10+ Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ Thương vợ (điểm cao)
Bài văn Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ Thương vợ điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
Dàn ý Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ Thương vợ
a) Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
- Nêu khái quát cảm nhận về vẻ đẹp bài thơ Thương vợ
b) Thân bài:
- Hai câu mở đầu gợi ra không gian, thời gian làm việc mưu sinh của bà Tú
+ "Quanh năm": thời gian làm việc liên tục không ngừng nghỉ
+ "Mom sông": nơi làm việc phức tạp ẩn chứa nhiều mối nguy hiểm
+ Công việc của bà Tú: nuôi năm con và một chồng
=> Đó là nguyên nhân khiến bà Tú phải lao động vất vả bởi những gánh nặng trên vai
- Từ "nuôi đủ" bộc lộ thành quả lao động sự khéo léo, đảm đang, tháo vát của bà Tú
=> Khung cảnh lao động của bà Tú nơi quãng vắng, buổi đò đông
+ Những từ láy "eo sèo", "lặn lội" nhấn mạnh sự vất vả, sự tả thực công việc mưu sinh đầy bôn ba của bà
+ Hình ảnh "thân cò" gợi sự khổ cực, cô đơn và tội nghiệp của người lao động trong cuộc sống mưu sinh, sự thiệt thòi của bà Tú
=> Trong cuộc hôn nhân tủi nhục cay đắng nhưng không có hạnh phúc., bà vẫn tình nguyện chịu đựng nhẫn nhịn không một lời than vãn đó là tấm lòng vị tha cao cả từ tấm lòng yêu chồng và thương con tha thiết bà Tú, là hiện thân của người phụ nữ Việt Nam với những đức tính đẹp
- Hình ảnh ông Tú
+ Ông là một người yêu thương, quý trọng vợ
+ Tình yêu thương của ông được thể hiện qua các hình ảnh bà Tú cùng những lời khen lời ghi nhận công lao của bà
+ Ông là người có nhân cách, thông qua những câu tự trách ông coi mình là cái nợ của bà Tú, ông tự thấy áy náy và day dứt vì không hoàn thành trách nhiệm của một người chồng trong gia đình. Đồng thời thể hiện sự bất lực của bản thân
=> Đó là lòng yêu thương, sự cảm thông sâu sắc của ông Tú dành cho vợ
c) Kết bài:Khẳng định lại giá trị của bài thơ
Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ Thương vợ - mẫu 1
Nhà thơ Tú Xương, tên thật là Trần Tế Xương, nổi bật như một cây bút trào phúng của nền văn học Việt Nam cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Bên cạnh những tác phẩm châm biếm, phê phán xã hội, ông còn để lại những tập thơ trữ tình độc đáo. Một trong những tác phẩm nổi bật là bài thơ 'Thương vợ'.
Quanh năm bôn ba ở ven sông,
Nuôi năm con nhỏ cùng một chồng.
Lặn lội thân cò giữa quãng vắng,
Eo sèo mặt nước những ngày đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!
Ông Tú Xương mặc dù là người tài năng, nhưng cuộc đời lận đận trong công danh, phải thi đến lần thứ tám mới đỗ tú tài. Gia đình nghèo khó, đông con, nghề dạy học bấp bênh trong xã hội suy tàn lúc bấy giờ, chính vì vậy, bà Tú trở thành trụ cột lo lắng cho gia đình. Bài thơ 'Thương vợ' chính là sự cảm kích và tri ân của ông đối với người vợ hiền khô, tần tảo sớm hôm không một lời oán thán. Bài thơ mở đầu đã phản ánh phần nào nghề nghiệp của bà Tú và hoàn cảnh gia đình:
Quanh năm bôn ba ở ven sông,
Nuôi năm con nhỏ cùng một chồng
Mặc dù là trụ cột gia đình, nhưng cuộc sống lại phụ thuộc vào việc buôn bán của vợ. Từ 'mom' trong thơ thể hiện sự chân thực, vẽ rõ nét hình ảnh gian khổ của bà Tú bên bờ sông Vị. Câu thơ đầu tiên cho thấy lòng yêu mến của nhà thơ đối với sự vất vả của vợ, dù công việc buôn bán đã quá sức:
Nuôi năm con nhỏ cùng một chồng
Câu thơ thể hiện rõ hoàn cảnh gia đình, việc đếm số con và chồng không phải ngẫu nhiên, mà để nhấn mạnh sự vất vả của bà Tú. Một ông chồng không làm gì, chỉ suốt ngày lo học thi, khiến bà Tú phải gánh vác cả gia đình. Câu thơ phản ánh nỗi khổ của tác giả về một gia cảnh khó khăn với đông con và một ông chồng không giúp đỡ gì:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Hai câu thơ tiếp theo nâng cao mức độ ngôn từ, làm nổi bật thêm sự cực nhọc của người vợ. Từng từ trong câu thơ như những nét vẽ, tăng cường hình ảnh sự khổ cực của bà Tú. Hình ảnh 'thân cò' trong thơ là một hình ảnh dân gian quen thuộc, diễn tả sự vất vả của bà Tú khi kiếm sống, làm nổi bật sự hi sinh của người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đó:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Hai câu thơ ngắn nhưng mạnh mẽ, vẽ ra hình ảnh bà Tú yếu đuối, chịu nắng mưa vì miếng cơm manh áo. Hình ảnh 'thân cò' trong ánh sáng chiều là biểu tượng của sự lẻ loi, cô đơn, đồng thời phản ánh những hiểm nguy của cuộc sống. Câu thơ gợi lên sự đồng cảm sâu sắc, đồng thời là đại diện cho những phụ nữ trong xã hội xưa. Tú Xương thể hiện sự cảm kích và lỗi lầm của mình khi vợ phải chịu đựng khổ cực:
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công
Bà Tú chấp nhận số phận với duyên nợ đã định, không phàn nàn dù phải chịu đựng vất vả. Câu thơ kết thúc bằng từ 'phận' nặng nề, phù hợp với cảm xúc bị dồn nén. Bà Tú cam chịu, không dám kể công lao với chồng và con, mà luôn lặng lẽ, chịu đựng.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không
Tác giả thể hiện sự đau đớn, tự trách mình vì không giúp đỡ được vợ, chỉ biết hưởng thụ trong khi vợ phải lo lắng. Tất cả sự thất vọng được bộc lộ trong hai câu thơ kết 'Cha mẹ thói đời...' như một lời chửi đổng và tự trách mình. Bài thơ thể hiện lòng chân thành của tác giả, sự kính trọng đối với người vợ, và giá trị nhân văn sâu sắc trong ngôn ngữ giản dị, gần gũi.
Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ Thương vợ - mẫu 2
Hình ảnh người phụ nữ luôn là chủ đề quen thuộc trong văn học Việt Nam qua các thời kỳ. Thơ văn về người vợ từ góc nhìn của một người chồng ít xuất hiện và khó tìm hơn. Trần Tế Xương, một thi sĩ nổi tiếng trong nền thơ ca trung đại Việt Nam, đã khắc họa hình ảnh người vợ tần tảo của mình trong những bài thơ trữ tình nhưng đầy hài hước, thể hiện sự hi sinh và lòng kiên nhẫn của bà Tú, từ đó bày tỏ lòng tri ân của ông đối với người bạn đời của mình:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Trần Tế Xương, còn gọi là Tú Xương, sống trong thời kỳ chuyển giao khó khăn giữa thực dân Pháp và phong kiến. Ông là một người thông minh, yêu thích học hỏi, và nổi tiếng với thơ trào phúng và trữ tình pha chút châm biếm. Tú Xương được biết đến như một nhà thơ trào phúng xuất sắc của thế kỷ XIX.
Kho tàng thơ văn của Tú Xương tuy không nhiều, chỉ khoảng 100 bài chủ yếu là thơ Nôm, bao gồm nhiều thể thơ và một số bài văn tế, phú, câu đối,... nhưng nhiều bài đạt đến trình độ tuyệt mỹ về nội dung và nghệ thuật. Bài thơ 'Thương vợ' bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật là một ví dụ điển hình. Bài thơ không chỉ phản ánh xã hội mà còn là tiếng lòng chân thành của Tú Xương dành cho bà Tú, qua đó thể hiện sự hi sinh vĩ đại của những người phụ nữ. Mở đầu, Tú Xương mô tả công việc và hoàn cảnh sống của bà Tú, thể hiện lòng biết ơn đối với người vợ tảo tần của mình:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Bài thơ dần mở ra một bức tranh về cuộc sống khó khăn của bà Tú, với cụm từ 'Quanh năm' diễn tả nỗi vất vả không ngừng. Hình ảnh 'mom sông' gợi không gian buôn bán đầy nguy hiểm, nhưng bà Tú vẫn kiên cường vượt qua mọi khó khăn để nuôi dưỡng gia đình:
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Câu thơ thứ hai phản ánh sự bất công của xã hội phong kiến, khi những người đàn ông trở thành gánh nặng cho vợ:
Trống hầu chưa dứt bố lên thang,
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ.
(Quan tại gia - Trần Tế Xương)
Hai chữ 'Nuôi đủ' thể hiện sự chu đáo của bà Tú trong việc lo toan cho gia đình với âm điệu trang trọng. Câu thơ còn phản ánh sự bế tắc của một người chồng vô tích sự. Tú Xương tự châm biếm bản thân khi so sánh với 'năm đứa con' để tôn vinh sự vất vả của bà Tú:
Biết thuốc lá, biết chè tàu,
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi.
(Hỏi ông trời - Trần Tế Xương)
Hay:
Hôm qua anh đến chơi đây,
Giày 'giôn' anh dận, 'ô Tây' anh cầm.
(Đi hát mất ô - Trần Tế Xương)
Câu thơ mở đầu dù ngắn gọn nhưng đã thể hiện đức tính cao đẹp của bà Tú với sự chăm sóc gia đình. Tú Xương khéo léo thể hiện lòng biết ơn và sự xấu hổ khi không thể giúp vợ. Hình ảnh 'con cò' trong ca dao được liên tưởng đến tình trạng khó khăn của bà Tú:
Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
(Ca dao)
Câu thơ thực tả nỗi khổ của bà Tú với hình ảnh 'thân cò' thể hiện sự cơ cực trong cuộc sống. Câu thơ thứ tư miêu tả sự vật lộn trong chợ đông:
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Hình ảnh 'eo sèo' nhấn mạnh sự đông đúc, xô bồ trong chợ và sự kiên nhẫn của bà Tú. Bài thơ khép lại với sự tự trách của Tú Xương về sự 'hờ hững' của mình và chỉ trích xã hội đã khiến ông trở thành gánh nặng cho vợ:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Thi phẩm khép lại với sự tự rủa của Tú Xương nhưng cũng thể hiện sự biết ơn sâu sắc đối với bà Tú. 'Thương vợ' là một tác phẩm đầy nhân văn, vừa trữ tình vừa hài hước, thể hiện sự đẹp đẽ trong nhân cách của bà Tú và Tú Xương.
Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ Thương vợ - mẫu 3
Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi còn sống càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng là điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca.
Bà Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được: Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài xuất sắc nhất.
Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ.
Câu thơ mở đầu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú. Hoàn cảnh vất vả, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Quanh năm là suốt cả năm, không trừ ngày nào dù mưa hay nắng. Quanh năm còn là năm này tiếp năm khác đến chóng mặt, đến rã rời chứ đâu phải chỉ một năm. Địa điểm bà Tú buôn bán là mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh làm hiện lên hình bà Tú tần tảo, tất bật ngược xuôi:
Quanh năm buôn bán ở mom sông.
Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bà Tú. Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đầy tội nghiệp mà hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mà cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian heo hút, rợn ngợp, chứa đầy lo âu cái rợn ngợp của thời gian, đã làm hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Là cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ – đưa ra từ lặn lội lên đàu câu, cách thay từ – thay từ con cò bằng thân cò, càng làm tăng nỗi vất vả gian truân của bà Tú. Từ thân cò gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc, thấm thía hơn.
Nếu câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại làm rõ sự vật lộn với cuộc sống của bà Tú:
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người buôn bán nhỏ. Sự cạnh tranh chưa đến mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải là ít lo âu, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao, người mẹ từng dặn con: Con ơi nhơ lấy câu này / Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua. “Buổi đò đông” không chỉ có những lời phàn nàn, mè nheo, cau gắt, những sự chen lấn xô đẩy mà còn chứa đầy bất trắc hiểm nguy. Hai câu thực đối nhau về ngữ (khi quãng vắng đối với buổi đò đông) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để làm nổi bật sự vất vả gian truân của bà Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn bả trong hoàn cảnh chen chúc làm ăn.
Hai câu thực nói thực cảnh bà Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương: tấm lòng xót thương da diết.
Cuộc sống vất vả gian truân càng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bà Tú. Bà là người đảm đang tháo vát:
Nuôi đủ năm con với một chồng
Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao tình ý, từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bà Tú nuôi đủ cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo đến mức: “Cơm hai bữa: cá kho rau muống – Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô” (Thầy đồ dậy học).
Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hy sinh rất mực của vợ:
Năm nắng mười mưa dám quản công
Ở câu thơ này, “nắng mưa” chỉ sự vất vả, “năm, mười” là số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con của bà Tú.
Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rối thì ấn tượng thật sâu đậm. Ở bài thơ Thương vợ cũng vậy. Ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là cả một tấm lòng, không chỉ thương mà còn tri ân vợ. Về câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, có người cho rằng ở đây ông Tú tự coi mình là một thứ con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng, con riêng rất rạch ròi là để ông tự riêng tri ân vợ.
Nhà thơ không chỉ cảm phục, biết ơn sự hy sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách, tự lên án bản thân. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. Ông chửi thói đời bạc bẽo, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông với con cũng là một biểu hiện của thói đời bạc bẽo. Câu thơ Tú Xương tự rủa mát mình cũng là lời tự phán xét, tự lên án:
Có chồng hờ hững cũng như không
Ở cái thời mà xã hội đã có luật không thành văn bẳn đối với người phụ nữ: “xuất giá tòng phu” (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phụ xướng, phụ tuỳ” (chồng nói, vợ theo), thế mà có một nhà nho dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc đời, dám tự thừa nhận mình là quân ăn lương vợ, không những đã biết nhận ra thiếu sót, mà còn dám tự nhân khuyết điểm. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao.
Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách.
Nhà thơ dám tự nhân khuyết điểm, càng thấy mình khiếm khuyết càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.
Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi người, vẫn có gố rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.
Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ Thương vợ - mẫu 4
Thương Vợ là bài thơ mang nghệ thuật trào phúng sâu sắc, cả tác phẩm là tiếng lòng của tác giả về xã hội phong kiến xưa và Tú Xương đã sáng tác lên tác phẩm này để nói về hiện thực xã hội của chế độ phong kiến.
Ngay trong đoạn mở đầu của tác phẩm, tác giả đã nói đến sự vất vả của người vợ đó chính là bà tú, quanh năm phải làm việc chăm chỉ, nơi bà làm việc là non sông, quanh năm ở đây đã thể hiện sự vất vả, bươn trải vì cuộc sống, bà làm nghề buôn bán, nhưng số tiền kiếm được cũng chỉ đủ để nuôi năm con với một chồng. Đáng ra người vợ đi làm chỉ để nuôi con, nhưng bà Tú lại phải nuôi cả chồng:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Buôn bán quanh năm vất vả ở mom sông, để nuôi nấng cả gia đình, bà Tú vất vả, đúng là qua đoạn này, tác giả đang thể hiện sự vất vả đó qua tác phẩm, đó là sự vất vả của người vợ, trong tác phẩm này, đoạn thơ này đã nói đến sự vất vả của người vợ trong tác phẩm.
Như trong xã hội cũ, người phụ nữ phải chịu những nỗi đau, khổ cực, sự vất vả của cuộc sống, luôn bị xã hội vùi dập, người phụ nữ trong xã hội cũ phải chịu nhiều bất công, vất vả trong cuộc sống, đoạn này đã thể hiện rõ sự vất vả đó. Tác giả đang mô tả những hy sinh, vất vả mà bà Tú đang gặp phải trong cuộc sống, đó là những nỗi đau thương, vất vả, khổ cực mà người phụ nữ xưa đang phải gánh chịu:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông. ”
Thân phận của người phụ nữ đang so sánh với thân cò, lặn lội khi quãng vắng, với những khó khăn và vất vả đó, hình ảnh người phụ nữ ngày càng hiện lên rõ rệt với những khó khăn, vất vả mà con người đang gặp phải trong cuộc sống, lặn lội với những khó khăn, vất vả, eo sèo mặt nước và những buổi đò đông.
