đáng yêu dưới nắng chiều. Động từ "trở" mang đến sự chuyển mình, làm nổi bật sắc thái mạnh mẽ, đậm nắng của chiều thu. Thi sĩ nhớ lại lần rung động đầu tiên, với động từ "nghe" thể hiện sự thầm thương, phải lòng, tạo nên sắc thái cảm xúc đặc biệt cho đoạn thơ.
"Em bước điềm nhiên chẳng vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần."
Hình ảnh của sự "rung động" ấy được tái hiện rõ hơn. Nhân vật "em" và "anh" cùng dạo bước trên con đường nhỏ. "Em" thì hồn nhiên, ngây thơ bước đi không hề bận tâm gì. Còn "anh" thì "lững đững" - trạng thái thoải mái, thong dong. Hai con người xa lạ bỗng gặp nhau trên con đường nhỏ, tưởng xa hóa lại gần. Quả là cái duyên tiền định!
"Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần."
"Vô tâm" phải chăng là sự lãnh cảm, rời xa hay chính là cái xa lạ nhưng có sự giao lưu, kết nối. Với thủ pháp so sánh nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra quan niệm của mình về chữ "duyên". Đối với ông thiên nhiên hòa hợp với thiên nhiên, con người say đắm trước cảnh vật vẫn là chưa đủ mà còn một "cặp bài trùng khác" là sự giao duyên giữa con người với nhau. Chẳng thế mà dù em vô tư bước đi không để ý gì về người đằng sau, còn anh thong dong ngắm nhìn trời đất cũng không đoái hoài gì người phía trước nhưng giữa họ lại có sự kết nối như "cặp vần" - gắn bó khăng khít, không thể tách rời. Một nhân sinh quan thật mới mẻ.
"Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần."
Khổ thơ mô tả cảnh thu với không gian rộng lớn và thiên nhiên dần trở nên hối hả, từ láy "gấp gấp" tạo cảm giác thúc giục. Cụm từ "về đâu" gợi sự phân vân của mây và con cò, khi chiều thu tàn mang chút bâng khuâng. Động từ "nghe" được dùng để diễn tả sự thích nghi của chim với bầu trời. Cảnh vật dần chìm vào chiều thu, sương rơi nhiều khiến hoa "lạnh", tạo không khí xao xuyến, bâng khuâng cho người đọc.
Bằng ngòi bút giàu nhiệt huyết, tình yêu sôi nổi của một con người luôn trân quý, nắm bắt thời gian nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên với nhiều hình ảnh, nhiều sắc thái đặc trưng của mùa thu. Cùng với đó tác giả đã viết nên sự rung động đầu đời của mình - sự giao cảm, kết nối giữa những con người tưởng chừng xa lạ nhưng lại là cái duyên đã được sắp đặt sẵn. Tình duyên nảy nở trong tình thu!
Cảm nhận về một bài thơ - mẫu 6
Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai kia lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với “Mùa xuân chín” khi cảm xúc trong con người lữ khách đó đã đến độ tràn đầy.
Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”.
Đoạn văn miêu tả nắng xuân nhẹ nhàng, mềm mại như "làn nắng", hòa quyện với "khói mơ tan", tạo nên một cảnh sắc đẹp và huyền diệu. Cảnh vật đơn sơ nhưng tinh tế, với "đôi mái nhà tranh" ấm áp dưới ánh nắng. Gió "trêu" tà áo biếc, âm thanh dịu dàng và sắc xuân ngọt ngào, gợi lên sự yêu thương và hương sắc đồng quê. Mùa xuân hiện lên trong vẻ đẹp giản dị, đầy thơ mộng.
Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới khái quát: “Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”. Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, vấn vương đón “bóng xuân sang”, cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước… như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta.
Sau dấu chấm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà thơ thì mùa xuân ào đến:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi”.
Đoạn văn miêu tả mùa xuân với hình ảnh cỏ xanh tươi mãi, gợn sóng trong gió xuân nhẹ. Màu xanh của cỏ mang đến sức sống yên bình, kết nối với tình cảm con người trong mùa xuân. Tiếng hát “vắt vẻo” của cô thôn nữ thể hiện sự tươi mới, trong trẻo, mộc mạc nhưng tình tứ, gợi lên nét đẹp truyền thống dân tộc. Mùa xuân trở nên trọn vẹn và "chín" khi có con người và âm thanh của tiếng hát.
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”.
Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, “vắt vẻo” hòa nhịp với âm trầm “hổn hển” thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy. Tiếng hát trong đoạn văn vút cao, ngập ngừng và lưu luyến, gợi lên cảm giác xao xuyến, bâng khuâng. Âm thanh "hổn hển" so sánh với lời thiên nhiên, mang đậm hương xuân và tình cảm. Tiếng hát của các cô thôn nữ làm nên một mùa xuân "chín", với những âm thanh nhẹ nhàng và thân thương như "vắt vẻo", "hổn hển", "thầm thì", tạo nên một không gian đầy cảm xúc, khiến nhà thơ cảm nhận được sự dịu dàng và ý vị của mùa xuân.
Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân “đang chín” dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:
“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”.
“Đám xuân xanh ấy” là các cô thôn nữ đang hát, đang “thầm thì với ai ngồi dưới trúc” kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi… Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng khi mùa xuân đang chín… “Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” (Xuân Diệu).
Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:
“Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: “gánh thóc” trong một không gian cụ thể: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Chỉ có “chị ấy” là người đọc không thể biết mà chỉ có tác giả mới biết để mà “sực nhớ”, mà thầm hỏi. Mà man mác sợ “mùa xuân chín” ấy sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khao khát giao cảm với đời mà luôn có một nỗi niềm cô đơn, trống vắng, hẫng hụt như thế.
“Mùa xuân chín” lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bồi hồi, “sực nhớ… ” và “bâng khuâng”. Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương mến, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”…
Cảm nhận về một bài thơ - mẫu 7
Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ trong trẻo, thiết tha. Nó là phần tinh túy nhất của một con người luôn khát khao cống hiến, khát khao sống có ý nghĩa. Nó là tiếng lòng của nhà thơ và cũng là của tất cả những ai ham mê cái cuộc sống trần gian rất đẹp đẽ này.
Mùa xuân nho nhỏ ra đời khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Chắc hẳn, vào những ngày cuối cùng ấy, sau những chiêm nghiệm về cuộc sống với tất cả tình yêu, Thanh Hải muốn tiếp tục cất lên tiếng hót của "con chim chiền chiện" để góp nên một "mùa xuân nho nhỏ" cho cuộc đời, cho con người và cho đất nước yêu thương.
Với thể thơ 5 chữ, với cách ngắt nhịp nhanh, gọn mà vẫn có độ dư ba, bài thơ đã dâng lên trong lòng tôi cảm giác rộn ràng, náo nức. Những gam màu trong trẻo, những hình ảnh đẹp, tươi sáng và đầy sức sống trong mỗi câu thơ cứ thấm dần vào trái tim tuổi trẻ của tôi.
Mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước được nhà thơ cảm nhận trong sự căng đầy của nhựa sống, trong nhịp sống đang hối hả và trong sự tươi non mơn mởn của những hi vọng vào tương lai. Giữa màu xanh yên bình của dòng sông xuân, sắc tím biếc của bông hoa không hề lạc lõng, chông chênh. Nó bám chắc vào lòng sông như một sợi dây vô hình làm nên sức sống. Trên cái nền màu dịu êm của "sông xanh" và "hoa tím biếc", tiếng hót trong vắt của con chim chiền chiện vút cao, ngân vang đến bất tận đến trời xanh. Từng tiếng, từng tiếng chim trong veo hay tiếng nhịp thở của khí xuân hoà vào trời đất, vang vọng vào trong lòng người như những "giọt tâm hồn" sáng long lanh. Tiếng hót ấy khiến ta không thể dửng dưng mà khiến ta phải thốt lên tiếng gọi rủ về cái khát khao muốn nắm bắt, muốn "đưa tay hứng".
Không tách mình khỏi khí xuân của thiên nhiên, đất nước trong công cuộc chuyển mình đi lên cũng rộn ràng, hối hả. Sức sống của đất nước không chung chung, trừu tượng mà nó biểu hiện ra ở "sức xuân" của mỗi con người. Mùa xuân trên lưng lính, lộc xuân trong tay người nông dân. Mỗi bước đi của người gieo thêm một chồi biếc, một mầm non. Và cứ thế, sức xuân của đất nước lại dâng lên như những lớp sóng xôn xao. Đất nước phấn chấn, hứng khởi trong một nhịp thở mới, hối hả khẩn trương. Niềm tin mới của dân tộc được chắp cánh từ truyền thống bốn nghìn năm dựng nước. Thế nên, dẫu biết có những vất vả và gian lao nhưng cả nước "vẫn đi lên phía trước" với một quyết tâm không mệt mỏi.
Những câu thơ của Thanh Hải đầy ắp hình ảnh, màu sắc và âm thanh. Nó tạo nên một không khí sôi nổi, háo hức, phơi phới vui tươi. Nó là một bức tranh tươi sáng sắc màu, là một bản nhạc rộn ràng tiết tấu trong trẻo, ngân nga và gợi cảm. Điều đặc biệt là: bức tranh thiên nhiên, bức tranh đất nước đầy sức sống ấy đã được nhà thơ cảm nhận khi ông đang ở vào cái giây khắc sắp lìa đời. Trên giường bệnh, nhà thơ vẫn mở rộng hồn mình, lắng nghe và đón nhận tất cả những thanh âm xao động của cuộc sống ngoài kia. Ông vẫn lắng nghe từng bước đi rất khẽ của đời. Bốn bức tường của phòng bệnh không thể ngăn cách cuộc đời với nhà thơ, những cơn đau của bệnh tật không làm giảm ý chí, bầu nhiệt huyết và niềm tha thiết yêu đời trong trái tim của người nghệ sĩ. Cái nghị lực phi thường ấy đáng để ta phải nâng niu và trân trọng xiết bao.
Bài thơ khép lại trọn vẹn trong tâm hồn và sự say sưa của người đọc bằng một ước nguyện thật chân thành và mãnh liệt biết bao. Nó thực là một khát khao đang bùng cháy: muốn được làm một nhành hoa như bông hoa tím biếc kia, muốn làm con chim hót vang trời những giọt long lanh như con chim chiền chiện. Cái khát khao không hề gợi một chút gì về hình ảnh khổ đau của một con người đang chết. Nó giống cái mãnh liệt và rạo rực của một sức thanh xuân đang tràn trề nhựa sống và khát khao cống hiến cho đời.
Nhiều người đã từng đồng ý với tôi rằng: những người trẻ tuổi đọc Mùa xuân nho nhỏ có thể tìm ra lý tưởng sống cho mình, còn với những người đã dâng cả tuổi thanh xuân cho đất nước thì vẫn thấy mình còn có thể làm được nhiều hơn. Mùa xuân nho nhỏ quả đã không chỉ là niềm say mê của riêng tôi. Nó xứng đáng là một bài thơ hay trong tủ sách quý của muôn người.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Cảm nhận về một cuốn sách
- Cảm nhận về mùa thu
- Cảm nhận về ngày khai trường
- Cảm nhận về nhân vật An Dương Vương
- Cảm nhận về nhân vật Huấn Cao
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều