10+ Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang (điểm cao)

Bài văn Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

Dàn ý Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác giả Huy Cận, bài thơ Tràng Giang, đoạn thơ cần phân tích.

2. Thân bài

a) Giới thiệu sơ lược hoàn cảnh sáng tác bài thơ

- Khổ 1: Tràng giang hiện lên với nhiều hình ảnh đẹp trong cổ thi: dòng sông, con thuyền, gợn sóng,…

+ Nhưng cảnh đẹp mà lại thấm đượm một nỗi buồn da diết bâng khuâng.

+ Hai chữ “điệp điệp” gợi hình ảnh những con sóng từng gợn nhẹ nhấp nhô hòa mình vào. Sóng của dòng sông, của thiên nhiên trong phút ấy cũng hóa thành con sóng lòng của thi nhân với từng nỗi buồn cứ thế trùng điệp ở trong lòng.

+ Xưa nay, thuyền – nước vốn là hai sự vật không thể tách rời thế mà nay chúng lại hững hờ như không ăn nhập vào nhau.

+ Thi nhân bắt gặp cành củi khô đơn độc “Củi một cành khô lạc mấy dòng” là hình ảnh ẩn dụ để biểu tượng cho kiếp người như thi nhân đang nổi trôi, bơ vơ, vô định giữa dòng chảy của cuộc đời, giữa cuồng phong của một đất nước mất chủ quyền?

=> Tác giả buồn về sự chia li, tách biệt của sự vật, buồn về kiếp người nhỏ bé, vô định giữa cuộc đời.

- Khổ 2:

+ Câu thơ đầu: Huy Cận tâm sự rằng ông học được ý từ hai câu thơ của Chinh phụ ngâm: “Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo/ Bến phì gió thổi đìu hiu mấy gò”.

+ Từ láy “lơ thơ” diễn tả sự rời rạc, thưa thớt của những cồn đất nhỏ nhoi mọc lên giữa dòng sông gợi cảm giác hoang vắng, cô tịch, tiêu điều, xơ xác.

+ Hai chữ “đìu hiu” như càng khắc sâu thêm nỗi buồn hiu hắt làm câu thơ chùng xuống như một tiếng thở dài man mác.

+ Là thứ âm thanh mơ hồ của một phiên chợ đã vãn theo làn gió lan xa mãi càng gợi thêm sự vắng vẻ, quạnh hiu.

+ Không gian ba chiều rộng lớn “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sông dài trời rộng bến cô liêu”.

=> Nhà thơ đã cảm được một nỗi buồn cô đơn đến rợn ngợp, thấy mình nhỏ bé trước vũ trụ bao la, lạc lõng giữa cuộc đời.

b) Nghệ thuật

- Sự kết hợp hài hòa giữa sắc thái cổ điển và hiện đại (Cổ điển: thể thơ thất ngôn; những hình ảnh thơ quen thuộc trong văn học trung đại. Hiện đại: sự xuất hiện của những cái tưởng như tầm thường, vô nghĩa; cảm xúc buồn mang dấu ấn “cái tôi” cá nhân…).

- Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm.

3. Kết bài

- Đánh giá về giá trị của bài thơ, tài năng của tác giả.

Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang - mẫu 1

Huy Cận là một người yêu thích thơ ca Việt Nam. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới với hồn thơ ảo não. Các sáng tác của Huy Cận luôn bám sát hiện thực cuộc sống, thời đại. Các sáng tác của Huy Cận trước Cách mạng tháng 8 mang nét sầu não, buồn thương. Điển hình là bài thơ Tràng giang, tác phẩm đã thể hiện tình yêu quê hương, con người tha thiết của tác giả cũng như nỗi nhớ nhà của tác giả khi đứng trước một không gian mênh mông rộng lớn.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

….

Sông dài trời rộng bến cô liêu”

Bài thơ mở ra với câu đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã làm dấy lên cảm xúc rợn ngợp khó tả khi trước mắt chúng ta là không gian bao la của sông dài và trời rộng. Một trạng thái “bâng khuâng” nhiều nghĩ ngợi, lo âu và buồn tủi khi nghĩ về phận mình, phận đời còn vô định. “Trời rộng”, “sông dài” vẽ ra một không gian bất tận ở đó chữ “nhớ” như một nhịp cầu nối hai bờ. Tuy vậy cái hữu hình không sao ngăn được sự vô hình của tâm trạng đang choáng ngợp cả không gian, lẫn thời gian. Cấu tứ bài thơ cũng đặc biệt khi bốn khổ thơ đặt cạnh nhau như bốn bức tranh tả cảnh mà cũng tả tình. Dẫu đều mang một màu tâm trạng cô đơn, sầu tủi nhưng mỗi nỗi sầu mang một diện mạo riêng.

Khổ thơ đầu tiên đã vẽ ra cảnh sông nước tràng giang mênh mông, ở đó có những nỗi buồn thân phận cho kiếp người lạc lõng, vô định.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Cảnh sông nước bất tận còn tình người trước sông nước thì triền miên nỗi buồn. Thế nên từng câu thơ đã hiện ra gợi vào lòng người cảm giác lâng lâng khó tả “tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Bức tranh thiên nhiên đan xen bức tranh tâm trạng, cảnh và người song song nhau, đan cài trùng điệp. Sự đan cài này bắt đầu từ hình ảnh “sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”. Cũng là cơn sóng ngàn năm còn vỗ nhưng không “dữ dội, dịu êm” cũng chẳng “ồn ào, lặng lẽ”. Sóng từng lớp “gợn” nhẹ nhàng, đều đặn đúng với nhịp sóng lòng nơi trái tim đang thổn thức. Cơn sóng gợn là sóng nước cũng là sóng lòng đang âm ỉ, cái “gợn” của sóng là cái “gợn” của tâm hồn.

Nước xuôi trăm ngả còn thuyền thì xuôi theo dòng nước, cứ tưởng đồng hành cùng nhau ai ngờ lại nhuốm mầm chia biệt dù đang ở gần kề. Sự chia biệt này thể hiện rõ ở câu tiếp theo:

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”

Chỉ bằng hình ảnh thuyền và nước đã xuất hiện trước đó nhưng câu thơ mang nhiều nét nghĩa theo từng cách hiểu khác nhau gắn với từ “lại”. Nếu chúng ta ngắt câu thơ ra thành nhịp 2/2/3 thuyền về/ nước lại/ sầu trăm ngả thì có thể thấy được nét nghĩa: thuyền rời đi còn nước thì ở lại, cả hai không thể gặp gỡ thế nên sầu nhớ. Cũng cách ngắt nhịp này ta hiểu từ “lại” là động từ có nghĩa đến vậy câu thơ mang nét nghĩa: thuyền rời đi thì nước đến. Cả thuyền và nước không giao nhau tại một thời điểm nên chẳng thể gặp nhau. Khi ngắt câu thơ ra thành: thuyền về/ nước lại sầu trăm ngả thì ta có thể hiểu một trạng thái tâm lý khác của nước. Thuyền đến nơi cùng nước thì nước lại cảm thấy buồn. Dù ở cách hiểu nào từ “lại” cũng mang sự độc đáo diễn tả vòng tuần hoàn của tâm trạng. Thuyền và nước mãi mãi chẳng gặp gỡ nhau, chuyến hành trình dài của cả hai đều vô định. Thế nên nỗi “sầu trăm ngả” của nước và thuyền là mối sầu thiên thu của thi nhân trong cảnh tình chia cắt, mình lạc lõng với xã hội, mình chơi vơi cùng mình.

Con thuyền, sóng nước còn là phép ẩn dụ cho thân phận và cuộc đời. Con thuyền là kiếp người đơn độc, nhỏ nhoi chẳng thể làm chủ được chuyến hành trình trên con sông cuộc đời vô tận. Hiểu được nỗi buồn của Huy Cận để thấy con thuyền vô định kia không ai khác là nhà thơ và lớp thanh niên chưa tìm ra lối đi cuộc đời mình. Nỗi trăn trở này được nhà thơ gửi vào hình ảnh cành củi khô lạc mấy dòng.

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Câu thơ khá ấn tượng với phép đảo ngữ “củi một cành khô” mà không phải là “một cành củi khô”. Phép đảo ngữ này nhấn mạnh hình ảnh củi khô trên dòng tràng giang buồn bi thiết. So với những thi liệu quen thuộc “sóng, nước, thuyền” đã xuất hiện trước đó thì “củi” đúng là rất mới mẻ. Hình ảnh này vượt ra ngoài tính vi phạm, trở thành điển hình cho thân phận lạc loài, bơ vơ, nhỏ bé của kiếp người. Thế nên “củi” chính là hình ảnh mang nghĩa ẩn dụ tượng trưng sáng tạo trong khổ thơ. Củi mang bản chất đã không còn sự sống đặt bên cạnh tính từ “khô” lại càng héo hắt, hết hy vọng. Điều đáng nói là cái khô héo, cạn kiệt sự sống ấy được đặt trong một môi trường mênh mông sóng nước.

Đã không tìm được chút gì mới mẻ để vơi bớt nỗi sầu, thi nhân hướng đôi mắt của mình vào không gian cao rộng của tràng giang.

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Không gian ba chiều được mở ra với sự kết hợp của các cụm từ mới khiến cho câu thơ vừa quen lại vừa lạ lẫm. Nhìn ở góc độ nào cảnh vật cũng dường như vô biên không ranh giới, khó lòng mà dùng những tính từ thuận theo lẽ thường mà diễn tả. Thế nên mới có cái “sâu chót vót”, “nắng xuống, trời lên”. Trong hai câu thơ có hai cặp từ đối lập nhau “xuống, lên”, “dài, rộng”. Riêng hai động từ “xuống, lên” chỉ sự vận động ngược hướng dù cùng một phương thẳng đứng. Sự góp mặt của hai động từ này kết hợp với “nắng” và “trời” sự vô biên của không gian được mở ra theo chiều cao. Hai tính từ trái nghĩa “dài”, “rộng” gắn với “sông” và “trời” mở sự vô biên ra chiều ngang. Không gian có sự vận động rõ rệt kéo theo của nắng và trời, nắng xuống đến đâu, trời cao đến đó.

Hai bức tranh đầu của Tràng giang khép lại, nhưng những đường nét u buồn vẫn còn đọng trong lòng mỗi chúng ta. Cái buồn của những tiếng kêu đau đáu cho phận mình, phận người trước cuộc bể dâu. Vũ Ngọc Phan đã từng nhận xét “Huy Cận than thân thì ít mà góp tiếng khóc cho đời thì nhiều”. Tiếng khóc ấy là tiếng khóc của người trai nặng tình với non sông, đất nước, khao khát được giao hoà với đời, được sống trong cuộc đời tự do.

Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang - mẫu 2

Huy Cận được biết đến với một hồn thơ "cổ điển nhất trong phong trào Thơ mới”. Ông tâm sự “Trước Cách mạng, tôi thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng đê Chèm để ngoạn cảnh sông Hồng. Phong cảnh sông nước đẹp gợi ho tôi nhiều cảm xúc”. Và bài thơ “Tràng giang” được viết ra thể hiện một nỗi buồn, nỗi cô đơn, lạc lõng của con người trước cuộc đời.

Mở đầu bài thơ, nhà thơ Huy Cận đã sử dụng hình ảnh thơ quen thuộc: con thuyền, dòng sông để gợi nên cảm xúc:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song”

Âm Hán Việt "tràng giang" được tác giả sử dụng qua vần "ang", tạo nên một không gian rộng lớn, rợn ngợp, thể hiện rõ phong cách thơ Huy Cận. Tâm trạng của nhà thơ được mở ra qua hình ảnh "buồn điệp điệp", diễn tả một nỗi buồn dai dẳng, liên tục như những đợt sóng vỗ vào bờ, mang tính chất vĩnh cửu. Từ "song song" chỉ sự gần gũi mà không bao giờ có sự gặp gỡ, thể hiện sự cô độc và lẻ loi của con thuyền trên dòng sông, cũng là ẩn dụ cho sự cô đơn của con người trong cuộc sống. Huy Cận sử dụng nghệ thuật tương phản, thể hiện sự xa cách giữa thuyền và nước, dù chúng vốn gắn bó mật thiết, để làm nổi bật cảm giác cô đơn, lạc nhịp trong thế giới của con người.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Hình ảnh cành củi khô táo bạo và độc đáo trong thi ca Việt Nam. Đó là hình ảnh có một không hai. Huay Cận đã thả vào Thơ mới một cành củi khô để nói hộ tấm lòng cả một thế hệ Thơ mới. Bởi vì, xưa nay những vật tầm thường ít được đặt vào thơ, đặc biệt là thơ cổ, hình ảnh củi khô mang vẻ đẹp giản dị, đời thường nhưng lại có giá trị biểu đặt ghê gớm. Tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng chắt lọc các từ đơn, khiến câu thơ như bị dập gãy, vơ vụn. & tiếng trong một câu thơ mà vỡ thành 6 mảnh cô đơn, sự cô đơn của cành củi khô với sự vô tận của dòng nước.

Cảnh vật vắng vẻ, cô quạnh ở khổ thơ thứ hai, tầm nhìn đã được mở rộng hơn:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nằng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Tác giả sử dụng từ “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi sự xuất hiện ít và thư thớt, cảm giác của con người thoáng buồn khi đứng trước tầm nhìn rộng. Đây là sự cảm nhận bằng thị giác. Bên cạnh đó, tác giả còn có sự cảm nhận bằng thính giác: cảm nhận về âm thanh cuộc sống tiếng chợ chiều. Cảnh vật như thiếu vắng hơi ấm của cuộc sống con người, cần lắm tìm đến sự tri ân. Từ “đâu” mang nhịp chậm, giọng buồn nhuốm sầu. Không gian được thắp lên màu nắng, tăng thêm cả về chiều rộng, độ cao, chiều sâu. Từ đó tác giả đã gợi ra một không gian từ mặt nước đến đáy sông, không gian được đẩy đến tận cùng, khắc họa nỗi buồn, cô đơn của con người trước cuộc đời. Tác giả như không tìm thấy sợi dây liên hệ với cuộc đời, mang đến sự vô vọng.

Hai khổ thơ đầu bài “Tràng giang”, tác giả Huy Cận đã gợi ra cả không gian rợn ngợp, nhưng tâm trạng của con người lại mang cảm giác sầu buồn, cô đơn, nỗi buồn như trải dài vô tận. Đó là sự cô đơn, lẻ loi của con người trước dòng đời, và không tìm thấy sự giao cảm của bản thân với cuộc đời.

Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang - mẫu 3

Là một trong những nhà thơ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, Huy Cận để lại cho kho tàng văn học Việt Nam rất nhiều tác phẩm đặc sắc. Bài thơ “Tràng Giang” được ông viết trong thời kỳ trước cách mạng với một nỗi u buồn, sự bế tắc của một kiếp người, trôi nổi lênh đênh không bến đỗ. Nỗi buồn ấy được thể hiện rõ nét ngay trong 2 khổ thơ đầu.

Mở đầu bài thơ, Huy Cận cho người đọc thấy được những hình ảnh rất đỗi quen thuộc: sóng, con thuyền, dòng sông để gợi nên cảm xúc:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song”

Tác giả khéo léo sử dụng âm Hán Việt “ang” cho danh từ “tràng giang” gợi một không gian rộng lớn, rờn ngợp. Đây cũng là một trong những phong cách làm thơ rất nổi bật của Huy Cận. Lúc này, tâm trạng của nhà thơ trở nên “buồn điệp điệp” – nỗi buồn được cụ thể hóa, được ví như từng đợt sóng dâng trào gối vào nhau, liên tiếp vào bờ. Nỗi u buồn ấy dường như tồn tại vĩnh cửu, cứ âm ỉ và dai dẳng mãi trong lòng tác giả. Từ láy “song song” như muốn nói đến hai thế giới, dù luôn gần gũi ở bên nhau nhưng chẳng bao giờ được gặp nhau.

Thông qua 2 câu thơ, tác giả đã cho chúng ta thấy được sự cô độc, đơn lẻ của con thuyền trên dòng sông, ẩn dụ cho hình ảnh cô độc của con người trên dòng đời. Huy Cận đã thành công sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập để tạo nên nét cổ kính cho câu thơ. Con thuyền và dòng nước luôn gắn bó mật thiết với nhau, nhưng qua cách thể hiện của nhà thơ chúng lại có hành động trái chiều, lạc nhịp gọi cảm giác cách xa, cô đơn.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Có lẽ Huy Cận là người đầu tiên sử dụng hình ảnh cành củi khô trong lời thơ của mình, một hình ảnh độc đáo và táo bạo. Tác giả muốn cho mọi người thấy những nét phá cách trong phong trào thơ mới, khi mà trước đây những vật tầm thường rất ít được cho vào. Hình ảnh củi khô đời thường với một vẻ đẹp giản dị lại có một giá trị biểu đạt ghê gớm. Huy Cận khéo léo sử dụng biện pháp nghệ thuật đảo ngữ và chọn lọc những từ đơn để miêu tả sự cô đơn của cảnh củi khô lênh đênh trong sự vô tận của dòng nước.

Trong khổ thơ thứ 2, tác giả miêu tả cảnh vật cô quạnh, vắng vẻ với không gian mở rộng:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Các từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi nên sự nhỏ bé, ít ỏi giữa một không gian mênh mông vô tận – đây chính là sự cảm nhận bằng thị giác. Ngoài thị giác thì tác giả còn có những cảm nhận bằng thính giác với những âm thanh của cuộc sống với tiếng làng xa vãn chợ chiều. Màu nắng chiều cùng với cảnh vật sông dài, trời rộng, bến thuyền cô liêu càng khắc họa nỗi cô đơn, nỗi buồn của con người trước cuộc đời. Người đọc có thể dễ dàng cảm nhận thấy sợ vô vọng của tác giả khi không thể tìm thấy sợi dây liên hệ nào với cuộc đời.

Hai khổ thơ đầu bài “Tràng Giang” của tác giả Huy Cận mang đến một không gian rợn ngợp với nỗi buồn và sự cô đơn trải dài vô tận. Một sự lẻ loi, đơn côi của con người trước dòng đời, không tìm thấy sự kết nối với thế giới ngoài kia. Cũng có lẽ vì vậy mà tác phẩm luôn được nhiều độc giả yêu thích, không bị bụi của thời gian phủ mờ.

Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang - mẫu 4

Phong trào thơ mới chứng kiến sự đột phá của rất nhiều thi sĩ nổi tiếng với hàng ngàn tác phẩm tuyệt vời. Trong đó, chúng ta không thể bỏ qua tác phẩm “Tràng Giang” được sáng tác dưới ngòi bút của Huy Cận. Với sự kết hợp giữa yếu tố cổ điển và hiện đại, cùng câu từ đơn giản nhưng tinh tế tác giả thành công khắc họa hình ảnh mông mông của thiên nhiên hùng vĩ, qua đó cũng thể hiện nỗi niềm u buồn chất chứa, sự bế tắc của một kiếp người trôi nổi, lênh đênh giữa dòng đời. Nổi bật phải kể đến 2 khổ thơ đầu đã để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.

Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên nhà thơ đã cho người đọc thấy được một con sông chất chứa bao nhiêu nỗi buồn sâu thẳm:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Một loạt từ ngữ “buồn”, “xuôi mái”, “sầu trăm ngả”, “lạc mấy dòng” gợi cảm giác thê lương cùng từ láy “điệp điệp”, “song song” càng làm nỗi buồn trở nên mênh mông vô tận của tác giả trong thời thế có nhiều bất công. Tác giả mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và đặc biệt là hình ảnh “củi khô” trôi một mình để người đọc thấy rõ sự đơn độc. Nét chấm phá cổ điển xen lẫn nét hiện đại được thể hiện rõ nét, gợi tả câu thơ đầy ám ảnh với một dòng sông dài, mang nét đẹp trầm tĩnh, u buồn khiến người đọc cảm thấy thật thê lương.

Dường như nỗi hiu quạnh đó được Huy Cận tăng lên gấp bội trong khổ thơ thứ 2:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”

Một làng quê thiếu sức sống hiện lên với cồn cỏ lơ thơ, hiu quạnh trước gió, khiến người đọc không khỏi nặng lòng khi nghĩ đến. Ngay cả phiên chợ chiều vốn nơi xa cũng không thể nghe thấy tiếng ồn ào, hay có khi nào phiên chợ đó cũng vắng lặng đến buồn hiu. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không điểm tựa để bấu víu, nó là một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa. Chẳng biết là tác giả đang hỏi người hay là đang tự hỏi bản thân mình. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không tiếng động, không bóng người sao thật chua xót quá.

Sự mênh mông vô định của thiên nhiên được tác giả đặc tả bằng hình ảnh trời và sông. Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lúc này chúng ta có thể thấy được nét tài tình và độc đáo cả thi sĩ khi lấy chiều cao để đo chiều sâu. Giữ không gian sông nước mênh mông và tác giả kết thúc đoạn thơ bằng một chữ “cô liêu” dường như đã lột tả hết nỗi buồn rầu, cô đơn từ sâu thẳm tâm hồn mà không biết ngỏ cùng ai.

Khép lại hai khổ thơ đầu ta như thấy được giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, nỗi sầu nhân thế của tác giả dừng như chiếm trọn tâm trí. Đó là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương và sự cô đơn, hiu quạnh của tác giả chẳng biết gửi vào đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim.

Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang - mẫu 5

Huy Cận tưởng như đã đem hồn thơ với nỗi buồn thiên cổ đầy sầu mộng của mình để lượm lặt những nỗi buồn nhân thế mà đem vào trang thơ. Tràng Giang có thể nói là bài thơ thể hiện rõ nhất điệu hồn ấy của phong cách thơ Huy Cận. Đặc biệt hai khổ đầu bài thơ, là những nét vẽ vừa đẹp vừa thấm đẫm chút buồn man mác phủ lên toàn bộ cảnh vật.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Nỗi ám ảnh thời gian luôn vận động theo quy luật tuyến tính, một đi không trở lại đã khiến Xuân Diệu luôn vội vàng, cuống quýt trong từng nhịp điệu sống. Còn nỗi ám ảnh không gian đã mang vào trong thơ Huy Cận những thế giới rộng lớn, mênh mông sầu mộng của thi sĩ. Ở Tràng Giang cũng không phải là ngoại lệ, mở đầu bài thơ là hình ảnh sông dài với những đợt sóng buồn điệp điệp nối đuôi nhau. Cái hay ở đây, là cách nhà thơ dùng từ “tràng giang” để gọi nó, nó gợi màu sắc cổ điển, vì thế con sông trong thơ Huy Cận dường như gọi về bao nhiêu nỗi niềm xưa, bao nhiêu dấu rêu phong, bao nhiêu những con sông hoàng hà cổ đại, từ đó chảy trên dòng thời gian bất tận để đưa người đọc xuôi dòng về hiện thực.

Thuyền và nước, nỗi niềm của sự chia rẽ được thể hiện rất rõ trong nỗi sầu ở câu thơ thứ ba. Nỗi sầu của dòng sông, nỗi buồn man mác của dòng chảy bất tận về muôn ngã rẽ, mang theo nỗi lòng của mình để hướng về muôn nơi, sự chia cắt của thuyền và nước, tưởng như là sự chia cắt của lòng người khiến cho sự vật cũng như tan tác, chia li. Câu thơ thứ tư, mới thực là sự đắc địa và cẩn trọng trong cách chọn từ của Huy Cận. Củi, đã là sự vật gợi sự khô héo, tàn lụi, thậm chí là mất dần sự sống. Tiếp đến, lượng từ “một’ gợi sự đơn lẻ đơn độc và lạnh lẽo trên dòng sông bất tật, thế nhưng không chỉ một mình, đơn độc mà cành củi ấy còn vô phương vô định lưu lạc về chân trời nào.

Rõ ràng, Huy Cận đã đưa vào thơ một cách trần trụi rất riêng những chất liệu của đời sống.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

Trong thơ Huy Cận, thiên nhiên không chỉ đẹp mà còn chứa đựng nỗi buồn, sự tàn lụi, và khô héo. Những cồn nhỏ như đang lắng nghe gió để kể về nỗi buồn, trong khi gió mang theo tâm trạng u sầu của cảnh vật. Cảnh chợ chiều đã vãn không còn sự nhộn nhịp, mà chỉ còn lại sự hiu quạnh, giống như cuộc sống đang đi vào trạng thái nghỉ ngơi, ảm đạm. Những câu thơ cuối là tuyệt bút thể hiện cảm giác của nhân vật trữ tình khi đứng trước thiên nhiên rộng lớn. Các đối lập như "lên-xuống" và cụm từ "sâu chót vót" tạo cảm giác bí bách, ngột ngạt, phản ánh sự cô đơn và lẻ loi của con người giữa không gian bao la, rộng lớn.

Chỉ với 8 câu thơ, Huy Cận đã yểm vào đó linh hồn cho từng câu chữ, để bắt cảnh vật sống dậy với chất buồn thấm đẫm trong từng thớ vỏ, đồng thời tạo nên cảm giác âu sầu ảo não vốn rất đặc trưng trong thế giới thơ Huy Cận.

Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang - mẫu 6

Phong trào Thơ Mới đã tạo ra bước ngoặt trong văn học Việt Nam, với "Tràng Giang" của Huy Cận là tác phẩm tiêu biểu. Bài thơ kết hợp tinh tế giữa cổ điển và hiện đại, vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và thể hiện nỗi buồn, cô đơn, bế tắc của con người. Hai khổ thơ đầu mang đến không gian rộng lớn, gợi lên những nỗi niềm sâu lắng về kiếp người trôi dạt.

Ngay từ những câu thơ đầu tiên, nhà thơ Huy Cận đã mang tới một con sông với biết bao nỗi buồn sâu thẳm trong đó:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Một loạt những từ ngữ mang sắc thái gợi cảm như "buồm", "xuôi mái", "sầu trăm ngả", "lạc mấy dòng" đã mang tới cho người đọc một cảm giác thê lương đến khó tả. Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các từ láy như "điệp điệp", "song song" càng khiến cho nỗi buồn ấy trở nên vô tận giữa thời thế đầy rẫy những bất công lúc bấy giờ. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh con thuyền xuôi mái và đặc biệt là hình ảnh của cành củi khô trôi lạc dòng để gợi nên sự cô độc đến buồn thương. Những nét chấm phá vừa cổ điển vừa có sự hiện đại càng làm nổi bật thêm những sự ám ảnh với một dòng sông dài nhưng lại trầm tĩnh, u buồn đến mức thật thê lương.

Những nỗi buồn, sự hiu quạnh lại tiếp tục được tăng thêm bội phần ở trong khổ thơ thứ hai:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Khổ thơ này vẽ lên hình ảnh một làng quê vắng lặng với những cồn nhỏ quạnh hiu trước gió, làm người đọc cảm thấy nặng lòng. Phiên chợ chiều, đáng lẽ đông đúc, lại tĩnh mịch, không tiếng ồn ào. Câu hỏi "đâu" mang một cảm giác thê lương, như không có điểm tựa, gợi ra những nỗi niềm của tác giả. Cảnh vật hoang sơ, tiêu điều khiến lòng người xót xa. Hai câu thơ cuối sử dụng từ ngữ độc đáo, tạo cảm giác ngột ngạt, bí bách, như dồn nén con người trong không gian vô tận. "Sâu chót vót" diễn tả độ sâu và độ cao, mang đến sự mở rộng cho cảm xúc người đọc, tiếp nối sự cô đơn tận cùng giữa sông dài trời rộng.

Hai khổ thơ đầu khép lại nhưng đã mang tới cho người đọc những cảm nhận về khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, những nỗi sầu nhân thế của tác giả Huy Cận. Những nỗi nhớ ấy là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương và cả sự cô đơn, hiu quạnh thế nhưng tác giả chẳng biết gửi vào đâu. Đó là những sự lẻ loi, cô đơn của con người nhỏ bé trước dòng đời vần xoay, xô đẩy, không tìm thấy sự kết nối với thế giới ngoài kia. Có lẽ bởi vậy mà bài thơ vẫn luôn nhận được những sự đón nhận của độc giả đến ngày nay.

Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang - mẫu 7

Huy Cận, một hồn thơ cổ điển trong phong trào Thơ Mới, đã tạo ra những tác phẩm vừa cổ điển vừa hiện đại, mang đậm nỗi buồn thiên cổ. Bài thơ "Tràng Giang" là một tác phẩm nổi bật, đặc biệt hai khổ thơ đầu tái hiện bức tranh thiên nhiên buồn man mác.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng những hình ảnh thơ đầy quen thuộc để gợi nên cảm xúc của người đọc:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Từ "tràng giang" gợi ra một không gian rộng lớn, với tâm trạng "buồn điệp điệp" của nhà thơ. Nỗi buồn ấy dai dẳng, như sóng vỗ vào bờ không ngừng nghỉ, tồn tại vĩnh viễn. Hình ảnh thuyền và nước "song song" nhưng không gặp nhau làm nổi bật sự cô đơn, lẻ loi của con thuyền, phản ánh sự cô đơn của con người trong dòng đời. Tác giả sử dụng nghệ thuật tương phản để nhấn mạnh sự xa cách và cô đơn.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Hình ảnh cành củi khô trong thơ Huy Cận là một hình ảnh độc đáo, hiếm thấy trong thơ ca Việt Nam, đặc biệt trong thơ mới. Dù giản dị, cành củi khô lại mang giá trị biểu đạt lớn, phản ánh nỗi niềm của một thế hệ. Nhà thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ và từ đơn để tạo ra cảm giác câu thơ như vỡ vụn, biểu tượng cho sự cô đơn và vô tận của dòng nước.

Đến khổ thơ thứ hai, những cảnh vật vắng vẻ, cô quạnh khiến cho tầm nhìn được mở rộng hơn:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Trong câu thơ đầu, tác giả đã sử dụng các từ ngữ như "lơ thơ", "đìu hiu" gợi nên cho người đọc những cảm giác của sự thưa thớt, khiến con người có cảm giác buồn khi đứng trước một quang cảnh rộng lớn. Bên cạnh sự cảm nhận bằng thị giác, tác giả còn cảm nhận không gian bằng thính giác - cảm nhận âm thanh cuộc sống qua tiếng chợ chiều. Phải chăng cảnh vật ở đây đang thiếu đi hơi ấm của cuộc sống con người, cần tìm tới sự tri ân của con người. Ở câu thơ thứ hai, từ "đâu" mở đầu khiến cho câu thơ mang nhịp điệu chậm lại, những sự buồn nhuốm sâu vào cảnh vật. Không gian ở đây lại được thắp sáng lên bởi màu nắng, cả chiều rộng, chiều cao và độ sâu đều được tăng thêm. Qua những câu thơ tác giả đã gợi lên một không gian được mở rộng đến tận cùng, điều đó càng làm nổi bật lên sự cô đơn của con người trước cuộc đời. . Dường như tác giả chẳng thể nào tìm được sợi dây liên kết với cuộc đời, khiến người đọc cảm thấy sự vô vọng tràn đầy trong từng câu chữ.

Qua hai khổ thơ đầu bài thơ Tràng Giang, nhà thơ Huy Cận đã khắc hoạ một không gian rộng lớn, thế nhưng con người ở đây lại mang một tâm trạng sầu buồn, cô đơn, mang những nỗi buồn như trải dài vô tận. Đó cũng chính là sự cô độc, lẻ loi của con người khi không tìm thấy sự kết nối của bản thân với cuộc đời, với dòng đời.

Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang - mẫu 8

Huy Cận đã tiếp thu phong cách thơ trung đại, sử dụng vẻ đẹp bao la của thiên nhiên để bày tỏ tâm trạng, đặc biệt trong tác phẩm "Tràng Giang". Ông kết hợp những nét mới lạ của thơ hiện đại, tạo nên ấn tượng sâu sắc về không gian trong hai khổ thơ đầu.

Ngay từ tên bài thơ "Tràng giang" và lời đề từ "Bâng khuâng trời rộng sông dài", một không gian sông nước bao la đã hiện hữu. "Tràng" tức là dài, "Giang" là sông. Sông dài, trời rộng mở ra một không gian bao la, tươi đẹp, nhưng buồn, nhưng dấy lên trong tâm hồn tác giả một nỗi "bâng khuâng" lạ kỳ.

Khổ thơ đầu tiên, Huy Cận viết:

"Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song,

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,

Củi một cành khô lạc mấy dòng".

Không gian rộng lớn của thiên nhiên khiến con người cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Trước dòng sông bao la, nỗi buồn của Huy Cận dâng trào, tạo nên không gian cảm xúc. Con thuyền trôi song song với dòng nước, biểu tượng cho sự vô định và cô đơn, như thân phận lạc lõng của con người. Nỗi sầu của tác giả cũng theo đó mà trở nên vô tận, như con thuyền trôi mãi không bao giờ gặp bến.

Một hình ảnh buồn hiện lên trước mắt tác giả: "Củi một cành khô lạc mấy dòng". Không biết cành củi đáng thương ấy là một vật hữu hình có thực, hay nó là một hình ảnh chợt xuất hiện trong nỗi cô đơn của Huy Cận, bởi nó cũng nhỏ bé và lạc lõng như con người. Giữa dòng đời bao la, giữa sự xô đẩy của từng dòng sóng, nó cứ trôi lạc lõng, lênh đênh. Nỗi sầu trong tác giả càng sầu hơn. Việc sử dụng những hình ảnh thiên nhiên bao la là một nét quen thuộc trong đường thi, nhưng Huy Cận đã nhờ nó mà thầm nói lên nỗi lòng của mình, nhờ không gian thiên nhiên làm nổi lên không gian tình cảm.

Ở khổ thơ thứ hai, vẫn bắt gặp những hình ảnh trải dài theo không gian, nhưng cái nỗi cô đơn trong tâm trạng tác giả càng trải dài hơn nữa:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu".

Không gian hiện ra không chỉ được tác giả quan sát bằng thị giác, mà tác giả còn lắng tai nghe và càng sầu hơn - một nỗi sầu về nhân thế, về kiếp người, về cuộc sống thời đó. Đôi mắt tác giả buồn theo và nhìn xung quanh cảnh vật, đôi tai nhạy cảm lắng nghe những âm thanh thưa thớt, vãn dần ở xa xa. Cồn nhỏ lơ thơ, nhỏ bé, cơn gió thì thổi nhẹ nhưng đìu hiu, như cũng buồn giống tác giả. Huy Cận tinh tế cảm nhận cơn gió ấy, sao mà buồn, sao mà lặng lẽ, cô liêu.

Tiếng làng xa và cảnh chợ chiều vắng lặng nhỏ dần trong không gian rộng lớn của thiên nhiên. Huy Cận cảm nhận nỗi buồn sâu thẳm trong bầu trời bao la, khiến trời không cao mà "sâu chót vót". Cảnh vật mờ ảo, trơ trọi, tượng trưng cho nỗi cô đơn, bâng khuâng của tác giả, phản ánh sự lạc lõng và vô định của con người và thời cuộc. Tất cả đều mang một triết lý sâu xa về cuộc sống và nỗi buồn của Huy Cận đối với đất nước.

"Tràng giang" là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc, kết hợp tinh tế giữa không gian thiên nhiên và tâm trạng con người, mang đậm triết lý về cuộc sống và đất nước. Dù không thể hiện trực tiếp, Huy Cận đã truyền tải tình yêu tổ quốc và nỗi buồn trước cuộc sống thời bấy giờ. Tác phẩm vẫn vững vàng trong nền văn học Việt Nam và tiếp tục gây suy ngẫm cho người đọc về nhân tình và cuộc đời.

Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang - mẫu 9

Huy Cận, với hồn thơ cổ điển và nỗi buồn sâu lắng, thể hiện rõ phong cách qua bài thơ "Tràng giang". Bài thơ miêu tả cảnh sông nước rộng lớn và u tịch, nhưng đằng sau đó là tâm hồn cô đơn, thấm đượm nỗi buồn của thi sĩ, đặc biệt trong hai khổ thơ đầu.

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng"

Hình ảnh "sóng" trong câu đầu không chỉ miêu tả sóng trên sông mà còn gợi tả nỗi buồn khắc khoải trong lòng nhà thơ. Từ "điệp điệp" nhấn mạnh sự lặp đi lặp lại của nỗi buồn, dài rộng và sâu thẳm. Hình ảnh con thuyền xuôi mái giữa dòng sông mênh mông làm nổi bật sự đơn độc, lẻ loi và vô định, như thể không có bến đỗ. Nhịp thơ và các từ ngữ vần bằng càng tăng thêm vẻ mênh mang, xa vắng của không gian sông nước.

"Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng."

Huy Cận sử dụng biện pháp đối lập "thuyền về nước lại" để thể hiện nỗi buồn xa cách, chia lìa. Cụm từ "sầu trăm ngả" khiến nỗi buồn lan tỏa khắp bức tranh thơ, gợi sự mênh mông và cô đơn. Hình ảnh cành củi khô lạc lõng giữa dòng sông càng làm tăng thêm cảm giác bâng khuâng, khắc khoải. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh sự đơn lẻ, cô độc, khiến không gian trong thơ trở nên đầy tâm trạng và xót xa.

Nếu khổ thơ đầu thấp thoáng bóng dáng con người nhưng còn mờ nhạt, thì khổ thơ thứ hai xuất hiện dấu hiệu của sự sống con người nhưng còn xa vắng, quạnh hiu:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều."

Giữa cái lơ thơ, đìu hiu nơi cồn nhỏ, tiếng con người thoáng xao động nhưng chẳng thể nào xua tan, lấn át được cái tịch liêu của buổi hoàng hôn trên sông. Thứ âm thanh xa xôi, nhạt nhoà, không rõ rệt càng làm cho nhân vật trữ tình thêm khao khát được gặp gỡ, chuyện trò và đồng cảm. Vậy mà, niềm mong mỏi ấy càng ngóng lại càng xa vời:

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

Không gian được mở ra, dài rộng, cao, sâu đến ngợp trời. Các hình ảnh tương phản "Nắng xuống, trời lên", sông dài trời rộng, càng làm không gian thêm bao la, rợn ngợp, vô cùng. Sông nước mênh mông là vậy nhưng vẫn không thể nào che khuất nỗi buồn của tâm trạng, một chữ "cô liêu" ở cuối đoạn thơ đã lột tả hết tất cả nỗi buồn khôn nguôi nơi sâu thẳm đáy lòng thi sĩ, nỗi buồn không biết ngỏ cùng ai.

Nhà thơ Huy Cận đã rất tinh tế khi sử dụng những hình ảnh cổ điển: sông, trời, thuyền, nước; lựa chọn thời gian lúc hoàng hôn gợi nỗi buồn kết hợp với những biện pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình để làm nổi bật lên bức tranh cảnh - tình. Hai khổ thơ đầu với 8 câu thơ vỏn vẹn trong 56 chữ, những mỗi chữ đều mang ý, mang tình trong đó. Khép lại đoạn thơ, người đọc không khỏi vương vấn với những nỗi buồn cùng thi sĩ.

Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang - mẫu 10

Huy Cận là 1 trong những tác giả tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Thơ Huy Cận vừa có chất cổ điển vừa giàu chất suy tưởng của triết lý. “Tràng giang” thể hiện nỗi sầu của cái tôi trước" thiên nhiên mênh mông, hiu quạnh trong đó thấm đượm tấm lòng đối vs quê hương đất nước của thi sĩ.

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;

Củi một cành khô lạc mấy dòng"

Khổ thơ đầu trong "Tràng giang" sử dụng nghệ thuật đối với sự đổi mới, giữ được vẻ đẹp cân xứng và trang trọng nhưng cũng linh hoạt và uyển chuyển, tránh sự cứng nhắc. Hình ảnh bèo trôi dạt nối tiếp cành củi khô, tượng trưng cho kiếp người lạc loài, vô vọng. Từ "không" lặp lại nhấn mạnh sự thiếu vắng, sự cô đơn, tạo không gian mênh mông, trống trải, phản ánh nỗi buồn hiu quạnh của con người và cảnh vật.

Khổ thơ thứ hai, cũng là khổ thơ cuối cùng của bài thơ, hài hoà về nét cổ điển và hiện đại, được đánh giá là đặc sắc nhất trong kết cấu của bài thơ:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

Các từ “cao”, “sâu”, “rộng”, “dài” được sử dụng như một hệ thống để diễn tả không gian rộng lớn bao la. Đặc biệt, cách dùng từ đảo nghĩa và đối nghĩa giữa “lên” và “xuống”, giữa “cao” và “sâu” khiến người đọc có cảm giác bị choáng ngợp. Đây là một hình ảnh đẹp, chứa đựng biết bao yêu mến of nhà thơ đối với thiên nhiên xứ sở. Giữa tầng tầng lớp lớp mây núi chồng chất ấy, nổi bật hình ảnh một cánh chim nhỏ đang sa xuống. Đôi cánh lấp lánh hoàng hôn khiến nó trông như 1 giọt nắng từ trên trời rơi xuống. Nhà thơ có cảm giác cả ko gian vũ trụ đang đè nặng lên đôi cánh nhỏ bé ấy khiến cho chim phải chao nghiêng đi. 2 câu thơ cuối được lấy từ 2 câu kết của Hoàng Hạc Lâu nhưng người xưa phải nhờ có khói trắng trên sông mới thấy nhớ nhà. Còn Huy Cận chẳng cần có chút “yên ba” nào cũng thấy nhớ nhà da diết. Nỗi sầu hiện đại lớn hơn so với cổ nhân. Câu thơ gợi tả hình ảnh sóng gió tràng giang dường như chỉ còn gập ghềnh 1 chỗ.

Hai khổ thơ trên sử dụng thể thơ thất ngôn rất hợp lý, hiệu quả cùng với sự kết hợp của các từ láy, biện pháp tu từ, thủ pháp nghệ thuật tương phản đã làm nổi bật lên nỗi sầu của cái tôi cô đơn trước thiên nhiên, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Tràng giang là bài thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới, không chỉ miêu tả quang cảnh quê hương đất nước mà còn thể hiện 1 tình yêu nước sâu nặng cùng nỗi buồn cô đơn, bơ vơ của con người ngay trên chính quê hương mình.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học