Người đàn ông phải là trụ cột và chăm lo cho đời sống của cả gia đình nhưng trong tác phẩm này, người phụ nữ phải chịu những gánh nặng đó, bà Tý lặn lội, bươn chải lo cho cuộc sống của cả gia đình. Những câu thơ tiếp theo tác giả nói đến những hy sinh vất vả của người vợ, không quản ngại, không quản công những ngày nắng gió, người phụ nữ vẫn hy sinh, chịu đựng để lo cho cả gia đình:
“Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công. ”
Duyên số cũng đành phận, được làm vợ chồng ấy cũng là duyên số và ây phận đó là nợ mà hai người đến được với nhau. Thế nhưng bà Tú không hề than vãn gì, sự hy sinh thầm lặng của người phụ nữ được mô tả chi tiết, rõ nét trong tác phẩm, đó là nỗi đau khổ, vất vả của người phụ nữ trong gia đình và cuộc sống của mình:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”
Những câu cuối tác giả đang tự trách mình không giúp đỡ được gì cho người vợ của mình, chồng hờ hững là những người chồng không giúp đỡ được gì với gia đình, mà chỉ là những người chồng hờ hững, không có ích gì với gia đình, bài thơ đã mang nặng sự phê phán với chế độ xưa, đề cao và ca ngợi người phụ nữ luôn hy sinh cao đẹp trong xã hội.
Bài thơ thương vợ đã mang nhiều yếu tố trào phúng sâu sắc, đó là những mô tả chân thực, khắc họa sâu sắc nhân vật cũng như hiện thực xã hội lúc bấy giờ.
Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ Thương vợ - mẫu 5
Hình ảnh người phụ nữ luôn là đề tài bất tận trong nền thi ca Việt Nam. Tuy nhiên hiếm có nhà thơ nào viết về vợ của mình nhiều như Tú Xương. Ông viết về vợ mình bằng những tình cảm chân thành nhất, cảm động trước sự hi sinh của bà Tú. Nổi bật trong đó là Thương vợ
"Văn học nằm ngoài những quy luật của tự nhiên, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết". Thơ của Tú Xương là một trong những trường hợp như vậy, mặc dù chỉ sống 37 năm và đỗ Tú Tài nhưng sự nghiệp thơ ca của ông luôn trường tồn theo năm tháng, làm lay động lòng người đọc.
Tú Xương được biết tới với cuộc đời ngắn ngủi gói gọn trong những kỳ thi cử và những vần thơ trào phúng độc đáo. Thơ của ông chủ yếu viết bằng chữ Nôm, đề tài quen thuộc trong những tác phẩm của ông đó là viết về người vợ với tất cả sự yêu thương trân trọng. Nổi bật trong chuỗi những bài thơ về vợ ấy là bài thơ Thương vợ. Đó là những lời tâm sự, tâm tư tình cảm, sự yêu thương của ông dành cho bà Tú - một người vợ chịu thương, chịu khó vất vả làm ăn kiếm sống chăm lo cho chồng con.
Với nhan đề Thương Vợ gợi lên cho người đọc cảm nhận về tình cảm của nhà thơ dành cho vợ, về người phụ nữ đồng hành cùng mình. Nhưng khi đọc bài thơ chúng ta hiểu được đó là sự châm biếm của tác giả đối với bản thân mình trước những hy sinh cao cả của người vợ. Khi những người đàn ông phải để người phụ nữ của mình trở thành trụ cột của gia đình.
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa chẳng quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Tú Xương luôn dành cho vợ một vị trí quan trọng trong đời thơ của mình, khi hài hước khi hóm hỉnh sâu cay, khi lại cảm thương sâu sắc. Tất cả những điều đó được xuất phát từ tình yêu thương vợ. Bà Tú chính là người phụ nữ hạnh phúc trong thơ của Tú Xương. trong thơ của mình ông đã giới thiệu vợ mình một cách chân thật, gần gũi hóm hỉnh, ẩn chứa trong đó bao tình cảm và nỗi niềm dằn vặt, xót xa.
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Những câu thơ đầu đã nói lên hoàn cảnh buôn bán của bà Tú. Đó là một hoàn cảnh lam lũ vất vả, từ "quanh năm" nói đến nỗi vất vả, tần tảo của bà triền miên từ ngày này qua ngày khác. Tú Xương đã có một tư tưởng tiến bộ khi phá bỏ quan điểm trọng nam khinh nữ để ngợi ca vợ, nhận hết những cái xấu về mình. Trong cuộc đời vất vả của vợ để khắc ghi nỗi lòng cảm thấy có lỗi với vợ, hai câu thực là vẻ đẹp phẩm chất của người vợ đại diện cho phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Hình ảnh con cò ta bắt gặp rất nhiều trong các câu ca dao xưa: Con cò lặn lội bờ sông.... Con cò mà đi ăn đêm... Hình ảnh con cò là sự tần tảo, cần cù nhưng gầy gò. Đó cũng là thân hình mảnh mai gầy guộc của bà Tú. Bà Tú là hình ảnh đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ, nhỏ bé, cam chịu. Với số phận cơ cực, hình ảnh người phụ nữ cũng được xuất hiện trong thơ của nữ sĩ Hồ Xuân Hương
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Nếu như trong thơ của Hồ Xuân Hương người phụ nữ không được coi trọng, phó mặc số phận mình cho người khác. Thì ở trong thơ của Tú Xương hình ảnh người phụ nữ được trân trọng đóng một vai trò quan trọng trong gia đình. Người phụ nữ ấy phải lặn lội trong không gian heo hút, khi quãng vắng, ngay cả khi buổi đò đông. Thân cò ấy vẫn lầm lũi giữa mặt nước, giữa những tiếng eo sèo chốn buôn bán ngược xuôi. Ở câu thơ thứ nhất là hình ảnh thì đến với câu thơ thứ hai đó là những âm thanh của cuộc mưu sinh khó nhọc. Những từ láy "lặn lội", "eo xèo" càng nhấn mạnh thêm sự vất vả của bà Tú. Ông Tú thấu hiểu khi viết lên những vần thơ cảm xúc chân thành như vậy. Với thể thơ thất ngôn bát cú, kết cấu chặt chẽ, việc sử dụng những từ ngữ giản dị. Giúp cho hình ảnh được xây dựng có sức gợi tả nổi bật.
Bốn câu thơ đầu Tú Xương đã khắc họa rõ nét chân dung của bà Tú trong hoàn cảnh sống cụ thể với những đức tính đảm đang, tốt đẹp và đức hi sinh cao cả. Chính Tú Xương đã nói lên những hi sinh thầm lặng của bà Tú. Ông thay vợ nói lên tâm tư trong lòng của bà
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa chẳng quản công
Hai người nên duyên là do duyên phận, chính vì vậy mà bà "âu đành phận" đó như là một sự bất đắc dĩ nén xuống những tủi nhục của bản thân. Câu thơ khép lại bằng âm thanh nặng nề của từ phận đó như là cảm xúc dồn nén vào trong. Bà Tú vất vả là vậy nhưng chưa một lần than vãn kể công với chồng con.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Hai câu thơ cuối tác giả trách mình đã không hoàn thành nghĩa vụ của một người chồng, một người cha trong gia đình. Bản thân ông trở thành một miệng ăn cho vợ nuôi. Tất cả tâm tư, tình cảm ấy được ông đặt vào câu chửi "cha mẹ thói đời", đó như một câu chửi đời và cũng chính là lời tự chửi mình. Câu thơ chua chát, đắng cay ông đã trách mình, hận mình để vợ vất vả khổ cực lo cho gia đình. Chính sự chịu thương chịu khó của bà Tú mà ông lại càng cảm thấy mình có lỗi, càng cảm thấy oán trách bản thân hơn. Bà Tú có chồng mà cũng như không vì bà chính là người nuôi sống gia đình.
Bằng tình cảm chân thành nghệ thuật sống động, Tú Xương đã miêu tả những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, một người phụ nữ giỏi giang, lam lũ tần tảo, đảm đang nuôi dưỡng chồng con. Bà là hình ảnh đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam. Mọi sự tốt đẹp trong gia đình ông Tú đều dành cho bà và ông nhận lại cho mình một chữ không. Xuyên suốt bài thơ ta thấy được tình cảm của tác giả dành cho người vợ hiền, ông dành sự kính trọng, trân trọng công lao cho bà Tú. Với ngôn ngữ giản dị đời thường, sử dụng nhiều yếu tố dân gian bài thơ mang tới một giá trị nhân văn sâu sắc.
Bài thơ là tiếng lòng chân thành vừa ngợi ca, cảm phục chia sẻ trước những vất vả gian nan của bà Tú. Cũng chính là lời tự trách tự lên án của ông Tú. Phải yêu vợ, thương vợ đến nhường nào nhà thơ mới viết nên những vần thơ giàu cảm xúc chân thực như vậy. Chất trữ tình và trào phúng hoà quyện trong nhau, đưa người đọc đến những cung bậc tình cảm sâu sắc bình dị trân trọng ẩn chứa trong lòng nhà thơ.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà
- Cảm nhận vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
- Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang
- Cảm nhận về hình tượng con sông Đà
- Cảm nhận về hình tượng Rừng xà nu
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều