Thuyết minh về lễ hội dân gian (điểm cao)



Thuyết minh về lễ hội dân gian hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Đề bài: Hãy giới thiệu và thuyết minh về một lễ hội dân gian.

Thuyết minh về lễ hội dân gian - mẫu 1

Bạch Hạc, Việt Trì thuộc tỉnh Phú Thọ, một vùng quê sông nước mênh mông, đồng lúa bát ngát. Đó cũng là một vùng quê có lễ hội bơi trải, đua trải kéo dài trong hai tháng, tháng 5 và tháng 6 âm lịch hàng năm, và được gọi là "tiệc bơi".

Bơi trải gắn liền với hội làng, để tế thần cầu mong mưa thuận gió hòa, được mùa, an cư lạc nghiệp, thanh bình. Đào Xá thờ Lý Bôn, Kẻ Rau thờ Tam Giang Đại Vương, Thổ Lệnh, Kẻ Hạc cũng thờ Tam Giang Đại Vương là thủy thần Ngã ba sông. Còn Kẻ Me lại thờ Đăng Đạo Song Nga và Đức Thánh Tản Viên, Đức Bác thờ Bát Nàn công chúa, An Đạo thờ Long Xà Đại Vương và Út Soi Đại Vương ... .

Chỉ có xã Đào Xá tổ chức bơi trải vào ban đêm:

Mồng chín có Tiệc anh ơi,

Mồng mười hạ trải xuống bơi thờ thần.

Trai thanh tân bước vào đòn kiệu

Trống kiệu vào là trống canh ba

Trải bơi ra, ngọn cờ phe phấy

Trải bơi vào, cờ phất trống rung ...

(Dân ca)

Các làng khác đều thi bơi trải vào ban ngày. Con thuyền đua rất dài, thọn nhỏ, chia thành 24 khoang, có 48 chèo (24x2), một người cầm lái ngồi ở đuôi thuyền, một người đứng giữa thuyền phất cờ điều và đánh trống. Các tay chèo là trai tân ( chưa vợ), rất lực lưỡng, cường tráng. Ở Lương Nha bơi trải có năm thuyền con trai đua với năm thuyền con gái, vui đáo để.

Vùng Ngã ba Bạch Hạc có bài ca nói về các hội bơi trải trong vùng:

Rau gác, Hạc bơi,

Hạc gác, Me bơi,

Me gác, Đức Bác bơi,

Đức Bác gác, Dạng bơi ...

Hội bơi trải ở làng này vừa rã đám,thì hội bơi trải ở làng khác lại cờ mở trống rung. Mùa lễ hội dân gian diễn ra tưng bừng náo nhiệt.

Ở Phú Thọ, hội bơi trải Kẻ Hạc và Kẻ Mơ là đông vui nhất, năm nào cũng có hàng vạn người gần xa kéo về dự hội

Sau Kẻ Rau là đến hội trải Kẻ Hạc, diễn ra vào ngày 20 tháng 5 âm lịch. Kẻ Hạc có bốn giáp, mỗi giáp một màu cờ sắc áo riêng: màu trải, màu mái chèo, mũ, áo quần các tay chèo phải cùng màu theo luật lệ quy định: Trải Tiên Hạc màu xanh, trải Thần Trúc màu đỏ, trải Đồng Nam màu trắng, và trải Bộ Đầu màu vàng.

Buổi sáng ngày tiệc tế, các nam phụ lão ấu nhất là các thôn nữ mặc quần áo đẹp kéo ra đứng đông nghịt trên bờ, tiếng chiêng trống nổi lên vang dội xóm làng. Khi các tay chèo đã ngồi vào khoang, tay nắm mái chèo sẵn sàng, các trải dàn hàng ngang đều tăm tắp, thì một hồi trống rung lên, cuộc thi bắt đầu. Trống mõ thúc liên hồi kì trận. Hàng ngàn hàng vạn người reo hò. Các tay trải cúi rạp người chém mái chèo xuống nước, cánh tay hối hả, miệng hô: " Dô huỵch! Hồ huỵch !" Những con trải lướt băng băng, như những múi tên lướt về phía trước. Các trải xuất phát từ đình Hạc qua bến Gút đến Tiên Cát cầu Việt Trì, quay trở lại bến Gút về đỗ trước bến Hạc giữa tiếng trống , tiếng hò như sấm dậy. Ánh mắt các thiếu nữ sáng ngời lên ...

Hội bơi trải Kẻ Me diễn ra ba ngày sau đó, từ 25 đến 27 tháng 5 âm lịch. Kẻ Me có 3 giáp : Phù Yên, Bồ Thôn và Hạc Đình. Mỗi thôn có một thuyền rồng bằng gỗ chò, hai đầu sơn đỏ, giữa sơn đen. Mỗi thuyền chỉ có 40 người, 38 tay chèo, 1 bẻ lái, 1 cầm cờ. Ngày 24 hạ trải ở sông Phó Đáy, sáng 25 đua trải từ đình tới làng Diệm Xuân, chiều 26 bơi tới bến Cả làng Nghĩa Yên, sáng 27 đua tới đình làng Hội Chữ. Chiều 26, cuộc thi bơi " cướp cờ" là háo hức, sôi động nhất. Chiều 27 bơi rước kiệu về Ngã Ba Chạ để " tiễn thánh về".

Hội bơi trải ở vùng Bạch Hạc, Việt Trì đã có hàng nghìn năm nay. Một lễ hội dân gian đậm đà màu sắc văn hóa- văn minh sông Hồng, cái nôi của nền văn minh Lạc – Việt.

Thuyết minh về lễ hội dân gian - mẫu 2

Lễ hội mừng lúa mới là biểu tượng văn hóa quý báu của cộng đồng dân tộc Tây Nguyên, kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lễ hội không chỉ là dịp vui tươi, mà còn là bản năng gìn giữ và thể hiện lòng đoàn kết mạnh mẽ trong cộng đồng.

Trên đất nước Việt Nam, mỗi dân tộc đều mang đến những nét đẹp văn hóa riêng, như lễ hội Đền Hùng của người Kinh, lễ hội Cầu mưa của các dân tộc ở vùng núi phía Bắc, và ở Tây Nguyên, lễ hội mừng lúa mới là nét đặc trưng rực rỡ của họ.

Lễ mừng lúa mới là nét văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc Tây Nguyên như Xơ Đăng, Gia Rai, Ba-na, M'nông, Ê-đê,... diễn ra vào tháng 11 hoặc sau Tết Nguyên Đán. Đây là dịp quan trọng để cả cộng đồng tận hưởng niềm vui sau một vụ mùa năng suất.

Lễ hội mừng lúa mới diễn ra qua hai phần chính: lễ và hội. Phần lễ được tổ chức bởi già làng, chọn đất đẹp nhất để cúng thần La Pôm. Mọi người tham gia chuẩn bị thức ăn và vật dụng cúng, thể hiện lòng đoàn kết trong cộng đồng. Sau phần lễ trang trọng, diễn ra phần hội với sự vui chơi, nhảy múa, hát hò, thể hiện tinh thần đoàn kết và vui mừng của cộng đồng.

Sau lễ, mọi người tự do vui chơi tại nhà rông, tham gia ăn uống, nhảy múa hát hò. Đây là dịp để cả làng sum họp, tỏ lòng biết ơn với thần La Pôm và các vị thần. Lễ mừng lúa mới gắn bó với niềm vui, tình đoàn kết, thiêng liêng của người dân Tây Nguyên.

Lễ hội mừng lúa mới là biểu tượng văn hóa quý báu của cộng đồng dân tộc Tây Nguyên. Nó không chỉ là dịp vui tươi, mà còn là nét đẹp của sự giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống qua nhiều thế hệ.

Thuyết minh về lễ hội dân gian - mẫu 3

Từ xưa đến nay, các lễ hội luôn là một phần không thể thiếu với đời sống tinh thần của mỗi người dân Việt Nam. Mùa xuân được coi là mùa của lễ hội bởi trong thời gian này có rất nhiều những lễ hội diễn ra với mong ước cầu cho một năm mới bình an, thịnh vượng, vạn sự như ý. Nhắc đến những lễ hội được diễn ra vào mùa xuân, lễ hội khai ấn đền Trần là một lễ hội đặc trưng. Đây là một lễ hội được tổ chức để tri ân những công lao to lớn của các vị vua nhà Trần và sự ra đời của lễ hội này cũng gắn liền với lịch sử hình thành của đền Trần.

Như chúng ta đã biết, đền Trần là một ngôi đền được xây dựng nên để thờ tự mười bốn vị vua nhà Trần cùng với những quan lại phò tá. Ngôi đền được xây dựng trên nền của Thái Miếu cũ mà đã bị quân Minh phá huỷ vào khoảng thế kỉ XV, ngày nay ngôi đền tọa lạc tại đường Trần Thừa, thành phố Nam Định. Nhà Trần xây dựng cơ đồ, sự nghiệp tại vùng đất Tức Mạc - đây được coi là vùng đất phát tích đế vương. Vào năm 1239, vua Trần đã cho xây nên các cung điện và nhà cửa ở nơi đây và đổi tên Tức Mạc thành phủ Thiên Trường và năm 1262. Khi nhà Trần suy vong, những cung điện, đền đài nguy nga tráng lệ nơi đây đã trở thành những tàn tích ghi dấu một thời vàng son, oanh liệt của lịch sử. Sau khi giặc Minh bị đánh tan, quần chúng nhân dân nơi đây vì ghi nhớ tới công lao to lớn của vương triều này nên đã xây dựng lên đền thờ để ghi nhớ công lao và hằng năm tổ chức lễ hội để con cháu đời sau luôn ghi nhớ tới công ơn ấy của những vị vua đã trị vì đất nước, đưa đất nước phát triển.

Theo những điều được ghi chép lại trong các loại sử sách, tài liệu thì ban đầu đền Trần được gọi là nhà thờ Đại Tôn. Cho tới năm 1695, đền mới được xây dựng lên bằng gỗ lim và chính thức được gọi tên là Trần Miếu vào năm 1705. Vào năm 1852, khi đền Thiên Trường trải qua một cuộc đại tu, người ta đã đào lên được một tấm bia đá, trên đó có khắc dòng chữ: 'Hưng Đạo thân vương Cố Trạch" (Dịch: Nhà của Hưng Đạo vương ở Cố Trạch). Ngay sau đó, nhân dân đã dựng lên đền Cố Trạch ở tại đây để thờ Hưng Đạo Vương cùng phụ mẫu và vợ của ông là Thiên Thành công chúa.

Quần thể khu di tích đền Trần gồm có đền thờ là: đền Thiên Trường (đền Thượng), đền Cố Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Để đi vào đến khu đền thờ này, trước hết ta phải đi qua ngũ môn tới một hồ nước có hình chữ nhật. Ở chính giữa phía sau hồ là đền Thiên Trường, phía Tây của đền Thiên Trường là đền Trùng Hoa còn ở phía Đông là đền Cố Trạch. Cả ba ngôi đền này cùng được xây dựng theo một lối kiến trúc và có quy mô tương đương với nhau. Mỗi đền đều gồm có toà Tiền Đường năm gian, tòa Trung Đường năm gian và toà Chính Tổng ba gian. Khi nhà Trần chống giặc Nguyên Mông, để thực hiện chính sách vườn không nhà trống nên đã cho toàn bộ quân lui về Thiên Trường. Trải qua biết bao nhiêu những biến động trong lịch sử, con ấn cũ của triều nhà Trần đã bị thất lạc. Bởi vậy mà tới năm 1822, khi mà vua Minh Mạng ghé thăm Thiên Trường đã cho khắc lại một con ấn mới với dòng chữ: "Trần triều điển cố - Tích phúc vô cương" để nhắc nhở nhân dân, con cháu đời sau nhớ về tích xưa, nghĩa cũ. Để lễ hội đền Trần có thể bắt đầu, mở màn chính là lễ khai ấn.

Lễ khai ấn là một nghi lễ tế tổ tiên của dòng họ nhà Trần, được tổ chức lần đầu tiên vào khoảng những năm 1239. Trong ngày này, vua sẽ mở tiệc để thiết đãi và phong tước vị cho những quan lại có công lao với triều đình ở Phủ Thiên Trường. Vào khoảng thời gian chống giặc Mông, việc tổ chức nghi lễ này bị tạm ngừng lại cho tới năm 1269, dưới thời vua Trần Thánh Tông mới được tổ chức lại. Từ thời điểm này, lễ khai ấn đền Trần được tổ chức hằng năm từ khoảng lúc mười một giờ đêm ngày mười bốn cho tới một giờ sáng ngày mười lăm. Đây cũng là một nghi thức coi như việc nhắc nhở rằng những ngày Tết Nguyên Đán đã kết thúc và mọi người cần chuẩn bị để quay lại với công việc lao động sản xuất.

Lễ khai ấn đền Trần được tổ chức vô cùng long trọng. Các làng phải rước kiệu về đền Thiên Trường để tổ chức lễ tế các vị vua Trần. Những vị bô lão sẽ tề tựu về đây với những áo dài, khăn xếp chỉnh tề để cùng với dân làng làm lễ tế và dự lễ khai ấn. Hòm ấn được đặt vô cùng ngay ngắn, trang trọng ở trên ban thờ, trong hòm ấy có hai con dấu được làm bằng gỗ. Đến đúng giờ Tý, tức khoảng mười một giờ đêm cho tới một giờ sáng, người làm lễ tế chính sẽ làm lễ ở tại đền Cố Trạch để xin đưa ấn lên kiệu và rước sang đền Thiên Trường. Khi tới đền Thiên Trường, người làm lễ sẽ dâng hương để báo cáo trời đất ở bàn thờ Trung thiên, sau đó rước ấn vào nội cung, đưa lên ban công đồng và làm lễ xin khai ấn.

Lúc đã hoàn tất xong xuôi những thủ tục trên, người bồi tế sẽ dùng một loại giấy dân gian của Việt Nam được gọi là giấy điệp lên trước tế chính. Khi chiêng trống nổi lên, người chủ tế sẽ sử dụng chiếc ấn đóng mực đỏ vào tờ giấy điệp đó, cạnh dấu son trên tờ giấy phải ghi rõ được ngày, tháng, năm và cần có sự tính toán làm sao khi viết đến chữ cuối phải là chữ sinh. Tương truyền, người may mắn có được tờ giấy điệp đã đóng ấn ấy đem về nhà treo lên những nơi trang trọng như từ đường, phủ hay tại gia sẽ giúp đuổi trừ ma quỷ, nhận được những điều tốt lành trong năm đó. 

Lễ hội khai ấn đền Trần là một nghi lễ vô cùng trang trọng, nhắc nhở con cháu luôn nhớ đến công ơn của những vị vua nhà Trần ngày trước. Bên cạnh đó, việc tổ chức lễ hội khai ấn cũng là một cách để giáo dục thế hệ sau biết yêu nước, chống giặc ngoại xâm và luôn có ý thức bảo vệ, gìn giữ bờ cõi của đất nước. 

Thuyết minh về lễ hội dân gian - mẫu 4

Mỗi vùng đất đều có một phong tục tập quán riêng. Và các lễ hội cũng vậy, không vùng nào giống vùng nào. Như thế mới tạo nên nét đặc trưng riêng của vùng đó. Tháng Giêng năm ngoái em có dịp được đi Hải Phòng và xem lễ hội Chọi trâu. Đây là lần đầu tiên em được chứng kiến cảnh chọi trâu đầy ấn tượng như thế này.

Lễ hội Chọi trâu không phải vùng nào cũng có, ở quê em không có lễ hội này. Ở Hải Phòng, lễ hội Chọi trâu được diễn ra vào mùa xuân. Vì đây là thời điểm mọi người có thời gian vui chơi, nghỉ ngơi tham gia các lễ hội dành cho mùa xuân.

Ở đây người dân chuẩn bị một cái sân thật to và thật rộng, hai làng sẽ chuẩn bị hai con trâu khỏe nhất mang ra chọi nhau. Khi con trâu nào ngã quỵ trước là thua cuộc và ngược lại. Hai con trâu chọi có màu đen thẫm, làn da bóng nhẫy nhìn rất khỏe khoắn và đầy sức mạnh. Hai đôi mắt long lanh của hai chú trâu cứ nhìn chằm chằm vào nhau.

Hai con trâu bắt đầu tiến gần lại với nhau, chân đạp đạp xuống đất và mũi không ngừng thở. Sừng trâu cong vút lên, khỏe mạnh và hình như chúng đang chuẩn bị tâm thế để bước vào cuộc chiến gay go, ác liệt nhất. Hai chú trâu cứ thế lao vào nhau, sừng cọ nhau, húc nhau và xô đẩy nhau không phân thắng bại.

Xung quanh tiếng hò hét của những người dân khiến cho không khí của lễ hội chọi trâu trở nên náo nhiệt và vui vẻ hơn bao giờ hết. Hai chú trâu đang hì hục chiến đấu ở trên sân nền cỏ, chân của chúng làm cho những đám bỏ bị bật gốc trơ trọi ở trên mặt đất. Thi thoảng chú trâu kia húc mạnh chú trâu này khiến cho chân của trâu bị lún xuống một hố nông nhưng cũng đủ khiến cho người xem cảm thấy trận chiến đang diễn ra ác liệt.

Chú trâu làng bên vì có sức khỏe dai và mạnh hơn nên đã húc chú trâu làng bạn một cái. Nhưng may sao chú trâu kia có sức kháng cự nên bật lại. Cả hai chú vẫn đang khiến người xem thót tim không biết bao nhiêu lần. Nhưng cuối cùng chú trâu to con hơn của làng bên đã làm ngã khuỵu chú trâu còn lại và kết quả lễ hội chọi trâu đã được công bố. Em rất ấn tượng với lễ hội này ở Hải Phòng.

Thuyết minh về lễ hội dân gian - mẫu 5

Từ bao đời nay, trong đời sống văn hoá tâm linh và tinh thần của người dân Việt Nam những lễ hội đã trở thành một phần quan trọng không thể thiếu được. Một trong những lễ hội được coi như là điểm tựa cho văn hoá, tâm linh chính là lễ hội Đền Hùng (hay còn gọi là ngày Giỗ Tổ Hùng Vương) được tổ chức thường niên vào ngày mùng 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm:

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba

Khắp miền truyền mãi câu ca

Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm

Theo những ghi chép lịch sử, lễ hội đền Hùng đã được tổ chức từ lâu đời. 

Lễ hội đền Hùng là một trong những lễ hội lớn của cả quốc gia. Cứ năm năm một lần (vào những năm chẵn), ngày giỗ tổ được tổ chức theo nghi lễ của quốc gia, vào những năm còn lại sẽ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Lễ hội này được tổ chức vô cùng long trọng và có hai phần chính là phần lễ và phần hội.

Mở đầu lễ hội đền Hùng là phần lễ với lễ rước kiệu và lễ dâng hương. Lễ rước kiệu được tổ chức vô cùng long trọng và trang nghiêm tại đền Thượng, trong một khung cảnh với lộng lẫy cờ hoa. Ngay từ chiều ngày mùng 9 tháng Ba Âm lịch, các làng đã nô nức đưa kiệu đặt lễ vật của mình về tập trung tại nhà bảo tàng dưới chân núi để chuẩn bị cho ngày hôm sau. Tới sớm ngày mùng 10, các đoàn đại biểu của Trung ương, địa phương tập trung lại, có xe tiêu binh rước vòng hoa dẫn đầu để đi tới chân núi Hùng để tiến hành nghi lễ. Các đoàn đại biểu xếp thành hàng đi theo sau kiệu lễ, tiếng nhạc của phường bát âm và đội múa sinh tiền cũng bắt đầu vang lên. Khi đoàn người tới cửa "Điện Kính Thiên", tất cả đều dừng lại, thành kính dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Sau khi lễ rước kiệu kết thúc, lễ dâng hương ngay lập tức được tiến hành. Đây là lúc mà những người con nước Việt từ khắp mọi miền Tổ quốc đã tề tựu về đây dâng lên những nén hương, bày tỏ lòng thành kính, luôn ghi nhớ đến cội nguồn, gốc tích. 

Khi phần lễ được tổ chức xong cũng là thời điểm phần hội bắt đầu trở nên náo nhiệt, tưng bừng ở xung quanh khu di tích đền Hùng. Phần hội mang tới cho những người tham gia sự vui vẻ, thoải mái và hào hứng. Trong phần này, các trò chơi dân gian quen thuộc như đu quay, đấu vật, đánh cờ tướng... được tổ chức và thu hút rất nhiều người đến xem và tham gia. Ngoài ra, đây cũng là một dịp để truyền bá những nét đẹp văn hoá của địa phương đến với du khách từ những nơi khác trong nước đến cũng như bạn bè quốc tế. Đặc biệt, trong phần hội không thể thiếu đi những màn giao lưu văn hoá, văn nghệ, nhất là những làn điệu hát Xoan, hát Ghẹo vô cùng hấp dẫn, mang đậm dấu ấn của mảnh đất Phú Thọ. Bên cạnh những hoạt động văn hoá, thể thao, trong khu vực diễn ra lễ hội cũng có những gian hàng lưu niệm bày bán các vật phẩm để du khách ghé thăm có thể mua về làm quà.

Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống vật chất cũng đã dần được ổn định thì chúng ta càng cần phải bảo tồn, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hoá, tinh thần cao đẹp. Với mỗi người dân Việt Nam, lễ hội đền Hùng luôn là một dịp để chúng ta bày tỏ sự thành kính, ghi nhớ công lao dựng nước của tổ tiên ngày trước để giờ đây chúng ta có được một cuộc sống tốt đẹp hơn. 

Thuyết minh về lễ hội dân gian - mẫu 6

Lễ hội là một trong những nét văn hóa của dân tộc ta, nó không chỉ là nơi để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta. Mỗi một quê hương có những lễ hội riêng, tiêu biểu có thể kể đến lễ hội cầu ngư – lễ hội cá ông.

Có thể nói nhắc đến cái tên lễ hội ấy thì chúng ta hẳn cũng biết là lễ hội của những ai. Nói đến cá thì chỉ có nói đến nhân dân vùng ven biển sinh sống bằng nghề đánh bắt cá. Chính đặc trưng ngành nghề ấy đã quyết định đến tín ngưỡng của họ. Những người sống ven biển miền trung thường có tục thờ ngư ông. Chính vì thế cho nên hàng năm họ thường tổ chức vào các năm giống như những hội ở miền Bắc. Họ quan niệm rằng là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đã trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa phương nói trên.

Ở mỗi địa phương thì thời gian diễn ra lễ hội truyền thống lại diễn ra khác nhau. Ở Vũng Tàu thì được tổ chức vào 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lại được tổ chức vào 14 – 17/18 âm lịch hàng năm. Nói chung dù diễn vào thời gian nào thì tất cả những lễ hội ấy đều nói lên được nét đặc trưng văn hóa của nhân dân ven biển. Đồng thời nó thể hiện khát vọng bình yên, cầu mong cuộc sống ấm no hạnh phúc thịnh vượng của họ. Lễ hội Ngư Ông còn là nơi cho mọi người tưởng nhớ đến việc báo nghĩa, đền ơn, uống nước nhớ nguồn.

Tiếp đến chúng ta đi vào phân tích phần lễ hội ngư ông. Trước hết là phần lễ thì bao gồm có hai phần:

Thứ nhất là lễ rước kiệu, lễ rước đó là của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Khi ấy những ngư dân sống trên biển và bà con sẽ bày lễ vật ra nghênh đón với những khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thủy tướng, có hàng trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển nghênh ông. Không khí đầy những mùi hương của hương án và bày trước mắt mọi người là những loại lễ. Trên các ghe lớn nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước quay về bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thủy tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng. Có thể thấy lễ rước ông không những có sự trang nghiêm của khói hương nghi ngút mà còn có sự đầy đủ của lễ vật và âm nhạc rộn rã của múa lân.

Thứ hai là phần lễ tế. Nó diễn ra sau nghi thức cúng tế cổ truyền. Đó là các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng ông Thủy tướng.

Tiếp đến là phần hội thì trước thời điểm lễ hội, hàng trăm những chiếc thuyền của ngư dân được trang trí cờ hoa đẹp mắt neo đậu ở bến. Phần hội gồm các nghi thức rước Ông ra biển với hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ cùng các lễ cúng trang trọng. Đó là không khí chung cho tất cả mọi nhà trên thành phố đó thế nhưng niềm vui ấy không chỉ có ở thành phố mà nó còn được thể hiện ở mọi nhà. Ở tại nhà suốt ngày lễ hội, các ngư dân mời nhau ăn uống, kể cả khách từ nơi xa đến cũng cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình.

Như vậy qua đây ta thấy hiểu thêm về những lễ hội của đất nước, ngoài những lễ hội nổi tiếng ở miền Bắc thì giờ đây ta cũng bắt gặp một lễ hội cũng vui và ý nghĩa không kém là ngư ông. Có thể nói qua lễ hội ta thêm hiểu hơn những mong muốn tốt lành của những người ngư dân nơi vùng biển đầy sóng gió. Đặc biệt nó cũng trở thành một lễ hội truyền thống của những người dân nơi biển xa.

Thuyết minh về lễ hội dân gian - mẫu 7

Từ nhiều đời nay, trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, đã luôn hướng tới một điểm tựa của tinh thần văn hoá – đó là lễ hội Đền Hùng và Giỗ Tổ Hùng Vương, được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch.

Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng 10 tháng 3
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.

Hàng năm, lễ hội Giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Vào những năm chẵn (5 năm một lần), Giỗ Tổ được tổ chức theo nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Việc tổ chức lễ hội Giỗ Tổ rất chặt chẽ, bao gồm hai phần: lễ và hội.

Lễ hội Rước Kiệu được duy trì trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc,… được tổ chức long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mồng 9, làng nào được Ban tổ chức lễ hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng sớm ngày mồng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở một địa điểm tại thành phố Việt Trì, có xe tiêu binh rước vòng hoa dẫn đầu, diễu hành tới chân núi Hùng. Các đoàn đại biểu xếp hàng chỉnh tề đi sau kiệu lễ, lần lượt lên đền theo tiếng nhạc của phường bát âm và đội múa sinh tiền. Tới trước thềm của “Điện Kính Thiên”, đoàn dừng lại, kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Một đồng chí lãnh đạo tỉnh (năm chẵn là nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá), thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc căn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được hệ thống báo chí, phát thanh truyền hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiếp để đồng bào cả nước có thể theo dõi lễ hội. Đồng bào dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ tiên chứng giám, phù hộ độ trì cho con cháu.

Lễ Dâng Hương sẽ được diễn ra tưng bừng, náo nhiệt xung quanh các đền, chùa và dưới chân núi Hùng. Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá hơn xưa. Các hình thức văn hoá truyền thống và hiện đại được đan xen nhau. Trong khu vực của hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn thể,… được tổ chức và duy trì một cách trật tự, quy củ. Tại khu văn thể, các trò chơi văn hoá dân gian được bảo lưu có chọn lọc như: đu quay, đấu vật, chọi gà, bắn nỏ, rước kiệu, kéo lửa nấu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người)…. Có năm còn diễn trò “Bách nghệ khôi hài”, “Rước chúa gái”, “Rước lúa thần” và trò “Trám” tại khu vực hội. Cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp: chèo, kịch nói, hát quan họ,… Hội ngày nay chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hoá giữa các vùng. các nghệ nhân người Mường mang đến lễ hội thanh âm của tiếng trống đồng một thời dóng trên đỉnh núi Hùng, gọi mặt trời làm mưa, làm nắng thuận hoà, cho mùa màng tốt tươi, muôn dân hạnh phúc. Những làn điệu Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế, mượt mà đã đem tới cho lễ hội đền Hùng một nét đặc trưng, thấm đượm văn hoá vùng Trung du Đất Tổ. Một điểm quan trọng nằm ở giữa trung tâm lễ hội là nhà bảo tàng Hùng Vương, ở đây lưu giữ vô số những cổ vật đích thực của thời đại các Vua Hùng.

Thời đại của chúng ta ngày nay đang ngày càng góp sức tô điểm và phát huy sự cao đẹp của lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương. Hàng năm, ý nghĩa tâm linh của cuộc trẩy hội về Đền Hùng đã trở thành nếp nghĩ, nếp sinh hoạt truyền thống không thể thiếu trong đời sống văn hoá tinh thần tín ngưỡng của người Việt Nam. Không phân biệt già trẻ, không phân biệt tuổi tác, không phân biệt tôn giáo…. Tất cả những người con đang sống trên mọi miền Tổ quốc, những người con xa xứ đều bình đẳng về mộ Tổ, thăm đền và dự lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương.

Thuyết minh về lễ hội dân gian - mẫu 7

“Làng quan họ quê tôi
Tháng giêng múa hát hội
Những đêm trăng hát gọi
Con sông Cầu làng bao xanh
Ngang lưng làng quan họ xanh xanh”

Chỉ bằng ngần ấy câu ca thôi đã hiện lên trong ta bao nhiêu cảm xúc xốn xang về một lễ hội truyền thống được rất nhiều người dân chờ đón - Hội Lim. Nơi mà những câu ca quan họ đã ăn sâu thấm nhuần vào từng mạch máu thớ thịt của người dân Kinh Bắc nói riêng và người dân Việt Nam nói chung.

Nhắc đến vùng Kinh Bắc là nhắc đến một mảnh đất đã in đậm những dấu ấn đặc sắc của văn hóa và lịch sử dân tộc. Mỗi bước đi trên mảnh đất này, mỗi công trình kiến trúc đều in đậm dấu ấn của thời gian, của những thăng trầm mà dân tộc ta đã trải qua. Và Hội Lim chính là một dấu ấn khó phai ở đó.

Hội Lim là một lễ hội truyền thống thường được tổ chức thường niên mỗi năm vào ngày 13 tháng giêng âm lịch tại huyện Tiên Du. Đây được coi là một trong những đặc trưng văn hóa của vùng Kinh Bắc. Dù cho thời gian chuyển động không ngừng thì những giá trị đó vẫn không hề bị mai một và mất đi. Đến ngày nay Hội Lim không chỉ còn là một đặc trưng văn hóa trong vùng nữa mà nó đã vượt lên trên cả không gian trở thành một điểm dừng chân lí tưởng cho du khách buổi đầu năm.

Theo như truyền thuyết kể lại rằng lễ hội Lim được bắt nguồn từ hội chùa liên quan đến tiếng hát của chàng Trương ở làng quê vùng Lim. Giả thuyết này căn cứ dựa trên chuyện tình Trương Chi - Mỵ Nương và tính chất của Hội Lim cũng nghiêng về lễ hôi sinh hoạt văn hóa và hát quan họ.

Nói về tuổi thọ thì có lẽ hội Lim có lịch sử vô cùng lâu đời và phát triển từ quy mô hội hàng tổng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp hội Lim tạm ngưng hoạt động phải đến sau đổi mới nó mới bắt đầu quay trở lại với đời sống tinh thần người dân trong vùng.

Ngoài ra, hội Lim còn có một ý nghĩa đó là thể hiện sự kính trọng tưởng nhớ đến ông Hiếu Trung Hầu người sáng lập ra những làn quan họ ngọt ngào. Hội Lim diễn ra ở 3 xã chủ yếu là Nội Duệ, Liên Bảo và thị trấn Lim. Thời gian diễn ra lễ hội thường là 3- 4 ngày trong đó ngày 13 âm lịch là lễ chính bao gồm có nhiều hoạt động nhất như thi nấu cơm, hát quan họ, đấu vật....

Hội Lim mở đầu là màn rước kiệu với rất nhiều các thành viên mặc trang phục cổ trang, sau đó các liền anh liền chị sẽ đứng quanh lăng hát đối với nhau. Hội Quan họ được xem là phần hấp dẫn nhất của lễ hội Lim các liền anh liền chị sẽ ngồi trên thuyền thúng giữa ao sau đó hát đối những câu hát ngọt ngào. Đây cũng là dịp các bạn trẻ nam thanh nữ tú tụ họp để tìm ý trung nhân cho mình.

Hội Lim đã làm say lòng biết bao nhiêu du khách thập phương. Bằng những câu hát trao duyên ngọt ngào, trữ tình, những cử chỉ dịu dàng e ấp của các liền anh liền chị.... Nó không chỉ thể hiện nét đẹp văn hóa truyền thống mà hơn thế còn thể hiện truyền thống yêu nước nhớ nguồn đáng quý của dân tộc.

Thuyết minh về lễ hội dân gian - mẫu 7

"Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười, tháng ba"

Cứ hàng năm, những người con dân tộc Việt luôn hướng về quê hương Phú Thọ thân yêu dịp 10/3 âm lịch để tưởng nhớ công ơn của các vua Hùng dựng nước. Đó cũng là dịp mà lễ hội Đền Hùng diễn ra.

Theo lịch sử ghi lại, lễ hội Đền Hùng đã có từ lâu đời. Ngay từ thời Đinh, Lý, Tiền Lê, thời Trần thì nhân dân khắp cả nước đều tụ hội về đây lễ bái gửi lòng cảm tạ thành kính đến công ơn của mười tám đời vua Hùng đã có công dựng nước, giữ nước. Lễ hội ấy được giữ gìn cho đến ngày nay và trở thành một nét đặc sắc trong văn hóa dân tộc, cũng từ đấy ngày 10/3 âm lịch hàng năm được xem là một ngày quốc lễ của nước ta. Vào những năm lẻ, lễ hội Đền Hùng do tỉnh nhà Phú Thọ tổ chức, những năm chẵn do Trung ương phối hợp với Bộ văn hóa thể thao du lịch cùng uỷ ban tỉnh Phú Thọ phối hợp tổ chức. Dù tổ chức theo quy mô lớn hay nhỏ thì phần hội và phần lễ vẫn diễn ra vô cùng long trọng và linh đình, tín ngưỡng thờ cúng vua Hùng chính thức được UNESCO công nhận là "Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại" vào năm 2002 đã chứng minh cho sức sống lâu bền và giá trị độc đáo của lễ hội này. Nhiều địa phương trên cả nước như Đà Nẵng, Hà Nội,...đã tổ chức lễ hội này như một nét đẹp để giáo dục con cháu mai sau không quên đi nguồn cội dân tộc và cố gắng học tập dựng xây đất nước để đến đáp công lao dựng nước của ông cha.

Phần lễ gồm lễ rước kiệu và lễ dâng hương. Lễ hội rước kiệu vừa được diễn ra trong không khí đầy long trọng với những cờ, lộng, hoa đầy màu sắc. Trong làng, ai ai cũng phấn khởi và sắm cho mình bộ trang phục truyền thống để tham dự phần lễ. Đoàn đại biểu trung ương, tỉnh, thành phố đều tập trung tại một địa điểm cùng đoàn xã tiêu binh rước vòng hoa tới chân núi Hùng. Đoàn đại biểu đi sau kiệu lễ, kiệu lễ được chuẩn bị chu đáo từ trước. Chặng đường rước kiệu lên đền có tiếng nhạc phường bát âm, có đội múa sinh tiền tạo nên vẻ trang trọng của một nghi lễ dân tộc. Sau khi tới đền, đoàn người kính cẩn dâng lễ vào thượng cung, mọi việc đều tiến hành rất cẩn thận, chi tiết và nhanh chóng. Sau đó, đại biểu đại diện bộ Văn hóa thay mặt cho lãnh đạo tỉnh và nhân dân cả nước trịnh trọng đọc chúc căn lễ tổ, mọi người ai nấy đều chăm chú lắng nghe trong nỗi niềm đầy xúc động và thành kính. Tất cả đều thành tâm dâng lễ với ước nguyện mong tổ tiên phù hộ cho con cháu quê nhà.

Tiếp đến là lễ dâng hương, mỗi người con đến với cùng đất này đều mong muốn thắp lên đền thờ nén nhang thành kính, nhờ hương khói nói hộ tâm nguyện của lòng mình với tổ tiên. Mỗi tấc đất, ngọn cỏ, gốc cây nơi đây đều được coi là linh thiêng. Với những người ở xa không về được hoặc không có điều kiện đến đây, tới ngày này họ vẫn dành thời gian để đi lễ chùa thắp nén hương tưởng nhớ nguồn cội, đâu đâu cũng đông đúc, náo nhiệt và tưng bừng.

Xong phần lễ là đến phần hội, nếu lễ mang sự trang nghiêm thì phần hội mang đến nét vui vẻ, thoải mái cho mỗi người. Ở phần hội, nhiều trò chơi dân gian được diễn ra như chọi gà, đu quay, đấu vật hay đánh cờ tướng,.. thu hút mọi người tham gia, các đội chơi ai cũng mong phần thắng mang về danh dự cho quê mình. Bên cạnh đó, nhiều trò chơi hiện đại cũng được lồng ghép hài hòa đáp ứng thị hiếu, đam mê sở thích của mọi lứa tuổi. Đặc biệt, không thể thiếu được trong dịp lễ này là các hình thức dân ca diễn xướng, hát quan họ hay kịch nói được diễn ra bằng hình thức thi tài giữa các làng, các thôn nhằm giao lưu văn hóa, văn nghệ. Những lời ca mượt mà êm ái trong từng làn điệu Xoan - Ghẹo đầy hấp dẫn mang đậm dấu ấn vùng đất Phú Thọ. Giữa trung tâm lễ hội được trưng bày khu bảo tàng Hùng Vương lưu giữ những di vật cổ của thời đại các vua Hùng xưa, tạo điều kiện cho những người đến thăm quan tìm hiểu, chụp ảnh lưu niệm. Ngoài ra, trong khu vực diễn ra lễ hội, nhiều mặt hàng lưu niệm được bày bán cho du khách mua làm quà kỉ niệm, các dịch vụ văn hóa phẩm hay ăn uống với những món ăn truyền thống và hiện đại cũng được tổ chức linh hoạt.

Hiện nay, khi đất nước phát triển hơn, nhà nước không chỉ chăm lo đến đời sống vật chất và còn cố gắng để phát huy những giá trị tinh thần cao đẹp. Báo chí, đài truyền hình, thông tấn xã vẫn là cầu nối tuyệt vời đưa những giá trị tín ngưỡng đến với tất cả đồng bào trên mọi miền tổ quốc và nhân dân thế giới biết và hiểu hơn về những nét đẹp của lễ hội truyền thống dân tộc Việt.

Thuyết minh về lễ hội dân gian - mẫu 7

Những lễ hội tưng bừng, náo nhiệt là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Người dân Việt Nam tổ chức lễ hội để tỏ lòng biết ơn đối với những đấng siêu nhiên như thần thánh hoặc những vị anh hùng dân tộc. Lễ hội Gióng cũng là một lễ hội mang ý nghĩa thiêng liêng như vậy để kỉ niệm đức Thánh Gióng tức Phù Đổng Thiên Vương.

Hội Gióng là lễ hội truyền thống tưởng nhớ và ca ngợi chiến công của người anh hùng Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Lễ hội mô phỏng một cách sinh động diễn biến các trận đấu của Thánh Gióng và nhân dân Văn Lang trong cuộc chiến chống giặc Ân, thông qua đó nâng cao nhận thức cộng đồng về các hình thức chiến tranh bộ lạc thời cổ xưa, đồng thời giáo dục lòng yêu nước, truyền thống thượng võ, ý chí quật cường và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc.

Hội Gióng được tổ chức ở nhiều nơi thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ nhưng tiêu biểu nhất là Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc (Hà Nội). Hội Gióng ở đền Sóc (xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội) được tổ chức từ ngày 6 – 8 tháng Giêng âm lịch hàng năm. Theo truyền thuyết, sau khi đánh thắng giặc Ân, Phù Linh là nơi dừng chân cuối cùng của Thánh Gióng trước khi bay về trời.

Để tưởng nhớ công lao của Đức Thánh, tại đây, nhân dân đã xây dựng Khu di tích đền Sóc bao gồm 6 công trình: đền Hạ (hay còn gọi đền Trình), chùa Đại Bi, đền Mẫu, đền Thượng (hay còn gọi đền Sóc), tượng đài Thánh Gióng và nhà bia. Trong đó, đền Thượng là nơi thờ Thánh Gióng và tổ chức lễ hội với đầy đủ các nghi lễ truyền thống như: lễ Mộc Dục; lễ rước; lễ dâng hương; lễ hóa voi và ngựa…

Để chuẩn bị cho ngày hội chính, vào đêm mùng 5, lễ Mộc Dục (tắm tượng) được tiến hành để mời Đức Thánh về dự hội. Đến ngày mùng 6 khai hội, nhân dân 8 thôn làng thuộc 6 xã nằm quanh Khu di tích đền Sóc là Tân Minh, Tiên Dược, Phù Linh, Đức Hòa, Xuân Giang và Bắc Phú dâng các lễ vật đã được chuẩn bị chu đáo lên Đức Thánh, cầu mong ngài phù hộ cho dân làng có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Trong đó, nghi lễ dâng hoa tre lên đền Thượng của thôn Vệ Linh (xã Phù Linh) được tổ chức đầu tiên. Hoa tre được làm bằng những thanh tre dài khoảng 50cm, đường kính khoảng 1cm, đầu tre tuốt bông và nhuộm màu tượng trưng cho roi ngựa của Thánh Gióng. Hoa tre sau khi dâng lên đền Thượng sẽ được rước xuống đền Hạ rồi phát cho người dự hội để
cầu may.

Sáng ngày mùng 7 chính hội (ngày Thánh hóa theo truyền thuyết), hoạt cảnh chém tướng giặc diễn tả lại cảnh Thánh Gióng chém 3 tướng giặc Ân cuối cùng ở chân núi Vệ Linh trước khi bay về trời được tổ chức. Đến chiều ngày mùng 8, lễ hóa mô hình voi và ngựa giấy với kích thước lớn được tiến hành để kết thúc lễ hội bởi voi chiến và ngựa sắt là hai linh vật gắn liền với quá trình Thánh Gióng chiến thắng và ngựa sắt là hai linh vật gắn liền với quá trình Thánh Gióng chống giặc Ân, bảo vệ non sông bờ cõi.

Tất cả du khách tham gia lễ hội đều mong được chung tay khiêng voi và ngựa ra bờ sông để hóa bởi theo tín ngưỡng, bất cứ ai được chạm tay vào đồ tế Đức Thánh đều sẽ gặp may mắn trong cuộc sống. Trong thời gian diễn ra lễ hội còn có nhiều trò chơi dân gian được tổ chức như chọi gà, cờ tướng, hát ca trù, hát chèo…

Hội Gióng ở đền Phù Đổng được ví như một kịch trường dân gian rộng lớn với hàng trăm vai diễn tiến hành theo một kịch bản đã được chuẩn hóa. Trong đó, mỗi vai diễn đều chứa đựng những ý tưởng rất sâu sắc như: “ông Hiệu“ là các tướng lĩnh của Thánh Gióng; “Phù Giá” là đội quân chính quy của Thánh Gióng; các “Cô Tướng“ tượng trưng cho 28 đạo quân xâm lược của nhà Ân; “Ông Hổ“ là đội quân tổng hợp; “Làng áo đỏ“ là đội quân trinh sát nhỏ tuổi; “Làng áo đen“ là đội dân binh…

Bên cạnh đó, lễ hội còn có các màn rước như: “Rước khám đường“ là đi trinh sát giặc; “Rước nước“ là để tôi luyện khí giới trước khi xuất quân; “Rước Đống Đàm“ là đàm phán, kêu gọi hòa bình; “Rước trận Soi Bia“ là mô phỏng cách điệu những trận đánh ác liệt…

Giá trị nổi bật toàn cầu của Hội Gióng thể hiện ở chỗ nó chính là một hiện tượng văn hóa được bảo tồn, lưu truyền khá liên tục và toàn vẹn qua nhiều thế hệ. Lễ hội còn có vai trò liên kết cộng đồng và chứa đựng nhiều ý tưởng sáng tạo, thể hiện khát vọng đất nước được thái bình, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Về mặt mỹ thuật, Hội Gióng mang nhiều nét đẹp và giá trị của lễ hội như các đám rước, các hiệu cờ, hiệu trống, hiệu chiêng, diễn xướng dân gian, múa hát ải lao, múa hổ… Ngày 16/11/2010, tại thành phố Nairobi (thủ đô của Kenya), trong kỳ họp thứ 5 của Ủy ban liên Chính phủ theo Công ước năm 2003 của UNESCO, Hội Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc đã chính thức được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. UNESCO đã ghi nhận một cách ngắn gọn và đầy đủ về Hội Gióng, đó là "Một bảo tàng văn hóa của Việt Nam, lưu giữ nhiều lớp phù sa văn hóa, tín ngưỡng".

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:




Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học