Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12 (10 mẫu hay nhất)

Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12 hay nhất, ngắn gọn chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh lớp 12 trên cả nước.

Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - mẫu 1

Em chào cô và các bạn! Em xin phép trình bày bài viết của mình về vấn đề so sánh nét đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Việt Bắc Tố Hữu và Bài thơ của một người yêu nước mình của Trần Vàng Sao.

Nhà thơ Tố Hữu được mệnh danh là lá cờ đầu cho phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam. Những vần thơ của ông luôn mang nặng tình yêu Tổ quốc. Ta bắt gặp tình yêu ấy trong Bài thơ của một người yêu nước mình của Trần Vàng Sao. Hai bài thơ tuy chung đề tài và một nguồn cảm hứng nhưng vẫn ánh lên những nét riêng độc đáo.

Hai bài thơ đều thể hiện tình cảm keo sơn gắn bó giữa con người, là tình cảm thiết tha, mặn nồng với quê hương, đất nước. Đặc biệt ở Trần Vàng Sao, ông đã mang đến một thứ keo sơn kỳ lạ để kết nối những bình diện tưởng chừng đối lập hòa quyện vào nhau, làm cho tình yêu nước không còn xa vời, cao siêu mà trở nên gần gũi.

Bên cạnh tình yêu đất nước nồng nàn, sâu lắng, ta bắt gặp hình tượng người mẹ Việt Nam tỏa sáng trong những vần thơ êm dịu. Trong “Việt Bắc” đó là hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng”,vất vả gian khổ để chắt chiu từng hạt bắp. Còn trong “Bài thơ của một người yêu nước mình” là hình ảnh điển hình cho bao người mẹ Việt tảo tần “áo rách” và thương con vô bờ bến, thầm lặng hy sinh. Đều viết về người mẹ nhưng trong “Việt Bắc” là tình thân mến của các chiến sĩ cách mạng dành cho người mẹ Việt Nam, còn trong “Bài thơ của một người yêu nước mình”, ấy là tình mẫu tử thiêng liêng, niềm thương xót của một đứa con giành cho mẹ của mình. Dù có khác nhau là vậy nhưng cả hai tác phẩm đã xây dựng lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam chịu thương, chịu khó, tần tảo, cống hiến cho Tổ Quốc.

Nét riêng và độc đáo của hai bài thơ thể hiện ở chính âm hưởng của nó. Nếu trong “Việt Bắc” bài thơ là một khúc ca đẹp trong bản tình ca Việt Bắc, thì  “Bài thơ của một người yêu nước mình” lại mang một âm hưởng ngược lại, đó là nỗi niềm thương nhớ về dòng kí ức đã qua của một tuổi thơ mang nhiều nỗi suy tư sâu lắng. Bên cạnh đó, xét về mặt thể loại,“Việt bắc” là thể lục bát truyền thống với cách gieo vần đặc trưng đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt ngào, êm ái, mang tính dân tộc đậm đà. Với Trần Vàng Sao, ông đưa đến thể loại thơ tự do với việc sử dụng những dòng thơ liền mạch, không có dấu câu, như để thể hiện mạch nguồn cảm xúc trào dâng khi viết về đất nước.

Sự khác biệt giữa hai đoạn thơ có lẽ đến từ chính bối cảnh sáng tác nên nó. Đối với “Việt bắc” được sáng tác khi miền Bắc nước ta được giải phóng, điều đó đã tạo nên âm hưởng vui tươi, lạc quan cho bài thơ. Ngược lại, “Bài thơ của một người yêu nước mình” được sáng tác vào năm 1967, khi đất nước ta vẫn chưa được thống nhất, nhân dân miền Nam đang lầm than, vì vậy trong những vần thơ ta cảm nhận được âm hưởng đau thương, một nỗi buồn man mác.

Qua hai bài thơ đã mang đến dòng cảm xúc sâu lắng về tình yêu thương, hơi ấm con người và lòng yêu nước nồng nàn trong tác giả. Đó là những tình cảm rất đỗi chân thành, là tình cảm gắn bó sâu sắc, chân tình giữa tâm hồn người con Việt với quê hương, đất nước.

Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ lớp 12 (10 mẫu hay nhất)

Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - mẫu 2

Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày bài so sánh hai tác phẩm thơ “Tương tư” của Nguyễn Bính và “Việt Bắc” của Tố Hữu ạ.

Tình yêu là đề tài muôn thuở của văn chương. Tình yêu là một loại tình cảm đặc biệt trong tâm hồn mỗi người. Sự sống của tình yêu là nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái và nhiều cung bậc. Những sắc thái và cung bậc ấy được thể hiện rất đẹp qua hai trích đoạn trong Tương tư của Nguyễn Bính và Việt Bắc của Tố Hữu. Nguyễn Bính thì bày tỏ nỗi nhớ nhung trong tình yêu đôi lứa, Tố Hữu thì bày tỏ nỗi niềm da diết khôn nguôi với quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình.

Cũng như các nhà thơ lãng mạn cùng thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu, nhưng tình yêu trong thơ Nguyễn Bính có một lối nói riêng. “Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính không nổi lên mà tan hòa vào không gian đồng quê bằng biện pháp ẩn dụ nhân hoá như trong ca dao:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người

Gió mưa là bệnh của giời,

Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”

Tâm trạng tương tư của chàng trai quê được bộc lộ trong bài thơ “Tương tư" thành những nhớ mong da diết, trĩu nặng. Nỗi niềm ấy được xem như một quy luật tự nhiên không thể cưỡng lại, một thứ “tâm bệnh” khó chữa của người đang yêu. Niềm mong nhớ gắn liền với khung cảnh làng quê khiến cho cả không gian như cũng nhuốm đầy nỗi tương tư.

Từ nỗi nhớ người yêu luôn thường trực, cháy bỏng trong lòng, cái tôi trữ tình suy ngẫm, liên tưởng, nhận diện nỗi nhớ. Người ta thường nói nỗi nhớ là sự sống của tình yêu, còn Nguyễn Bính thì quy kết thành bệnh. Cái bệnh kinh niên sinh ra từ tâm lí của con người, không ai nói mình yêu mà không nhớ, nhớ mà không yêu. Yêu là nhớ, đó là quy luật. Quy luật của lòng người cũng như quy luật của tự nhiên: “Gió mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Trời đất không thể không có gió mưa, sống không thể “không nhớ, không thương một kẻ nào”. Một sự thừa nhận thành thật, ý vị khẳng định tính tất yếu của thiên nhiên cũng như của tình yêu – lòng người.

Về nghệ thuật, nhà thơ sử dụng các hình ảnh sóng đôi: Đông - Đoài, gió - mưa, tôi - nàng… tô đậm khát vọng lứa đôi. Thể thơ lục bát cùng với các hình thức diễn đạt, cách dùng địa danh quen thuộc của ca dao dân ca khiến đoạn thơ có vẻ đẹp dung dị, duyên dáng dễ đi vào lòng người. Chất chân quê của hồn thơ Nguyễn Bính được biểu hiện rất tài tình, khiến đọc lên người ta cứ ngỡ ca dao chứ không phải thơ hiện đại, và mỗi người đều mượn nó để nói hộ lòng mình. Đó chẳng phải là những câu thơ bất hủ đó sao!

Thể thơ lục bát thấm đượm phong vị ca dao. Chất liệu ngôn từ trong bài “Tương tư" rất chân quê với những địa danh, thành ngữ gần gũi, cách tổ chức lời thơ độc đáo, sử dụng nhuần nhuyễn nhiều biện pháp tu từ: hoán dụ, nhân hoá, đối sánh, tăng tiến, khoa trương.

Như trên đã nói, tình yêu trong mỗi con người là một xúc cảm tuyệt vời, nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái, nhiều cung bậc. Nếu Nguyễn Bính giãi bày nỗi nhớ trong tình yêu đôi lứa thì Tố Hữu trong đoạn thơ này lại diễn tả niềm da diết khôn nguôi với Việt Bắc - quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đỉnh núi nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”

Suốt mười lăm năm “Từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh” cho đến lúc cuộc kháng Pháp vĩ đại thắng lợi, cán bộ, chiến sĩ cách mạng đã gắn bó cùng đồng bào Việt Bắc đánh giặc “Bát cơm chấm muối, mối thù nặng vai… Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng’’, nay chiến thắng trở về xuôi làm sao có thể quên những kỉ niệm sâu nặng như thế!

Tố Hữu đã diễn tả nỗi niềm thương nhớ day dứt, khôn nguôi của người đi kẻ ở cũng thường trực, da diết như trong nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa vậy. Nhưng nỗi nhớ không dành riêng cho một đối tượng mà nỗi nhớ dành cho tất cả đồng bào và thiên nhiên Việt Bắc. Nỗi nhớ giăng mắc khắp không gian, lung linh bao kỉ niệm: Nhớ những đêm trăng treo trên đầu núi, những buổi chiều nắng toả vàng rộng khắp trên nương, những bản làng ảo mờ trong sương khói, đặc biệt là bóng dáng của “người thương đi về”quây quần bên bếp lửa mỗi đêm đông, cảnh – người quyện hoà thanh bình, yên ả, ấm áp.

“Việt Bắc" của Tố Hữu đã thể hiện nỗi nhớ đằm thắm, sâu nặng của người cán bộ kháng chiến dành cho Việt Bắc, trong đó chan hòa tình nghĩa riêng chung. Hiện lên trong nỗi nhớ ấy là hình ảnh chiến khu Việt Bắc thân thương, với cảnh vật bình dị mà thơ mộng, với nhịp sống đơn sơ mà êm đềm, đầm ấm. Thể thơ lục bát kết hợp nhuần nhuyễn chất cổ điển và chất dân gian, nhịp điệu linh hoạt uyển chuyển, âm hưởng tha thiết, ngọt ngào. Hình ảnh thơ giản dị mà gợi cảm, cách ví von quen thuộc mà vẫn độc đáo, cách tổ chức lời thơ với phép tiểu đối, phép điệp cân xứng, khéo léo đã khiến cho độc giả vô cùng ấn tượng bởi những giá trị mà bài thơ mang lại.

Tuy ra đời ở hai thời điểm khác nhau nhưng hai bài thơ đều đều thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng, sử dụng thể thơ lục bát điêu luyện. 

Song, bên cạnh đó, dù viết cùng về một đề tài nhưng giữa hai bài thơ vẫn có những điểm khác biệt. Bài thơ “Tương tư” là nỗi nhớ của tình yêu lứa đôi, gắn với không gian làng quê Bắc Bộ, vừa bày tỏ vừa “lí sự” về tương tư, với cách đối sánh táo bạo còn nỗi nhớ được thể hiện trong bài “Việt Bắc” là nỗi nhớ của tình cảm cách mạng, gắn với không gian núi rừng Việt Bắc, nghiêng hẳn về bộc bạch tâm tình, với cách ví von duyên dáng. 

Thơ là tiếng tơ lòng, mỗi khi rung động trước thiên nhiên, đất nước, con người, tiếng tơ ấy lại cất lên tiếng hát của tâm hồn làm xúc động biết bao người đọc. Cảm ơn các nhà thơ đã cho ta biết yêu, biết rung động trước cái đẹp của cuộc đời qua những trang thơ.

Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn thầy cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.

Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - mẫu 3

Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày bài so sánh hai tác phẩm thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm và “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi ạ.

Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im…(Tạ Hữu Yên). Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng ta xốn xanh da diết ! Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm ! Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Nhưng rất buồn là tôi không thể viết thành thơ. Trong những vần thơ “ Đất nước” mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, có tác phẩm của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm.

Hai nhà thơ đã truyền cho tôi cảm xúc mạnh mẽ. Những vần thơ giúp tôi nhìn ra chân dung của đất nước. Bình dị và trong sách, hồn hậu và nhân ái, nghèo khổ nhưng oai hùng. Có lẽ chính những điều ấy đã khơi gợi cảm hứng cho các bài thơ, đã gieo vào lòng từng nhà thơ bao suy tư và trăn trở. Từ cảm xúc của những ngày sống hết mình với chiến đấu, từ vốn tri thức khá phong phú của mình, qua chương “Đất nước” Nguyễn Khoa Điềm đã cắt nghĩa sâu xa cho tuổi trẻ thành thị miền Nam lúc này. Những hiểu biết về lịch sử dân tộc như sống dậy, lay động tâm hồn tác giả. Mỗi câu chuyện cổ tích, những thời khắc lịch sử của những cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước ngày càng thiêng liêng, tha thiết hơn bao giờ ….

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”…mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ă

Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre và đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó.

Trong hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm man mác âm hưởng sử thi. Yếu tố cổ điển và hiện đại hòa quyện vào nhau tạo thành một cấu trúc hai cực. Đất nước mình chân thật như cuộc sống. Những câu thơ dài tuôn chảy êm dịu như dòng sông. Một dòng cảm xúc dào dạt âm thầm nhưng mãnh liệt. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại : “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Dường như nhà thơ đã huy động vào đây nhiều vốn liếng, trí tuệ, sự từng trải, gửi gắm vào đây bao kỉ niệm suy tư. Nguyễn Khoa Điềm đã cùng ta hành hương về với cội nguồn dân tộc và rồi tham gia vào cuộc chiến đấu chung là con đường đúng đắn duy nhất đối với người thanh niên yêu nước. Nhà thơ mạnh dạn để cái “tôi” của mình xuất hiện. Có thể nói rằng , muốn viết những vần thơ tuyệt vời về Đất nước không chỉ đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một vầng trăng, một tia nắng, một điệu dân ca hay một tiếng thơ cổ điển. Đây là cả một quá trình suy ngẫm, và “nhìn lại” đất nước. Từng lời thơ đầm ấm giàu ý thức của tuổi trẻ đã nhận ra vai trò của mình trước thời đại và nhận thức được đất nước này là của nhân dân. Chúng ta phải chiến đấu để bảo vệ đất nước tươi đẹp. Nhà thơ cảm nhận phát hiện ra đất nước từ cái nhìn tổng hợp , nhiều mặt và dường như đã toàn vẹn. Với Nguyễn Đình Thi cảm hứng về đất nước bắt nguồn từ những chất liệu hình ảnh cụ thể, sinh động của cuộc kháng chiến chín năm cứu nước thần thánh của chúng ta. Bài thơ mang tính khái quát về cảm hứng lịch sử và truyền thống của dân tộc. Có phải chăng, cái cảm hứng ấy của hai nhà thơ này đều bắt nguồn từ lòng yêu nước sâu sắc? Do hoàn cảnh và thời điểm lịch sử mà mỗi nhà thơ lại có cảm nhận khác nhau. Cảm hứng về đất nước đến với Nguyễn Đình Thi trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra dữ dội và tàn khốc. Người thanh niên Hà Nội ấy, cũng đã bước vào cuộc kháng chiến nhưng tâm hồn anh thanh niên vẫn đủ sức cảm nhận:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa.

Chính “mùa thu Hà Nội” ngày hôm nay đã gợi cảm hứng cho tác giả. Nhìn mùa thu này nhà thơ lại nhớ đến mùa thu xưa. Dường như lời hát “Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến. Rên khắp trời, lời hoan hô quân, dân ta tiến ra trận tiền” còn vang vọng bên tai. Hôm nay đứng giữa đất trời chiến khu trong buổi sáng mùa thu mát lành nhà thơ suy tư về đất nước. Cái cảm giác đầu tiên mà Nguyễn Đình Thi bắt gặp là cái rất riêng, rất đặc trưng về, rất Hà Nội : mùi hương cốm mát. Phải là một chàng trai Hà Nội chính gốc mới có được cái cảm nhận ấy. Phải gắn bó máu thịt với thủ đô mới chan hòa tình thương nơi này đến thế ! Niềm cảm xúc dâng trào. Những hồi tưởng về mùa thu trước tuy êm ái nhưng thật ra lòng nhà thơ dạt dào biết bao

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Người ra đi mang dáng dấp của cậu học trò, trong sáng lưu luyến bao nhiêu kỉ niệm đẹp với từng con phố dài xao xác hơi may. Có một chút lưu luyến bâng khuâng trong lòng người, nhưng không hề bi luỵ. Câu thơ mang màu sắc lãng mạn tươi mát trong lành:

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi cũng bắt đầu vui phơi phới của người tự do. Đứng giữa một vùng chiến khu tự do nhà văn đón nhận đất nước với những điều mới mẻ:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

Phải có con mắt tinh tế, giao cảm với thiên nhiên nhà thơ mới nhận được sự”thay áo mới” của mùa thu. Tất cả như nô nức, muôn âm thanh trong trẻo xanh biếc của trời thu như hoà quyện vào nhau; đất nước như “đang cười, đang nói”. Tâm hồn nhà thơ dạt dào mênh mông thấy đất nước mình như “rừng tre phấp phới”. Hình ảnh cây tre cũng được các nhà thơ nhắc đến khi viết về đất nước:

Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ bát ngát câu Kiều bờ tre, mái rạ

Mái đình cong con như em gái giữa đêm chèo

Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xấm xoan cò lả

Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo

(Chế Lan Viên)

Từ xúc cảm mãnh liệt dạt dào nhà thơ cảm nhận được đất nước mình không giống Chế Lan Viên với lối trầm ngâm, lắng đọng mà ở đây, đất nước hiện lên nô nức, tươi mát nhưng cũng hết sức hào hùng:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm ngát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nhà thơ không thiên tả cảnh mà nghiêng về yếu tố tượng trưng. Chỉ một vài hình ảnh cụ thể như : “ núi rừng, những cánh đồng, ngả đường, dòng sông” nhà thơ đã vẽ nên đất nước. Một đất nước được khẳng định chủ quyền “ Trời xanh đây là của chúng ta”, giống Lý Thường Kiệt ngày xưa đã khẳng định : “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Mượn một vài hình ảnh cụ thể nhưng có tính khái quát cao nhà thơ đã gửi gắm tình cảm, gửi gắm tâm trạng của mình trong đó. Niềm tự hào nhà thơ thể hiện qua điệp ngữ “của chúng ta”. Rất đẹp, rất thơ với “những cánh đồng, những dòng sông, rừng núi”…Cảm hứng lịch sử với truyền thống dân tộc đã nhắc nhở nhà thơ đừng quên:

Nước chúng ta

Nước của những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Có nhìn về quá khứ xa xôi mới quý hơn những ngày mình đang sống . ở đây càng thấy quý hơn bởi chữ “tâm” của nhà thơ. Không chỉ có cảm nhận đất nước trong hiện tại với biết bao niềm vui chào đón mà còn nhìn lại lịch sử dân tộc. Có phải chăng những tiếng “rì rầm” trong đất ấy, những buổi ngày xưa vọng về thôi thúc bước chân và trái tim nhà thơ? Cảm hứng thời đại đã kết hợp nhuần nhuyễn với cảm hứng lịch sử truyền thống đã tạo ra những câu thơ tuyệt vời. Thi sĩ Gớt( Đức) có nói rằng : “Nhà thơ phải biết nắm lấy cái riêng biệt và từ đó, nếu cái riêng biệt là chân chính nhà thơ biểu hiện cái khái quát”. Nguyễn Đình Thi đã đi theo cái hướng này và đã thành công. Bằng những liên kết sóng đôi nhà thơ thường đi từ cái cụ thể đến cái khái quát.

Do đó mạch thơ tuôn trào theo cảm xúc không bị dàn trải. Nhà thơ cảm nhận đất nước bằng chính cái tâm hồn của mình, đáy lòng mình, không triết lý, không ồn ào nhưng đầy khích lệ. Chính vì vậy mà đất nước Việt Nam hiện lên rất hiện thực. Đó là một đất nước tạo hình trong đau khổ. Chiến tranh kéo dài không biết bao năm từ Đinh, Lý, Trần, Lê và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết. Đất nước vẫn còn:

Những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều.

Từ xúc cảm không chỉ là niềm vui mà còn là nỗi đau nên trong bài thơ Đất nước lại có những vần thơ “đẫm nước mắt” như thế. Hình ảnh “cánh đồng quê chảy máu” đã tố cáo tội ác của giặc. Lấy “máu đỏ mà tưới trên cánh đồng vàng” không phải là tàn nhẫn hay sao? Cái hay của Nguyễn Đình Thi là ở chỗ đó. Hiện thực, quá khứ đã hội tụ về đây đó trong bài thơ nhưng với tâm hồn của một người lính mang dáng dấp học trò. cảm hứng lãng mạn luôn luôn chi phối.

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Tình cảm riêng tư cũng đã trở thành cảm hứng về đất nước. Trong cái chung bao giờ cũng có cái riêng Nguyễn Đình Thi đã từng nói “Ta yêu em như yêu đất nước”. Chính những tình cảm này đã góp phần tạo nên “Đất nước” đôn hậu, ân tình và trìu mến hơn. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng được khơi gợi từ chuyện giữa “anh và em”.

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nhận đất nước trên nhiều phương diện. Từ địa lý cho đến lịch sử , rất cụ thể. Những câu thơ dài xen lẫn những câu ngắn và lối chiết tự khiến cho lời thơ có vẻ trầm tư. Tình yêu lứa đôi nảy sinh trong tình yêu đất nước. Cảm hứng đất nước bắt nguồn từ cách cảm nhận của nhà thơ qua những trắc nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tư tưởng của nhân dân đã chi phối toàn bộ cảm hứng, cấu từ hình tượng thơ. Nhà thơ cảm nhận rằng chính nhân dân đã làm nên đất nước và đất nước đã muôn đời là của nhân dân. Đất nước đối với nhà thơ vừa cụ thể mà cũng huyền ảo. Bởi vì cảm hứng ấy bắt nguồn từ những câu chuyện cổ, từ những điều gần gũi thân thương với cuộc sống của chúng ta

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Rất cụ thể, gần gũi và bình dị : “Tóc mẹ…gừng cay muối mặn”. Nhưng đây cũng là sự sáng tạo. Nhà thơ cảm nhận đất nước theo chiều dài, lẫn chiều sâu, xuyên suốt từ quá khứ cho đến hiện tại. Truyền thống, phong tục được coi là chất sống vĩnh hằng. Đất nước là tất cả những gì có trong cuộc sống, là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

…Em ơi em Đất Nước là một phần trong máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…

Lời nhắn nhủ có vẻ riêng tư nhưng thật ra tác giả muốn nói chung với tất cả chúng ta. Không phải là lời giáo huấn mà là nỗi tâm tình, đầm ấm và thắm thiết. Những gì đã qua mà nhà thơ chứng kiến, đã biết, đã hiểu là nguồn cảm hứng chủ yếu của bài thơ. Tình yêu nước thể hiện thầm kín trong từng câu thơ. Dường như đối với Nguyễn Khoa điềm đất nước mênh mông rộng lớn lắm nhưng nó không xa lạ gì với chúng ta, nó ở ngay trong ta. Tất cả những gì có trong cuộc sống đều góp phần tạo nên đất nước. Đó là cảm nhận của lớp người đi trước. Nhà thơ đã khắc hoạ lại đất nước hết sức điển hình. Một đất nước Việt Nam với những chuyện cổ tích, ca dao, bình dị, chân tình nhưng người dân giàu lòng yêu thương, sẵn sàng hi sinh mình để tạo nên dáng hình xứ sở. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ở một giới hạn nào, bởi vì đất nước kết tinh trong mỗi con người. Đất nước hoá thân trong đời sống của mỗi cá nhân và mỗi cá nhân đang sống đều mang di sản đất nước của cha ông để lại.

Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta

Vì vậy, chúng ta hôm nay có trách nhiệm giữ gìn và truyền cho thế hệ mai sau. Cảm hứng thời đại xen với cảm hứng truyền thống. Lịch sử dân tộc tạo ra mạch thơ dài không ngơi nghỉ. Nhưng điều đó khiến ta liên tưởng đến đất nước mình…Trong từng thời điểm, đất nước có những phút giây thơ mộng nhưng qua bao nhiêu chặng đường mà nhà thơ đã đi đất nước sống trong cực nhọc, nặng nề dưới bom đạn , chiến tranh. Nhưng mà cha ông ta:

Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững

Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa

Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà

(Huy Cận)

Chính nỗi đau đớn mà đất nước đã phải chịu đựng làm xốn xang tâm hồn của nhà thơ. Thật vậy, bốn ngàn năm qua tổ quốc ta chưa hề chấm dứt chiến tranh:

“Đất nước tôi, đất nước tôi, từ thuở còn nằm nôi sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa…”

Những buổi trưa hè giọng ca dao vẫn cất lên trên đất nước đau thương. Cũng là một đất nước Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ đều cảm nhận ở những điều khác nhau. Cảm hứng về “đất nước” bắt đầu từ hiện thực. Nhưng ở mỗi nhà thơ đều mang hình nét lãng mạn, lạc quan:

Đất Nước của nhân dân, Đất Nước cả ca dao thần thoại

Dạy anh biết “Yêu em từ thuở trong nôi”

“Đất nước” là chủ đề bao trùm thơ Việt Nam trong giai đoạn 1945-1975. Biết bao nhà thơ đã viết về đề tài nay. Nhưng tôi cho rằng trong tất cả những bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi là người thành công hơn cả. Đất nước của Nguyễn Đình Thi rất chân thật nhưng rất nghệ thuật nhờ nhà thơ đã chọn hình tượng đặc sắc. Tuy nhiên ở mỗi bài thơ Đất nước nhà thơ nào cũng có nét hay riêng.

Tóm lại, cảm hứng đất nước của nhà thơ bắt nguồn từ lòng yêu nước chân thành, sâu sắc ! Cảm hứng đó không bắt gặp trong hiện tại mà họ còn tìm về quá khứ. Với những năm tháng gian khổ chiến tranh với truyền thống tốt đẹp của dân tộc…Chính các nhà thơ cũng có một phần tạo ra: “Nam quốc sơn hà” tươi đẹp ! Để chúng ta có thể tự hào : “Đất nước tôi…sáng ngời muôn thuở. Khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ…”

Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn thầy cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.

Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - mẫu 4

Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày bài so sánh hai tác phẩm thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng và “Đồng chí” của Chính Hữu ạ.

Chiến tranh tàn khốc đã đi qua nhưng những chiến công và những con người lịch sử thì còn sống mãi trong văn chương không tuổi. Văn học lưu giữ, khắc ghi và ca ngợi họ - những người lính anh dũng đã đem lại độc lập cho tổ quốc qua những câu thơ, áng văn đậm đà tình cảm. Tuy nhiên với mỗi bài thơ lại có cách khám phá và thể hiện rất riêng mang đậm dấu ấn cá nhân người nghệ sĩ. Hình tượng người lính trong hai bài thơ “Đồng chí” – Chính Hữu và “Tây Tiến” – Quang Dũng vừa mang những nét tương đồng vừa có những nét riêng đặc biệt.

“Hình tượng” là thế giới đời sống, con người hiện lên trong trang viết của người nghệ sĩ, là nơi tác giả thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Hình tượng người lính vốn không mấy xa lạ trong văn học Việt Nam nhưng mỗi người lại có cách thể hiện của riêng mình, tạo nên thế giới đời sống rất riêng và đặc sắc. Cùng ra đời trong cuộc kháng chiến chống Pháp, “Đồng chí” và “Tây Tiến” đã đem lại cho người đọc những cách nhìn nhận mới mẻ, những hình ảnh riêng độc đáo, hoàn thiện bức tranh về người lính chống Pháp và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không nguôi. Họ cùng là những con người của một thời đại anh dũng và hào hùng, cho nên ở đó luôn toát lên phong thái ngang tàng, mạnh mẽ, sẵn sàng vượt qua mọi gian nan thử thách dẫu mưa rừng thác lũ có dữ dội đến đâu:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.

Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Người lính phải vượt qua những trận mưa nguồn suối lũ, những đêm ngủ rừng chỉ có manh chiếu mỏng đắp vội, cơm chẳng đủ no, “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.” Nhưng đáng sợ nhất vẫn là những trận sốt rét rừng. Những cơn sốt rét rừng đến vàng da rụng tóc, bòn rút từng chút sức của họ:“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.

Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”

Hay:“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Gian nan, khổ đau là thế, những cơn sốt rét rừng hành hạ, thêm vào đó là tư trang tư phục chẳng đủ, thiếu thốn trăm bề nhưng những người lính đó chưa bao giờ thôi lạc quan và hạnh phúc. Bởi vì họ thiếu thốn vật chất nhưng đời sống tinh thần của họ lại thật phong phú biết bao: tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó, những đêm đốt lửa trại liên hoan dưới ánh đuốc hoa bập bùng, những trận sốt rét rừng hành hạ được ngả đầu trên vòng tay ấm áp của đồng đội. Có lẽ vì vậy mà họ có chung một niềm lạc quan, một sự anh dũng và quả cảm đáng phục, là nguồn động lực giúp họ chiến thắng mọi thử thách và đương đầu trước mọi gian truân. Có khó khăn, có gian khổ đấy, nhưng họ chưa bao giờ đầu hàng trước thử thách mà dũng cảm đối đầu với chúng để xứng đáng trở thành anh bộ đội cụ Hồ.

Người lính trong “Đồng chí” hay người lính trong “Tây Tiến” xét cho cùng tuy hai mà một, gặp gỡ nhau trong nét cốt cách anh hùng của người lính chống Pháp năm xưa.Nhưng “Không có lối đi chung nào cho hai nhà văn cả”, những người nghệ sĩ có thể gặp gỡ nhau trong cảm xúc trữ tình, hình tượng họ xây dựng cũng có thể tương đồng đôi nét nhưng không bao giờ là một bản sao. Cho nên dù viết về người lính cùng một thời đại nhưng mỗi bài thơ lại có một nét khám phá, phát hiện rất riêng. Người lính của Chính Hữu mang nét gì đó mộc mạc, hiền lành, chân chất, bởi họ xuất thân từ vùng quê nghèo nơi nước mặn đồng chua, họ là những người nông dân vì chiến tranh mà phải buông liềm đi cầm súng:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Có lẽ vốn dĩ xuất thân từ những người nông dân bình dị, cho nên tình cảm của họ dành cho nhau cũng thật chân thành và kín đáo. Hai chữ “đồng chí!” thốt lên như là xúc cảm cố giữ bỗng chốc bật ra thành lời, họ quan tâm nhau và chăm sóc nhau bằng sự chân thành và thật thà của người dân vùng quê bến nước:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”

Họ đến với nhau vì cùng chung lí tưởng, mục đích, đó là dùng máu xương của mình để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Những người lính nông dân thật thà chất phác đó thể hiện tình cảm chân thành và ý nhị, chia cho nhau từng bát cơm, từng mảnh chăn chắp vá và dù đêm lạnh lẽo thế nào cũng có thể cười vì hơi ấm đồng đội trao:

“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Còn người lính của Quang Dũng lại xuất thân từ những sinh viên thủ đô vừa rời khỏi giảng đường Đại học. Vì tuổi trẻ, vì cuộc sống thị thành đã tôi luyện cho họ một nét tình cách vừa hào hoa vừa phong tình, đậm đà chất lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà họ không hề che giấu sự đa tình của mình ngay cả khi đang trên hành trình hành quân ra mặt trận, cái ngạo nghễ, tươi trẻ đó như rót vào lòng họ những tia sáng lấp lánh. Họ mơ về chiến công bên biên giới, họ cũng không quên mơ về giấc mộng của riêng mình: một “dáng Kiều thơm” hay người con gái của đất kinh đô, những nữ sinh Trưng Vương, Đồng Khánh đẹp người sóng sánh bên nước trời Hà Nội:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”

Lời thơ như có chút gì đó táo bạo nhưng cũng thật lãng mạn và đa tình. Họ chiến đấu anh dũng nhưng đồng thời cũng sở hữu trong mình những nét đẹp hào hoa đến lạ. Có lẽ nó vừa là nguồn động lực, vừa là cái đẹp rất riêng, rất táo bạo của người lính trẻ, họ như cánh hoa đong đưa mình trên dòng nước lũ, những bông hoa đã sống trọn kiếp mình với nắng, với gió, để tỏa sắc giữa cuộc đời dẫu thác lũ có dữ dội đến đâu.Với “Đồng chí” và “Tây Tiến”, cả hai tác giả đã đưa ta đến với những vẻ đẹp của người lính chống Pháp năm xưa. Gặp gỡ có nhưng độc đáo cũng có, hai bài thơ vừa có những điểm chung lại có những nét rất riêng, rất mới lại, góp phần hoàn thiện vẻ đẹp người chiến sĩ cách mạng.

Đúng như ai đó đã từng nói rằng, nhà thơ phải đốt cháy mình mới mong ngọn lửa của mình tỏa sáng giữa đời, cả Chính Hữu và Quang Dũng thực sự đã đốt lửa lòng để viết ra những câu thơ đẹp đẽ. Văn chương cách mạng nhờ vậy mà còn sống mãi, bởi bản thân nó đã trở thành những áng văn thơ mang lửa, sẵn sàng tỏa rạng để vào “đốt lửa lòng” bất kì ai.Có những sự thích thú chỉ là thoáng qua nhưng có những tình cảm sẽ là mãi mãi. Có những bài viết đọc một lần rồi quên nhưng có những áng thơ trường tồn bất diệt dẫu thời gian có nghiệt ngã cỡ nào. Người nghệ sĩ chân chính cũng giống như những áng thơ bất diệt vậy, khi họ viết tác phẩm của mình bằng Tài và Tâm.

Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn thầy cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.

Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - mẫu 5

Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày bài so sánh hai tác phẩm thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải và “Sang thu” của Hữu Thỉnh ạ.

Từ văn học trung đại cho đến văn học hiện đại, từ thơ cổ cho đến thơ mới, vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa của quê hương đã trở thành những hình ảnh khó phai mờ trong các tác phẩm của nhà văn, nhà thơ. Chúng ta thấy hình ảnh quê hương hiện ra ở thơ vô cùng thân mật, gần gũi, đáng yêu và đầy quen thuộc, gợi bao cảm xúc đẹp đẽ của con người…

Quê hương chúng ta vốn có vẻ đẹp dân dã, bình dị của sự sống mơn mởn. Quê hương cao cả và thiêng liêng, thân thuộc và bình dị, chúng ta có thể bắt gặp trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ“ của Thanh Hải hay “Sang thu” của Hữu Thỉnh.

Viết về quê hương, đất nước thì mỗi nhà thơ lại có một cảm nhận riêng. Nếu hình ảnh đất nước trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được soi chiếu qua lăng kính mùa xuân thì “Sang thu” của Hữu Thỉnh – quê hương, đất nước lại được soi chiếu qua bức tranh giao mùa cuối hạ sang thu… Thật phong phú, đa dạng mà không kém phần thú vị.

Thanh Hải viết bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” khi đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh không lâu, bản thân nhà thơ cũng ở tình trạng sức khỏe hiểm nghèo, nhưng cả cuộc đời gắn bó với quê hương xứ sở làm sao không có những cảm xúc lúc đi xa. Hình ảnh quê hương, đất nước hiện lên qua cảnh sắc mùa xuân – thiên nhiên xứ Huế tinh khôi, trong trẻo, đầy sức sống. Mùa xuân của thiên nhiên cũng là mùa xuân của đất nước con người:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Thanh Hải đưa ta về với thiên nhiên tạo hoá đất trời. Sau những ngày đông lạnh lẽo, thiên nhiên lại được khoác một tấm áo tươi non, ấm áp của mùa xuân. Mùa xuân đến, báo hiệu bằng những cảnh sắc thiên nhiên quen thuộc : dòng sông xanh, bông hoa tím biếc và chim chiền chiện. Mùa xuân đã hiện diện trên toàn cảnh, trên tạo vật : đất trời, hoa lá, chim muông…. Tô điểm sắc màu cho không gian ấy, có màu xanh cây cỏ, xanh của dòng sông, màu tím của hoa và cả màu của mây trời:

Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc

Ơi con chim chiền chiện

Hót chi mà vang trời

Cảnh sắc thiên nhiên ấy không chỉ đẹp mà còn sinh động. Từ “mọc” đặt ở đầu câu thơ vang lên như một điểm nhấn, một sự phát hiện đầy cảm xúc của nhà thơ. Hai câu thơ đầu vẽ nên một không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với hình ảnh một dòng sông xanh trong chảy hiền hoà. Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ở dải đất miền Trung. Nổi bật trên nền xanh lơ của dòng sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, một hình ảnh thân thuộc của cánh lục bình hay hoa súng mà ta thường gặp ở các ao hồ sông nước của làng quê mà ta từng gặp trong những vần thơ của khác:

“Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm

Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng

Hoa lục bình tím cả bờ sông…”

(Lê Anh Xuân)

Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được với sắc màu tím Huế thân thương- vốn là nét đặc trưng của những cô gái đất kinh kỳ với sông Hương núi Ngự. Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông hoa tạo nên một nét chấm phá nhẹ nhàng mà sống động. Bức tranh xuân còn được điểm xuyết thêm bằng âm thanh rộn rã, tưng bừng của con chim chiền chiện hót vang trời. Tiếng hót của chim, đường nét uốn lượn quanh co của con sông, màu tím biếc của bông hoa vẽ nên một bức tranh mùa xuân đầy sức sống mãnh liệt trên quê hương tác giả.

Trước vẻ đẹp ấy, nhà thơ ngất ngây sung sướng không ngăn được dòng cảm xúc. Những từ cảm thán “Ơi”, “Hót chi” vang lên là tiếng lòng nao nức say sưa của nhà thơ khi lần đầu tiên phát hiện vẻ đẹp đơn sơ mà say đắm của cảnh vật quê hương.

“Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng”

Cụm từ “giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi…Theo mạch liên tưởng của bài thơ “giọt long lanh” còn là giọt âm thanh đổ hồi của con chim chiền chiện… Hình ảnh có tính chất tượng trưng “tôi đưa tay tôi hứng” là thái độ yêu thương, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của đất trời. Nghệ thuật ví ngầm, chuyển đổi cảm giác quả đã đạt tới mức tinh tế đáng khâm phục. Hai câu thơ đã biểu hiện niềm say sưa, ngây ngất, xốn xang, rạo rực của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân. Chắc hẳn trong lòng thi sĩ đang dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu cuộc đời.

Tạm rời xa mùa xuân của Thanh Hải ta tìm đến với cái tình non sông đất nước được khơi nguồn từ cảnh sắc thiên nhiên trong bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Thi sĩ bộc bạch tình yêu đất nước ở nhiều cung bậc. Hữu Thỉnh với cái nhìn thật tinh tường, một cảm nhận thật sắc nét đã vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời qua bài thơ “Sang Thu”. Sang thu của Hữu Thỉnh giúp ta chiêm ngưỡng lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu nay ta hững hờ. Đó là lúc hồn ta run lên những cảm nhận dung dị. Hình ảnh đất nước quê hương còn được nhà thơ phác họa qua phút giao thừa cuối hạ sang thu thật tinh tế và sâu sắc. Bắt đầu từ một khu vườn ngoại ô của vùng đồng bằng Bắc Bộ:

Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se,

Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ.Hương vị đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc của quê hương. Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Vì sao tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi” mà không phải là các hương vị khác? Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian. Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra” - một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lựng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Hương là hương ổi, gió là gió se. Đây là những nét riêng của mùa thu vùng đồi trung du miền Bắc. Gợi được như vậy hẳn cái tình quê của Hữu Thỉnh phải đậm đà lắm. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy.

Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:

Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về.

Một hình ảnh đầy ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Đâu chỉ có thế, cái hay của từ láy “chùng chình” còn là gợi tâm trạng. Sương dềnh dàng hay lòng người đang tư lự, hay tâm trạng của tác giả cũng “chùng chình”? Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sĩ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.

Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:

Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam… Cái “dềnh dàng” của dòng sông là phút hiếm hoi sau lúc gập ghềnh leo thác nhọc nhằn rồi lại ồ ạt xối xả dưới những cơn mưa rào mùa hạ. Từ “được lúc" diễn tả cái hiếm hoi thưa thớt. Đã lâu lắm rồi con sông mới có dịp nghỉ ngơi thanh thản như thế. Nhưng cơn gió heo may lạnh lẽo đầu mùa tràn về khiến đàn chim phải bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh rét. Phép đối và nghệ thuật tương phản giữa hai câu thơ (dềnh dàng đối lập với vội vã) đã được tác giả gửi gắm vào đó một triết lý: cuộc đời không có giây phút nào phẳng lặng êm đềm, sự sống vẫn chuyển không ngừng, chính vì thế con người phải biết cách chuẩn bị đầy đủ để ứng phó và theo kịp mạch chảy của dòng đời.

Không gian đất trời lại tiếp tục được mở thêm một tầng mới. Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh:

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu.

Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây mùa hạ là hình ảnh độc đáo, thể hiện trí liên tưởng phong phú của tác giả. Dường như đám mây mùa thu còn vương nắng hạ nên nhà thơ mới có liên tưởng sáng tạo đến thế. Câu thơ có tính tạo hình không gian nhưng lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới. Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây trên bầu trời cao đã trở thành ranh giới giữa mùa hạ với mùa thu. Từ “vắt” mang hiệu quả diễn đạt rất lớn. Nó làm cho đám mây kia có khả năng nối liền giữa hai mùa thiên nhiên hay nói đúng hơn là mùa hạ và mùa thu đang chênh vênh giữa một đám mây. Từ cái giây phút giao mùa vô hình trừu tượng, tác giả đã biến thành sự vật hữu hình cụ thể để người đọc cảm nhận rõ hơn về tín hiệu của mùa thu.

Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà.

Mỗi nhà thơ có cảm nhận riêng về cảnh sắc thiên nhiên, những chiêm nghiệm, những suy nghĩ về cuộc đời, về con người, tình người trong cuộc sống nhưng thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ đầy xúc động với hình ảnh thiên nhiên gợi lên thật đẹp. Hai bài thơ để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng, khó phai mờ và vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm khát khao được sống, được cống hiến cho đất nước, cho dù đó là những cống hiến giản dị, nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa.

Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn thầy cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.

Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - mẫu 6

Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày bài so sánh hai tác phẩm thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu và “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi ạ.

Văn học từ muôn đời xưa, cho đến muôn đời sau bao giờ cũng viết về con người. Dù chỉ tả một làn mây dòng suối, cành lá, tiếng chim, thì cũng nhằm nói về con người. Cho nên thiên nhiên trong văn học là những bức tranh tâm trạng. Người buồn thì cảnh buồn, người vui thì cảnh vui. Qua hai bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Đất nước của Nguyễn Đình Thi, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.

Mùa thu từ bao đời nay và sẽ mãi mãi là nguồn thi hứng, là đề tài hấp dẫn đối với các thi nhân. Các nhà thơ nổi tiếng thế giới cũng như Việt Nam như Huy-gô, Rim-bô, Véc-len, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà đều đã có những bài thơ rất đặc sắc dành cho mùa thu. Nhưng không vì thế mà thơ viết về mùa thu trở nên mòn sáo, đơn điệu. Bởi cảnh thu thời nào cũng vậy, nhưng lòng người thì mỗi thời mỗi khác. Vì thế cảnh sắc mùa thu trong mỗi bài thơ đều có những vẻ đẹp riêng độc đáo. Chính trạng thái cảm xúc của thi nhân đã quy định cảnh sắc mùa thu trong thơ.

Bài Đây mùa thu tới là một bài thơ hay về mùa thu của Xuân Diệu trước cách mạng. Bài Đất nước (1948-1955) của Nguyễn Đình Thi không phải là bài thơ viết về mùa thu, nhưng cảm hứng đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Hai bài thơ viết trong hai giai đoạn lịch sử khác nhau, thể hiện hai trạng thái cảm xúc khác nhau của nhà thơ trước mùa thu.

Cảnh sắc mùa thu trong bài Đây mùa thu tới thấm một nỗi buồn. Đó là cái buồn muôn thuở, nhưng cũng là cái buồn của thời đại, cái buồn của riêng “thơ mới”. Buồn vì cái lạnh len lỏi đâu đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì sự chia lìa từ hoa cỏ, chim muông đến con người. Buồn vì một nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ phảng phất trong không gian và trong lòng người. (Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh rặng liễu buồn như những cô gái xoã tóc chịu tang, cùng hàng ngàn dòng lệ hàng nối hàng tuôn rơi. Các khổ thơ tiếp theo tác giả tái hiện cảnh hoa, lá rụng, cành cây khô gầy, vầng trăng bơ vơ. Sương mờ không khí trời u uất... tất cả những hình ảnh ấy gợi lên sự chia ly, tàn tạ, phai nhạt làm nổi rõ nỗi buồn cô đơn).

Cảnh thu buồn hiu hắt bi thương nhưng vẫn có cái gì đó dịu nhẹ, trẻ trung và rất đẹp. Bởi cảnh thu ngoài việc được so sánh với một hình ảnh độc đáo, còn được Xuân Diệu miêu tả với vẻ đẹp thơ mộng duyên dáng, tươi Bằng với tấm “áo mơ phai dệt lá vàng” vừa thực vừa ảo. Sắc vàng mùa thu đã làm sáng cả không gian.

Như vậy mùa thu bên cạnh cái vẻ đìu hiu buồn, một cái buồn rất đẹp của cảnh vật, vẫn chứa đựng bên trong một sức sống trẻ trung. Ấy là cái chất trẻ trung được phát hiện bằng con mắt “xanh non” của tác giả là cái sức sống của tuổi trẻ và tình yêu xốn xao trong cảnh vật.

Cảnh thu rất đẹp mà buồn vì lòng người lúc ấy còn buồn bã. Nỗi buồn của Xuân Diệu cũng là nỗi buồn của cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản đương thời “yêu đời nhưng đau đời” (Huy Cận) chưa tìm được lối ra. Nỗi buồn ấy chính là tấm lòng thiết tha yêu đời, thiết tha giao cảm với đời.

Đang trong tâm trạng ấy cho nên nhà thơ rất nhạy cảm trước khung cảnh đất trời chuyển vào thu:

Đây mùa thu tới, mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng

Câu thơ cất lên như một tiếng reo khẽ, vồ vập, khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của mùa thu. Phải có tấm lòng yêu đời thì giữa cảnh thu buồn bã, nhà thơ mới có thể đón nhận được một niềm vui nho nhỏ như thế. Sự nhạy cảm của hồn thơ Xuân Diệu còn được thể hiện qua cách cảm nhận của mùa thu. Nếu trong phần mở đầu, tác giả phát hiện cảnh thu bằng thị giác để tái hiện sắc thu thì đến phần giữa bài thơ tác giả đã thâm nhập vào bên trong cảnh vật để cảm nhận tinh tế bằng cảm giác của mình: Cành lá run rẩy, sắc lá đổi màu, nhành cây ớn lạnh đến tận xương khô, rét mướt luồn trong gió. Cuối cùng nhà thơ gửi gắm tâm trạng của mình qua nỗi lòng của người thiếu nữ. “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”, một nỗi nhớ thương ngơ ngác mặc dù cô thiếu nữ không nói, nhưng rõ ràng đó là tư thế suy tư của người muốn đón nhận, của tâm trạng đang hướng về cuộc đời.

Tóm lại, cảnh thu, lòng người trước mùa thu có buồn bã cô đơn, nhưng không quá tuyệt vọng mà vẫn tươi trẻ. Toát lên từ toàn bộ bài thơ cảnh thu là vẻ đẹp của một nỗi buồn. Đó là nỗi buồn đầy cảm xúc của cái tôi cô đơn biểu hiện một niềm yêu đời, khát khao giao cảm với đời của nhà thơ Xuân Diệu.

Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi là bài thơ về “Đất nước rũ bùn đứng dậy sáng loà” qua cuộc kháng chiến 9 năm (1946-1954) nhưng cảm hứng đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Mở đầu là hình ảnh mùa thu “Sáng mát trong như sáng năm xưa”, “Gió thổi mùa thu hương cốm mới”. Đó là cảnh sắc thân thuộc của mùa thu Việt Nam muôn đời. Cảnh thu trong sáng, vui tươi. Đoạn thơ tiếp theo, tác giả khắc hoạ cảnh thu Hà Nội ra đi vì nghĩa lớn. Đó là cảnh thu với vẻ đẹp thơ mộng mà xao xác buồn, buồn vì tưởng như thiếu hẳn bóng người. Buồn vì niềm bâng khuâng lưu luyến của sự chia ly “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” nhưng thực ra thì chẳng muốn rời:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Còn mùa thu hiện tại là mùa thu sau Cách mạng tháng Tám mùa thu ở chiến khu Việt Bắc, lúc này đang là chiến khu tự do, căn cứ địa của kháng chiến chống Pháp, nơi Bác Hồ, Chính phủ kháng chiến đang điều khiển cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc. Nguyễn Đình Thi đã đến với mùa thu này bằng một niềm vui tràn ngập, niềm vui của người tự thấy mình được tự do, dân tộc được tự do, ít ra là ở chiến khu này. Đang trong tâm trạng vui, nên tác giả thấy cảnh thu hiện lên với vẻ đẹp tươi sáng, đầy sức sống, đầy âm thanh màu sắc rộn rã, tươi vui. Bầu trời như thay áo mới, cảnh vật như hồi sinh, những âm thanh của cảnh vật và cuộc sống con người cũng ríu ran ríu rít đầy niềm vui.

Và không gian mùa thu như trải dài, mở rộng theo những con đường, dòng sông, đồng lúa, cánh rừng trùng điệp của đất nước.

Cảm hứng của Nguyễn Đình Thi trong bài Đất nước là cảm hứng tự hào làm chủ của một nghệ sĩ đang tham gia trực tiếp vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc độc lập tự do. Trong đoạn thơ nói về mùa thu Hà Nội 1946, tác giả có thể hiện tâm trạng buồn nhưng đó là nỗi buồn của một người tha thiết yêu quê hương mà phải tạm biệt quê hương lên đường vì nghĩa lớn. Nỗi buồn này khác nỗi buồn của Xuân Diệu.

Cảm hứng chủ đạo của nhà thơ vẫn là niềm vui, niềm tự hào về đất nước giang sơn gấm vóc, về độc lập chủ quyền vì vậy đoạn thơ viết về mùa thu chiến khu Việt Bắc vang lên sang sảng tự hào đầy kiêu hãnh.

Cùng viết về mùa thu mà Xuân Diệu chỉ thấy một mùa thu rất đẹp mà rất buồn. Còn Nguyễn Đình Thi lại tiếp nhận một mùa thu trong trẻo, đầy âm thanh, màu sắc, đầy niềm vui, sức sống của cảnh vật và con người. Điều đó, xét cho cùng có nguyên nhân thời đại chi phối hồn thơ. Chính cảm xúc về thời đại đã quy định cảm hứng, qui định tình thu của nhà thơ và từ cảm hứng, tình thơ của nhà thơ lại qui định cảnh sắc mùa thu trong thơ.

Trước cách mạng, Xuân Diệu sống trong cảnh ngộ của người dân nô lệ. Nỗi buồn của người dân mất nước đã tạo nên cách nhìn, cách cảm của thi nhân trước mùa thu. Từ sau cách mạng Xuân Diệu đã đến với đất nước bằng niềm vui, niềm tự hào nên cảnh thu cũng đã thay đổi.

Ba năm qua nay lại mùa thu tới

Mỗi lần thu tới lại mùa thu tới

Thu từ nay không thu thảm thu sầu

Mà thu sướng nhuộm màu xuân mát mát

Lá biếc xanh xanh

Trời thu bát ngát

Da tươi thịt thắm

Nở lại cùng sương

Ảnh mấy bay như múa khúc nghê thường

Nắng hạ giọng nói những điều dịu sáng.

Còn Nguyễn Đình Thi viết bài Đất nước sau cách mạng lúc nhà thơ đã là một người dân tự do, cùng nhân dân làm chủ đất nước. Thời đại mới, đã tạo nên cảm hứng mới cho nhà thơ. Vì vậy, cảnh thu trong cách nhìn, cánh cảm nhận của nhà thơ trở nên trong trẻo, tươi sáng, tràn đầy sức sống niềm vui.

Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn thầy cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.

Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - mẫu 7

Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày bài so sánh hai tác phẩm thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử và “Vội vàng” của Xuân Diệu ạ.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa trong sự nghiệp sáng tác đã từng quan niệm “thơ hay là thơ giản dị xúc động và ám ảnh”. Đúng như vậy cũng như bao môn nghệ thuật khác, thơ ca giúp con người trải nghiệm cuộc sống với những cung bậc tình cảm sâu sắc và một thế giới nghệ thuật độc đáo. Một bài thơ, một đoạn thơ hay chỉ một vần thơ hay luôn là những dòng cảm xúc đầy sức gợi cảm ơn sâu những câu những chữ đặc sắc, mới mẻ và gần gũi. Nó cuốn hút giữa chân độc giả với một sức mê hoặc đến lạ thường, có lẽ vậy nên trong bài thơ sổ tay thơ nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết.

“Câu thơ hay như người con gái đẹp,

Ở đâu đi đâu cũng lấy được chồng”.

Minh chứng rõ nhất cho điều đó chính là sáng tác của các nhà thơ mới tiêu biểu là bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu và “Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.

Lamartine đã từng tâm sự “Thế nào là thơ Nó không chỉ là một nghệ thuật nó là sự giải thoát của lòng tôi”. Thơ chính là thể loại văn học được viết lên bằng cảm xúc mãnh liệt của người nghệ sĩ, dưới một hình thức nghệ thuật phù hợp. Câu thơ hay tức là câu thơ có sức hấp dẫn lôi cuốn và gợi trong lòng độc giả những rung động sâu xa không cần lý giải gì nhiều. Chế Lan Viên đã đưa ra một hình ảnh so sánh khiến người đọc cảm nhận được mọi điều đó. “Câu thơ hay như người con gái đẹp”, sự so sánh đã chỉ ra chuẩn mực của thơ. Nếu như vẻ đẹp của người con gái là sự dung hòa giữa cái đẹp ngoại hình và cái đẹp tâm hồn, thì “thơ hay” là thơ mang vẻ đẹp độc đáo về hình thức và mang nhiều ý nghĩa về nội dung. Chính vì vậy nên “ở đâu, Đi đâu cũng lấy được chồng”. Chế Lan Viên đã khẳng định bao giờ và ở đâu nhưng những vần thơ hay sẽ vẫn luôn nhận được sự yêu thích, tìm được tiếng nói tri âm, như vậy từ ý thơ trên Chế Lan Viên đã đưa ra được yếu tố tiên quyết đem đến sự thành công của một thi phẩm, sức sống của thi phẩm đó trong lòng độc giả chính là cái đẹp hình thức và nội dung thước đo muôn đời của một tác phẩm thơ hay.

Ý kiến của Chế Lan Viên quả thực là một nhận định đúng đắn. Bởi nó xuất phát từ đặc trưng của thơ và quy luật tiếp nhận thơ ca. Thơ xuất phát từ tình cảm, cảm xúc là tiếng nói của trái tim, là sự rung động mạnh mẽ của thi sĩ trước cuộc đời. Nếu không có cảm xúc nhà thơ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay ngôn tử sẽ là những xác chữ làm vô hồn trên trang giấy. Nói như Ngô Thì Nhậm “ hãy xúc động hơn thơ Cho ngọn bút có thần”. Còn Xuân Diệu lại khẳng định “ thơ hay lời thơ chín đỏ trong cảm xúc”. Văn học phản ánh cuộc sống con người, với thơ ca nó không chỉ là hiện thực ngoài kia mà là những tình cảm cảm xúc bên trong tâm hồn của nhà thơ bởi “thơ là người thư kí trung thành của trái tim”. Tuy nhiên không phải tình cảm nào cũng làm nên thơ những thứ tình cảm nhạt nhẽo vô vị cưỡng ép bắt buộc không thể làm nên thơ. Tình cảm của người nghệ sĩ phải mãnh liệt nhất, thôi thúc họ cầm bút sáng tạo đó mới chính là những vần thơ cao quý. Mặt khác, người đọc tìm đến với thơ là đi tìm tiếng nói tri ân tri kỷ, là giao phó tình cảm cảm xúc là một “ hồn điệu đi tìm những hồn đồng điệu” vì vậy nội dung tư tưởng cũng như tình cảm cảm xúc mãnh liệt mới có thể lôi cuốn người đọc, ngược lại thơ sẽ thiếu sức sống đánh mất đi chức năng cao quý của nó. Và để làm nên một bài thơ hay không thể thiếu được sự công phu, tinh tế trong nghệ thuật biểu hiện, hay nói cách khác đó chính là một hình thức nghệ thuật độc đáo cuốn hút bởi một tác phẩm nghệ thuật chân chính bao “giờ cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. đáp ứng được những điều đó thì chắc chắn đó là một thi phẩm hay đẹp và mang đầy ý nghĩa. “Vội vàng” của Xuân Diệu và “ Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử xứng đáng là những bài thơ hay một người con gái đẹp về cả bên ngoài hình thức và bể sâu tâm hồn.

Xuất hiện trong phong trào thơ mới, Xuân Diệu được biết đến là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, với một phong cách độc đáo đặc biệt từng câu từng chữ mà ông viết ra xứng đáng là “người con gái đẹp”. Bằng cặp mắt xanh non biếc rờn, cùng với cảm xúc dạt dào Xuân Diệu đã lay động trái tim người đọc bằng những ca từ về tình yêu về mùa xuân trần thế. “Vội Vàng” là một trong những thi phẩm như vậy, ấn tượng đầu tiên của độc giả về bài thơ là mạch cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt tuôn trào với một tình yêu cuộc sống đến ta thiết của thi sĩ muốn “ tắt nắng”, “ buộc gió” để lưu lại mãi hương sắc của cuộc sống trần gian.

“Tôi muốn tắt nắng đi, cho màu đừng nhạt mất,

Tôi muốn buộc gió lại cho hương đừng bay đi”.

Ước muốn thật táo bạo, mạnh mẽ thậm chí còn có phần ngông cuồng của thi sĩ. Nhà thơ muốn tắt nắng cho màu sắc đừng phai mờ, muốn buộc gió cho hương hoa đừng bay đi, nhà thơ muốn tước đoạt quyền của tạo hóa của ông trời. Nhưng suy cho cùng thì ước muốn đó lại bắt nguồn từ chính tình yêu cuộc sống tha thiết đến, mãnh liệt.

Xuân Diệu yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên nhìn thế giới như một khu vườn trên mặt đất với cảm xúc say mê bằng cặp mắt tinh tế xanh non biếc rờn mọi cái đẹp đều như được thu nhỏ trong từng câu từng chữ có lẽ đây chính là nguyên nhân để Xuân Diệu có những ao ước táo bạo như trên.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật,

Này đây hoa của đồng nội xanh rì,

Này đây lá của cành tơ phơ phất,

Của yến oanh,

Này đây khúc tình si,

Và này đầy ánh sáng chớp hàng mi,

Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa”.

Mùa xuân ong bướm đi tìm mật, phất phơ với đôi cánh mỏng vui vẻ như đang ở tuần trăng mật của con người vậy Xuân Diệu lại nhìn đến những nhành hoa nhỏ nhắn đẹp đẽ đang bung nở trên một tấm thảm xanh gì nơi đồng nội mát mẻ. Rồi nhà thơ lại bị thu hút bởi những cành cây non tơ vừa mới nhú ra khỏi cành. Nó như đang đu đưa trước gió để tận hưởng mọi vẻ đẹp của mùa xuân trên cái nền đầy màu xanh mát lạnh ấy, đâu đó cất lên tiếng hót vang như dàn nhạc của chim Yến oanh làm cho cảnh đẹp này còn đẹp hơn nữa, còn sống động hơn nữa. Mùa xuân đến còn đem theo thứ ánh nắng ấm áp như cặp môi, đôi mi của người con gái làm cho nhà thơ như đang sống trong tiên cảnh phải thốt lên rằng.

“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.

Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, tháng giêng là tháng đẹp nhất của mùa xuân. Xuân Diệu đã nhìn đã cảm nhận được tất cả những tinh tui đẹp đẽ nhất trưa nay người ta cứ tưởng cõi tiên phải ở nơi xa, nhưng Xuân Diệu qua đây đã cho mọi người thấy rằng cõi tiên ở ngay trên mặt đất nơi chúng ta đang sống. Điều quan trọng là mỗi người có cảm nhận được điều đó hay không.

Người con gái đẹp, cũng có lúc vui vẻ tràn đầy sức sống, cũng như một câu thơ hay có lúc thăng hoa nhưng cũng có lúc suy tư chiêm nhiệm. Bên cạnh những câu thơ hay về niềm vui trước cuộc sống của mùa xuân thì vội vàng còn là sự nuối tiếc trước thời gian chảy trôi không ngừng trong khi tuổi xuân đời người lại hữu hạn ngắn ngủi.

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất,

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi răng Xuân văn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thăm lại”.

Nếu như người xưa cho rằng thời gian là tuần hoàn Đông qua, Xuân tới, quá trẻ sang già, hết kiếp này sang kiếp khác đó là điều đương nhiên. Nhưng đối với Xuân Diệu, ông nhìn sao thời gian trôi trẩy tuyến tính, một đi không trở lại đời người hữu hạn so với thời gian vô hạn đã gắn Tuổi Trẻ của con người so với nó lại càng ngắn ngủi hơn Xuân Diệu đã lấy tuổi trẻ làm thước đo của thời gian khiến người đọc như cảm thấy rơi vào sự suy tư lo lắng. Thời gian cứ trôi vạn vật cứ xa dần với cuộc sống. Nếu như trên coi là bức tranh mùa xuân xanh non, tình tứ thì bây giờ sự nhắn lại bao trùm khắp cảnh vật.

“Mùi tháng năm đều thắm vì chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt,

Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi,

Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,

Phải chăng hờn độ phai tàn sắp sửa,

Chẳng bao giờ tôi chẳng bao giờ nữa”.

Đoạn thơ như là tiếng than, tiếng thở dài sự nuối tiếc lo lắng về sự chảy trôi của thời gian, lan cả ra những thứ vô tri vô giác. Xuân Diệu như đang cảm nhận được tất cả đều sợ sệt trước sự tuyến tính vô tình của thời gian.

Cảnh vật thì lúc nào cũng đẹp nhưng thời gian cứ không ngừng trôi, con người không thể mãi mãi níu giữ thời gian mà chỉ đành phải chấp nhận. Thế nhưng không phải là không có cách, không phải là bất lực buông xuôi, để khống chế được điều đó Xuân Diệu đã khao khát giao cảm trực tiếp và tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc sống trần thế. Chỉ có như vậy con người mới có thể sống vui sống hạnh phúc chỉ có nhanh vội vàng thì cái đẹp mới không bị trôi đi lãng phí.

“ Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều,

Và non nước và cây và cỏ dại,

Cho chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi,

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.

Đầu tiên để ôm, để tận hưởng trọn vẹn được cuộc sống, sau đó là “siết”, để đi sâu kỹ càng, tiếp đó là “thâu” để say đắm, tràn ngập Xuân Diệu không đơn thuần chỉ nhìn cái bên ngoài mà còn phải cảm cái bên trong cho đến khi đã đẩy chếnh choáng, no nê. Nhưng vậy thôi vẫn chưa đủ cái khoái cảm cái bộc lộ trực tiếp mãnh liệt nhất của Xuân Diệu chính là “cắn”. Có người từng nhận xét Xuân Diệu hưởng thụ thiên nhiên như “hưởng thụ ái tỉnh”. Điều đó quả không sai và qua đây ta đã thấy rõ sự cảm nhận đó thật khác lạ mới mẻ táo bạo đến mãnh liệt.

Người con gái đẹp bên cạnh tâm hồn đẹp còn là cái đẹp về hình thức, nó cũng như Thơ. Thơ hay và thơ phải có cái đặc sắc về hình thức, bên cạnh cái ý nghĩa của nội dung và thiết tha ở tình cảm. Cái đẹp ở hình thức mà không được bộc lộ thì có mà gửi gắm được nội dung đến với người đọc. vội vàng quả thực là người con gái đẹp bởi không chỉ hàm chứa Nội dung sâu sắc mà còn có hình thức phù hợp đặc sắc. Điều đó thể hiện trước hết ở việc lựa chọn thể thơ tự do, với các dòng thơ dài ngắn không đều nhịp, thơ thay đổi linh hoạt phù hợp diễn tả cảm xúc sôi nổi dâng trào của thi sĩ. Hơn nữa bài thơ được cấu trúc theo lối triết luận vừa có sự hấp dẫn của cảm xúc mãnh liệt cháy bỏng, vừa logic chặt chẽ. Cuối cùng ngôn ngữ thơ vừa chính xác vừa mới mẻ táo bạo sử dụng nhiều động từ mạnh, các tính từ miêu tả kết hợp với các biện pháp tu từ như so sánh, điệp từ liệt kê, bút pháp tương giao làm nên vẻ hoàn thiện, hoàn mỹ của bài thơ.

Nếu như Xuân Diệu là nhà thơ có phong cách sống yêu đời thiết tha luôn vui tươi, tình tứ thì đến với Hàn Mặc Tử lại là một nhà thơ của sự đau buồn điên loạn. Cuộc đời ngắn ngủi nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời biết bao bài thơ hay càng độc càng bị lôi cuốn càng bị thu hút đến không ngờ. Trong số những bài thơ đó thì “Đây Thôn Vĩ Dạ”, có thể được xếp vào nhóm đầu vào những thi phẩm hay nhất của ông. Cảm xúc bao trùm bài thơ là tình yêu đến với mảnh đất con người xứ Huế, nỗi buồn mặc cảm chia ly xa cách và ước mong được đồng cảm sẻ chia đây chính là cái đẹp bên trong của người con gái, là cái ẩn ý của một bài thơ. Những cảm xúc mãnh liệt cao đẹp ấy được thể hiện ở ba khổ thơ với những sắc thái cụ thể.

Đến với khổ thơ thứ nhất đó là nỗi day dứt khi chưa về thăm thôn Vĩ. Đoạn thơ mở đầu bằng một câu thơ tu từ khá đặc biệt.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Mang biểu hiện là một câu hỏi nhưng tính chất của nó lại rất đa nghĩa. Đó còn có thể là lời mời lời trách móc của một cô gái trách chàng trai hay của chính anh trách anh. Nhưng dù sao đi chăng nữa nó vẫn là nỗi lòng da diết nhớ đến một miền quê xinh đẹp mình đã từng gắn bó thôn Vĩ. Chữ về với một cảm giác thân thuộc, trong khi đó chữ chơi lại gợi sự gần gũi đến thân thiết. Tất cả gợi lên được mảnh đất là máu và xương, là một phần không thể tách rời trong trái tim người nghệ sĩ. Phải chăng chính vì gắn bó như vậy, nên chỉ qua hai nét vẽ thôn Vĩ dường như đã hiện ra toàn diện trước mắt người đọc.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.

Thôn Vĩ nổi tiếng với những hàng cau thẳng tắp xanh tốt bốn mùa vào mỗi buổi sớm mai nắng dịu nhẹ chiếu lên thân cau càng khiến cho thôn Vĩ trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Không như vậy hình ảnh Vĩ Dạ được hiện lên còn quá cảnh vườn tược trần đầy màu xanh và sức sống. Sớm mai cũng là lúc xương dài ở cái nơi mưa nhiều nắng nhiều này. Chính vì vậy khi những giọt sương còn đọng trên lá, được ánh nắng chiếu vào khiến nó long lanh như màu ngọc bích gây ấn tượng mạnh với thi sĩ. Ông cha ta từng nói “yêu nhau yêu cả đường đi”. Vĩ Dạ vốn là mảnh đất của người con gái Hàn Mặc Tử, tình yêu Hoàng Cúc. Khi yêu nhau rồi dù nó có xấu thì trong tâm trí người kia vẫn là đẹp, huống gì Vĩ Dạ đã rất đẹp rồi thì vào tâm trí Hàn Mặc Tử nó không chỉ là đẹp mà còn thơ mộng và rất đỗi thiêng liêng. Không những cảnh Vĩ Dạ đẹp mà người Vĩ Dạ cũng rất đẹp.

 “Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Nét mặt đó hiện lên với bao nhiêu phúc hậu chân thật làm say đắm trái tim thi nhân. Hơn nữa con người nơi đây cũng rất chăm chỉ, bởi vậy mới có cảnh vườn tược xanh tốt thế kia.

Nếu như khổ thơ thứ nhất cái đẹp bộc lộ ở cảnh đẹp, người đẹp thì sang khổ thơ thứ hai cái đẹp bộc lộ ở tâm trạng. Đó là sự đau đau về thời khắc gặp gỡ còn kịp. Tâm trạng đó được mở đầu bằng hai câu thơ “Tả cảnh, ngụ tình”.

“Gió theo lối gió mây đường mây,

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.

Xưa nay gió, mây cùng lối thế mà giờ đây gió đi một hướng, mây theo một nẻo gợi cảm giác chia ly. Bên cạnh dòng sông buồn thiu là sự đu đưa của hoa bắp lay, gửi một cái gì đó mong manh, yếu ớt. Dường như tâm trạng thi nhân lúc này vừa buồn, vừa đau đớn, thất vọng để rồi từ đó là sự đau đáu hi vọng.

“Thuyền ai chờ bến sông trăng đó,

Có chở trăng về kịp tối nay”.

Sông trăng nghe như gì đó rất huyền ảo và thơ mộng, đối với người bình thường Trăng không về tối nay còn có tối mai, tối khác, còn đối với Hàn Mặc Tử Trăng không về tối nay thì quả thực là đã muộn, đã lỡ. Nhà thơ đau đáu đến khuôn nuôi nên khi đọc hai câu thơ đó tâm trạng người đọc cũng đồng cảm đến ray rứt, bồn chồn.

Cuối cùng đến với khổ thơ thứ ba đó chính là hoài nghi về sự bền chặt của tình người, tình đời Hàn Mặc Tử cách ly với đời nhưng luôn một lòng nhớ về Hoàng Cúc về mảnh đất Vĩ Dạ nhỏ bé thân thương.

“Mở khách đường xa khách đường xa,

Áo em trắng quá nhìn không ra”.

Giờ đây trong tâm trí của thi nhân còn có thể mơ được thôi. Mà càng mơ thì càng nhạt nhòa, giống màu áo trắng ẩn hiện trong mây trời sương khói. Khoảng cách ngày càng xa dần, con người ngày càng tiếc nuối với tình người, tình đời. “Em” lẽ nào chính là Hoàng Cúc chính là người để lại dấu ấn trong lòng thi nhân để rồi Hàn Mặc Tử đã viết:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,

Ai biết tình ai có đậm đà”.

Ở đây là Vĩ Dạ vùng đất mưa nhiều nắng nhiều hay là nơi Hàn Mặc Tử đang ở nhưng dù ở đâu thì đều khó nhận ra, khó nhìn được. Trong tâm trí thì nhân lúc bây giờ hắn đang bị vây bùa bởi những làn sương bất hạnh của cuộc đời. Bên ngoài cảnh vật liệu buồn thì chắc rằng lòng người càng không thể vui hơn. Nhưng trông chính lúc con người thế này Hàn Mạc Tử có thể có những suy nghĩ tình cảm chân thành và đúng đắn. Có lẽ vậy trăng lên Hàn Mặc Tử qua dòng thơ cuối cùng đã khẳng định chắc chắn rằng dù người xứ Huế, người Vĩ Dạ giờ đây có tình cảm thế nào với nhà thơ nhưng nhà thơ vẫn luôn nhớ về mảnh đất và con người nơi đây đến thắm thiết, khôn nguôi.

Bên cạnh nội dung đặc sắc với một tình cảm đậm đà thì Đây Thôn Vĩ Dạ còn là người con gái đẹp về cả bề ngoài hình thức.

Bài thơ được tổ chức làm ba khổ thơ dưới hình thức ba câu hỏi đầy day dứt băn khoăn ngôn ngữ được sử dụng giản dị chính xác tinh tế gợi cảm có nhiều lớp từ cực tả. Bút pháp bài thơ vừa cổ điển vừa hiện đại vừa tả thực vừa gợi tả mang màu sắc tượng trưng siêu thực cùng với các biện pháp nghệ thuật so sánh nhân hóa điệp từ được sử dụng thích hợp tạo nên vẻ đẹp hoàn mỹ của bài thơ.

Vội vàng và Đây Thôn Vĩ Dạ của thực là hai bài thơ hay là hai người con gái đẹp cả xác lẫn tâm. Cả hai bài thơ đều là tiếng nói mãnh liệt của Cảm Xúc con tim và được thể hiện qua một hình thức phù hợp gây ấn tượng với độc giả. Cũng qua hai bài thơ ta càng hiểu thêm được về ý kiến của Chế Lan Viên nó không chỉ là thước đo đánh giá bài thơ mà còn là đặt ra yêu cầu sáng tác đối với nhà thơ và tiếp nhận đối với người đọc. Đối với người cầm bút luôn phải sống thật sâu với cuộc đời phải có cảm xúc mãnh liệt và thể hiện bằng một lớp vỏ độc đáo. Đối với độc giả tìm đến với Thơ cần lấy hồn ta để hiểu hồn người phải thấy cái đẹp ở thơ qua từng câu từng chữ.

Người Trung Hoa xưa đã nhận xét thơ hay như người con gái đẹp cái để làm quen là nhan sắc nhưng cái để sống với nhau lâu dài là Đức Hạnh. Chứ nghĩa là nhan sắc của thơ tấm lòng mộc là Đức hạnh của thơ.

Dường như ý kiến trên rất giống với nhận định của Chế Lan Viên. Thơ hay bao giờ cũng để lại được ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi người vội vàng của Xuân Diệu và Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử xứng đáng là minh chứng tiêu biểu cho điều đó. Không những có để ngoài tiêu biểu đẹp đẽ độc đáo mà ý thơ cũng rất chân thật mãnh liệt. Có lẽ chính vì vậy giá trị của bài thơ sẽ còn tồn tại mãi đến với người đọc cả hôm nay và mai sau.

Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn thầy cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.

Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - mẫu 8

Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày bài so sánh hai tác phẩm thơ “Tràng giang” của Huy Cận và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử ạ.

Nhận xét về Thơ Mới, trong tuyển tập  Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn neo neo theo hồn ta”. Nỗi buồn, cái tôi đó gặp nhau bởi những tâm hồn đồng điệu. Đặc biệt là những nhà thơ lấy thiên nhiên làm chủ đạo. Phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) cũng vậy, nó đưa tình cảm mênh mang trong “Tràng giang” của Huy Cận đến với nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.

Được biết đến là những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới (1939 – 1945), Hàn Mặc Tử và Huy Cận đã có một vị trí khá tốt trong thi đàn văn học Việt Nam. Hàn Mặc Tử với cuộc đời bi thương, hồn thơ phong phú, kì lạ và có cái “điên” của  riêng mình. Ông luôn bộc lộ một tình yêu đau đớn hướng về trần thế. “Đây thôn Vĩ Dạ” là tác phẩm xuất sắc thể hiện tấm lòng tha thiết với cuộc sống của thi nhân. Còn Huy Cận – hồn thơ cổ điển, giàu suy tưởng và triết lí, nổi bật về cảm hứng thiên nhiên. “Tràng Giang” là một bài thơ xuất sắc thể hiện nỗi buồn sầu trước tạo vật mênh mông, hoang vắng, u buồn và luôn mang một tình yêu thầm kín đáo với quê hương, đất nước.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức thư của Hàn Mặc Tử gửi một cô gái mang tên Kim Cúc, là tiếng lòng, là lời mời, là nỗi nhớ nhung của anh chàng thi sĩ. Bài thơ được ra đời trong thời gian Hàn Mạc Tử đang bệnh nặng, nên nỗi buồn dường như còn phảng phất trong từng câu, từng chữ. Mở đầu bài thơ dường như là lời chào mời, trách móc nhẹ nhàng thông qua câu hỏi tu từ đa sắc thái và đa nghĩa.

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

“Sao anh không về chơi”, chữ “về chơi” gợi lên cảm giác gần gũi, gắn bó, thân thiết và có sự trách yêu chàng trai của mình. Thôn Vĩ nằm cạnh bờ sông Hương là địa danh đẹp của xứ Huế mộng mơ với khung cảnh “sắc nước nghiêng trời”. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của thôn Vĩ dần dần hiện ra dưới ngòi bút tinh tế của người thi sĩ. Điệp từ “nắng” hiện lên khiến ta cảm thấy ánh nắng tinh khôi, trong trẻo của buổi sáng mai tinh khiết, nhẹ nhàng làm cho không gian ở vùng quê trở nên lung linh, yên bình hơn. Không gian dường như cao và xanh hơn nhờ anh nắng ban mai. “Vườn ai” như ám chỉ một khu vườn nhà “ai” đó mà chỉ có “ai” mới biết. Thật tinh tế, kín đáo mà sâu sắc. Hàn Mặc Tử đã dùng biện pháp so sánh để miêu tả màu xanh - “xanh như ngọc”. Một bể ngọc xanh tươi, trong trẻo, mát lành và căng tràn sức sống. Giữa khung cảnh thiên nhiên nên thơ và trữ tình đó bỗng có thấp thoáng nơi đâu bóng dáng con người. Có một sự bí ẩn nào đó che đi sau lá trúc… Trúc là loại cây thường biểu tượng cho người quân tử, còn gương mặt chữ điền là gương mặt phúc hậu, tròn đầy. Có lẽ có một vị khách bí ẩn nào đó đã ghé về thôn Vĩ nhưng “ai” không hay biết. Đang một màu xanh mát bỗng nhiên mọi thứ trở nên chùn lại…

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay.

Gió và mây thường sẽ quyện vào nhau, nhưng ở đây, lại là “gió theo lối gió, mây đường mây”. Dường như có một sự chia lìa đến não nề và đau lòng. Hình ảnh “hoa bắp lay” nhẹ nhàng và rơi rụng xuống “dòng nước buồn” khiến cho người đọc có cảm giác có cái gì đó đang vỡ tan ra. Cảnh vật dường như mang trong mình một linh hồn của con người, nó có những nỗi buồn thật đẹp. Hay bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ? (Nguyễn Du). Nỗi buồn này mang dư vị rất riêng, rất là “buồn thiu”, buồn đến não nề, tê tái. Như vậy, thi nhân đã mượn hình ảnh thiên nhiên để nói đến nỗi lòng của mình hiện tại ư?

Tiếp theo, thuyền và trăng luôn là cảm hứng của thơ ca. Hàn Mạc Tử đã khéo léo mượn hình ảnh thuyền và trăng để nói lên  nỗi lòng của chính mình. Đến đây, người đọc dường như cảm nhận được một điều gì đó mơ hồ, kì ảo. Không phải là một con sông bình thường mà là dòng “sông trăng” rất nên thơ, kì ảo và huyền diệu. Có lẽ đây là một đêm trăng đẹp, một đêm trăng tròn đầy và viên mãn nhất. Câu hỏi tu từ vang lên ở cuối khổ thơ nhưng không ai trả lời. Một từ “kịp” khiến cho câu thơ trở nên hối hả và gấp gáp hơn bao giờ hết. “Kịp” trở về để làm gì? Là kịp yêu kịp thương hay là kịp gặp gỡ?

Có lẽ vì nỗi nhớ quá lớn, quá đầy nên hình ảnh “khách đường xa” đã lạc bước vào giấc mơ của người thi sĩ “Mơ khách đường xa khách đường xa”. Đúng vậy, nó vừa gần nhưng cũng lại vừa thật xa, thật không thể chạm đến được như câu “gần ngay trước mắt, xa tận chân trời”. Đó cũng chính là sự ngóng trông, đợi chờ mòn mỏi của thi nhân cho mối tình của mình. Khổ thơ cuối với gam màu trắng chủ đạo lại càng tăng thêm tính mơ hồ, kì ảo của bài thơ. Hàn Mặc Tử băn khoăn không biết mối tình của mình và cô gái xứ Huế sẽ đi đến đâu, liệu rằng tình người ta có còn đậm đà “Ai biết tình ai có đậm đà” như lời người hứa hay không?

Nhìn chung, “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ tao nhã, xinh xắn, lần theo một mối tình đơn phương và thuần khiết, ta cảm thấy được một thế giới tâm hồn tha thiết yêu người, yêu cảnh, yêu đời. Dù có gặp bi kịch nhưng vẫn không thôi hi vọng.

“Thơ đi từ cái hiện thực đến cái ảo ảnh, từ cái ảo ảnh đến cái huyền diệu, từ cái huyền diệu đến cái chiêm bao. Bao trùm cả bài thơ là một thế giới mơ.” Có lẽ quan niệm đó được thể hiện rõ trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.

Tràng Giang là bài thơ được sáng tác vào năm 1939, in lần đầu tiên trên báo "Ngày nay" sau đó in trong tập "Lửa thiêng" - tập thơ đầu tay của Huy Cận. Ngay khi đọc tên bài thơ, ta có thể hình dung được tâm tư và tình cảm mà tác giả gửi gắm trong bài. Bài thơ với tựa đề hiện ra một con sông dài, mênh mông, bát ngát. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi, u sầu. Câu đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" tiếp tục khẳng định nỗi niềm u uất, không biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của dòng sông.

Khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con sông buồn, chất chứa những nỗi niềm khó tả:

"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng."

Vừa mới đọc khổ đầu tiên, người đọc thấy được không khí u sầu, buồn bã thông qua các từ "buồn", "sầu", "lạc cành khô". Nếu như câu thứ nhất gợi lên những vòng sóng đang loang ra và lan xa, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước chảy song song, rong đuổi về phía cuối trời. Nhưng chỉ cần một gợn sóng ấy thì Tràng giang đã "buồn điệp điệp". Từ láy hoàn toàn "điệp điệp" như diễn tả nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác. Hình ảnh con thuyền "xuôi mái nước song song" lại gợi về cảm giác đơn độc trên dòng nước mênh mông vô tận.

Hai câu thơ kết hợp lại làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn ra theo chiều dài. Trong câu thơ thứ ba, "thuyền" và "nước" vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau… Thế nhưng dưới con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này là hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa. Với nghệ  "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông. Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu tiên tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên buồn và ảm đạm. Nét bút kết hợp giữa cổ điển và hiện đại giúp người ta đọc rõ hơn về tâm trạng của kẻ thi sĩ. Khổ thơ thứ hai vẽ nên lại là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu và thiếu sức sống:

"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."

Chỉ cần qua vài nét chấm phá của nhà thơ đã hiện lên bức tranh quê ảm đạm, thiếu sức sống. Với cách dùng từ ngữ đặc sắc của Huy Cận, ông đã gợi lên một khoảng không vũ trụ sâu thăm thẳm, ở đó cũng là lúc nỗi buồn, nỗi cô đơn của nhà thơ dâng lên cao, trở nên vô cùng vô tận. Một góc nhìn đầy thú vị và mới mẻ. Toàn cảnh khổ hai là một gam màu cô đơn, vắng vẻ, sầu muội; đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhấn mạnh hơn nỗi u sầu vạn cổ:

"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thân mật

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."

Khổ thơ cuối là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ ca truyền thống và thơ ca hiện đại: là sự kết hợp những nét cổ điển trong thơ Đường với cái tôi cá nhân xuất hiện trong phong trào thơ mới. Với việc sử dụng nhuần nhuyễn những từ láy và những câu đảo ngữ, Huy Cận đã thành công trong việc miêu tả cảm xúc vũ trụ. Điều này thể hiện qua vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, sự thơ mộng nhưng không quên thấm đượm nỗi buồn tâm trạng của người thi sĩ. Đó chính là “nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước” (Huy Cận). Nỗi buồn đó được khơi nguồn từ con tim ra ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim, lặng lẽ mà sâu nặng, yên tĩnh mà mãnh liệt vô cùng:

“Một chiếc linh hồn nhỏ

Mang mang thiên cổ sầu”

(Ê chề - Huy Cận)

Đặc sắc nghệ thuật trong "Tràng giang" trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Cổ điển (thơ Đường thi) và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt như tràng giang, bến cô liêu,...cùng với đó là đề tài thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được thể hiện thông qua cái tôi giàu cảm xúc, hình ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy, phép đối cũng góp phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ rộng lớn.

Với "Tràng giang", Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của "cái tôi" trước ngân hà rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của mình.

Thông qua hai bài thơ ta thấy được sự đồng điệu, gặp gỡ của hai thi nhân đó là miêu tả bức tranh thiên nhiên trời - nước, cảnh vật. Qua đó bộc lộ nỗi buồn và tình yêu của mình đối với tạo vật thiên nhiên và cuộc sống. Hơn thế nữa, cả hai đều sử dụng rất nhuần nhuyễn thể thơ thất ngôn điêu luyện, kết hợp tả cảnh ngụ tình và miêu tả trực tiếp.

Tuy nhiên chỉ gặp nhau ở một tư tưởng nhất định, mỗi bài thơ của mỗi tác giả đều có một nét hay, nét đẹp riêng. “Đây thôn Vĩ Dạ” là viết về nỗi buồn của một người khát khao được sống, được yêu và thiết tha gắn bó với cõi đời, cõi người nhưng lại cảm thấy mong manh và vô vọng; bài thơ được viết từ những thi liệu trực quan từ trải nghiệm của chính mình. Còn “Tràng Giang” là nỗi buồn rợn ngợp trước tạo vật mênh mông, hoang vắng cùng mặc cảm của thi nhân, của nhân vật trữ tình khi đứng trên quê hương; bài thơ thành công bởi những thi liệu cổ điển từ trong thơ Đường.

Như vậy, thiên nhiên chính là tình yêu, là nguồn cảm hứng bất tận đối với người thi nhân. So sánh Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ ta có thể thấy được điều đó qua từng câu từng chữ trong bài.

Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn thầy cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.

Xem thêm các bài văn mẫu 12 Cánh diều hay khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 12 hay khác:


Giải bài tập lớp 12 Cánh diều khác