10+ Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà (điểm cao)
Bài văn Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà
- Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà (mẫu 1)
- Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà (mẫu 2)
- Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà (mẫu 3)
- Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà (mẫu 4)
- Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà (mẫu 5)
- Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà (mẫu 6)
- Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà (mẫu 7)
- Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà (mẫu 8)
- Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà (mẫu 9)
- Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà (mẫu 10)
Dàn ý Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm.
- Nêu cảm nghĩ về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà.
2. Thân bài
a) Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông Đà
- Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, kỳ thú: Cỏ gianh đồi núi đang ra những búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương.
- So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn, hư hư thực thực của dòng sông.
- Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen.
b) Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế
- Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.
- Thuyền thả trôi, con hươu thơ ngộ vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt.
=> Cảnh và vật đều ở trạng thái động, không chịu ép mình và đều mang hơi thở vận động của cuộc sống nhiều chiều.
c) Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông
- Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà, lòng ông dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử, về tình cảm đối với cố nhân: nhắc tới đời Lí đời Trần.
- Trước vẻ đẹp hoang dại nhà văn suy nghĩ về về tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.
- Trải lòng, hóa thân vào dòng sông trong đắm đuối của tình non sông đất nước.
3. Kết bài
- Nêu suy nghĩ của em về vẻ đẹp của con sông Đà.
Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà - mẫu 1
Nguyễn Tuân là nhà văn duy mỹ, luôn tôn thờ cái đẹp trong cuộc sống. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là minh chứng rõ nét cho phong cách đó, với hình ảnh sông Đà vừa hung bạo, vừa dịu dàng, đẹp như một mỹ nhân Tây Bắc. Đoạn văn dưới đây thể hiện vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của con sông này.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà từ nhiều góc độ, trong đó có góc nhìn từ trên cao. Tại đây, ông mô tả sông Đà như một người phụ nữ kiều diễm với áng tóc trữ tình, uốn lượn trong mây trời Tây Bắc. Cảnh vật được miêu tả bằng những từ ngữ như "tuôn dài", "áng tóc trữ tình", "bung nở", "cuồn cuộn", tạo nên vẻ đẹp mộng mơ, bí ẩn của dòng sông. Sự nhân cách hóa này làm sông Đà trở nên gợi cảm, đẹp đẽ như một kiệt tác của thiên nhiên.
Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân về con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do sự phản quang của mây trời và đẹp như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa.
Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ mộng của dòng nước còn có cái dữ dội ngàn đời của con sông Tây Bắc.
Bờ sông ở đây còn nổi lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Trong cảnh lặng như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy một vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy thật đầy chất thơ, chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều ấy khiến ta liên tưởng đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hôm chèo thuyền ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên, một chốn Đào nguyên. Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát lên từ điển tích ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc – nơi khởi nguồn cho tình yêu đất nước.
Sông Đà, dòng sông Tây Bắc, không chỉ nổi bật với trữ lượng thủy điện lớn mà còn hiểm nguy với “trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh.” Tuy nhiên, trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, sông Đà còn là một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội hoạ do tạo hóa ban tặng. Ông khai thác vẻ đẹp thẩm mỹ của con sông, thể hiện phong cách tài hoa, khiến tâm hồn người đọc như vẫn trôi theo dòng sông, đầy chất thơ và huyền bí.
Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà - mẫu 2
Trong nền văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân là cây bút nổi bật với phong cách tài hoa, uyên bác và có quan niệm độc đáo về cái đẹp tuyệt đỉnh. Tác phẩm "Người lái đò sông Đà" là bài bút kí thể hiện rõ điều này. Cảm hứng về dòng sông Đà với hai nét tính cách hung bạo và trữ tình chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân đã tạo nên một hình tượng độc đáo về thiên nhiên Tây Bắc. Đặc biệt, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Đà giang đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Trước hết, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Đà được thể hiện qua dáng vẻ của dòng sông. Dòng sông không chỉ nổi bật với vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của những "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông" mà còn để lại ấn tượng sâu sắc qua những nét vẽ thơ mộng, trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng sông mang vẻ đẹp dịu dàng như một người đàn bà kiều diễm: "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".
Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông còn được thể hiện qua tâm hồn. Qua cách nhìn độc đáo của tác giả, sông Đà hiện lên như một cố nhân - người bạn thân thiết từ xưa. Cái chất "đằm đằm ấm ấm" thân quen của con sông như thấm sâu vào cảnh sắc thiên nhiên và trở nên thân thiết: "... trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng".
Như vậy, qua vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà, chúng ta có thể thấy được trái tim say mê vẻ đẹp thiên nhiên của tác giả. Nguyễn Tuân mê đắm trước cảnh đẹp của quê hương, đất nước. Lòng ngưỡng mộ, sự trân trọng, niềm tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang tùy bút hiếm có. Đồng thời, qua đó, chúng ta có thể thấy được phong cách nghệ thuật và quan điểm sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ luôn say mê tìm kiếm cái đẹp toàn bích, tuyệt mĩ. Ông luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa và thẩm mĩ, đi tìm và sáng tạo cái đẹp. Vẻ đẹp của dòng sông Đà còn tạo nên một bối cảnh đặc biệt góp phần làm nổi bật hình tượng người lái đò - người lao động bình dị với vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ.
Bằng những cảm nhận tinh tế, sự sắc nhọn của giác quan người nghệ sĩ, cách sử dụng ngôn từ độc đáo, lối văn rất mực tài hoa, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng sông Đà. Từ đó, hình ảnh dòng sông đã trở thành biểu tượng thể hiện niềm yêu mến tự hào về cỏ cây, sông núi quê hương cùng khát khao đi tìm cái đẹp, hướng tới và sáng tạo cái đẹp của tác giả.
Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà - mẫu 3
Nguyễn Đăng Mạnh khi đánh giá về nhà văn Nguyễn Tuân đã khẳng định rằng: “Nguyễn Tuân là cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. “Người lái đò sông Đà” rất tiêu biểu cho phong cách sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng con sông Đà với nét đẹp thơ mộng, trữ tình.
Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà một cách bao quát, bắt đầu bằng hình ảnh so sánh độc đáo: "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình". Điệp ngữ "tuôn dài" làm nổi bật dòng sông dài vô tận, uốn lượn giữa màu xanh bạt ngàn của núi rừng. Từ "áng" gắn với "tóc trữ tình" tạo hình ảnh sông Đà như một thiếu nữ trẻ trung với mái tóc đẹp, được điểm tô bởi hoa ban trắng và hoa gạo đỏ, làm nổi bật vẻ đẹp sinh động và tràn đầy sức sống. Hơn nữa, Nguyễn Tuân cũng miêu tả màu sắc của nước sông: vào mùa xuân, dòng nước mang màu xanh ngọc bích, khác hẳn với màu xanh canh hến của các con sông khác như Sông Gâm, Sông Lô, làm tăng thêm sự đặc biệt và quyến rũ của sông Đà.
Nguyễn Tuân miêu tả dòng nước sông Đà với sự sáng tạo độc đáo, như một họa sĩ kiên nhẫn quan sát sự thay đổi của nó qua các mùa. Vào mùa xuân, nước sông Đà mang màu “xanh ngọc bích,” sắc màu lung linh, lấp lánh như một khối ngọc bích khổng lồ. Đến mùa thu, nước sông lại chuyển sang màu đỏ, giống như “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa,” gợi lên cảm giác đậm phù sa, đem lại màu mỡ cho các cánh đồng phì nhiêu. Cách miêu tả này không chỉ khắc họa vẻ đẹp tự nhiên của sông Đà mà còn chứa đựng thông điệp yêu nước sâu sắc, qua câu văn phản ánh sự phản kháng với sự áp đặt của thực dân Pháp, khi họ đã “đổ mực Tây” lên con sông và gọi tên nó bằng một cái tên xa lạ.
Đoạn văn tiếp theo tiếp tục khắc họa vẻ đẹp trữ tình của con sông: Với câu thơ “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” - câu văn toàn thanh bằng đọc lên nghe thật nhẹ nhàng, gợi sự thanh bình, sự tĩnh lặng. Nguyễn Tuân tiếp tục so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn khéo léo dùng không gian để gợi mở thời gian. Hình ảnh “một bờ tiền sử” hay “một nỗi niềm cổ tích thời xưa” nhằm thể hiện vẻ đẹp hoang sơ của con sông.
Nguyễn Tuân không chỉ khắc họa vẻ đẹp dòng sông Đà mà còn vẽ lên một bức tranh thiên nhiên sống động hai bên bờ sông. Nhà văn miêu tả cảnh sắc đầy sức sống với hình ảnh "nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa" hay "cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp." Bức tranh thiên nhiên ấy như một bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp, với "đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm" và "con hươu ngẩng đầu nhung, chăm chăm nhìn ông khách sông Đà." Sự tĩnh lặng của thiên nhiên như hòa quyện với dòng sông, khiến cảnh vật trở nên nhẹ nhàng, quyến rũ. Những hình ảnh như đàn cá quẫy vọt lên làm sáng bừng mặt sông, tạo nên một không gian vừa huyền bí, vừa sống động, như một thế giới đầy sức sống và vẻ đẹp thanh bình.
Con sông Đà qua cái nhìn của Nguyễn Tuân không chỉ là một con sông hung bạo, dữ dội. Mà nó còn mang nét đẹp đầy thơ mộng, nhẹ nhàng. Hình ảnh sông Đà là một trong những sáng tạo thể hiện phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân.
Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà - mẫu 4
Nguyễn Tuân được biết đến là nhà văn đi theo chủ nghĩa xê dịch. Ở những tác phẩm của ông ta nhận thấy rõ sự thay đổi trong phong cách văn chương qua từng giai đoạn, đặc biệt là tác phẩm Người lái đò sông Đà. Tác phẩm không chỉ mang đến cho bạn đọc vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của con sông Đà mà còn nêu lên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của nó.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà với nhiều góc độ. Đầu tiên là góc từ trên cao nhìn xuống, con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo. Phép so sánh giàu chất thơ, chất họa đã phô ra vẻ dịu dàng, duyên dáng kiêu sa, kiều diễm của sông Đà và bộ lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Sông Đà mang dáng vẻ của thiếu nữ, một nữ nhân xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa cánh rừng hoa, hoa gạo và vẻ bồng bềnh mây khói. Mùa xuân màu nước xanh màu ngọc bích, khác với sông Gâm, sông Lô màu xanh canh hến. Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"”
Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa. Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc động trong thực và mơ.
Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có. Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước.
Tác phẩm là một áng văn tiêu biểu của Nguyễn Tuân. Qua ngòi bút tài tình của ông, dòng sông Đà hiện lên mang vẻ đẹp thơ mộng trữ tình vô cùng đáng yêu, dịu dàng và cũng rất xinh đẹp. Tác phẩm đã góp phần làm cho kho tàng văn học Việt Nam thêm giàu đẹp, phong phú hơn và để lại nhiều giá trị, bài học cho thế hệ mai sau.
Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà - mẫu 5
Dòng sông gợi cảm, trữ tình và nên thơ sau khi đã đi qua thác ghềnh. Sông Đà tạo thành chất men say cho cuộc sống của con người Tây Bắc. Từ nhiều góc nhìn khác nhau, Nguyễn Tuân đã có những phát hiện mới mẻ về vẻ thi vị, yên ả của con sông này. Qua bao thác ghềnh, con sông trở nên hiền hòa, mềm mại, uyển chuyển hơn bao giờ hết.
Từ trên tàu bay nhìn xuống, Tây Bắc như người thiếu nữ duyên dáng, yêu kiều mà sông Đà chính là áng tóc mềm mượt của người con gái khao khát thanh xuân này. Nguyễn Tuân nhìn thấy dòng chảy uốn lượn của con sông Đà tựa như áng tóc buông dài vắt ngang qua núi rừng hùng vĩ. “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.”. Hai từ “tuôn dài” được đặt kề nhau không phải là lỗi lặp từ của Nguyễn Tuân, đó là là cách để dòng sông trong đôi mắt của ông “tuôn dài” giữa núi rừng, giữa lòng người lao động.
Nhìn sông Đà từ nhiều thời điểm khác nhau, nhà văn phát hiện màu nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa lại mang một vẻ đẹp riêng. Nguyễn Tuân đặc biệt chú trọng sắc nước sông Đà ở hai mùa: xuân và thu. Hai mùa để thương để nhớ, để nhà văn ngắm nhìn và gợi tả cái dòng nước u huyền, ngọt ngào mang đặc trưng riêng biệt: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà.” Tây Bắc vào xuân, sự biến ảo của đất trời, thiên nhiên khiến sắc nước sông Đà cũng xanh trong kì lạ: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô”. Màu xanh “ngọc bích” khiến dòng nước không chỉ xanh mà còn trong vắt, long lanh như tấm gương phản chiếu vẻ đẹp của đất trời nơi đây. Đến khi Tây Bắc vào thu, vẻ trầm mặc của thiên nhiên khiến dòng nước sông đỏ hẳn đi: “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì ruợu bữa, lù lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mổi độ thu về”. Cách so sánh màu nước sông Đà mùa thu với màu da của một người nghiện rượu khiến dòng sông có sắc thái, có linh hồn, có xúc cảm hơn. Màu nước này cũng giống như cái màu đỏ giận dỗi, hờn trách “của một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”. Nhà văn khéo léo khi so sánh dòng sông với con người, khéo léo trao thần sắc, tâm trạng của con người vào dòng sông vô tri, vô giác.
Nguyễn Tuân thay đổi điểm nhìn, đặt mình vào vị trí của người khách du lịch trên thuyền để khám phá vẻ đẹp độc đáo của sông Đà. Câu văn "Thuyền tôi trôi trên sông Đà" với sáu thanh bằng mượt mà như thể chiếc thuyền đang lướt nhẹ trên mặt nước êm ả. Cảnh vật xung quanh "lặng tờ", khiến người đọc cảm giác như đang sống trong một thời đại xa xưa, không có tiếng động của thế giới hiện đại. Nhà văn bày tỏ sự hồ nghi: "Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi." Thời gian trôi qua, nhưng dòng sông vẫn giữ nguyên vẻ yên ả, thanh bình.
Đúng rồi, đây là một bờ sông trong câu chuyện cổ tích năm nào ta nghe kể. Tĩnh vắng như vậy, hoang sơ như vậy thì còn gì mà không phải nữa chứ? Đoạn văn miêu tả cảnh hai bên bờ sông Đà có lẽ là đoạn văn mượt mà, ngọt ngào và thơ mộng nhất trong tác phẩm. Câu văn mang dáng dấp mềm mại, êm trôi, không khí mơ màng khiến người đọc đắm say ngây ngất.
Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà - mẫu 6
Nguyễn Tuân là “suốt đời đi tìm cái đẹp”. Những tác phẩm của ông là những trang viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên không chỉ hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” mà còn dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc.
Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Đến cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà.
Nguyễn Tuân quan sát sông Đà từ nhiều góc độ, trong đó có góc nhìn từ trên cao, với cái nhìn bao quát. Tại đây, ông hình dung sông Đà như một người phụ nữ kiều diễm, với "áng tóc trữ tình" uốn lượn. Câu văn "Con sông Đà tuôn dài tuôn dài" với điệp ngữ “tuôn dài” tạo ra hình ảnh một dòng sông vô tận, giống như mái tóc của một thiếu nữ trải dài trong không gian. Phép so sánh "sông Đà như một áng tóc trữ tình" làm nổi bật vẻ đẹp diễm lệ, mang đậm tính thơ, làm người đọc cảm nhận được sự tuyệt mỹ của dòng sông.
Nguyễn Tuân thể hiện vẻ đẹp trữ tình của sông Đà qua việc miêu tả sắc nước thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà có màu xanh ngọc bích, trong sáng và tươi mới, khác biệt với màu nước sông Gâm, sông Lô. Mùa thu, nước sông Đà chuyển sang màu đỏ "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa", thể hiện sự dữ dội và bực bội. Qua đó, Nguyễn Tuân không chỉ khắc họa vẻ đẹp lãng mạn của dòng sông, mà còn làm nổi bật tính cách mạnh mẽ, đầy ẩn dụ của sông Đà.
Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà qua cái nhìn gần gũi, đầy chất thơ. Ông ví sông Đà như một cố nhân lâu ngày gặp lại, khiến ta cảm nhận sự mừng vui, thân thiết. Ánh nắng trên sông Đà được miêu tả đẹp mê hồn, với liên tưởng đến một câu thơ Đường nổi tiếng, gợi lên vẻ đẹp cổ kính, thanh bình của dòng sông. Nhà văn nhân cách hóa sông Đà, ví nó như một người bạn hiền, vui tươi khi gặp lại, phảng phất hơi ấm tình người. Cảnh vật đôi bờ sông được miêu tả như một thế giới cổ tích, nguyên sơ, yên bình, qua câu văn "bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử", tạo ra cảm giác về sự thanh thoát, trong sáng của thời đại xưa cũ.
Nguyễn Tuân miêu tả cảnh vật hai bên bờ sông Đà với sự tỉ mỉ và giàu chất thơ. Trong không gian yên tĩnh, sương mù chưa tan, nhà văn nhìn thấy sức sống mạnh mẽ qua hình ảnh nương ngô non và cỏ gianh đang nở những nõn búp. Đặc biệt, đàn hươu cúi đầu ăn cỏ gianh đẫm sương tạo nên một cảnh tượng đẹp như tranh thủy mặc. Cảnh vật này gợi nhớ đến một câu chuyện cổ của Trung Hoa, nơi ngư dân lạc vào một chốn thần tiên. Chất thơ trong miêu tả của Nguyễn Tuân không chỉ tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên mà còn khơi dậy tình yêu và sự gắn bó với đất nước.
Đoạn trích được khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh đênh… bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.
Tóm lại, Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội hoạ mà tạo hoá ban tặng tô điểm cho đất nước; ông khám phá dòng sông ở phương diện thẩm mỹ nên nên thể hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại rồi mà dường như tâm hồn của bạn đọc vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng sông “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà - mẫu 7
Trong cuộc kháng chiến mất còn của dân tộc, những dòng sông, cánh đồng, mảnh đất, ngôi làng đã đồng hành sống và chiến đấu với con người và hóa thân vào văn chương thành những vẻ đẹp của quê hương, đất nước. Một sông Mã gầm khan trầm uất, một sông Đuống cuộn trôi mang bao ảnh hình xứ sở…Đến với Người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân, ta cùng tác giả vượt thác xuống ghềnh và rồi thả thuyền hồn trôi xuôi trong một đoạn tả sông Đà trữ tình: “Thuyền tôi trôi trên sông Đà…trên dòng trên”.
Tác giả nhắc nhở tuổi thơ, ý văn tiếp nối với đoạn văn trên khi tả Sông Đà “loang loáng như trẻ con nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Tuổi thơ như khoảng thời gian thần tiên trong hồn người. Và đi bên tuổi thơ của mỗi con người là tuổi thơ của nhân loại, bởi dòng sông nào cũng là chứng nhận của việc an cư lạc nghiệp, của biết bao biến đổi thăng trầm của lịch sử. Ở trên, Nguyễn Tuân đã nhìn sự vật trong chiều sâu lịch sử, trong ý thức hướng về truyền thống khi nói cái “lặng tờ” của cảnh sông. Dường như dòng sông lặng tờ lại càng lặng tờ hơn bởi bề dày lịch sử của mấy trăm năm cộng lại.
Câu “Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” xao động với những thanh trắc nhỏ nhẹ cố như khép lại nén lại cảm xúc đang dâng trào. Ngoài câu văn mở đầu với sáu thanh bằng còn có vế câu nhiều thanh bằng nữa như “chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên…”. Những thanh bằng ấy như cố lắng xuống để ghi nhận trong khoảnh khắc ánh nhìn của chú nai tơ. Và hai từ láy “chăm chăm”, “lừ lừ” chỉ trong một vế câu ngắn như đong đầy cảm xúc. Ngoài ra còn có những từ láy khác như “lững lờ”, xa xôi, êm êm” đều gợi cảm, tạo nhạc. Bên cạnh một thứ nhạc thơ thấm đẫm đoạn văn là một điệu nhạc tâm hồn cứ khe khẽ hát lên, một chất thơ chở đầy tâm trạng.
Chất thơ mơ mộng còn bao trùm cả cảnh sông bằng những ảnh nai tơ, mỡ màng nhất: “lá ngô non đầu mùa”, nõn búp, búp cỏ gianh, những con vật hiền lành: con hươu thơ ngộ, đàn cá dâm xanh. Cảnh sắc thơ như từ một thế giới cổ tích nào đấy hiện về, vừa chân thực mà hư ảo, gần gũi mà xa xăm, bảng lảng một lớp sương huyền hồ của “cỏ gianh đẫm sương đêm”, “áng cỏ sương” và cả “tiếng còi sương”. Tưởng như một tâm hồn lần đầu bắt gặp sự xanh non của cuộc sống.
Có một sông Đà gầm thét, chảy trôi miên man giữa trời Tây Bắc vời vợi chất thơ của sông núi, và có một sông Đà trong văn Nguyễn Tuân chảy vào lòng người. Văn chương đã làm cho thiên nhiên đẹp lên bội phần. Con sông Đà sẽ mãi đồng hành cùng với con người cũng như áng văn đẹp của Nguyễn Tuân sẽ luôn là hành trang của mỗi người, của dân tộc đi tới trong cuộc sống hôm nay.
Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà - mẫu 8
Sông Đà đâu chỉ hung bạo, mà còn là một dòng sông tuyệt vời thơ mộng. Đặc biệt, từ mạn Thác Bờ về xuôi, Sông Đà chỉ còn vẻ dịu dàng như bất kì một dòng sông nào ở vùng đồng bằng. Bởi vậy, bên cạnh tính hung bạo, Nguyễn Tuân rất chú trọng khắc họa tính trữ tình của dòng sông này. Vốn văn hóa, vốn từ vựng giàu có, trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn thả sức tung hoành, tạo nên những đoạn văn mượt mà như những dòng thơ.
Để khắc họa tính trữ tình, dịu dàng của dòng sông, trước hết Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà một cách bao quát bằng một câu văn đầy hình ảnh và nhịp điệu: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng hai là cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Có thể coi đây là một bức tranh tổng thể về Sông Đà, lúc đầu chảy ngoằn ngoèo giữa điệp trùng núi đá và đại ngàn Tây Bắc nhưng khi về dần đến miền trung du, Đà giang chảy êm ả thẳng dòng?
Tác giả đã dành những đoạn văn hay nhất tả cảnh vật ven sông Đà để tôn thêm tính trữ tình của dòng sông, nhà văn sử dụng nhiều hình ảnh trong sáng gợi cảm và đầy chất thơ. Nhịp điệu câu văn lúc thì hối hả, mau lẹ do cách ngắt câu và diễn đạt theo lối điệp: “Bờ Đông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà” để diễn tả niềm sung sướng đang trào dâng trong lòng tác giả, lúc thì chậm rãi, như dãi ra để diễn tả cái vắng lặng rất nên thơ của con sông này: “Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tinh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Hình ảnh một bà tiên sứ, một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa có sức khơi gợi sâu xa, khắc họa được vẻ đẹp hoang sơ, tồn tại như vĩnh hằng của thiên nhiên. Với cách liên tưởng và ví von ấy, dường như Sông Đà còn có vẻ đẹp của một con sông bền bỉ chạy qua bao tháng năm lịch sử, mang dấu tích văn hóa ngàn xưa của dân tộc.
Qua phân tích trên, có thể thấy, Nguyễn Tuân đã khắc họa hình ảnh con sông Đà ở đây với những nét đẹp đầy thơ mộng, khác hẳn con sông Đà nơi thượng nguồn hung bạo.
Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà - mẫu 9
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp và cuộc sống. Và tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một tùy bút như vậy. Nổi bật lên trong tác phẩm là hình tượng con sông Đà với hai nét tính cách tiêu biểu, đó là hung bạo và trữ tình, thơ mộng.
Nguyễn Tuân cảm nhận vẻ đẹp trữ tình của sông Đà qua nhiều góc nhìn khác nhau. Khi nhìn từ trên cao, tác giả so sánh sông Đà như "chiếc dây thừng ngoằn ngoèo", hình dung con sông uốn lượn giữa núi rừng Tây Bắc. Sử dụng phép so sánh và điệp ngữ, Nguyễn Tuân nhấn mạnh sự mềm mại và uyển chuyển của dòng sông, ví sông Đà như "một áng tóc trữ tình" với hình ảnh mây trời, hoa ban, hoa gạo tạo nên một vẻ đẹp huyền bí, e ấp. Những phép tu từ này không chỉ tả vẻ đẹp của sông Đà mà còn gợi lên hình ảnh một cô gái Tây Bắc duyên dáng, cuốn hút.
Nguyễn Tuân thể hiện tình yêu sâu sắc với sông Đà qua cái nhìn đắm say và mê mẩn về sắc nước của con sông. Khi nhìn qua làn mây mùa xuân, ông miêu tả nước sông Đà có màu xanh ngọc bích, sắc xanh lấp lánh như một khối ngọc bích khổng lồ. Mùa thu, nước sông lại chuyển sang màu đỏ giống "da mặt một người bầm đi vì rượu bữa", gợi lên hình ảnh dòng sông đầy phù sa, mang lại màu mỡ cho đồng đất phì nhiêu. Khi đi từ rừng ra, nước sông Đà hiện lên chói lóa như ánh sáng phản chiếu từ gương, làm nổi bật vẻ trong vắt và ấm áp của dòng sông. Những hình ảnh sinh động trên bờ bãi, như sắc màu của chuồn chuồn và bươm bướm, cũng thêm phần làm sống động vẻ đẹp của sông Đà.
Với đôi mắt chan chứa, yêu thương trìu mến tự hào, Nguyễn Tuân đã phác họa thiên nhiên sông Đà đẹp lộng lẫy hư ảo khiến nhà văn ví dòng sông lúc thì như một cố nhân, lúc lại đắm say như một tình nhân trong thơ Tản Đà ở gần thì thương, đi xa thì nhớ, gặp lại thì vui như nối lại chiêm bao đứt quãng, như “gặp lại nắng giòn tan sau kì mưa dầm” có cảm giác đằm đằm, ấm ấm rất hạnh phúc. Tài hoa của Nguyễn Tuân đã truyền đến cho người đọc bao yêu thương trìu mến để sông Đà mãi sống trong lòng người đọc.
Thành công xuất sắc của tùy bút “Người lái đò sông Đà” đó là bức tranh thiên nhiên rất thực hòa quyện với cảm hứng mãnh liệt và niềm đam mê của Nguyễn Tuân. Những đặc sắc nghệ thuật với rất nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ phong phú ngùn ngụt chất liệu sức sống khiến dòng sông Đà của thiên nhiên vĩnh viễn trở thành dòng sông nghệ thuật.
Cảm nhận vẻ đẹp con sông Đà - mẫu 10
Sông Đà hay còn gọi được gọi là sông Đà giang, là một trong những phụ lưu lớn nhất của dòng sông Hồng. Khi nhắc đến sông Đà ta đều liên tưởng đến nững dòng chảy cuộn xiết với lưu lượng nước lớn và những đoạn thác nước khét tiếng. Những đến với tùy bút sông Đà của Nguyễn Tuân, người đọc lại được cảm nhận một sông Đà rất khác. Sông Đà hiện lên như một nàng thơ, hiền hòa e ấp cuộn mình trong dòng chảy như một suối tóc dài của người thiếu nữ.
Trước hết, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Đà được thể hiện qua dáng vẻ của dòng sông. Dòng sông không chỉ nổi bật với vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông” mà còn để lại ấn tượng sâu sắc qua những nét vẽ thơ mộng, trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng sông mang vẻ đẹp dịu dàng như một người đàn bà kiều diễm: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”.
Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông còn được thể hiện qua tâm hồn. Qua cách nhìn độc đáo của tác giả, sông Đà hiện lên như một cố nhân – người bạn thân thiết từ xưa. Cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông như thấm sâu vào cảnh sắc thiên nhiên và trở nên thân thiết: “… trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Qua vẻ đẹp trữ tình và thơ mộng của sông Đà, Nguyễn Tuân thể hiện lòng say mê và ngưỡng mộ đối với thiên nhiên quê hương đất nước. Tình yêu đối với sông Đà, cùng với niềm tự hào về vẻ đẹp của dòng sông, đã tạo nên những trang tùy bút đầy cảm xúc và nghệ thuật. Đồng thời, tác phẩm phản ánh phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ luôn tìm kiếm và khám phá cái đẹp hoàn hảo, tuyệt mỹ trong văn hóa và thẩm mỹ. Vẻ đẹp của sông Đà không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp thiên nhiên, mà còn tạo nên bối cảnh đặc sắc để khắc họa hình ảnh người lái đò - một hình mẫu lao động bình dị nhưng tài hoa, nghệ sĩ.
Bằng những cảm nhận tinh tế, sự sắc nhọn của giác quan người nghệ sĩ, cách sử dụng ngôn từ độc đáo, lối văn rất mực tài hoa, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng sông Đà. Từ đó, hình ảnh dòng sông đã trở thành biểu tượng thể hiện niềm yêu mến tự hào về cỏ cây, sông núi quê hương cùng khát khao đi tìm cái đẹp, hướng tới và sáng tạo cái đẹp của tác giả.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Cảm nhận vẻ đẹp hung bạo của sông Đà
- Cảm nhận về hai khổ thơ đầu bài Tràng giang
- Cảm nhận về hình tượng con sông Đà
- Cảm nhận về hình tượng Rừng xà nu
- Cảm nhận về lòng biết ơn
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều