5+ Thuyết minh về di tích lịch sử (điểm cao)
Thuyết minh về di tích lịch sử hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Thuyết minh về di tích lịch sử (mẫu 1)
- Thuyết minh về di tích lịch sử (mẫu 2)
- Thuyết minh về di tích lịch sử (mẫu 3)
- Thuyết minh về di tích lịch sử (mẫu 4)
- Thuyết minh về di tích lịch sử (mẫu 5)
- Thuyết minh về di tích lịch sử (mẫu 6)
- Thuyết minh về di tích lịch sử (mẫu 7)
- Thuyết minh về di tích lịch sử (mẫu 8)
- Thuyết minh về di tích lịch sử (mẫu 9)
- Thuyết minh về di tích lịch sử (các mẫu khác)
Đề bài: Thuyết minh về một di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương ta, đất nước ta.
Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 1
Chùa Thầy là một cổ tự rất nổi tiếng trên miền Bắc Việt Nam thuộc Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội. Chùa Thầy được xây dựng từ thời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127) gắn liền với huyền tích và công đức của Thiền sư Từ Đạo Hành.
Thời gian đầu chỉ là cái am nhỏ ẩn mình bên hang núi. Sau nhiều lần tu tạo, chùa Thầy ngày một thêm kì vĩ. Khu chính điện của chùa tọa lạc trên một khuôn viên hình chữ nhật, dài 60m, rộng 40m, gồm ba toàn nhà to, dài xây song song hình chữ tam. Hai bên tòa chính điện là gác chuông và gác trống nhô cao.
Chùa Thầy có hàng trăm pho tượng sơn son thếp vàng, khói hương nghi ngút suốt đêm ngày. Chùa Thượng có tượng Di Đà Tam Tôn, Bách hoa Đài (bệ đá trăm hoa), ngjt oàn thân Thiền sư Từ Đạo Hạnh nhập định trên toàn sen vàng.
Chùa Trung thờ Tam Bảo.
Chùa Hạ chỉ để niệm Phật, lễ bái, cầu siêu, giảng đạo.
Rời chùa Cả, du khách, Phật tư đi qua Nguyệt Tiên Kiều và cổng Bất nhi Pháp môn để lên núi Sài Sơn. Du khách leo qua nhiều bậc đá, đi vào chùa Cao thắp hương, đến hang Thánh Hóa, nơi Từ Đạo Hạnh hóa Phật. Đến thăm hang Các Cớ:
Ở chùa Thầy có hang Cắc Cớ
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.
(Ca dao)
Dân gian tin rằng trai tơ, gái tơ có vào thăm hang Cắc Cớ một lần thì mới có thể tìm được tình duyên đẹp, hạnh phúc ấm êm.
Đứng trên đỉnh núi Sài Sơn nhìn ra bốn phía là thôn xóm lớp lớp gần xa, là màu xanh bát ngát của đồng lúa, là màu trắng lấp lánh của sông Đáy hiền hòa uốn khúc... Cảnh vật sầm uất, dạt dào sức sống của một miền quê thanh bình.
Chùa Thầy còn có Chợ Trời (chợ cõi âm) , nơi cầu may, cầu lộc cho người trần. Bài thơ " Chợ Trời Sài Sơn" được nhiều người truyền tụng:
Hóa công xây đắp đã bao đời,
Nọ cảnh Sài Sơn có chợ Trời.
Buổi sớm gió đưa, trưa nắng đứng,
Ban chiều mây họp, tối trăng chơi.
Bày hàng hoa quả, tư mùa sẵn,
Mở phố giang sơn, bốn mặt ngồi.
Bán lợi mua danh nào những kẻ,
Chẳng lên mặc cả một đôi lời.
Hồ Xuân Hương
Phong cảnh chùa Thầy rất đẹp, có sơn thủy hữu tình, gắn liền với nhiều huyền tích, huyền thoại. Lễ hội chùa Thầy là một lễ hội dân gian lớn nhất, đông vui nhất trong mùa xuân trên miền Bắc nước ta. Dân gian vẫn lưu luyến câu ca, câu hát :
Nhớ ngày mùng Bảy tháng Ba,
Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy
Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 2
Chùa Trăm Gian còn được gọi là chùa Sở, được xây dựng từ đời vua Lý Cao Tông (1185). Chùa tọa lạc trên một quả đồi cao chứng 50m, thuộc dãy núi Tiên Lữ (còn gọi là Mã Sơn) , xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc Hà Nội.
Cảnh quan của chùa Trăm Gian rất u tích, mái chùa che rợp bởi nhiều lớp, nhiều tầng tán là xanh sum suê của hàng trăm cây cổ thụ, cây gỗ quý như cây lim, cây trắc... Đặc biệt có gần 30 cây thông xanh tốt được trồng hàng trăm năm nay.
Chùa Trăm Gian được làm theo kiểu kiến trúc thời Lý - Trần trong thế kỉ 12. Quy mô đồ sộ, rất độc đáo : cứ bốn cột là một gian ; chùa có cả thảy 100 gian.
Phía ngoài có bốn cột trụ và hai quá dùng làm nơi đánh cờ tướng trong ngày hội. Nhà Giá Ngự nhìn ra ao sen. Tam quan còn gọi là gác chuông, kiến trúc theo kiểu hai tầng chồng diêm tám mái bằng gỗ quý, cao khoảng 8m. Trên gác chuông treo một quả chuông cao 1,4m, đường kính 0,6m, đúc năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794).
Đi sâu vào là chùa chính. Hai vị Hộ Pháp (Ông Thiện, Ông Ác) vô cùng đồ sộ, oai nghiêm đứng trấn giữ. Gần đấy có Tòa Thiêu Hương. Trong cùng là hai lớp thượng điện thờ Phật. Nối tiếp nhà Tổ là một ngôi nhà 16 cột làm theo kiểu bốn mái, đao cong với hình tượng linh vật rướn cánh tung bay lên trời xanh. Ở đây có treo một cái trống to, mặt trống có đường kính 1m, tang trống màu son, một chiếc khánh đồng dài 1,2m , cao 0,6m, đúc năm Cảnh Hưng thứ mười (1750).
Chùa Trăm Gian hiện còn trên 100 tượng Phật bằng gỗ hoặc bằng vàng tâm, hoặc bằng đất sơn son thếp vàng. Có những pho tượng quý hiếm như tượng Tuyết Sơn, 18 vị La Hán, Phật Quan Thế Âm. Còn có tượng Quan Đô (Đô đốc Đông) - vị anh hùng một thời Tây Sơn đã tiêu diệt hàng vạn giặc Thanh xâm lược (1789) ở Đống Đa.
Chùa Trăm Gian gắn liền với bao huyền tích huyền thoại. Chùa từng bị giặc Minh đốt phá tan hoang, đã được trùng tu tôn tạo nhiều lần. Chùa Trăm Gian là một chùa cổ, một danh lam thắng cảnh của xứ Đoài, một di tích văn hóa - lịch sử của dân tộc.
Ngày Mồng 4 tháng Giêng hằng năm là ngày lễ hội chùa Trăm Gian kéo dài trong 10 ngày, có hàng nghìn hằng vạn Phật tử và du khách gần xa kéo về dự lễ hội.
Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 3
Về thời Lý - Trần , Kiếp Bạc thuộc hương Vạn Kiếp, lộ Lạng Giang, nay thuộc xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
Kiếp Bạc là một địa bàn, một vùng chiến lược trọng yếu của Đại Việt trong ba lần đánh thắng giặc Nguyên- Mông xâm lược. Là một vùng thắng địa, sông ngòi chằng chịt, núi non trập trùng. Có núi Rồng hình tay ngai. Phía Đông Nam là vùng núi Phả Lại, núi Phượng Hoàng, Côn Sơn. Có vụng Trần Xá, tháng 11 năm 1282 họp Hội nghị Vương hầu bàn kế sách đánh giặc Nguyên - Mông.
Phía Tây Vạn Kiếp giáp sông Thương, một nhánh của sông Lục Đầu mà thời Trần gọi là sông Bình Than. Giữa sông có Cồn Kiếm; phía bắc có thung lũng Vạn Yên và sông Vang. Gần đấy là núi Rồng, núi Nam Tào, núi Bắc Đẩu. Địa thế hiểm trở, có thể hội sư hàng chục hàng vạn tinh binh, hàng ngàn chiến thuyền.
Từ Kiếp Bạc có 6 đường sông và đường bộ tỏa về các phía như Thanh Long, Bạch Đằng, Vân Đồn, Hàm Tử, Chương Dương, ải Nam Quan....Kiếp Bạc là vùng trọng yếu về quân sự, tiến có thể công, thoái có thể thủ. Từ Kiếp Bạc, Thương tướng Trần Quang Khải mới cấp tốc hành binh lập nên chiến công Hàm Tử chám đầu Toa Đô. Từ Kiếp Bạc, Phiêu kị tướng quân Trần Khánh Dư mới kéo thẳng ra Vân Đồn đánh tan đội binh lương chiến thuyền Trương Văn Hổ. Và cũng từ Kiếp Bạc, Trần Quốc Tuấn mới kéo đại binh thẳng tiến đến sông Bạch Đằng, bắt sống tướng Ô Mã Nhi, tiêu diệt hàng vạn giặc.
Đền Kiếp Bạc là nới an giấc ngàn thu của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Ngày 20 tháng 8 năm Hưng Long thứ tám (1300), ngài đã quy tiên.
Đền Kiếp Bạc là một di tích văn hóa - lịch sử của Đại Việt. Câu đối, hoành phi, tượng thờ sơn son thếp vàng chói lọi. Hàng chữ lớn " Vạn cổ thử giang sơn" . Đôi câu đối chói lọi : " Hào khí Đông A" :
Vạn Kiếp hữu sơn giai kiếm khí;
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh.
(Vạn Kiếp núi lồng hình kiếm dựng;
Lục Đầu vang dậy tiếng quân reo.)
Lễ hội Kiếp Bạc từ 16 đến 20 tháng 8 âm lịch hàng năm. Hàng vạn người đã nô nức kéo về Kiếp Bạc, để tưởng niệm người anh hùng thưở Bình Nguyên, cũng để nêu cao tinh thần: "Sát Thát".
Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 4
Nghệ An vốn từ ngàn đời nay vẫn nổi danh là vùng đất của những người con hiếu học và tài năng, trong thế kỷ XX đầy biến động của đất nước vùng đất xứ Nghệ lại trở thành cái nôi của Cách mạng là khởi thủy của phong trào cách mạng vô sản với cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. Đồng thời miền đất này cũng là nơi sinh ra những người con ưu tú, có nhiều đóng góp to lớn cho Tổ quốc với một loạt các cái tên nổi tiếng như: Phan Bội Châu, Nguyễn Xuân Ôn, Đặng Thái Thân, Phan Đình Phùng; các lãnh đạo Cộng sản như: Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Duy Trinh…
Và trong số đó nổi bật và sáng hơn cả chính là vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh, người đã có công lãnh đạo Cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi bằng cả cuộc đời mình. Chính vì thế khi về với Nghệ An, hầu hết những người con tứ xứ đều mong muốn được một lần ghé thăm khu di tích Kim Liên, thường gọi chung là làng Sen, nơi gắn bó với tuổi thơ của Hồ Chủ tịch để tìm chút hoài niệm và tỏ lòng thành kính với người anh hùng bậc nhất của dân tộc.
Làng Sen là tên thường gọi, còn tên chính thức của ngôi làng mà Bác sinh sống khi ấu thơ là làng Kim Liên, thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, là quê cha của Bác. Ngôi làng cách trung tâm thành phố Vinh khoảng 16 km về phía Tây, nằm gần hai ngọn núi Chung và núi Đại Huệ. Quy mô của khu di tích nằm trong khoảng 205 ha, với các điểm di tích cách nhau từ 2-10km. Làng Sen hiện nay được xem là một trong 4 khu di tích quan trọng bậc nhất trong gắn bó với cuộc đời và sự nghiệp của chủ tịch Hồ Chí Minh, được thủ tướng chính phủ xếp vào một trong 23 di tích quốc gia đặc biệt, cần giữ gìn và bảo tồn chặt chẽ.
Sở dĩ được gọi là làng Sen bởi nơi đây ngoài khung cảnh quen thuộc như bến nước, gốc đa, sân đình, lũy tre làng như bất cứ làng quê nào ở Việt Nam, thì làng Sen còn đặc biệt nổi bật với những hồ Sen, đầm Sen dày đặc, không chỉ là sinh kế gắn liền với cuộc sống của con người nơi đây. Mà còn trở thành một dạng cảnh quan đặc biệt, với những bông sen hồng bung nở khi vào mùa, tỏa hương thơm thoang thoảng cả một vùng, khí tiết thanh bình như chốn ở của tiên của phật.
Đối với những du khách từ xa tới, đi du lịch vừa muốn được ngắm sen nở, vừa muốn tham quan cụm di tích gắn liền với Bác, thì nên cân nhắc thời gian đi. Xét theo mùa sen nở rộ thì thời điểm tháng 5 ngay vừa lúc giữa mùa hạ, chính là lúc hoa nở nhiều và đẹp nhất. Khi di chuyển đến làng Sen chúng ta sẽ không phải mất nhiều thì giờ tìm kiếm đầm sen bởi nó nằm ở ngay đầu làng, nếu đi đúng dịp thì đó quả thực là một khung cảnh tuyệt vời, đủ nét nên thơ trữ tình, khiến du khách không khỏi trầm trồ, thán phục.
Đi qua hồ Sen là tới giếng Cốc, là nơi cung cấp nước sinh hoạt cho cả làng, thuở thơ ấu cậu bé Nguyễn Sinh Cung cũng từng nhiều lần vâng lệnh cha đi gánh nước về sinh hoạt, đồng thời cũng là nơi thuở nhỏ Bác vui chơi đùa nghịch với bạn bè cùng trang lứa. Đi một đoạn không xa nước, ta thấy thấp thoáng sau lũy tre già xanh mát ấy chính là ngôi nhà đơn sơ, giản dị của gia đình Bác, nơi Bác từng có khoảng thời gian 5 năm gắn bó. Phía trước căn nhà là một lối đi nhỏ hai bên được trang trí bằng hàng râm bụt cắt tỉa gọn gàng, mùa nào cũng cho những đóa hoa đỏ hồng rực rỡ, đầy sức sống.
Tiến vào trong sân một không gian làng quê, cổ kính lập tức hiện ra trước mắt ta với một gian nhà 5 gian lợp mái tranh, vách nứa của cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Ngôi nhà này vốn là món quà thưởng do dân làng Sen dựng lên bằng tiền công quỹ, để mừng cụ đỗ đạt, mang lại vinh dự cho làng, với tấm lòng trân trọng, mến mộ tài năng thân phụ của Bác. Ngôi nhà được cụ phó bảng dành ra hai gian, một gian đặt bàn thờ người vợ mất sớm là bà Hoàng Thị Loan, gian còn lại để tiếp khách khứa.
Một gian dành cho bà Nguyễn Thị Thanh – con gái cả của cụ, một gian để cụ đặt án thư dạy học cho các con, và kê thêm một chiếc phản gỗ lớn để cụ nghỉ ngơi, cũng như là nơi quây quần bà con trong những buổi uống trà nói chuyện. Gian cuối cùng là nơi ở của Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung, tức hai con trai của cụ phó bảng. Ngoài 5 gian nhà chính thì bên cạnh còn một gian nhà ngang, ấy là nơi nấu nướng.
Tuy là người đỗ đạt, có vai vế thế nhưng nếp sống và nếp sinh hoạt của cả nhà cụ Nguyễn Sinh Sắc hết sức giản dị đơn sơ, từ cái bàn thờ làm bằng liếp tre, trên có mảnh chiếu nhỏ, bát hương với đôi nến và một tấm bài vị bằng gỗ, cho đến những chiếc chõng tre, chum vại mộc mạc được dân làng yêu mến biếu tặng. Tất cả đều bộc lộ một nếp sống đơn sơ, giản dị, gắn bó với làng quê của cả gia đình người lãnh tụ vĩ đại. Và cũng có lẽ rằng sự gắn bó và am hiểu nhân dân ấy đã sớm rèn rũa cho Bác một đức tính cần kiệm, liêm khiết, một lòng vì nhân dân phục vụ.
Ngoài hồ sen và gian nhà của Bác, thì mộ của cụ Hoàng Thị Loan, mẹ ruột Bác cũng là một trong những điểm đáng chú ý của cụm di tích Kim Liên. Ngôi mộ nằm trên lưng núi Động Tranh, thuộc dãy núi Đại Huệ, được xây dựng từ ngày 19 tháng 5 năm 1984 đến ngày 16 tháng 5 năm 1985. Với phần mái che cách điệu trông giống hình chiếc khung cửi, vật vẫn gắn bó với bà thuở sinh thời, làm kế sinh nhai để bà nuôi các con thơ, bên trên phần mộ hiện nay được phủ bởi hoa giấy, trông rất nhẹ nhàng, yên bình.
Khu di tích làng Sen (Kim Liên) là một trong những khu di tích quan trọng, mỗi năm hấp dẫn hàng triệu lượt du khách về thăm không chỉ bởi vẻ đẹp sự yên bình của làng Sen. Mà nơi đâu còn in dấu những ký ức đầu đời của vị lãnh tụ kính yêu, vĩ đại bậc nhất của dân tộc, cho những người con đất Việt được một chút lòng tưởng nhớ, thương yêu về người cha già của dân tộc dựa trên những chứng tích còn sót lại từ văn thư, đồ dùng, tất cả đều có hơi thở của Hồ Chí Minh.
Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 5
Trong số hàng nghìn di tích lịch sử tại Hà Nội, có hơn 500 di tích đã được xếp hạng, và trong số này, Văn Miếu - Quốc Tử Giám nổi bật lên như một biểu tượng không thể tách rời với sự hình thành của kinh đô Thăng Long dưới triều đại Lý. Đây là một di tích có lịch sử gần nghìn năm, mang quy mô tinh tế và uy nghi, tượng trưng cho Hà Nội và là biểu tượng văn hóa và lịch sử của Việt Nam.
Theo sử sách Đại Việt, vào mùa thu năm Canh Tuất - 1070, Vua Lý Thánh Tông đã quyết định khởi công xây dựng Văn Miếu để tôn vinh các tiền nhân, các học giả và những người đã có đóng góp to lớn cho đất nước. Trong danh sách những người được tôn thờ tại đây, không thể không nhắc đến Khổng Tử - người sáng lập nho giáo phương Đông và Chu Văn An - một trong những thầy giáo nổi tiếng, đạo đức và tri thức của nền giáo dục Việt Nam. Chỉ sau sáu năm, năm 1076, Vua Lý Nhân Tông đã quyết định xây dựng Quốc Tử Giám - một trường đại học Nho học hàng đầu thời bấy giờ, với mục tiêu đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là một sự kiện quan trọng đánh dấu sự lựa chọn đầu tiên của triều đình phong kiến Việt Nam trong việc đầu tư và quản lý giáo dục theo mô hình Nho học châu Á.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiện nay vẫn lưu giữ 82 tấm bia đá, trên đó ghi tên của 1306 người đã đỗ tiến sĩ trong 82 kỳ thi từ năm 1484 đến năm 1780. Trong số những người này, người đỗ tiến sĩ ở tuổi cao nhất trong lịch sử là ông Bàn Tử Quang, khi đó đã 82 tuổi. Ngược lại, người trẻ nhất là Nguyễn Hiền, quê ở Nam Trực (Nam Định), đỗ trạng nguyên năm Đinh Mùi, tức là năm 1247, khi chỉ mới 13 tuổi. Từ đó, Văn Miếu và Quốc Tử Giám - được xem như trường đại học đầu tiên của Việt Nam đã tồn tại suốt đến thế kỷ 19.
Vị trí của Văn Miếu - Quốc Tử Giám tọa lạc trên một khuôn viên rộng hơn 54.000m2, nằm giữa bốn con đường: cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc tiếp giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phố Tôn Đức Thắng, và phía Tây là phố Văn Miếu. Khu di tích này được chia thành 5 khu vực. Khu vực 1 bao gồm Văn hồ, cổng tam quan ngoại cùng (cổng lớn) và Văn Miếu môn, với cổng lớn có ba cửa và hai tầng, tầng trên với ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai bao gồm Đại Trung môn, Thánh Dực môn bên trái và Đạt Tài môn bên phải. Khu vực 3 chứa giếng Thiên Quang (tên có nghĩa là giếng trời trong sáng), với 82 bia Tiến sĩ nằm ở hai hàng, mặt bia hướng về giếng, là một di tích có giá trị đặc biệt. Vượt qua cửa Đại Thành, bạn sẽ vào khu vực thứ 4, nơi có dãy Tả Vu và Hữu Vu, với một dãy đặc biệt giữa là Toà Đại Bái đường, tạo thành một kiến trúc hình chữ U truyền thống. Khu vực cuối cùng là nơi dùng để giảng dạy trong trường Quốc Tử Giám thời Lê, nơi đào tạo nhiều thế hệ người tài "nguyên khí của nước nhà."
Mặc dù đã trải qua nhiều biến động và biến cố trong lịch sử, Văn Miếu - Quốc Tử Giám không còn nguyên vẹn như xưa. Các công trình từ thời kỳ Lý và Lê hầu như không còn tồn tại. Tuy nhiên, nó vẫn tồn tại với sự trang nghiêm và tôn kính của một trường đại học có gần 1000 năm lịch sử của Hà Nội. Đây chính là khu di tích văn hóa hàng đầu và nguồn tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống văn hiến hàng nghìn năm của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 6
Đất nước ta có hơn 4000 năm văn hiến. Trong suốt chiều dài lịch sử ấy, đất nước ta đã có biết bao nhiêu sự đổi thay. Tuy nhiên, có một điều may mắn là chúng ta vẫn giữ được những di tích lịch sử của dân tộc. Để mỗi khi nhắc đến, con cháu lại tự hào về truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc. Trong số những di tích lịch sử của nước ta thì Hồ Gươm là một di tích lịch sử được nhiều người biết đến nhất.
Hồ Gươm không chỉ là một di tích lịch sử của đất nước mà còn là một danh lam thắng cảnh của nước ta. Nơi đây mỗi ngày đều có rất nhiều du khách ghé thăm và cả những người dân sống quanh đây ra Hồ Gươm hóng gió nữa.
Nhắc đến Hồ Gươm, chúng ta nhớ ngay đến sự tích Hồ Gươm đã được học trong chương trình Ngữ Văn lớp 6. Sự tích kể rằng vào thời Lê Lợi giặc Minh đã sang đô hộ và chiếm đánh nước ta. Người dân cả nước sống trong cảnh lầm than. Nghĩa quân Lam Sơn nhiều lần đứng lên chống giặc nhưng đều thất bại. May sao có đức Long vương cho mượn kiếm thần, nghĩ quân Lam Sơn mới đánh đuổi được giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Một năm sau, khi thuyền của Lê Lợi dạo trên hồ, gặp thần Kim Quy, Lê Lợi mới trả lại gươm báu cho thần Kim Quy. Từ đó, hồ mới có tên gọi là hồ Gươm.
Hồ Gươm giờ đây vẫn được ví như lá phổi xanh của Hà Nội. Trên hồ có hai hòn đảo nhỏ đó là đảo Rùa và đảo Ngọc. Đảo Rùa là nơi có tháp Rùa, một biểu tượng của thủ đô nghìn năm văn hiến. Đảo Ngọc là nơi dựng đền Ngọc Sơn. Ngôi đền này mọi người vẫn thường đến để vãn cảnh hoặc cầu khấn. Vì được xây dựng trên đảo nên xung quanh đền Ngọc Sơn bốn bể đều là nước. Để đi được tới đền, người ta phải đi qua một cây cầu gọi là cầu Thê Húc. Cầu được làm bằng gỗ sơn màu đỏ rất nổi bật trên nền nước xanh. Cầu Thê Húc được xây dựng vào năm 1865 gồm 15 nhịp và 32 chân cột gỗ tròn. Du khách thường rất thích đứng trên cầu Thê Húc để nhìn về phía tháp Rùa.
Thế nhưng đó vẫn chưa phải là tất cả những gì đặc sắc của Hồ Gươm. Chúng ta còn biết đến Hồ Gươm với quần thể di tích Tháp Bút – Đài Nghiên. Tháp Bút được làm hoàn toàn bằng đá, cao năm tầng và được xây dựng trên một ngọn núi đá xếp. Bên cạnh Tháp Bút là Đài Nghiên được xây theo hình dáng của cái nghiên đựng mực trước đây. Bên dưới nghiên là 3 con thiềm thừ (con cóc). Tháp Bút và Đài Nghiên chính là biểu trưng cho văn chương, cho tinh thần hiếu học của con người. Chính vì vậy mà đời sau này, các bạn học sinh, sinh viên vẫn thường ghé qua Hồ Gươm, cố gắng chạm tay vào Tháp Bút để cầu may cho con đường học vấn.
Trước đây, dưới Hồ Gươm vẫn còn có một vài cụ Rùa sinh sống. Người dân ở xung quanh đôi lúc vẫn trông thấy cụ Rùa nổi lên mặt nước. Khi thì cụ lại nằm ở trên Tháp Rùa. Tuy nhiên, theo thời gian, các cụ Rùa đã không còn nữa. Để tìm một cụ Rùa khác để thay thế không phải là điều đơn giản. Sự ra đi của các cụ Rùa là một sự mất mát lớn của Hồ Gươm. Tuy nhiên, hồ vẫn giữ được những nét đẹp và sự tích về hồ vẫn mãi được người đời sau lưu truyền.
Bên cạnh các di tích lịch sử, giờ đây xung quanh Hồ Gươm được trồng rất nhiều cây xanh tỏa bóng mát. Chúng không chỉ tạo cho không khí sự trong lành mà còn giúp cảnh vật non nước thêm hữu tình. Ngoài ra, người ta cũng đặt những chiếc ghế đá để người đi dạo bộ vãn cảnh hồ có thể dừng chân nghỉ ngơi.
Một người Hy Lạp đã ví Hồ Gươm giống như một bông hoa. Quả thực, bông hoa ấy mang một vẻ đẹp mà khó nơi nào có được. Tuy nhiên, nếu chúng ta không gìn giữ thì một ngày nào đó bông hoa sẽ trở nên tàn lụi. Chính vì vậy mà tôi, các bạn, chúng ta hãy cùng nhau chung tay bảo vệ cho Hồ Gươm của chúng ta mãi mãi giữ được vẻ đẹp như vậy.
Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 7
Hồ Gươm không chỉ là một di tích lịch sử của đất nước mà còn là một danh lam thắng cảnh vô cùng đặc biệt của Việt Nam. Mỗi ngày, đây là điểm đến của rất nhiều du khách, cùng với những người dân sống xung quanh, họ đến đây để tận hưởng không gian thoáng đãng và hòa mình vào bầu không khí tươi mát của Hồ Gươm.
Khi nhắc đến Hồ Gươm, chúng ta không thể không nghĩ đến sự tích lịch sử mà chúng ta đã học qua trong chương trình Ngữ Văn lớp 6. Sự tích kể về thời kỳ đánh đuổi giặc Minh dưới triều đại của Lê Lợi. Giặc Minh đã xâm chiếm và áp bức nước ta, khiến người dân sống trong cảnh khốn khó. Nhiều lần, lực lượng nghĩa quân Lam Sơn đã cố gắng chống lại giặc, nhưng không thành công. May mắn thay, Lê Lợi được ban cho một thanh kiếm thần, từ đó, nghĩa quân Lam Sơn cùng với Long Vương Lê Lợi đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi lãnh thổ nước ta. Sau một thời gian, khi Lê Lợi đang đi thuyền trên Hồ Gươm, anh đã gặp thần Kim Quy và trả lại thanh kiếm thần cho thần Kim Quy. Từ đó, Hồ Gươm được đặt tên là "Hồ Gươm."
Hồ Gươm hiện nay vẫn là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, được ví như "lá phổi xanh" của Hà Nội. Trên bề mặt của hồ, có hai hòn đảo nhỏ, trong đó đảo Rùa nổi tiếng với tháp Rùa, biểu tượng lịch sử của thủ đô kéo dài hàng nghìn năm. Đảo Ngọc là nơi nằm Đền Ngọc Sơn, một điểm đến thường xuyên được người dân và du khách đến để cảm nhận cảnh đẹp và thực hiện lễ cúng. Đền Ngọc Sơn xây dựng trên đảo, nơi xung quanh bốn bể nước. Để đến được đền, người ta phải đi qua cây cầu đáng yêu có tên là cầu Thê Húc, được làm bằng gỗ sơn màu đỏ rực rỡ, tạo nên một bức tranh tương phản độc đáo trên nền nước xanh biếc. Cầu Thê Húc có một kỷ lục lịch sử với 15 nhịp và 32 chân cột gỗ tròn.
Tuy nhiên, Hồ Gươm vẫn chưa thể hiện hết vẻ đẹp và đặc sắc của mình. Chúng ta còn biết đến Hồ Gươm thông qua quần thể di tích Tháp Bút - Đài Nghiên. Tháp Bút được xây dựng hoàn toàn bằng đá, có năm tầng và được xây trên một ngọn núi đá. Bên cạnh Tháp Bút là Đài Nghiên, được thiết kế theo hình dáng của một cây nghiên đựng mực trước đây. Dưới nghiên, có ba con thiềm thừ. Tháp Bút và Đài Nghiên đại diện cho tinh thần văn chương, cho tình yêu với tri thức và sự hiếu học của con người. Vì vậy, các học sinh và sinh viên thường đến Hồ Gươm, chạm tay vào Tháp Bút, để cầu mong cho sự thành công trong học tập và văn chương.
Trước đây, dưới lòng Hồ Gươm, còn tồn tại một số con Rùa. Những người dân sống gần đây đôi khi còn nhìn thấy chúng nổi lên mặt nước. Tuy nhiên, theo thời gian, các con Rùa này đã biến mất, và việc tìm thấy một con Rùa khác để thay thế không phải là điều dễ dàng. Sự mất mát của các con Rùa là một thiệt thòi lớn cho Hồ Gươm. Tuy nhiên, hồ vẫn giữ được vẻ đẹp và sự tích lịch sử của mình.
Ngoài các di tích lịch sử, xung quanh Hồ Gươm còn trồng nhiều cây xanh, tạo ra một môi trường xanh mát và hài hòa. Các cây không chỉ cung cấp bóng mát mà còn giúp tô điểm cảnh quan. Đặc biệt, những chiếc ghế đá được đặt xung quanh hồ cho phép người dân và du khách dừng chân nghỉ ngơi và thư giãn.
Một người Hy Lạp từng mô tả Hồ Gươm như một bông hoa, và thật sự, bông hoa này mang vẻ đẹp hiếm có. Tuy nhiên, nếu chúng ta không bảo vệ và giữ gìn, thì một ngày nào đó, bông hoa đó có thể tàn phai. Vì vậy, chúng ta, cùng nhau hãy bảo vệ Hồ Gươm của chúng ta để nó mãi mãi giữ được vẻ đẹp thần tiên và sự quý báu như thế này.
Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 8
Nằm trong số những di tích lịch sử nổi tiếng của nước ta đó là Bến Nhà Rồng nơi Bác Hồ vĩ đại của chúng ta ra đi tìm đường cứu nước qua các nước phương Tây. Nơi đây chứa đựng những hình ảnh lịch sử của đất nước.
Bến Nhà Rồng hiện nay nằm ở đường Nguyễn Tất Thành, quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Xưa kia nơi đây là thương cảng lớn thu hút rất nhiều tàu bè qua lại, do Công ty Vận tải Pháp là Messageries Maritimes xây dựng vào năm 1863. Ngôi nhà xây dựng vào thời từ 1862 đến năm 1863 mới hoàn thành, ngôi nhà được thiết kế theo lối kiến trúc phương Tây với trên nóc gắn hai con rồng châu đầu vào mặt trăng, tên gọi Bến Nhà Rồng cùng được xuất phát từ chính đặc điểm này.
Sau thời gian kháng chiến của nhân dân, thực dân Pháp thất bại thì Bến Nhà Rồng được chuyển giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý và sửa hai con rồng lại với tư thế quay ra. Sau năm 1975 Bến Nhà Rồng được chuyển giao cho nước Cộng Hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam trực tiếp quản lý.
Bến cảng vị trí giữa quận 1 và quận 4, vị trí thuận lợi và phía trước là bến Bạch Đằng. Buổi tối khi thành phố lên đèn nhìn từ xa bạn sẽ thấy bên càng nổi bật nhất với nhiều ánh đèn trang trí lung linh và huyền ảo. Bến cảng thiết kế theo kiến trúc Đông Tây kết hợp,các kiến trúc xưa đều còn nguyên vẹn cho đến hôm nay.
Đối với những người Việt Nam Bến Nhà Rồng là một kỷ niệm mang giá trị lịch sử, vào năm 1911 chàng trai trẻ có tên Nguyễn Tất Thành bước xuống con tàu Latouche Treville ra đi bốn phương để tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam đang trong tình cảnh bị nô lệ, lầm than. Hiện nay, nơi này cũng lưu giữ nhiều giá trị hiện vật có giá trị, về cuộc đời cũng như sự nghiệp của Người, qua đó người xem sẽ hiểu hơn về một trong những con người anh hùng dân tộc, vĩ đại. Bảo tàng cũng là nơi thu hút hàng nghìn lượt khách trong nước và quốc tế đến thăm và khám phá thêm về Người.
Ngày nay, Bến Nhà Rồng là địa chỉ quen thuộc vẫn đang tiếp đón nhiều thế hệ con cháu đến thắp nhang, tìm hiểu về lịch sử và cuộc đời của Người, đồng thời tỏ lòng tôn kính, yêu mến vị lãnh tụ của dân tộc.
Bến Nhà Rồng luôn là một chứng tích lịch sử không chỉ là nơi Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước mà còn thể hiện sự ngoan cường, tinh thần bất khuất của cả dân tộc Việt Nam.
Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 9
Khi bạn đặt chân đến xứ Huế, một trong những điểm đến mơ màng, có ai có thể không ghé thăm quần thể di tích Cố đô Huế ít nhất một lần? Đây chính là chứng tích rạng ngời và thịnh vượng của triều đại Nguyễn, khi đây từng là trung tâm thủ đô của nước Việt Nam trong vòng 143 năm dài đẹp.
Nhìn lại lịch sử xa xưa, Huế đã từng được vị vua tài ba Nguyễn Huệ coi trọng vì tính chiến lược của vị trí địa lý và ông đã quyết định chọn nơi này để đặt đại bản doanh quan trọng. Vào năm 1802, vị vua Nguyễn Ánh, sau này là vua Gia Long, một lần nữa chọn Cố đô Huế làm thủ đô mới cho triều đại Nguyễn. Dự án xây dựng Kinh đô Huế kéo dài từ năm 1802 cho đến năm 1917 trước khi hoàn thành.
Kinh thành Huế nằm bên bờ hai nhánh của dòng sông Hương là Kim Long và Bạch Y, bao gồm 8 làng cổ đại, bao gồm Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phát, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo và Thế Lại. Các công trình kiến trúc đồ sộ này được xây dựng theo phong cách truyền thống của Huế, đồng thời thể hiện sự tham khảo của nhiều mẫu kiến trúc Trung Quốc và một số yếu tố phương Tây. Tuy nhiên, vẫn tuân thủ theo nguyên tắc kiến trúc dân tộc Việt Nam theo triết lý Dịch Lý và thuật Phong Thủy để tạo ra sự hài hòa và cân đối với tự nhiên. Tất cả những công trình này tạo nên một quần thể kiến trúc độc đáo và tinh tế, kết hợp tinh hoa của văn hóa xây dựng Đông và Tây. Xung quanh kinh thành là một vòng tường dài 10.571 mét, bao gồm 24 pháo đài, 10 cửa chính cùng với 1 cửa phụ, và còn có một hệ thống kênh rạch phức tạp bao quanh để tăng độ phòng thủ của kinh thành.
Chức năng chính của Hoàng thành là bảo vệ và phục vụ cho cuộc sống của hoàng gia và triều đình. Khu vực Đại Nội bao gồm hệ thống Tử Cấm thành nằm bên trong Hoàng thành và có sự liên kết mật thiết với nhau. Vào năm 1804, vua Gia Long đã chỉ định người chịu trách nhiệm xây dựng Đại Nội. Cơ bản, dưới thời vua Gia Long, Đại Nội đã hoàn thành hầu hết. Khu vực này bao gồm các miếu, điện như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân, điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa, Vạc đồng, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường và nhiều công trình khác. Tất cả đã được sắp xếp hài hòa với thiên nhiên, bao gồm vườn hoa, cây cầu đá, hồ sen và cây cối xanh mát. Tử Cấm thành nằm bên trong Đại Nội, nơi diễn ra cuộc sống hàng ngày của vua và hoàng tộc. Vùng này bao gồm nhiều công trình như điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, và Điện Trung Hòa. Còn lại của khu vực này được xây dựng dưới triều đại của vua Minh Mạng, mang lại diện mạo kiến trúc đáng kinh ngạc cho Hoàng thành và Tử Cấm thành.
Kinh thành Huế có hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 600 mét, được xây dựng hoàn toàn bằng gạch, cao 4 mét và dày 1 mét. Nó được bảo vệ bởi các hào đào và có 4 cửa ra vào theo bốn hướng: Hiển Nhơn, Chương Đức, Ngọ Môn (cửa chính) và Hòa Bình. Bên trong, hệ thống được sắp xếp theo một trục đối xứng, với các công trình dành riêng cho vua nằm ở trục chính giữa. Tất cả đều được sắp xếp hài hòa với thiên nhiên, bao gồm vườn hoa, cầu đá, hồ sen và các cây cối xanh mát. Tử Cấm thành nằm bên trong Đại Nội, ngay sau điện Thái Hòa. Nơi này là nơi sinh hoạt hàng ngày của vua và hoàng tộc và bao gồm các công trình như điện Cần Chánh, nhà Tả Vu và Hữu Vu, điện Kiến Trung, Vạc đồng, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường và nhiều công trình khác.
Nhiều công trình khác như Văn miếu Quốc Tử Giam, Thượng Bạc Viện, và Trấn Hải Thành cũng được xây dựng để phục vụ mục đích học tập, ngoại giao và quân sự.
Vào ngày 2 tháng 8 năm 1994, Cố đô Huế đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Điều này là một niềm tự hào lớn của dân tộc Việt Nam, khi nền văn hóa của họ được thế giới công nhận và bảo vệ. Daniel Janicot, Phó Tổng Giám đốc UNESCO, đã đến Huế để trao tấm bằng chứng nhận này, có chữ ký của Tổng Giám đốc UNESCO, Fédérico Mayor Zaragoza, cùng dòng chữ: "Ghi tên vào danh mục công nhận giá trị toàn cầu đặc biệt của một tài sản văn hóa hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích nhân loại".
Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 10
Đặt chân lên đồi A1 (Điện Biên), được chứng kiến những chứng tích lịch sử còn sót lại của một trận chiến ta thấu hiểu sự hào hùng của các chiến sỹ thời đó.
Đặt chân tới Điện Biên những ngày đầu tháng 5, một không khí của sự chiến thắng, hào hùng như đang bao trùm lên toàn thành phố của vùng núi rừng Tây Bắc xa xôi này.
Nhắc đến Điện Biên, chúng ta không thể không nhắc tới những địa danh gắn với những trận chiến lịch sử được nhiều người biết đến như Mường Thanh, khu trung tâm đề kháng Him Lam, Hồng Cúm, căn cứ địa Mường Phăng… Và đặc biệt là đồi A1 nơi đã diễn ra trận chiến lịch sử kéo dài 39 ngày đêm.
Di tích A1 (cứ điểm Elian 2) nằm cạnh quốc lộ 279 (đường 7/5) thuộc phường Mường Thanh – thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên. Cứ điểm này cao 32 m so với mặt đường có diện tích 83.000 m2, cách Sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ của thực dân Pháp khoảng 500 m về phía Tây theo đường chim bay.
A1 thuộc dãy đồi phía Đông cùng với C1, C2, D và E tạo thành bức tường thành vững chắc che chở cho phân khu trung tâm, là điểm cao cuối cùng trực tiếp che chở cho Sở chỉ huy quân Pháp và được ví như “chìa khóa” của cả tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Hơn 2000 cán bộ, chiến sĩ của ta đã anh dũng hi sinh. Cuối cùng quân ta đã làm chủ hoàn toàn cứ điểm A1 vào 4h sáng ngày 7/5/1954, mở toang cánh cửa thép tiến thẳng vào trung tâm của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Trận thắng A1 có một ý nghĩa rất quan trọng, đã mở ra cho toàn mặt trận nhanh chóng chuyển sang tổng công kích và đã giành toàn thắng chỉ sau đó 13 giờ đồng hồ.
Ngày nay đến với cứ điểm A1, qua những chứng tích lịch sử còn lại của chiến tranh như: đường hầm, chiếc xe tăng, hố bộc phá… chúng ta cũng phần nào thấu hiểu được sự vất vả, gian khổ cũng như tinh thần anh dũng, quả cảm của các chiến sỹ để có được sự độc lập, tự do ngày hôm nay.
Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 11
Về thăm xứ Huế mộng mơ có ai không ghé lại thăm quần thể di tích Cố đô Huế một lần, chứng tích một thời cho sự huy hoàng và thịnh vượng của triều Nguyễn, nơi từng là thủ đô của của nước Việt Nam ta suốt 143 năm.
Xét lại lịch sử xa xưa Huế từng rất được Nguyễn Huệ coi trọng bởi địa hình chiến lược và ông đã chọn làm nơi đặt đại bản doanh bàn chuyện chính sự. Đến năm 1802, Nguyễn Ánh sau này là vua Gia Long lại một lần nữa chọn nơi này làm Kinh đô mới cho triều Nguyễn. Nhà vua cho bắt đầu cho xây dựng Kinh đô, việc xây dựng kéo dài từ năm 1802 đến năm 1917 mới kết thúc.
Kinh thành Huế nằm ngự trị trên hai nhánh của dòng sông Hương là Kim Long và Bạch Yến, bao gồm 8 ngôi làng cổ là Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phát, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo và Thế Lại. Công trình kiến trúc đồ sộ này được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của Huế, có sự tham khảo các hình mẫu bố trí của Trung Quốc và một số nước phương Tây, nhưng vẫn tuân thủ theo đúng nguyên tắc kiến trúc của dân tộc Việt Nam theo Dịch Lý và thuật Phong Thủy sao cho hài hòa cân đối, dựa vào các thực thể thiên nhiên đang tồn tại. Tạo thành một quần thể kiến trúc có sự kết hợp nhuần nhuyễn, độc đáo giữa tinh hoa văn hóa xây dựng Đông và Tây. Bao bọc cả kinh thành là vòng tường thành có chu vi 10571m, bao gồm 24 pháo đài, 10 cửa chính cùng 1 cửa phụ, và còn có một hệ thống kênh rạch phức tạp bao quanh để tăng độ phòng thủ của cả kinh thành.
Chức năng chủ yếu của hoàng thành là bảo vệ và phục vụ sinh hoạt của hoàng thất và triều đình. Khu vực Đại Nội bao gồm hệ thống Tử Cấm thành nằm trong lòng Hoàng thành và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, vì để phục vụ nơi ăn chốn ở cho hoàng thất triều Nguyễn nên được ưu tiên xây dựng trước vào năm 1804, do đích thân vua Gia Long chỉ định người chịu trách nhiệm. Về cơ bản, dưới thời vua Gia Long hầu như đã hoàn thành hết. Phương diện thờ cúng bao gồm các miếu, điện như: Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân. Các công trình phục vụ đời sống hoàng tộc như: điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa. Phần còn lại vẫn được tiếp tục xây dựng và cho đến đời vua Minh Mạng mới được xem là hoàn chỉnh Hoàng thành và Tử Cấm thành, với diện mạo kiến trúc đáng ngưỡng mộ.
Hoàng thành vuông, mỗi cạnh khoảng 600 mét, xây hoàn toàn bằng gạch, cao 4 mét, độ dày 1 mét, xung quanh được đào hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào theo bốn hướng đông, tây, nam, bắc lần lượt là Hiển Nhơn, Chương Đức, Ngọ Môn (cửa chính) và Hòa Bình. Toàn bộ hệ thống bên trong được bố trí theo một trục đối xứng, các công trình dành riêng cho vua thì được nằm ở trục chính giữa. Tất cả được bố trí giữa thiên nhiên một cách hài hòa, gồm vườn hoa, cầu đá, hồ sen lớn nhỏ và các loại câu lâu năm tỏa bóng mát rượi. Tử Cấm thành nằm bên trong lòng của Hoàng thành, ngay sau lưng điện Thái Hòa là nơi ăn ở, sinh hoạt của vua chúa, bao gồm các di tích: điện Cần Chánh là nơi vua làm việc và thiết triều, nhà Tả Vu và Hữu Vu nằm hai bên điện Cần Chánh là nơi các quan sửa soạn, chờ chầu, điện Kiến Trung được xây sau vào thời vua Khải Định, sau là nơi ở của vua Bảo Đại và Nam Phương Hoàng Hậu. Ngoài ra còn có Vạc đồng, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường. Đến nay, trải qua bao thăng trầm của lịch sử, và biến động của thời gian, trải qua bom đạn cùng thiên nhiên tàn phá, các công trình kiến trúc ở Đại Nội chỉ còn sót lại với những tàn tích đầy đáng tiếc, chỉ một số ít công trình khác may mắn còn tồn tại và được tu bổ khôi phục dáng vẻ xưa cũ, trở thành di tích lịch sử của dân tộc.
Ngoài khu vực Đại Nội còn có các khu lăng tẩm được xây dựng rải rác khắp Hoàng thành, theo lối kiến trúc phương Đông, tuân thủ theo nguyên tắc phong thủy, sơn triều thủy tụ, tiền án hậu chẩm, tả long hữu hổ,… Tất cả đều được xây trước khi nhà vua băng hà, đều rất đẹp và thơ mộng trữ tình, hoành tráng nhất là Lăng Tự Đức, độc đáo nhất là Lăng Khải Định với lối kiến trúc Đông Tây Kim Cổ kết hợp. Một số công trình kiến trúc khác phục vụ cho mục đích học tập, ngoại giao, quân sự như: Văn miếu Quốc Tử Giam, Thượng Bạc Viện, Trấn Hải Thành,…
Ngày 2 tháng 8 năm 1994, Cố đô Huế đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Vinh dự được đích thân Phó Tổng Giám đốc UNESCO, ông Daniel Janicot, đến Huế trao tấm bằng chứng nhận có chữ ký của Tổng Giám đốc UNESCO, ông Fédérico Mayor Zaragoza cùng dòng chữ: "Ghi tên vào danh mục công nhận giá trị toàn cầu đặc biệt của một tài sản văn hóa hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích nhân loại". Đây quả là một niềm vui lớn của dân tộc Việt Nam khi nền văn hóa được cả thế giới công nhận và bảo vệ.
Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 12
Sau 175 năm tồn tại, nhà Trần vốn thịnh trị và nổi danh với nhiều những đấng minh quân tài giỏi và triều thần kiệt xuất cuối cùng cũng đi và cơn bĩ cực, chịu cảnh diệt vong do vua quan thất đức, bất tài. Trước tình cảnh đó một viên quan lớn trong triều là Hồ Quý Ly đã nhân cái chết của Trần Duệ Tông, nổi lên nắm giữ hoàn toàn triều chính, cuối cùng tiếm ngôi nhà Trần lập ra nước Đại Ngu. Tuy tài giỏi, có tham vọng, nhưng Hồ Quý Ly lên ngôi bất chính, vua tôi không đồng lòng, nhân dân còn nhiều dị nghị, thế nên căn cơ không vững, đứng trước âm mưu xâm lược của giặc Minh liền nhanh chóng sụp đổ. Tuy rằng chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn ngủi từ năm 1401 - 1407, thế nhưng bản thân Hồ Quý Ly, cũng như nhà Hồ đã để lại cho lịch sử một công trình kiến trúc vô cùng có giá trị ấy là thành nhà Hồ, biểu trưng cho một thời đại có nhiều biến động trong ngàn năm văn hiến của dân tộc.
Thành nhà Hồ hay còn có các tên gọi khác là thành Tây Đô, thành Tây Kinh, thành Tây Giai, thành An Tôn, vốn là kinh đô của nước Đại Ngu (quốc hiệu nước ta dưới thời Hồ Quý Ly), trong một khoảng thời gian gần 7 năm. Tuy nhiên sau đó, nhà Hồ sụp đổ, tòa thành không còn được sử dụng với mục đích này nữa. Hiện tại di tích này đang nằm trên địa phận 2 xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam, cách trung tâm thành phố khoảng 45 km. Tuy chỉ được xây dựng trong một khoảng thời gian ngắn ngủi 3 tháng dưới sự chỉ đạo của Hồ Quý Ly vào khoảng đầu năm 1397, dưới thời vua Thuận Tông, để phục vụ mục đích chính trị của họ Hồ, thế nhưng công trình này đã tồn tại hơn 6 thế kỷ, mà cho đến nay một số đoạn thành vẫn còn giữ nguyên kiến trúc cũ. Nhờ sở hữu kiến trúc bằng đá độc đáo cũng như quy mô lớn, sự vững chãi kiên cố theo thời gian, thành nhà Hồ đã trở thành di tích thành cổ bằng đá hiếm hoi còn sót lại ở Việt Nam, cũng như ở Đông Nam Á và trên toàn thế giới, có giá trị lịch sử và văn hóa vô cùng sâu sắc. Năm 2011 thành nhà Hồ đã vinh dự được UNESCO công nhận là di tích văn hóa thế giới, đồng thời được thủ tướng chính phủ xem xét là 1 trong 62 di tích đặc biệt cấp quốc gia, cần phải bảo tồn chặt chẽ.
Về đặc điểm, thành nhà Hồ có kiến trúc bằng đá tảng độc đáo, theo như tiêu chí của UNESCO thì thành nhà Hồ đã "Trở thành ví dụ nổi bật về một loại hình công trình, một quần thể kiến trúc, kỹ thuật hoặc cảnh quan minh họa được giá trị của một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại". Được đánh giá cao về mặt thiết kế, cũng như các kỹ thuật xây dựng tinh tế, khéo léo, gắn liền với sự nghiệp cải cách táo bạo, toàn diện của Hồ Quý Ly và vương triều nhà Hồ. Có thể nhận thấy rằng, thành Tây Đô được dựng ở Thanh Hóa, không phải là một vị trí có địa thế thuận lợi "rồng cuộn hổ ngồi" như kinh thành Thăng Long, thế nhưng về chính trị, quân sự lại là nơi phòng ngự, tấn công tốt, thích hợp cho việc chuẩn bị các thay đổi giữa hai triều đại. Với địa thế sông nước bao quanh, núi non hiểm trở, duy ác, cũng như các công trình thành khác, thành nhà Hồ gồm hai phần chính, thành ngoại còn gọi là La thành, đóng vai trò bảo vệ được đắp bằng 10.000 khối đất, lại trồng thêm tre gai dày đặc, bên trong gồm những hào rộng gần 50m, giúp ngăn chặn sự tấn công bất ngờ của kẻ địch. Phần nội thành về quy mô, toàn bộ khu vực thành có hình dáng gần như vuông, mỗi cạnh dài xấp xỉ 860m, tọa lạc trên một khoảng đất có chu vi 3,5km. Phần chân thành dày tầm 20m, với bốn cửa theo 4 hướng đông, tây, nam, bắc, mỗi cổng cao tầm 10m. Nói rằng thành nhà Hồ có kết cấu đặc biệt bởi lẽ mặt bên ngoài thành được ghép bằng những khối đá tảng lớn kích thước 2x1x0,7m, bên trong tiến hành đắp bằng đất. Các cổng được xây dựng theo hình cuốn vòm, các khối đá tảng vuông vức được xếp sít nhau theo hình múi bưởi, vô cùng chắc chắn, mà theo các nghiên cứu hiện nay cách xây dựng này rất khoa học, giúp thành chống đỡ được những cơn rung chấn mạnh ví như động đất. Chính vì thế cho đến ngày hôm nay sau hơn 600 năm, trải qua nhiều cuộc bể dâu bom đạn, dù phần ngoại thành, các công điện kiến trúc bên trong đã bị phá hủy gần hết, thì riêng phần tường thành bằng đá, với lối kiến trúc "múi bưởi" này vẫn trường tồn cùng năm tháng. Thêm một chi tiết quan trọng nữa ấy là dù không hề sử dụng bất kỳ chất kết dính nào thế nhưng các phiến đá vôi màu xanh này vẫn liên kết với nhau một cách chặt chẽ, không hề suy chuyển trong ngần ấy thời gian. Đặc biệt với sức người và các kỹ thuật xây dựng thô sơ thời trung đại, việc đẽo gọt chạm khắc tỉ mỉ từng phiến đá nặng tới hàng chục tấn, cộng với việc đưa nó lên những độ cao vài mét rồi xếp thành hình "múi bưởi" quả là một thách thức cơ học lớn. Cũng đem đến cho các nhà nghiên cứu lịch sử, nhà khảo cổ học cũng như các nhà kiến trúc nhiều suy đoán và câu hỏi xung quanh vấn đề này. Đồng thời bản thân tôi cũng có chút liên tưởng, so sánh về cách xây dựng thành nhà Hồ với việc xây dựng các Kim tự tháp của người Ai Cập cổ đại. Thật rất đáng ngưỡng mộ và thán phục kỹ thuật xây dựng của con người trong lịch sử. Cuối cùng ngoài những phần tường đá còn sót lại nguyên vẹn cho đến ngày hôm nay thì hầu như các kiến trúc khác như Điện Hoàng Nguyên, Cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, Tây Thái Miếu, Đông Thái Miếu,... đều đã bị phá hủy chỉ còn sót lại đền Nam Giao được xây bằng đá nằm ở phía trong nội thành.
Thành nhà Hồ tồn tại cho đến ngày hôm nay được đánh giá là một trong những di tích lịch sử quan trọng lưu giữ nhiều những giá trị cả về mặt văn hóa lẫn kiến trúc thời trung đại. Cũng đồng thời là một chứng tích lịch sự quan trọng đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, một giai đoạn có nhiều biến động. Khi nhà Hồ lên nắm ngôi đã mang đến nhiều cải cách táo bạo và toàn diện về mọi mặt, tuy nhiên việc tiếm quyền bất chính đã khiến triều đại này nhanh chóng sụp đổ, để lại bài học lịch sử sâu sắc cho các thế hệ quân vương thời kỳ sau này. Tuy có thời gian tồn tại ngắn ngủi 7 năm thế nhưng vương triều nhà Hồ vẫn để lại trong lịch sử dân tộc nhiều dấu ấn quan trọng, đặc biệt là ý thức giữ gìn độc lập của dân tộc thông qua việc xây dựng một công trình kiến trúc độc đáo, vững chắc có nhiều giá trị quan trọng trong công cuộc chống quân xâm lược, phát triển kinh tế văn hóa chính trị trong suốt triều đại nhà Hậu Lê tại miền Trung.
Thành nhà Hồ là một công trình kiến trúc lịch sử độc đáo, cần được bảo tồn và giữ gìn một cách nghiêm túc, chặt chẽ. Nếu ai đã có dịp ghé thăm vùng đất Thanh Hóa, thì đừng tiếc chi một lần đến chiêm ngưỡng thành tựu kiến trúc bằng đá hiếm hoi may mắn còn sót lại này, để hiểu thêm về lịch sử cũng như nền văn hóa phong phú muôn màu của dân tộc Việt Nam ta nhé các bạn.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:
- Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong văn học trung đại
- Phân tích bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" (Bài 2)
- Phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ"
- Phân tích đoạn đầu bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ"
- Thuyết minh về di tích lịch sử ...
- Phân tích bài thơ "Viếng lăng Bác"
- Cảm nhận của em về bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương
- Phân tích hai khổ đầu bài thơ "Sang thu"
- Phân tích bài thơ Sang Thu của Hữu Thỉnh
- Phân tích nhân vật Phương Định trong truyện "Những ngôi sao xa xôi" (Bài 2)
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều