10+ Cảm nhận về bà Tú trong bài Thương vợ (điểm cao)
Bài văn Cảm nhận về bà Tú trong bài Thương vợ điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
Dàn ý Cảm nhận về bà Tú trong bài Thương vợ
a) Mở bài:
- Trình bày khái quát về hình tượng người phụ nữ trong thơ ca trung đại
- Thương vợ của Trần Tế Xương là một trong những bài thơ tiêu biểu viết về hình tượng người phụ nữ. Bài thơ đã thể hiện thành công hình tượng bà Tú
b) Thân bài:
* Hình tượng bà Tú nổi lên là một người phụ nữ vất vả lam lũ
+ Hoàn cảnh bà Tú: mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”. Công việc và hoàn cảnh làm ăn vất vả, ngược xuôi, không vững vàng, ổn định, bà không những phải nuôi con mà phải nuôi chồng
+ Sự vất vả, lam lũ được thể hiện trong sự bươn chải khi làm việc:
“Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng
Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn ⇒ gợi tả nỗi đau thân phận và mang tính khái quát
“khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu
Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ
+ Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú. Thực cảnh mưu sinh của bà Tú: Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.
+ Năm nắng mười mưa: số từ phiếm chỉ số nhiều thể hiện sự vất vả lam lũ, cực nhọc của Bà Tú.
* Hình tượng bà Tú với những nét đẹp và phẩm chất đáng quý, đáng trọng
+ Tuy hoàn cảnh éo le vất vả, nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con
+ Phẩm chất tốt đẹp của Bà Tú còn được thể hiện trong sự chăm chỉ, tần tảo đảm đang
⇒ Đó cũng là vẻ đẹp chung cho nhiều phụ nữ trong xã hội phong kiến
* Nghệ thuật thể hiện thành công hình tượng bà Tú
+ Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm.
+ Vận dụng sáng tạo hình ảnh, ngôn ngữ của văn học dân gian.
+ Hình tượng nghệ thuật độc đáo.
+ Việt hóa thơ Đường
c) Kết bài:
+ Khẳng định lại những phẩm chất tốt đẹp của bà Tú
+ Tổng kết cảm nhận về hình ảnh bà Tú qua bài thơ.
Cảm nhận về bà Tú trong bài Thương vợ - mẫu 1
Từ lâu đề tài người phụ nữ đã trở thành cảm hứng quen thuộc trong bầu trời văn học Việt Nam. Từ người phụ nữ hiện thân cho cái đẹp như Thúy Kiều, Thúy Vân đến những người phụ nữ hiện thân của những số phận bi thương, bất hạnh như Hồ Xuân Hương cay đắng trong phận vợ lẽ, tiếp nối nguồn cảm hứng đó, Tú Xương đã cho ra đời "Thương vợ", bài thơ thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh, trào phúng nhưng sâu bên trong là tấm lòng yêu thương, trân trọng của tác giả đối với chính người vợ tần tảo, chịu thương chịu khó vì chồng, vì con. Qua đó tác phẩm cũng cho chúng ta thấy rõ nét hơn về chân dung người phụ nữ Việt Nam điển hình qua nhân vật bà Tú.
Trần Tế Xương sinh năm 1870, mất năm 1907, thường được biết đến với cái tên Tú Xương, ông sinh ra và lớn lên ở làng Vị Xuyên, Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Cuộc đời ông ngắn ngủi và trải qua nhiều vất vả, gian truân. Cả cuộc đời ông gắn liền với thi cử với tám lần thi trong khi đó đến lần thi thứ tư mới đỗ tú tài nhưng cũng chỉ là đỗ vớt (được lấy thêm) và sau đó ông cũng không trở thành cử nhân mặc dù ông đã rất chăm chỉ, kiên trì theo đuổi. Tú Xương có cá tính sắc sảo, phóng túng, thơ ông chủ yếu là thơ Nôm được viết dưới nhiều thể loại như thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, lục bát,... tuy nhiên ông sinh ra và lớn lên khi đất nước bước vào giai đoạn giao thời, xã hội có nhiều thay đổi, điều đó đã làm cho cuộc sống của ông khá vất vả, gian truân. Bài thơ Thương vợ được đánh giá là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương khi viết về người vợ của mình. Bài thơ được viết theo thể Nôm, với lối bố cục chặt chẽ bao gồm đề, thực, luận, kết. Bao trùm bài thơ là hình ảnh người vợ giàu đức hy sinh lo toan cho gia đình, bên cạnh đó xuất hiện thấp thoáng hình ảnh người chồng với dáng vẻ bất lực khi là người đàn ông mà lại trở thành gánh nặng cho gia đình, mà ở đây chính là Tú Xương.
Bà Tú tên thật là Phạm Thị Mẫn, bà xuất thân trong một gia đình có dòng dõi nho gia "con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ". Bà là người vợ thảo hiền, cam chịu, bà trở thành chỗ dựa tinh thần cho Tú Xương - một trí thức không gặp thời, long đong lận đận. Có lẽ vì là chỗ dựa tinh thần của ông nên phần lớn đề tài trong thơ ông là vợ của mình. Những bài thơ viết về vợ của ông thường mang nhiều màu sắc, luôn thay đổi có khi là những lời thủ thỉ tâm tình, có khi lại là những lời bông đùa hóm hỉnh, cũng có khi lại là những nỗi niềm chua chát, xót xa nhưng trên tất cả ông vẫn dành tình cảm yêu thương, trân trọng người vợ tảo tần của mình.
Người phụ nữ truyền thống xưa luôn được biết đến với vai trò trong việc thu vén, chăm lo sự nghiệp của người chồng. Bà Tú cũng không phải ngoại lệ, nhưng vào cái thời điểm giao thời, xã hội có nhiều biến đổi không còn cảnh "bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ" như ngày trước nữa. bà Tú cũng bị cuốn theo guồng quay của cuộc đời, bươn chải với đổi chác, bán buôn để mong cuộc sống đủ ăn, đủ mặc:
" Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng"
Ngay đầu bài thơ, hình ảnh một người phụ nữ tần tảo, vất vả với công việc buôn bán ở "mom sông" hiện lên. Không gian "mom sông" vừa có giá trị tả thực - đây là phần đất nhô ra ở sông vừa gợi ra không gian sinh tồn bấp bênh, hiểm nguy cận kề. "Quanh năm" không chỉ là độ dài thời lượng mà còn gợi ra cái vòng vô kỳ hạn của thời gian, công việc của bà Tú diễn ra hết ngày này qua ngày khác, không chút nghỉ ngơi.
Vào cái thời buổi khó khăn, kiếm được đồng tiền vốn chẳng hề dễ dàng, kiếm ăn nuôi bản thân còn khó huống chi người đàn bà này thì phải "Nuôi đủ năm con với một chồng". Biết bao hàm ý toát lên ở cụm từ "nuôi đủ", "đủ" ở đây không phải là đủ ăn đủ mặc, dẫu không giàu có, cao sang nhưng bà vẫn cố gắng mỗi ngày để chồng con có cuộc sống đủ đầy. Vế thơ "năm con với một chồng" được Tú Xương sử dụng số từ "năm" và "một" hiện lên hình ảnh mọi nỗi lo đang đè nặng lên đôi vai của người phụ nữ đáng thương. Người đàn ông thường được coi là trụ cột trong gia đình, tuy nhiên ông lại tự hạ thấp bản thân mình ngang hàng với các con khi cay đắng, tủi nhục nhận ra rằng mình cũng là đứa con trong gánh nặng của vợ.
Ca dao xưa khi nói về hình tượng người phụ nữ thường ví với hình ảnh con cò:
"Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non".
Nhà thơ cũng đã vận dụng chất liệu dân gian vào chính bài thơ của mình:
"Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông"
Sự cam chịu và đức hy sinh bằng cả tấm lòng nhân ái và yêu thương của vợ, Tú Xương đã ví bà với hình ảnh "thân cò. Tác giả vừa thể hiện thân phận khiêm nhường vừa làm nổi rõ kiếp phận lênh đênh, lận đận của vợ. Trong hai câu thơ này, tác giả sử dụng biện pháp đảo ngữ "lặn lội", "eo sèo", ngụ ý của tác giả là nhấn mạnh những vất vả, bon chen đời thường mà bà Tú phải đối mặt. Ngoài việc yêu thương chồng con, người phụ nữ ấy còn rất sắc sảo, nhanh nhẹn. Vì thế mà bà mới có thể vững vàng để buôn bán quanh năm, ngày nắng cũng như ngày mưa, chưa bao giờ nghỉ ngơi. Một mình người phụ nữ nhỏ bé ấy nuôi bảy miệng ăn, nếu như hình ảnh "đò đông" thể hiện sự bấp bênh trong cuộc đời mưu sinh vất vả thì "eo sèo" diễn tả sự ồn ào, nhốn nháo, phức tạp của công việc hằng ngày mà bà làm.
Mặc dù khổ cực, vất vả là thế những người phụ nữ ấy đã vững vàng và chịu đựng tất cả:
"Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa chẳng quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không".
Hóa thân vào nhân vật bà Tú, nhà thơ nói hộ nỗi niềm của vợ, cái duyên cái số là cái lênh đênh, kiếp sống tuy khổ cực, nhọc nhằn nhưng trong suốt bài thơ, không một lời kêu ca, than thở. Bà có một tấm lòng yêu thương quá lớn, bà hy sinh cả tuổi xuân chỉ vì chồng con.
Một mình bà vẫn sẵn sàng gánh vác mọi công việc nặng nhọc trong gia đình. Trong thời buổi bấy giờ, dù cũng có nhiều người phụ nữ cũng chịu những lam lũ vất vả nhưng có mấy ai được chồng thương, được cảm thông như bà? Nhưng đáng tiếc thay, ngoài sự cảm thông ông Tú lại chẳng thể làm gì được nữa. Vì thế mà ông mới tự nhận "có chồng hờ hững" cũng coi như là không có. Ông đã thể hiện nỗi dằn vặt, thái độ chân thành tự trách bản thân chưa làm tròn bổn phận, trách nhiệm của một người chồng.
Bà Tú là nhân vật đại dương cho nhiều người phụ nữ xưa khác của Việt Nam. giữa thời thế xô bồ, loạn lạc hình ảnh bà Tú hiện lên với những câu thơ chân thành và mộ mạc qua lời thơ Tế Xương như một lời động viên, khích lệ những người phụ nữ khác hãy vươn lên trong mọi hoàn cảnh.
Khép lại bài thơ "Thương vợ" chính là tiếng lòng chân thành vừa ca ngợi, vừa sẻ chia trước cuộc sống vất vả, khó khăn của bà Tú cũng là lời tự trách chính bản thân tác giả. Phải là người yêu vợ lắm thì ông mới viết được những chân thành như thế. Đọc bài thơ ta mới cảm thấy thêm yêu, thêm trân trọng, cảm thông với những người phụ nữ trong xã hội cũ.
Cảm nhận về bà Tú trong bài Thương vợ - mẫu 2
Trần Tế Xương là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông đã dùng ngòi bút sắc bén của mình để đả kích, trào lộng một cách chua cay, sâu sắc về xã hội nửa tây nửa ta, về nạn tham nhũng, thi cử. Nét đặc biệt nhất là ông còn viết những vần thơ trào lộng chính mình. Trong bài thơ “Thương vợ”, Tú Xương không chỉ thể hiện tình thương sâu nặng với vợ thông qua sự thấu hiểu nỗi vất vả, gian lao của bà Tú mà còn châm biếm chính mình vì làm thân nam nhi nhưng lại làm gánh nặng cho vợ con.
Đọc thơ Trần Tế Xương ta có thể dễ dàng bắt gặp những vần thơ trào lộng, châm biếm về chính bản thân nhà thơ. Bài thơ “Thương vợ” cũng là một tác phẩm như vậy. Đọc thơ, ta đồng cảm sâu sắc với tình thương mà Tú Xương dành cho vợ, cũng cảm nhận được cái “tôi” đầy ý thức, tình nghĩa của Trần Tế Xương. Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã vẽ ra không gian lao động đầy lam lũ, vất vả của bà Tú:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
“Quanh năm” gợi ra cái dằng dặc của thời gian sống cũng gợi ra cái đều đặn của hành động, mang theo được cả những nỗi gian truân, vất vả mà bà Tú phải gánh vác “buôn bán ở mom sông”. “Buôn bán ở mom sông” gợi ra cái không gian nhỏ hẹp nhưng đầy bát nháo, xô bồ của những người buôn, kẻ bán. Trong cái không gian xô bồ, chật hẹp ấy, hình ảnh bà Tú hiện lên thật khiến cho người đọc phải xót xa. Trong quan niệm của người Phương Đông, người phụ nữ ở trong nhà là “an”, ra ngoài là bất an, người phụ nữ được sống trong sự chở che, yêu thương của người chồng là an, phải sống trong sự xô bồ của cuộc sống “con buôn” là vô cùng gian nan, khổ cực.
Bà Tú quanh năm vất vả với công việc buôn bán bởi trách nhiệm cơm áo gạo tiền để duy trì cuộc sống hàng ngày, cũng là bởi trên vai gánh nặng trách nhiệm chồng con: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Ở đây, Tế Xương đã gộp mình vào những đứa con, là một trong những gánh nặng mà bà Tú phải gánh vác, nhà thơ tự trách mình vì sống là thân nam nhi, không những không làm chỗ dựa được cho vợ mà còn chất chồng thêm những gian khổ nên người phụ nữ ấy.
Hình ảnh bà Tú tiếp tục được Tế Xương khắc họa bằng những gian khổ, bằng tình thương sâu sắc dành cho vợ nhưng đồng thời cũng thể hiện sự bất lực của bản thân khi không thể làm gì hơn để giúp vợ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
“Lặn lội”, “eo sèo” thể hiện được cuộc sống nổi trôi, những thăng trầm trong công việc bán buôn. Hình ảnh con cò thường là hình ảnh biểu tượng cho những người phụ nữ. Ở đây, nhà thơ dùng từ “thân cò” để nói về hình dáng mỏng manh, đầy khổ cực của bà Tú trong công việc, vừa thể hiện được sự xót xa, đau đớn khi chứng kiến sự cực nhọc của người vợ, nhất là khi công việc buôn bán không thuận lợi, nhiều khó khăn “quãng vắng”, “buổi đò đông”.
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Nếu những câu thơ trên, Trần Tế Xương nói về công việc buôn bán đầy cực nhọc cũng như nỗi gian truân, vất vả của bà Tú thì đến câu thơ này, nhà văn nhấn mạnh đến những phẩm chất tốt đẹp của vợ mình. Đó chính là sự hi sinh vô điều kiện vì chồng con. Vất vả là thế, cực nhọc là thế nhưng bà Tú vẫn không hề “quản công”, không một lời than trách mà coi nó là trách nhiệm của mình “âu đành phận” vì con, vì chồng “một duyên, hai nợ”. Nhấn mạnh đến sự hi sinh, tấm lòng vĩ đại của bà Tú, Tế Xương đã sử dụng đến hình ảnh “năm nắng mười mưa” để làm nổi bật lên vẻ đẹp đức hạnh ấy.
Càng thương vợ bao nhiêu thì Tế Xương càng tự trách mình bấy nhiêu, vì làm chồng mà không giúp được gì cho vợ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Tế Xương đã dùng những ngôn ngữ thông tục để nói về sự bạc bẽo của cuộc đời, về sự trớ trêu của hoàn cảnh “cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. Cất tiếng “chửi” đời cũng là điểm nhấn để Tế Xương tự giễu chính bản thân mình “Có chồng hờ hững cũng như không”. Hận thói bạc bẽo của cuộc đời bao nhiêu thì ông hận chính mình bấy nhiêu. Câu thơ thể hiện sự thương vợ song cũng tự ý thức về trách nhiệm của chính mình, Tế Xương cho rằng ông đã không hoàn thành được trách nhiệm, bổn phận của một người chồng, không những vậy còn làm tăng thêm gánh nặng cho vợ. Ông trào lộng mình như cách nói tiếng thương cảm chân thành với người vợ của mình “có chồng cũng như không”.
Như vậy, qua bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương, hình ảnh bà Tú hiện lên với bao vẻ cực nhọc, đáng thương song cũng mang đầy vẻ đẹp của phẩm chất, đạo đức. Không thể không nhắc tới ở đây chính là hình ảnh tự họa của chính nhà thơ, tuy Tế Xương trách mình, hận mình song độc giả cũng cảm nhận được tấm lòng thương vợ sâu sắc, ở sự nghiêm khắc với bản thân. Đây là điều mà không phải ai cũng làm được. Nên vậy, hình ảnh Tú Xương hiện lên vẫn rất đáng trân trọng.
Cảm nhận về bà Tú trong bài Thương vợ - mẫu 3
Nói đến tài làm thơ của Tú Xương, nhiều người đã đặc biệt chú ý đến sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó trữ tình là gốc. Đề tài người vợ trong thơ của Tú Xương cũng rất được quan tâm và đón nhận. Cuộc đời ông chỉ sống được có 37 năm, nhưng học hành thi cử đến 8 lần mới đỗ Tú Tài. Mọi việc ở nhà đều là một tay của bà Tú gánh vác. Chính vì vậy, Tú Xương rất trân trọng vợ mình, ông viết về vợ như một sự tri ân. Bài thơ Thương vợ khắc họa hình tượng bà Tú tảo tần, cơ cực hết sức cảm động.
Mở đầu bài thơ, Tú Xương khắc họa đậm nét cái gánh nặng gia đình đè trên đôi vai bé nhỏ của bà Tú:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Hai câu thơ giới thiệu bà Tú là một người đàn bà giỏi buôn bán, tần tảo “quanh năm”, buôn bán kiếm sống ở “mom sông”. Cảnh sớm đầu chợ, chiều bến đò, buôn thúng bán mẹt. Chẳng có cửa hàng cửa hiệu. Vốn liếng chẳng có là bao. Thế mà vẫn “Nuôi đủ năm con với một chồng?”. Nuôi đủ nghĩa là không thiếu cũng chẳng thừa. Câu thơ nói lên sự nỗ lực ghê gớm của bà Tú để có thể gánh vác cái gánh nặng gia đình ấy.
Chồng đậu tú tài, chẳng là quan cũng chẳng là cùng đinh nên phải “ăn lương vợ”. Một gia cảnh “Vợ quen dạ để cách năm đôi”. Các số từ: “năm” (con), “một” (chồng) quả là đông đúc. Bà Tú vẫn cứ “nuôi đủ”. Nghĩa là ông Tú vẫn cứ yên tâm mà đèn sách. Trong khi đó, bà Tú vẫn ngày đêm âm thầm làm tròn bổn phận:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Mượn hình ảnh “con cò” trong ca dao, tạo thành “thân cò” . Hình ảnh thơ nói lên thân phận lam lũ vất vả, “lặn lội”. Cò thì kiếm ăn nơi đầu ghềnh, cuối bãi. Còn bà Tú thì lặn lội… “khi quãng vắng”, nơi “buổi đò đông”. Cảnh lên đò xuống bến, cảnh cãi vã, giành giật bán mua “eo sèo mặt nước buổi đò đông” để kiếm bát cơm manh áo cho chồng, con. Hình ảnh “thân cò” rất sáng tạo. Vần thơ trở nên dân dã, bình dị hết sức gần gũi. Hai cặp từ láy: “lặn lội” và “eo sèo” hô ứng, gợi tả một cuộc đời nhiều mồ hôi và nước mắt.
Cuộc đời nghèo khó, thi cử lận đận bao năm khiến ông Tú càng thêm thấu nỗi đắng cay cuộc đời, càng thêm yêu mến người bạn trăm năm, một lòng vì chồng con mà cam chịu. Bởi thế, nỗi niềm cảm thương của tác giả dành cho người vợ thủy chung, cam phận và giàu đức hi sinh chứa đựng biết bao xót xa, ray rứt:
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Tác giả vận dụng rất hay thành ngữ: “một duyên hai nợ” và “năm nắng mười mưa”. Ba tiếng đối ứng thượng, hạ: “âu đành phận”, “dám quản công” như một tiếng thở dài. Có đức hy sinh. Có sự cam chịu số phận. Có cả tấm lòng chịu đựng, lo toan vì nghĩa vụ người vợ, người mẹ trong gia đình. Tú Xương có tài dùng số từ tăng cấp (1-2-5-10) để nói lên đức hi sinh thầm lặng cao quý của bà Tú.
Nghĩ về vợ rồi ông lại nghĩa đến mình, nghĩ đến bổn phận làm chồng, làm cha của mình. Ông tự trách cuộc đời, trách bản thân mình vô dụng, bất tài, hết một cuộc đời mà chưa thể lo đủ cho vợ, cho con:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!
Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình. Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời…” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún mình để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì nhà thơ đã thành thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính.
Bà Tú là hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, gánh vác, đảm đang, nhẫn nại,… tất cả lo toan cho hạnh phúc chồng con. Bằng tình cảm chân thành, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tần tảo nuôi chồng nuôi con. Bà Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.
Cảm nhận về bà Tú trong bài Thương vợ - mẫu 4
Tác giả Trần Tế Xương còn được gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định. Bản thân ông mặc dù đã rất cố gắng nhưng không thành công trên con đường hoa cử lại chỉ đạt đến bậc Tú tài. Về sự nghiệp sáng tác, ông có một gia tài “Thơ” gồm trên 100 bài thơ, chủ yếu là thơ Nôm gồm hai mảng trào phúng và trữ tình. Trong đó tác phẩm “Thương vợ” của ông thuộc đề tài nói về người vợ. Đây là một đề tài hiếm gặp trong thời kì văn học trung đại và đó cũng là điều minh chứng cho tình yêu thương vô hạn và sự biết ơn của Tú Xương với người vợ của mình.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, đảo, đối, được chia làm bốn phần: đề – thực – luận – kết. Hình ảnh của bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” dưới cái nhìn của ông Tú ở câu mở đầu bài thơ thể hiện rất rõ cái chông chênh, nguy hiểm trong nghề buôn bán của bà:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Mặc dù công việc của bà Tú là buôn bán nhưng việc buôn bán đó lại không diễn ra ở một khu chợ bình thường mà lại là ở mom sông, là một nơi nguy hiểm, không vững chãi. Thời gian mà bà Tú phải làm việc này không có định lượng mà là quanh năm, ta thấy công việc của bà phải làm là một công việc liên tục lặp đi lặp lại, khép kín không có thời gian để bà nghỉ ngơi, không kể khó khăn của thời tiết cái giá rét của mùa đông hay cái nóng bức của mùa hè. Khi nghe đến câu thứ hai, người đọc phần nào cảm nhận được phong cách viết thơ hóm hỉnh của Tú Xương. Dùng lời thơ của mình, ông không chỉ kể ra rằng bà Tú đã phải nuôi “năm con” mà còn gánh thêm cả người chồng đủ ăn, đủ mặc, đủ tiêu xài cho những thói chơi tao nhã của nhà nho như Tế Xương. Ông tự cho mình là một “gánh” và "năm con" là một “gánh” hai gánh đó đè nặng trên vai bà Tú và rồi còn tự tách hạ một mình mình đứng cuối câu, có vẻ như ông đang cho mọi người biết ông như một kẻ ăn bám lấy vợ và cũng cần đến sự chăm lo của vợ giống như các con mình.
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Ở đây ta có thể thấy rõ tác giả đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ trong hình ảnh “thân cò”, một hình ảnh hay được dùng để ví von về số phận người phụ nữ Việt trong thời kì phong kiến, họ có một số phận vô cùng cực khổ. Trong câu thơ thứ ba tác giả đã đặt từ “lặn lội” đứng trước chủ thể “thân cò” kết hợp với cụm từ “quãng vắng”, có một sự đối lập ở hai câu ba và câu bốn giữa “lặn lội” và “eo sèo”; “khi quãng vắng” – “buổi đò đông” cho thấy nỗi vất vả một thân, một mình của bà Tú. Một mình bà vừa phải gánh vác công việc để kiếm tiền đảm bảo cuộc sống vừa đủ cho chồng, cho các con lại vừa phải lo toan việc gia đình. Bốn câu thơ nói lên cuộc sống bấp bênh, vất vả của bà Tú nhưng dù vậy bà vẫn chăm lo chu đáo cho gia đình. Nhà thơ đã thể hiện không chỉ sự kính nể mà còn có phần thán phục đối với hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ”, một hình ảnh người phụ nữ tảo tần, nhỏ bé. Từ đó ông tiếp tục cực tả nỗi vất vả, đơn chiếc nhưng đồng thời cũng kín đáo tự nhận mình là vô tích sự, không hoàn thành trọng trách làm chồng, làm cha mà còn làm khổ vợ con.
“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Ở hai câu năm và sáu đều sử dụng các thành ngữ dân gian như “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” là những câu chữ nói nên số phận cực khổ của một con người. Thành ngữ ở câu năm muốn nói đến “duyên” chỉ có một mà nợ đến những hai, gánh nặng thì quá nhiều mà hạnh phúc và sự may mắn thì lại ít ỏi. Câu sáu với cách kết hợp từ ẩn dụ cho nỗi vất vả, nhọc nhằn cùng với nghệ thuật đối “năm nắng mười mưa” với “dám quản công” ẩn chứa một sự hi sinh trầm lặng của bà Tú. Sử dụng thành ngữ nhấn mạnh bà Tú không chỉ vất vả, đảm đang, nhẫn nại mà còn hi sinh một cách âm thầm, lặng lẽ. Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” đã khắc họa thành công chân dung bà Tú là điển hình cho người phụ nữ Việt Nam, tảo tần, chịu thương, hi sinh, chịu đựng. Tấm lòng thương vợ của Tú Xương đến đây không chỉ còn là thương xót, mà còn cả một sự thương cảm thấm thía. Ở những câu thơ cuối là hình ảnh của chính nhà thơ qua lời trần thuật về bà Tú.
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
Hai câu cuối Tế Xương đã tự “chửi” thói đời sinh ra loại người như ông. Ông muốn ám chỉ cả những người giống ông trong xã hội thời bấy giờ. Dù là người chồng nhưng lại chẳng gánh vác được gia đình mà ngược lại còn làm gánh nặng thêm cho vợ con.
Mặc dù rất yêu thương vợ nhưng lại không thể đỡ đần, lo toan giúp vợ dù chỉ một phần nhỏ công việc, vì cái phép tắc lễ giáo đối với những nhà nho thời phong kiến, khiến bà Tú phải chịu nhiều vất vả, gian truân trong cuộc đời. Một niềm hạnh phúc duy nhất khi bà còn sống là đã được đi vào thơ ca của ông Tú với tất cả niềm yêu thương, trân trọng của một người chồng. Đây là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương, thể hiện được vẻ đẹp của bà Tú. Hình ảnh bà Tú trong tác phẩm “Thương vợ” đã lột tả rõ một người phụ nữ đảm đang, vị tha và quan trọng hơn là sự thể hiện tấm lòng thương vợ, biết ơn vợ cũng như lời tự trách mình của Tú Xương.
Cảm nhận về bà Tú trong bài Thương vợ - mẫu 5
Nói đến nhà thơ Tú Xương không thể không nhắc đến tác phẩm “Thương vợ”. Trong sự nghiệp làm thơ phong phú và đa dạng của Tú Xương, “Thương vợ” được đánh giá là một trong những bài thơ hay và đặc sắc. Tác phẩm thể hiện một cách xúc động, cảm động thái độ trân trọng, biết ơn của Tú Xương đối với sự hi sinh, tận tụy của vợ để ông được học hành đỗ đạt. Quan trọng hơn, qua hình tượng bà Tú trong “Thương Vợ”, người đọc có thể thấy được chân dung người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu.
Bà Tú tên thật là Phạm Thị Mẫn, xuất thân trong một gia đình Nho học. Bà là người phụ nữ nhẫn nhịn, thuận thảo làm vợ đảm, sớm tần tảo nuôi chồng nuôi con, là chỗ dựa tinh thần trong cuộc đời của Tú Xương, một trí thức long đong, lận đận trên con đường sự nghiệp.
Có lẽ vì thế mà hình ảnh người phụ nữ trở thành đề tài quen thuộc trong thơ Tú Xương. Những bài thơ viết về phụ nữ của ông thường mang nhiều sắc thái: có khi là tâm sự thầm kín, có khi chỉ là những câu bông đùa hóm hỉnh, có khi là những nỗi niềm chua xót, cảm thương. Tất cả các tác phẩm của ông đều được bao phủ bởi sự tôn trọng, cảm thông, lòng biết ơn chân thành của người đàn ông dành cho người phụ nữ.
Khi chúng ta nói về phụ nữ, theo truyền thống, chúng ta đề cập đến hoàn cảnh gia đình trong đó vai trò của người phụ nữ là chăm sóc sự nghiệp và địa vị của người đàn ông. Bà Tú cũng không ngoại lệ, nhưng trong thời buổi rối ren, loạn lạc giữa Tây và Tàu, không còn cảnh thơ mộng “bên anh đọc sách, bên nàng quay tơ”, bà Tú cũng đã phải cuốn theo guồng quay cuộc đời, cũng phải chạy với sự đấu tranh trao đổi, mua bán để đảm bảo mức sống tối thiểu cho gia đình:
“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”
Hình ảnh bà Tú trong “Thương vợ” không xuất hiện trong hình thức bề ngoài mà xuất hiện từ không gian và thời gian của công việc. “Quanh năm” không chỉ là thời gian dài mà còn gợi cho ta một vòng lặp thời gian vô tận, cho thấy cuộc sống khó khăn này không có điểm dừng. Không gian “mom sông” vừa mang giá trị hiện thực vừa lột tả về mảnh đất nhô ra khỏi lòng sông gợi cảm giác bấp bênh, chông chênh.
Bà Tú hàng ngày phải bươn chải với cuộc sống, bởi gánh nặng của cả gia đình đè lên vai: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Vì vậy, nhiều hàm ý hiện diện trong thành ngữ “nuôi đủ”, nó ám chỉ sự chăm sóc tận tình cho cơm ăn áo mặc, đồng thời hàm ý chịu đựng. Cách nói của nhà thơ đầy thi vị “năm con với một chồng”. Nhà thơ tủi nhục không kém khi tự hạ mình ngang hàng với các con một cách cay đắng, hổ thẹn và cay đắng nhận ra mình cũng là gánh nặng của vợ.
Tục ngữ, khi nói đến hình ảnh người phụ nữ, người ta thường nghĩ đến hình ảnh con cò:
“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
Tú Xương đã vận dụng một cách đầy sáng tạo trong câu thơ:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”
Từ đó, nhà thơ vận dụng văn chương dân gian và cho ra đời những sáng tạo độc đáo. Bằng cách dùng từ “thân cò” tác giả đã cho thấy thân phận ngược xuôi của người vợ và cắt nghĩa số phận éo le của bà Tú. Nói về cấu trúc cú pháp của đoạn thơ, tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ để nhấn mạnh và khuếch đại sự lặng lẽ, khó khăn trong công việc của bà Tú. Trong khi hình ảnh “đò đông” gợi tả tính chất bấp bênh của nghề mưu sinh thì từ “eo sèo” lại gợi tả sinh động sự ồn ào, tất bật, phức tạp và nhọc nhằn của công việc hàng ngày.
Không chỉ cần cù, chăm chỉ, yêu thương mà chân dung bà Tú trong bài “Thương vợ” của Tú Xương còn thể hiện một con người vị tha, coi sự hy sinh là hạnh phúc và là lẽ sống trong cuộc đời mình.
Nhà thơ hóa thân vào người phụ nữ đã nói lên tình cảm của vợ, đó là thái độ chín chắn trước số phận, bao dung trước hoàn cảnh gia đình. Đọc bài thơ, người đọc có thể mường tượng về hình ảnh một người phụ nữ ngồi lặng lẽ, không ưu tư, không trách móc, không tủi thân và cay đắng. Việc sử dụng các phép diễn đạt “một duyên hai nợ”, “năm nắng mười mưa” làm cho lời thơ của bài thơ cô đọng. Sự cam chịu và hy sinh của bà Tú được đề cao và nhấn mạnh.
Tiếng nói nặng lòng của nhà thơ ý thức được những khó khăn, vất vả của vợ mà không thể chia sẻ, giúp đỡ một phần nào được thể hiện qua hai câu cuối bài thơ:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”
“Thói đời” mà nhà thơ đã nói ở đó, nó là hậu quả của sự giao thời khiến những người chồng vô tâm, mà những người phụ nữ như bà Tú phải gồng gánh gia đình. Đoạn thơ thể hiện sự lo lắng, thái độ chân thành và tự trách của nhà thơ, đồng thời thể hiện tâm trạng bất lực trong bi kịch tinh thần của một trí thức: không cần thiết trong xã hội và ngay cả trong gia đình.
“Thương vợ” được Tú Xương thể hiện rõ nét, sinh động về hình ảnh người phụ nữ với những nét tính cách đặc trưng của người phụ nữ Việt Nam: dũng cảm, bao dung, yêu thương, chăm chỉ, đầy đức hi sinh và lòng vị tha. Đằng sau bài thơ là tiếng nói tri ân, cảm thông, đồng thời là nỗi đau khôn nguôi của nhà thơ đối với người vợ hiền của mình.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Cảm nhận về bài thơ Bài học đầu cho con
- Cảm nhận về bài thơ Bầm ơi
- Cảm nhận về bài thơ Dáng đứng Việt Nam
- Cảm nhận về bài thơ Hạt gạo làng ta
- Cảm nhận về bài thơ Nắng mới
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều