Top 20 Tình cảm cha con trong Chiếc lược ngà (điểm cao)



Phân tích tình cảm cha con trong Chiếc lược ngà hay, chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh lớp 9 trên cả nước giúp học sinh lớp 9 có thêm tài liệu tham khảo từ đó biết cách viết văn dễ dàng hơn.

Đề bài: Phân tích tình cảm cha con trong truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng.

Bài giảng: Chiếc lược ngà - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 1

Nguyễn Quang Sáng là một cây bút truyện ngắn nổi tiếng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Tác phẩm của ông thường viết về cuộc sống và con người Nam Bộ cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Truyện ngắn “Chiếc lược Ngà” được viết năm 1966, lúc tác giả hoạt động cách mạng ở chiến trường Nam Bộ. Tác phẩm ngợi ca tình cha con thiêng liêng, sâu nặng của ông Sáu và bé Thu như một giá trị nhân bản sâu sắc. Tình cảm ấy càng cao đẹp trong hoàn cảnh chiến tranh.

Câu chuyện cảm động về tình cha con của ông Sáu và bé Thu. Vì chiến tranh, đã bảy tám tuổi mà Thu chỉ biết được mặt cha qua tấm ảnh. Vì chiến tranh, gương mặt ông sáu có một vết sẹo, không còn giống như gương mặt mình trong tấm ảnh, nên khi ông về nhà, Thu không nhận ra cha. Vì chiến tranh, ông lại tiếp tục đi chiến đấu; lúc chia tay, Thu nhận ra ông Sáu chính là cha mình. Vì chiến tranh, dù làm xong cho con chiếc lược bằng ngà voi, ông Sáu không kịp chải lên mái tóc con, chỉ kịp gửi lại cho người bạn mang về cho con. Vì chiến tranh, khi Thu đã là cô giao liên hai mươi tuổi, gan dạ, thông minh, trong một chuyến công tác bác Ba mới nhận ra con của người đồng đội đã hi sinh và trao lại chiếc lược ngà cho Thu.

Đọc “Chiếc lược ngà”, người dửng dưng nhất cũng không thể dửng dưng trước cảnh cha con sống chung một nhà, cha chờ con gọi tiếng “ba” mà con thì nhất quyết không trò chuyện với “ người ta”. Nếu đó là một người dưng thực sự thì sự thờ ơ của Thu là không đáng trách. Nhưng điều trớ trêu là chúng ta cũng không thể trách Thu khi người ấy là cha ruột của em. Chiến tranh đã làm gương mặt cha có một vết sẹo khiến Thu không nhận ra. Vết sẹo ấy như một con dao cắt lìa tình cha con. Bằng chi tiết này, Nguyễn Quang Sáng muốn nhắc nhở chúng ta rằng chiến tranh không chỉ gây ra những hi sinh, thương tật cho con người mà còn gây ra những nỗi đau chia cắt không gì bù đắp được.

Thu không nhận ra ba, hất bỏ cái trứng cá mà ông Sáu gắp cho là một sự bướng bỉnh nhưng đáng yêu. Có yêu người cha trong tấm ảnh một cách sâu sắc, Thu mới khó chịu trước sự ân cần của một người mà từ trong lòng em nghĩ đó không phải là cha mình. Đâu phải ai cho ta cái gì, dù đó là cái quý giá, cũng có thể nhận là tình cảm thiêng liêng được khi mà lòng ta chưa cảm được sự gần gũi và thiêng liêng thực sự.

Được bà ngoại giải thích, hiểu được nguyên cớ của vết sẹo, lúc chia tay, Thu bất ngờ ôm chầm lấy ông Sáu, gọi tiếng “Ba” và nũng nịu “Ba mua cho con cây lược nghen ba”. Tiếng gọi thiêng liêng ấy cất lên từ sâu thẳm trong lòng đứa con bé bỏng. Tiếng gọi ấy làm xao động trái tim người đọc để một lần nữa chúng ta cảm thấy uất hận kẻ đã gây ra “vết sẹo tình thương” cho bao gia đình miền Nam thời chiến tranh chia cắt. Chiến tranh làm cho vợ xa chồng, con phải xa cha. Chiến tranh làm cho những tình cảm tự nhiên của con người phải nghẹn ngào, uất ức. Và khi nghe tiếng nói dịu ngọt mà nghẹn ngào của con, ông sáu đã khóc. Đó là giọt nước mắt hạnh phúc của người cha khi nhận được tình ruột thịt từ con. Đó là giọt nước mắt mang thông điệp hãy nâng niu và giữ gìn tình phụ tử.

Những ngày ở chiến khu, cưa từng răng lược cho con, ông Sáu tự xoa dịu nỗi nhớ con, ân hận vì đã đánh. Có thể hình dung từng chiếc răng lược được thành hình là khối yêu thương trong lòng ông Sáu lớn dần, niềm mong mỏi được gặp lại con cũng thiết tha hơn. Tuy chưa chải được mái tóc con bằng chiếc lược do chính tay mình làm nhưng ông Sáu cũng phần nào gỡ được những mối rối trong tình cha con của mình.

Quả thực, ông là một người cha chịu nhiều thiệt thòi nhưng vô cùng độ lượng và tận tụy vì tình yêu thương con. Nếu có phép màu, xin được một lần, Thu ơi, bạn hãy lặng yên ngả vào lòng cha, để cha sẽ chải mái tóc thanh xuân của bạn bằng chiếc lược ngà thấm đẫm yêu thương. Và mỗi độc giả nhạy cảm sẽ nhận ra rằng trong lòng đất Mẹ, có bao nhiêu chiếc lược ngà như thế, những chiếc lược yêu thương chưa từng một lần được chải lên mái tóc người yêu thương…

Nhưng trong câu chuyện này, trái tim người cha đã đưa lối chỉ đường để người đồng đội mang lược về cho con. Bên sông, một người dưng nói với một người dưng: “ba đi nghe con”, vậy mà nghe sao thiết tha và ấm áp. Vì rằng, con đã đi tiếp con đường cha đi dang dở, con đã được gặp người đồng đội của cha; tình cha con, tình đồng đội, tình đồng chí đã hòa vào tình yêu đất nước. Câu chuyện nhằm ca ngợi tình cha con thiêng liêng, thắm thiết và sâu nặng dù trong hoàn cảnh éo le. Đồng thời, câu chuyện cũng nhằm khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Câu chuyện còn nhằm lên án kẻ thù đã gây ra bao đau thương, mất mát cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình Việt Nam.

Qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu nặng của người cha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát đối với những em bé, những gia đình. Tình cảm cha con sâu đậm, thắm thiết của cha con anh Sáu khẳng định rằng bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con người, còn tình cảm của con người – tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn nào có thể giết chết được.

Dàn ý Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả: Nguyễn Quang Sáng là nhà văn gắn liền với miền đất Nam Bộ, văn ông có giọng điệu tự nhiên, thân mật, dân dã, ngôn ngữ gần với khẩu ngữ, lời ăn tiếng nói của nhân dân Nam Bộ.

- Truyện ngắn Chiếc lược ngà được sáng tác năm 1966 đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

II. Thân bài

* Tình cảm cha con trong truyện ngắn này được thể hiện từ hai phía: tình cảm của con dành cho cha và tình cảm của cha dành cho con.

1. Tình cảm của bé Thu dành cho ông Sáu

– Khi chưa nhận ra ông Sáu với vết thẹo dài trên mặt, bé Thu đã có thái độ xa lánh, hành động cự tuyệt và những lời nói cử chỉ khiến ông Sáu phải đau lòng: (hét toáng lên khi nhìn thấy ba, toàn nói lời trống không, nhất định không chịu nhờ ông Sáu chắt nước cơm cho, hất cái trứng cá…).

=> Tất cả những hành động ấy đã thể hiện được cá tính mạnh mẽ và tình cảm yêu thương rạch ròi của cô bé.

– Khi nhận ra ông Sáu là cha mình, trong buổi sáng cuối cùng trước khi ông Sáu phải lên đường, thái độ, hành động của bé Thu đột ngột thay đổi:

+ Nó bỗng kêu thét lên "ba" – tiếng kêu như xé tan sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người.

+ Cô bé chạy xô tới, dang hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp (hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn vết thẹo), dang cả hai chân để câu chặt lấy ba, đôi vai nhỏ bé run run. Tình yêu thương ba được bộc lộ một cách mãnh liệt, dâng trào, không thể kìm nén nổi. Em yêu ba, nhớ ba, mong ba. Nay tình cảm ấy mới có dịp vỡ òa ra nên vô cùng mạnh mẽ, hối hả, cuống quýt.

2. Tình cảm của ông Sáu dành cho con

– Khi bị con từ chối, ông cảm thấy vô cùng hụt hẫng, đau khổ, cáu giận, không thể kìm chế nổi. Ông đã đánh con vì nó không chịu nhận mình. Đây là biểu hiện đau khổ tột cùng của người cha khi bị con khước từ.

– Về đơn vị, ông day dứt, ân hận vì trong lúc nóng giận đã đánh con. Chi tiết này thể hiện tình yêu con tha thiết.

– Khi kiếm được khúc ngà voi, ông vô cùng vui mừng sung sướng, dành hết tâm trí, công sức vào việc làm cây lược. Chiếc lược đã trở thành vật báu thiêng liêng đối với ông Sáu. Nó làm dịu đi những ân hận và chứa đựng bao nhiêu tình cảm yêu mến của ông với đứa con xa cách nơi quê nhà.

– Trước lúc hi sinh, lời trăng trối sau cùng, ông muốn nhờ bạn trao tận tay chiếc lược ngà cho con.

III. Kết bài

- Truyện ngắn Chiếc lược ngà đã khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc. Tình cảm ấy càng trở nên cao đẹp, thiêng liêng hơn trong những cảnh ngộ éo le của cuộc chiến tranh tàn khốc.

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà (dàn ý + 4 mẫu)

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 2

Trong mỗi chúng ta, ai mà chẳng được sống trong những giây phút xúc động của tình cảm gia đình. Đến với văn học ta càng cảm nhận rõ nét hơn sự rung cảm đến tột cùng đó. Nếu đến với " Bếp lửa" của Bằng Việt ta được sống lại cuộc sống êm đềm bên người bà... Đến với " Tắt đèn" của Ngô Tất Tố ta được chìm ngập trong tình mẹ con sâu nặng...Thì đến với tác phẩm " Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng đã thể hiện thật cảm động tình cảm cha con của ông Sáu và bé Thu.

Dưới cây bút tài ba của nhà văn ta được đến với những tình huống vô cùng độc đáo và bất ngờ, qua đó càng nhấn mạnh tình cảm cha con sâu sắc cao đẹp trong cảnh ngộ éo le. Cái cảnh ngộ đã làm bé Thu và ông Sáu trở nên xa cách và lạnh lùng.

Sau tám năm xa cách gia đình, vợ con để đi chiến đấu lúc nào ông Sáu cũng nuôi trong mình hy vọng là được về thăm nhà. Thế rồi cái ước mơ đó đã trở thành hiện thực, ông được về thăm nhà, thăm vợ con. Lúc về đến nhà ông vô cùng hồi hộp được nhìn thấy đứa con sau bao năm xa cách, nhưng ông càng hy vọng bao nhiêu thì càng thất vọng bấy nhiêu. Bé Thu - con gái ông đã không nhận ra cha bởi vì cái vết thẹo dài trên má. Đã làm cho ông Sáu đau lòng nhưng ông vẫn yêu thương con bằng tất cả tấm lòng. Chỉ vì cái vết thẹo mà chiến tranh tàn khốc đã gây nên đã tạo ra những bi kịch đáng buồn, là bức rào ngăn cản cha con.

Đọc tác phẩm, ta thấy trong mình sục sôi sự căm ghét chiến tranh, không những gây nên sự hy sinh đau khổ mà còn gây lên những trớ trêu mà ngay cả những đứa trẻ thơ ngây, hồn nhiên cũng phải gánh chịu. Hành động chạy vụt đi của bé Thu khi ấy cũng chỉ là xuất phát từ tình yêu mà bé dành cho cha, vì người cha trước mặt không giống với người cha trong ảnh mà mẹ đã chỉ. Bé cũng chỉ là nạn nhân của chiến tranh, không được sống gần gũi, yêu thương của cha mà phải xa cha từ nhỏ. Nhưng vết thẹo dài trên mặt ấy chỉ là bức cản tạm thời, nó đã không che lấp được tình cha con. Tình cha con sâu nặng đã vượt lên trên tất cả sự đau thương mất mát để được bên nhau. Tuy chỉ là nhưng giây phút ngắn ngủi nhưng chứa đựng là những kỷ niệm khó quên trong tâm hồn bé Thu và ông Sáu.

Mà có lẽ, ta không thể không xúc động trước tình cảm yêu thương tha thiết của ông Sáu dành cho đứa con gái.Ôi ! ta phải thốt lên trước những hành động suy nghĩ của ông Sáu khi ở căn cứ. Vì nỗi nhớ thương con da diết đã khiến ông dồn hết tâm trí và sức lực những lúc dỗi dãi ông chau chuốt làm cho con một chiếc lược thật đẹp bằng ngà voi. Cái hình ảnh ấy cứ thấp thoáng đâu đây: " Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc". Chiếc lược đã trở thành vật thiêng liêng quý giá chứa đựng bao nỗi nhớ thương yêu con của ông Sáu. Ông đã từng tưởng tượng cái giây phút hạnh phúc khi được tận tay trao chiếc lược cho con nhưng tất cả đã trở thành kỷ niệm, ông Sáu đã hy sinh. Một lần nữa người đọc lại thấm thía về sự mất mát hy sinh của chiến tranh.

Tóm lại, khi đọc tác phẩm " Chiếc lược ngà" với cốt truyện chặt chẽ, bất ngờ đã đưa người đọc đến với tình cảm cha con sâu nặng nhưng vô cùng éo le trong cảnh ngộ chiến tranh. Qua đó Nguyễn Quang Sáng muốn gửi đến bạn đọc rằng : tình cảm cha con là một tình cảm vô cùng thiêng liêng và cao quý đối với mỗi chúng ta. Vậy nên chúng ta hãy biết trân trọng tình cảm và quý mến tình cảm ấy.

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 3

Trong khói lửa chiến tranh, người ta cứ ngỡ tưởng rằng, trong các tác phẩm văn học thời kì đó, chỉ có bom mìn, lửa đạn, chỉ có đau thương và mất mát, chỉ có máu và nước mắt chan hòa cùng với nhau... nhưng có một tác phẩm viết về tình cha con thật nhẹ nhàng, sâu lặng, thấm thía và cảm động vẫn cứ lặng lẽ xuất hiện ngay giữa trận địa chiến đấu chống quân thù, đó là truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" là một trong các truyện ngắn thành công nhất trong sự nghiệp cầm bút của ông. Tác phẩm được sáng tác năm 1966 tại chiến trường Nam Bộ trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễn ra rất quyết liệt. Qua tác phẩm, người đọc thấy được tình cảm cha con thật đẹp, thiêng liêng, cao cả trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

Sau tám năm ròng đi lính xa cách gia đình, anh Sáu được phép về thăm nhà, thăm con, trong lòng anh nôn nao, mong ngóng muốn được gặp con và ôm con vào lòng ngay tức khắc. Vì thế, không đợi thuyền cập bến, anh Sáu đã “nhón chân nhảy thót lên bờ, xô chiếc xuồng tạt ra” rồi “bước vội vàng với những bước dài”, "miệng kêu to tên con, vừa bước vừa khom người đưa tay đón chờ con”. “Anh không kìm nổi nỗi xúc động” khi gặp lại con, vết sẹo dài bên má lại đỏ ửng, giần giật trông dễ sợ. Giọng lắp bắp, run run: “Ba đây con!, Ba đây con!”. Nhưng trái lại với cảm xúc đó của anh, bé Thu sợ hãi, bỏ chạy, không nhận ra cha mình. “Anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Tâm trạng anh Sáu đau khổ tột cùng, anh mong ngóng được con chạy lại ôm mình nhưng đứa con bé bỏng, ngây thơ lại xa lánh, hoảng sợ khiến anh hụt hẫng, đau đớn và thất vọng.

Trong ba ngày nghỉ phép ở nhà, anh tìm mọi cách để được bé Thu gọi một tiếng “ba”. Nhưng dường như mọi sự cố gắng của anh đều thất bại, từ việc anh “giả vờ không nghe” lúc bé mời ăn cơm, cho đến việc “dồn nó vào thế bí” khi chắt nước cơm đều không có kết quả. Trong bữa ăn, anh gắp cái trứng cá vào chén của bé, bé đã hất cái trứng cá ra ngoài làm cơm văng tung tóe cả mâm. Giận quá và không kịp suy nghĩ, anh vung tay đánh con, con bé bỏ sang nhà ngoại. Anh khao khát tình cảm của con bao nhiêu thì con bé lại hoàn toàn lạnh lùng trước mọi tình cảm vồ vập của cha bấy nhiêu. Anh càng muốn xích gần nó, nó lại càng lùi xa; anh càng chiều thương nó, nó lại càng lẩn tránh; anh càng mong được nghe tiếng ba thì nó lại càng không gọi. Anh kiên nhẫn, đợi chờ tình cảm của con “suốt mấy ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con”, “anh quay lại nhìn con vừa khẽ lắc đầu, vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được nên anh phải cười vậy thôi”.

Sáng hôm sau, khi chuẩn bị phải xa gia đình, tiếp tục tham gia chiến đấu, anh Sáu rất muốn được ôm con và hôn con nhưng lại sợ nó giãy lên lại bỏ chạy, nên “anh chỉ đứng nhìn nó. Anh nhìn với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu". Khi ấy, bé Thu đứng vào một góc nhà, tựa cửa và nhìn mọi người đang vây quanh ba nó. Nhưng thái độ và hành động của bé khác hoàn toàn mọi khi: “nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt mông mông của con bé bỗng xôn xao”, “tình cảm cha con như bỗng trỗi dậy trong người nó”, “nó kêu thét lên: “Ba…a…a…ba!”. Sự khao khát tình cảm cha bị kìm nén suốt mấy năm, nay bỗng bật lên xé tan cả sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, “nghe thật xót xa”. Thế rồi, nó vừa kêu, vừa chạy tới, nhanh như một con sóc, “nó chạy thót lên và dang hai tay ôm lấy cổ ba nó”. Sự xúc động ngẹn ngào đã khiến “làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Nó hôn khắp người anh Sáu, “hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Anh Sáu “không ghìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc con”. Đó là giọt nước mắt của hạnh phúc, của tình thương yêu mà người cha dành cho con sau tám năm ròng xa cách.

Sợ cha đi mất, “chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân câu lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên: “không!”. Vừa khóc vừa không cho cha đi. Giọt nước mắt ấy là biểu hiện của tình cha con ấm áp, của sự hạnh phúc vỡ òa khi nhận ra cha sau tám năm xa cách, lại vừa xen lẫn cả sự ăn năn, hối hận vì không kịp nhận ra cha sớm hơn chút nữa…Chứng kiến cảnh ngộ ấy, có người đã không cầm được nước mắt, còn bác Ba thì cảm thấy như có bàn tay nắm lấy trái tim mình mà bóp thắt lại...

Qua thái độ và hành động của bé Thu trước và sau khi nhận ra ông Sáu là cha mình, người đọc thấy được đằng sau sự hồn nhiên, ngây thơ và cứng đầu, bướng bỉnh của bé là tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt, thiêng liêng. Trước đó, bé không chịu nhận cha, bởi đơn giản là vì bé thấy người cha của hiện tại trước mắt khác với tấm hình chụp chung với má của bé quá. Vả lại Thu còn quá bé bỏng để có thể thấu hiểu được sự khắc nghiệt của cuộc sống, của chiến tranh và người lớn cũng chưa kịp giải thích cho bé hiểu nên bé không tin là người có vết sẹo trên mặt kia là ba của mình. Đồng thời, điều đó cũng chứng tỏ tình cảm sâu sắc của bé dành cho ba. Bé chỉ yêu, chỉ nhận ba khi biết chính xác đó là ba của bé mà thôi. Cho nên, những phản ứng sau này trước khi anh Sáu lên đường của bé Thu đã dâng đầy lên rồi vỡ òa ra thành tiếng khóc, tiếng nấc đến nghẹn ngào, chứng tỏ được tình cảm mà bé dành cho cha cũng mãnh liệt, cũng khát khao giống như anh Sáu dành cho bé Thu vậy.

Không dừng lại ở đó, tình cha con anh Sáu sâu nặng, bền chặt và thiêng liêng còn được thể hiện khi anh trở về đơn vị mặt trận. Anh day dứt, ân hận vì đã nóng giận đánh con. Và anh đã dồn tất cả tình thương, nỗi nhớ con bằng việc làm một cây lược ngà – lời hứa với con trước lúc chia tay. Vì thế, khi kiếm được khúc ngà voi, lòng anh “hớn hở như một đứa trẻ được quà”, rồi dành hết tâm trí, tình cảm vào làm một cây lược. “Anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Trên sống lưng của chiếc lược có khắc dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” mà ông gò lưng, khắc từng nét một. Chiếc lược ngà phần nào gỡ rối được tâm trạng của người cha. Chiếc lược trở thành vật quý giá mà ông dồn tất cả tình cảm yêu thương con của người cha sau tám năm ròng xa cách. Vì thế, mỗi khi nhớ con, ông lại mang chiếc lược ra ngắm và chải lên tóc mình cho thêm bóng, thêm mượt.

Nhưng rồi anh Sáu đã hi sinh trong một trận càn của giặc, khi còn chưa kịp trao cây lược cho con gái. Trước lúc tắt thở, không còn sức trăng trối lại điều gì, “hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, anh đã lấy cây lược mà anh thường mang theo bên mình rồi trao cho bác Ba – người bạn đồng đội của mình và nhìn người bạn một hồi lâu, cái nhìn như gửi gắm sự ủy thác thiêng liêng. Chỉ khi nhận được lời hứa của bác Ba, “mang về tận tay trao cho cháu” thì người cha mới nhắm mắt, xuôi tay. Điều đó cho ta thấy tình cha con mãnh liệt và tha thiết của anh Sáu dành cho con gái yêu bé bỏng của mình.

Để rồi sau này, bé Thu lớn lên, trở thành cô giao liên xinh đẹp, dũng cảm, bước tiếp con đường cách mạng mà cha cô đã từng đi. Sau ba năm ngày mất của anh Sáu, cô nhận được chiếc lược ngà mà bác Ba gửi, nhìn dòng chữ khắc ghi "Yêu nhớ tặng Thu con của ba", cô cảm thấy như được gặp lại chính bóng hình người cha thân yêu. Cô đã không kìm được lòng mình, "hai giọt lệ sắp rơi xuống bỗng vỡ ra tràn đầy qua đôi mắt". Và giọt nước mắt của Thu chính là giọt nước mắt của tình phụ tử sâu lặng, vĩnh hằng, bất biến!.

Tóm lại, qua câu chuyện, người đọc không chỉ cảm nhận được tình cảm cha con sâu nặng của anh Sáu mà còn thấm thía về những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh đã gây ra, khiến cho gia đình phải li tán, vợ xa chồng, con xa cha. Đồng thời qua truyện, người đọc cũng thấy được những hi sinh thầm lặng mà cao cả của những người lính trong chiến tranh đối với quê hương, đất nước, vì hòa bình dân tộc. Từ đó, ta càng cảm thấy trân trọng hơn nền hòa bình dân tộc và càng quí trọng hơn tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước.

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 4

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn gốc An Giang, những tác phẩm của ông gắn liền với vùng đất và con người miền Tây Nam Bộ. “Chiếc lược ngà” là một tác phẩm hay và tiêu biểu của ông. Bằng việc sáng tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý cùng nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật, truyện đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong cảnh ngộ éo le của cuộc chiến tranh.

Trong chiến tranh, sự mất mát, thiệt thòi, hy sinh về tình cảm gia đình là điều tất nhiên. Ông Sáu xa nhà đi theo tiếng gọi của kháng chiến khi con gái đầu lòng mới tròn một tuổi. Ông trở về thăm nhà sau tám năm xa cách gia đình, nhưng trớ trêu thay, bé Thu không nhận ra ông là ba. Khi vừa gặp gỡ, Thu ngờ vực, lảng tránh, thậm chí còn bỏ chạy vì sợ hãi bởi “vết thẹo bên má phải cứ mỗi khi anh xúc động lại đỏ ửng lên, giật giật trông rất dễ sợ”.

Trong những ngày ông ở nhà, Thu kiên quyết không nhận ông là ba mặc dù ông đã tìm mọi cách để gắn kết tình cha con với cô bé. Sự cương ngạnh của cô bé không đáng trách vì em còn quá nhỏ để có thể hiểu được những khó khăn, mất mát và xa cách mà chiến tranh mang lại và em cũng chưa thể sẵn sàng để đón nhận người ba sau một khoảng thời gian dài như thế.

Em không nhận ông Sáu là cha vì sau nhiều năm, chiến tranh đã khiến ông có vết thẹo dài trên má không giống bức hình chụp chung với má mà em biết. Điều đó chứng tỏ Thu có tình cảm dành cho ba nhưng chỉ là do em chưa sẵn sàng. Em chưa biết chắc đó là ba nên không thể biểu lộ tình cảm một cách tự nhiên được.

Buổi sáng sớm cuối cùng trước khi ông Sáu lên đường trở lại chiến khu, thái độ của Thu đột nhiên thay đổi. Trong đêm bỏ về nhà ngoại Thu đã được bà giải thích về vết sẹo trên má của ba. Bé hiểu ra, cảm thấy ân hận và hối tiếc vô cùng: “nghe bà kể, nó nằm im lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Lúc chia tay “vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của bé thật dễ thương”.

Khi ông Sáu ngậm ngùi nhìn con để chào từ biệt, “đôi mắt mênh mông của con bé xôn xao” tình cha con đã dồn nén bấy lâu nay chợt vùng lên mạnh mẽ, vô cùng hối hả, cuống quýt. Thu thét lên gọi ba “tiếng kêu của nó như tiếng xé”, “xé tan sự im lặng và xé cả ruột gan của mọi người, nghe thật xót xa”. Hành động của cô bé cũng thay đổi “nó nhảy thót lên, dang cả hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó hôn ba nó cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”…

Tất cả những biểu hiện đó của bé Thu đều bắt nguồn từ tình cảm thương yêu và nhớ mong dành cho người ba mà nó hằng tôn kính, tôn thờ và không ai có thể thay thế được. Ở Thu sự ương bướng và mạnh mẽ nhưng vẫn có nét ngây thơ, hồn nhiên của con trẻ. Bằng tâm hồn tinh tế, một trái tim nhân hậu và chứa chan tình yêu thương đối với tình cảm gia đình, Nguyễn Quang Sáng dường như đã cảm nhận đến sâu sắc nhất những biểu hiện tình cảm của nhân vật để miêu tả một cách sinh động và tinh tế.

Tình cảm của ông Sáu đối với bé Thu được biểu hiện qua chuyến về thăm nhà sau tám năm xa cách. Khi xuồng còn chưa kịp cập bến, nhìn thấy con gái ông đã vội vàng “nhảy thót lên, khom người, hai tay đưa về phía trước, miệng lắp bắp: “ba đây con! ba đây con””. Ông cứ tưởng sẽ ào tới, ôm lấy cổ ba cho thỏa những ngày tháng xa rời. Nhưng không, ông hụt hẫng khi “bé tròn mắt ngơ ngác nhìn rồi sợ hãi bỏ chạy”.

Thời gian ở nhà không nhiều nên ông Sáu chỉ ở nhà tìm cách gần gũi, gắn kết với con, chỉ mong nghe một tiếng “ba” từ con gái mà không được. Có lúc giận quá ông đã không kiềm chế mà đánh con. Lúc chia tay, tình yêu mãnh liệt của bé Thu khiến ông “một tay ôm con, tay kia lấy khăn chấm nước mắt”.

Càng cảm động và đau đớn hơn khi biết rằng lần đầu tiên này cũng chính là lần cuối cùng anh được nghe tiếng gọi ba thân thương từ bé Thu, bởi vì sau đó, anh đã không thể trở về một lần nào nữa!. Trong những ngày ở chiến khu, anh ân hận vì những lần đã trót đánh con. Khi nhặt được một khúc ngà voi anh vui mừng như trẻ nhỏ “mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”.

Những ngày sau đó tất cả tình cảm yêu quý, nhớ thương con anh đều dồn vô việc làm cây lược. Anh “cưa từng chiếc răng lược, thận trọng và tỉ mỉ”, anh còn khắc lên “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”… Những lúc nhớ con anh mang cây lược ra chải lên tóc mình cho cây lược thêm óng mượt.

Những lúc ấy anh tha thiết mong có một lần về phép thăm nhà để anh tự tay mình cầm cây lược chải lên mái tóc cho con… Nhưng chiến tranh tàn khốc đã cướp mất giấc mơ đó, khiến anh chẳng bao giờ có thể trở về bên con gái mình được nữa. Anh đã hy sinh trong một trận càn quét lớn của địch. Những lời trăn trối cuối cùng “dường như chỉ có tình cha con là không thể chết”, anh cầm cây lược trao cho anh Ba với niềm mong mỏi không còn có thể cất được thành lời.

Từ lúc ấy, cây lược bằng ngà đã trở thành một kỷ vật tình cha con, thành biểu tượng thiêng liêng của tình phụ tử. Những dòng cuối cùng của truyện khép lại trong nỗi buồn như cắt vào tim mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc.

Câu chuyện cảm động của cha con ông Sáu đã phản ánh giá trị hiện thực trong chiến tranh. Chiến tranh ác liệt và phi nghĩa đã cướp mất đi hạnh phúc gia đình của bao nhiêu cuộc đời. Tác giả đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo và miêu tả tâm lý nhân vật rất thực và hợp lý, chỉ có trong chiến tranh và nhờ tình huống này mà tình phụ tử được khắc sâu tô đậm như một lẽ sống. Qua đó, Nguyễn Quang Sáng cũng bộc lộ thái độ căm ghét với chiến tranh. Và vì vậy, giá trị nhân đạo của tác phẩm càng nâng cao.

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 5

Tình cảm của ông Sáu với con thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà nhưng được biểu hiện tập trung, sâu sắc ở phần cuối truyện khi ông Sáu ở trong rừng, tại khu căn cứ.

Nỗi ân hận, day dứt cứ ám ảnh ông nhiều ngày vì ông đã nóng giận đánh con trong những ngày nghỉ phép.

Lời dặn dò của con gái: "Ba về! Ba mua cho con một cây lược ngà nghe ba" đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm một cây lược ngà cho con.

Khi kiếm được khúc ngà voi, ông mừng vô cùng, ông dành hết tâm trí, công sức vào làm một cây lược: "Anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc", "Tròn sống lưng lược có khắc một làng chữ nhỏ mà ông đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét: Yêu nhớ tặng Thu, con của ba". Chiếc lược ngà đã trở thành một báu vật đối với ông. Nó làm dịu đi nỗi ân hận day dứt. Nó chứa đựng bao tình cảm yêu mến, nhớ hương, mong đợi của người cha trong những ngày xa cách. Nhưng rồi tình cảnh đau thương lại đến với cha con ông Sáu. Ông Sáu hi sinh khi chưa kịp gặp lại con. Chiếc lược ngà chưa tới được tay bé Thu.

Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình yêu thương thắm thiết, sâu nặng muôn đời của cha con ông Sáu mà còn gợi cho ta nghĩ đến nỗi đau của chiến tranh. Chiến tranh gây đau thương mất mát cho biết bao con người, biết bao gia đình.

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 6

"Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn hay viết về đề tài tình phụ tử. Đọc tác phẩm, điều khiến người đọc cảm động nhất chính là tình cảm mà cha con ông Sáu và bé Thu dành cho nhau. Câu chuyện về tình cảm gia đình thiêng liêng, sâu sắc trong kháng chiến đã đọng lại trong lòng người những suy nghĩ những bài học bổ ích.

Tác phẩm ra đời năm 1966, lấy bối cảnh là cuộc kháng chiến chống Mĩ của đồng bào Nam Bộ. Chính trong hoàn cảnh bom rơi, đạn nổ, kẻ thù không chỉ chia lìa đất nước mà còn chia lìa từng gia đình ấy, tình cảm gia đình lại được thể hiện đậm nét, cảm động hơn bao giờ hết.

Ông Sáu khi đi kháng chiến có một đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuổi. Trong những năm tháng kháng chiến, vì cô bé còn nhỏ nên đi thăm chồng, vợ của ông không mang theo con. Bởi vậy, ông chỉ được nhìn con qua những tấm ảnh nhỏ mà thôi. Và giờ đây, khi trở về thì tình cha con ấy lại trỗi dậy trong lòng, ông cảm thấy nôn nao. Ngay lập tức, khi xuống thuyền, thấy một đứa bé chừng bảy, tám tuổi, tóc ngang vai thì ông Sáu biết ngay đó là con mình. Không chờ xuồng cập bến, ông đã nhún chân nhảy thót lên bờ, vội vàng bước những bước dài rồi kêu: "Thu! Con!". Điều đó thể hiện một tình cảm của người cha một cách tự nhiên, quá xúc động. Dường như chính lúc này đây, trái tim của người cha tội nghiệp reo lên đầy sung sướng khi sau tám năm trời mới được nhìn thấy mặt con và dường như ông cũng mong sự đáp lại tình cảm của con. Nhưng con bé lại đầy ngơ ngác, lạ lùng, không biết đó là ai. Còn ông Sáu thì vẫn đầy xúc động miệng nói không thành lời, giọng lặp bập: "Ba đây con"! Lúc đó chính là lúc cái tình của người cha lên đến đỉnh điểm và không thể toát ra bằng lời vì ông đã quá xúc động. Việc bé Thu sợ hãi chạy ào đi như một gáo nước lạnh dội mạnh vào trái tim đang nóng bỏng của ông Sáu. Ông đứng sững lại đầy sững sờ, thảng thốt.

Những ngày sau đó, ông Sáu vẫn cố gắng để con nhận ra mình là cha. Cả ngày ông chẳng đi đâu xa, suốt ngày ở bên con, săn sóc, vỗ về con. Song càng vỗ về bao nhiêu con bé lại càng đẩy ông ra bấy nhiêu. Ông chỉ mong có một điều là được gọi mình một tiếng "ba". Chỉ một tiếng "ba" mà thôi! Nhưng chẳng có điều gì khác ở con gái ông ngoài sự thờ ơ, lạnh lùng thậm chí thù ghét. Những hành động của ông Sáu giúp đỡ con hay vỗ về nó đều bị con bé phản ứng lại. Chỉ có tình cha sâu nặng mới giúp ông kiên trì vượt qua điều đó. Đến một bữa cơm, khi ông gắp cái trứng cá to, vàng bỏ vào bát nó thì bất thần con bé hất ra, cơm văng tung toé và không kịp suy nghĩ gì ông đã đánh một cái vào mông nó. Ông Sáu hẳn đã vô cùng ân hận vì giây phút nóng nảy đó của mình.

Trong ba ngày nghỉ ngắn ngủi, ông đã ở bên con nhưng con không nhận. Giờ đây ngày chia tay bà con làng xóm ông định mang theo nỗi buồn đó. Nhưng trong lúc không ai ngờ đến đó, một tiếng kêu đã xé lòng ông: "Ba... a...a... ba". Tiếng "Ba" đó là sự dồn nén trong Thu tám năm nay và bây giờ nó vỡ tung ra từ ngay trong sâu thẳm đáy lòng con bé. Tiếng "Ba" với nó là điều khát khao hơn mọi đứa trẻ khác vì ngay từ nhỏ nó đã không có tình yêu thương của cha. Giờ đây tiếng "Ba" vang lên đầy tự nhiên, ngỡ ngàng trong giây phút cuối cha con chia tay. Và bây giờ nó muốn có ba, nó bật khóc vì hạnh phúc, nó hôn tóc, hôn cổ và hôn với vết thẹo dài trên má của ba nó nữa. Hoá ra, lí do nó không nhận ba là do vết thẹo oan nghiệt đó - vết thẹo do kẻ thù của gia đình đó, của đất nước đau thương này gây ra. Nhưng vừa nhận ra thì cũng là lúc phải chia tay. Sung sướng và có lẫn sự xúc động ông ôm con và tạm biệt nhưng con bé không muốn ba phải đi. Cho đến khi ông hứa mua cho nó một chiếc lược thì nó mới để cho ba nó đi.

Ở chiến trường tuy chiến tranh đầy ác liệt nhưng ông vẫn cố công làm bằng được chiếc lược ngà. Trong khi làm, ông Sáu cảm thấy vui như đứa trẻ nhận được quà. Ông cố gắng làm tỉ mỉ, thận trọng có công như người thợ bạc. Khi chiếc lược được làm xong ông cảm thấy sung sướng vì mình như đã thực hiện được phần nào lời hứa. Sau đó ông lại khắc trên sống lưng chiếc lược "Yêu nhớ tặng con, Thu của ba". Hàng đêm nhớ con ông lại đem lược ra ngắm chải lên đầu cho lược thêm bóng, mượt... Trong giờ phút cuối cùng, tuy không đủ sức trăng trối, nhưng tình cha con vẫn sống và trỗi dậy trong con người ông. Ông đưa chiếc lược cho Ba - một người đồng đội thân thiết và nhìn Ba hồi lâu như trăng trối rằng: "Hãy đưa chiếc lược này đến cho Thu". Cái nhìn đó có thể nói rằng đó là cái nhìn của sự nhờ cậy, tin cậy, gửi gắm cả tâm hồn ông qua đó. Tình cha con đầy thiêng liêng, cao quý trỗi dậy ngay cả khi con người ta đang đối mặt giữa sự sống và cái chết. Khi Ba nhận lời thì ông mới nhắm mắt. Sau này, bác Ba đã gặp Thu - giờ đây là cô gái giao liên dũng cảm và bác đã trao lại kỉ vật đó cho Thu.

Tình cảm ông Sáu dành cho con sâu nặng bao nhiêu, tình cảm Thu dành cho ba cũng nồng nàn bỏng cháy bấy nhiêu. Cô bé không nhận ba bởi cô hiểu nhầm về vết sẹo trên mặt ba. Bức ảnh cha cô mà cô khắc ghi bấy lâu trong tâm khảm không có vết thẹo trên mặt như ông Sáu - người cứ nhận mình là cha bé! Và vì thế, Thu càng phản đối quyết liệt con người ấy bao nhiêu càng thể hiện cô bé yêu ba mình bấy nhiêu. Cái tình yêu ấy thật sâu sắc: nó chỉ có một, không thể chia sẻ cho bất kì ai khác, ngay cả khi đó là người được tất cả mọi người thừa nhận là ba của nó, là người yêu thương và quan tâm đến nó rất chân thành.

Đến lượt mình, Thu cũng đáp lại tình cảm của ba một cách cảm động. Khi biết rằng ông Sáu là ba thật của mình, và vết sẹo trên mặt ông là do thằng Mĩ gây nên, buổi sáng cuối cùng trong những ngày phép của ba "Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó. Vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương. Với đôi mi dài uốn cong, và như không bao giờ chớp, đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa." Không hiểu con bé "nghĩ ngợi sâu xa" điều gì, chỉ biết rằng khi ông Sáu buồn rầu quay lại nhìn nó - không dám lại gần sợ nó lại bỏ chạy như lần trước - nói: "Ba đi nghe con" thì nó bất ngờ lao đến thét lên: Ba, a... a…ba!". Rồi ôm chặt lấy ông nức nở "Con không cho ba đi". Đến đây, người đọc mới vỡ lẽ ra rằng Thu thèm được gọi ba như thế nào. "Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng "ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng "ba" như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó". Bé Thu là đứa trẻ giàu tình cảm. Thái độ của bé Thu với ba bây giờ trái ngược trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà. Song, trái ngược mà vẫn nhất quán. Vì quá yêu ba, quá khao khát được có ba nên khi nhận định không phải ba nó thì nó nhất định không chịu nhận, nhất định không gọi "ba" lấy một tiếng. Cho nên, khi tiếng gọi như xé kia cất lên ta thấy nó thiêng liêng vô cùng. Tiếng gọi ấy càng trở nên thiêng liêng, quý giá bởi đón chờ nó là cả tấm lòng cao đẹp, thương yêu con vô hạn của người cha.

Sau này, thấu hiểu sâu sắc nguyên nhân gây ra vết thẹo trên mặt cha, Thu đã trở thành một nữ giao liên dũng cảm, can đảm. Cô quyết tâm tiếp bước con đường cha cô đã đi để đánh đuổi kẻ thù của gia đình, kẻ thù của dân tộc.

Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công khi xây dựng tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Đọc thiên truyện, người đọc hẳn đã có lần rơi lệ vì cảm động. Và còn vì thấy trong đó thấp thoáng đâu đây bóng dáng bản thân, của người cha thân yêu của mình nữa. Tình phụ tử đó chính là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng nhất trong cõi đời này. Và bởi thế, đọc "Chiếc lược ngà" để ta trân trọng hơn những người thân yêu ruột thịt quanh mình, trân trọng hơn những tình cảm sâu sắc ta đang được nhận. Và hơn hết, đọc thiên truyện ngắn này, ta biết yêu thương, sẻ chia và sống xứng đáng với những đấng sinh thành của bản thân.

Không chỉ gợi những tình cảm trong sáng, cao quý, "Chiếc lược ngà" còn mang đến cho người đọc những bài học nhân sinh đầy nhân ái. Và vì thế, đây thực sự là một thiên truyện hay trong hành trang của những người Việt trẻ!

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 7

Chúng ta đang sống trong một đất nước hoà bình, được sự dìu dắt, yêu thương của cha mẹ, được đùa vui dưới mái trường đầy ắp tiếng ca. Chúng ta có thể quên được chăng những trang sử hào hùng ấy, ngày các lớp cha anh đi trước đã hi sinh cả tính mạng. Máu của các anh đã nhuộm màu phì nhiêu cho đất nước, sự hi sinh tươi đẹp cho thế hệ chúng ta ngày hôm nay. Các anh đã hi sinh cả thể xác lẫn tinh thần, hi sinh cả những hạnh phúc mà lẽ ra các anh phải được hưởng.

Chiến tranh, vùng trời của tang thương và chết chóc. Trong mưa bom lửa đạn, trong chất cay xè của mùi thuốc súng, tình cảm cao đẹp nhất của tình đồng chí đồng đội trào dâng. Những bùi ngùi dấu tận đáy lòng của những người cha lên đường chiến đấu gửi lại quê hương đứa con thân yêu nhất của mình để rồi trong giờ phút hiếm hoi giữa cuộc hành quân nỗi nhớ con không còn dấu được. Tình cảm thiêng liêng ấy càng mãnh liệt hơn trong tác phẩm "Chiếc lược ngà" của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.

Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Trong kháng chiến chống Pháp, ông tham gia bộ đội, hoạt động ở chiến trường Nam Bộ. Từ sau năm 1945, tập kết ra Bắc Nguyễn Quang Sáng bắt đầu viết văn. Những năm chống Mĩ, ông trở về Nam Bộ tham gia kháng chiến và tiếp tục sáng tác văn học. Tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng thuộc nhiều thể loại: Truyện ngắn có "Con chim vàng", "Người quê hương", "Chiếc lược ngà", "Người đàn bà đức hạnh", "Vẽ lại bức tranh xưa"...

Các tiểu thuyết "Đất lửa", "Mùa gió chướng", "Dòng sông thơ ấu" được nhiều độc giả biết đến và đặc biệt là kịch bản phim nổi tiếng "Một thời để nhớ một thời để yêu". Có lẽ vì sinh ra, lớn lên và hoạt động chủ yếu ở chiến trường miền Nam nên các tác phẩm của ông hầu như chỉ viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hoà bình."Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích SGK đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử.

"Chiếc lược ngà " được viết vào năm 1966 khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Nội dung văn bản trong SGK là cuộc gặp gỡ của anh Sáu - một người xa nhà đi kháng chiến. Mãi khi con gái lên tám tuổi, anh mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu - con gái anh không nhận cha , trái lại đã đối xử lạnh nhạt, có lúc vô lễ với cha. Điều đó làm anh Sáu đau lòng, nhưng anh vẫn yêu thương con bằng tình cha con ruột thịt. Sau vài ngày ngắn ngủi sum họp gia đình, anh Sáu phải ra đi. Đến lúc ấy Bé Thu bỗng thay đổi thái độ. Em ôm chặt lấy cha không muốn cha con phải xa nhau .Mọi người ngỡ ngàng sửng sốt. Thì ra mấy ngày trước do nhìn thấy trên mặt anh Sáu có vết sẹo lớn, bé Thu thấy anh không giống cha chụp chung ảnh với mẹ. Nhờ bà ngoại giảng giải, Thu đã hiểu ra mọi chuyện, em cất tiếng gọi "Ba...ba!.." và hẹn "Ba mua cho con một cây lược nghe!". Ở khu căn cứ, anh Sáu dồn hết tình cảm yêu quí nhớ con vào việc làm một chiếc lược bằng ngà voi để mang về tặng cô con gái bé bỏng. Nhưng trong một cuộc chiến đấu anh đã ngã xuống. Trước lúc nhắm mắt anh còn kịp trao cây lược cho người bạn, gửi về tận tay cho con. Truyện được viết theo lời kể qua cái nhìn của ông Ba - nhân vật xưng tôi. Tuy đây là một đề tài khá phổ biến trong văn chương nhưng chính vì thế mà giá trị nhân văn của truyện càng trở nên sâu sắc.

Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá ấy là chiếc lược ngà. Nhưng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời, suốt cả cuộc đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị và thiêng liêng bậc nhất cõi đời này: tiếng cha!. Câu chuyện "Chiếc lược ngà" đã kể lại thật cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con anh Sáu. Hình ảnh anh Sáu đã để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thông, yêu mến và những ấn tượng sâu sắc.

Cũng như bao người khác anh Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong anh nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi anh đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng anh. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần anh hỏi "Sao không cho con bé lên cùng ?''. Không gặp được con anh đành ngắm con qua ảnh vậy ... Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng anh luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của anh thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và má. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẵng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con anh sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, anh Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước gặp bố.

Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Anh Sáu được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà anh Sáu cứ nôn nao cả người. Anh đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến anh không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa cập bến, anh Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng cũng rất hiểu anh nên không hề trách. Tôi không thể quên được giây phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại của anh Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm siết lấy mình, là bước trở về sau bao xa cách...

Hẳn vì quá xúc động nên lúc ấy anh Sáu đã có những cử chỉ mà ngay cả người bạn của anh cũng không ngờ tới "giọng anh tập bập run run", anh dang hai tay chờ đón con và sải những bước dài đến gần con. Tưởng rằng con bé sẽ chạy tới nhào vào lòng anh nhưng không ngờ bỗng nó hét lên "má...má" và bỏ chạy. Tại sao Thu lại có những hành động như vậy ? Nó yêu ba nó lắm cơ mà ? Nó mong ba về từng ngày từng giờ. Vậy mà tất cả đều lật ngược với nó. Ba nó thật đây, sao nó không nhận ? Hành động của con bé khiến anh sững sờ. Bao yêu thương, mong chờ mà anh dồn nén bấy lâu dường như tan biến hết chỉ còn lại trong anh là nỗi đau khổ vô bờ.

Nỗi đau ấy còn dày vò anh trong suốt ba ngày ở nhà. Ba ngày ở nhà anh Sáu không đi đâu xa mà chỉ quanh quẩn ở nhà chơi với con. Anh muốn dùng lời nói, hành động của mình để bù đắp những mất mát về tình cảm cho con bé. Dường như anh muốn bằng những cử chỉ và lời nói yêu thương tràn đầy âu yếm, anh sẽ xoa dịu đi những nghi ngờ, xoá tan những lạnh lùng của con bé đối với anh. Anh muốn ôm con mà nói rằng: "Ba yêu con nhiều lắm Thu à!" và có lẽ chắc anh cũng mong đứa con gái của mình có thể chạy sà vào lòng mà rằng "Con cũng yêu bố nhiều lắm ạ!" thế nhưng không... những gì anh từng mơ ước, từng suy nghĩ, giờ chỉ như giấc mơ không thật bởi chính thái độ của Thu đối với ba nó. Khi mẹ bảo nó gọi bố vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng: "Vô ăn cơm!". Câu nói của con bé như đánh vào tâm can anh, nhưng anh vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi "Ba vô ăn cơm." Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu "Cơm chín rồi!" và "Con kêu rồi mà người ta không nghe". Đến lúc này anh chỉ biết "nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi." Tôi thoáng nghĩ đến cảm xúc lúc này và những câu hỏi xoay quanh anh. Tại sao thế nhỉ? Thu làm vậy là sao? Ba nó sao nó không chịu nhận? Nhìn nó tôi như có cảm giác nó cự nự, quyết không chịu gọi ba. Thái độ này thật không đúng với tình cha con xa cách bấy lâu, hay con bé đang giận ba vẩn vơ gì đó chăng?

Cao trào của câu chuyện càng nâng cao khi nồi cơm sôi, một mình nó bé, không thể tự nhấc nồi để chắt nước, nó đã phải cầu cứu đến người lớn. Tình thế khiến người đọc ngỡ rằng nó sẽ phải thua không thể "chiến tranh lạnh" được nữa - nó buộc phải gọi ba để giúp đỡ. Nhưng nó vẫn không chịu cất lên cái tiếng mà ba nó mong! Chỉ cần nói lên cái tiếng ba ấy thế thôi, là nó sẽ thoát khỏi thế bí. Nhưng quyết không! Nó vẫn hành động theo sự bướng bỉnh tự mình làm lấy một công việc nguy hiểm và quá sức! Nghĩa là nó không chịu nhượng bộ, không chịu thua cuộc. Điều ấy làm cho người cha, người bạn của cha và cả người đọc phải đau lòng. Còn gì đau khổ bằng người cha giàu lòng thương yêu con mà lại bị chính đứa con ấy chối bỏ!

Dường như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên anh Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, cưng con, anh gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, anh đã vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do anh quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay anh dồn nén và chất chứa trong lòng.

Nhưng khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng : Chính cái hành động đáng ghét ấy lại vô cùng đáng quý. Chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha. Đơn giản vì lúc bấy giờ trong trí nhớ thơ ngây của Thu thì cha em đẹp lắm. Vì bom đạn quân thù, cha mang sẹo trên mặt. Đấy là điều đau khổ vậy mà nó không hiểu, lại xa lánh khiến cha đau khổ thêm. Cô bé không tin, thậm chí còn ngờ vực, điều đó chứng tỏ cô bé không dễ tin người. Cả bạn của cha, cả mẹ xác nhận là cha nhưng không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng mình thì cô bé vẫn chưa gọi. Nó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường. Đây chính là cái mầm sâu kín sau này làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của cô giao liên giải phóng. Đến khi được bà ngoại giảng giải về cái thẹo trên má ba, thì Thu mới vỡ lẽ đó thực là ba mình. Hình ảnh người cha thân yêu trên ảnh, người cha kính mến mà cô ghi sâu trong lòng, đến lúc ấy mới nhập vào người đang xưng ba có vết thẹo dài đây. Đã vỡ lẽ thì tình yêu ba nhân lên gấp bội nhưng ... đã muộn rồi. Song đến giây phút cuối cùng, trước khi anh Sáu đi xa thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân anh ngập ngừng không muốn bước. Hẳn rằng anh Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó lại giẫy đạp và bỏ chạy nên anh chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu.

Trong ánh mắt của anh, chất chứa bao yêu thương mà anh muốn trao gửi tới con. "Thôi ba đi nghe con". Phải chi bé Thu hiểu được ánh mắt của ba nó, hiểu được tâm trạng của ba nó lúc này nhỉ? Rồi bỗng nó chạy đến kêu thất thanh Ba...a....a...ba!". Tiếng kêu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Tiếng kêu bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà anh Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không cầm nổi nước mắt vì bất ngờ, vì sung sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le của tình cảm nữa. Cùng với cử chỉ "vừa kêu vừa chạy xô tới nhanh như một con sóc, nó nhảy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó, làn tóc tơ sau ót nó dựng đứng lên". "Vừa ôm chặt lấy cổ ba, nó vừa nói trong tiếng khóc "Ba...ba...không cho ba đi nữa, ba ở nhà với con". Nó ôm hôn anh Sáu và "hôn cả vết thẹo dài trên má của ba", biểu hiện một tình yêu ruột thịt nồng nàn của đứa con đối với ba. Và khi nghe anh Sáu nói "Ba đi rồi ba về với con", cô bé hét lên "không", rồi hai tay siết chặt cổ, dang cả hai chân quặp chặt lấy ba, đôi vai nhỏ run run! Chắc cô bé khóc.

Phải chăng lúc ấy Thu thật sự thấy xót xa, ân hận về lỗi lầm của mình, thật sự thấy xót thương người cha đau khổ? Nó mếu máo "Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba...". Tất cả lời nói thể hiện rõ tính cách của một cô bé bồng bột thơ ngây và chứng tỏ lòng yêu thương vô bờ của em đối với ba. Thật sâu sắc và cao đẹp biết bao. Có lẽ lúc này bé Thu đã trở thành một người lớn thực sự. Tất cả sự dỗi hờn của bé Thu lúc này đều chuyển thành lòng yêu thương sâu sắc ba nó. Trong cái ương ngạnh, bướng bỉnh, trong cái giận dỗi và cả sự hối hận của Thu, ta vẫn thấy bé thật thơ ngây, thật đáng yêu. Về phần anh Sáu hạnh phúc đến với anh quá đột ngột khiến cổ anh nghẹn lại. Không kìm được xúc động, anh Sáu đã khóc. Giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt của vui sướng, hạnh phúc. Và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con...Thế là con bé đã gọi anh bằng ba. Ai có thể ngờ được một người lính đã dày dạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, anh Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ anh có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi anh, từng giây từng phút mong anh quay về.

Tình cảm của anh Sáu dành cho bé thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc anh tự tay làm chiếc lược nhà cho con gái. "Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!", đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Anh bật dậy như bỗng lóe lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm - chiếc lược cho con của anh phải được làm bằng thứ quý giá ấy. Và anh không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt và trong đấy tất cả tình cha con của mình. Kiếm được ngà voi, mặt anh "hớn hở như một đứa trẻ được quà". Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi anh "ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc ", "gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: "Yêu nhớ tặng Thu con của ba". Anh thường xuyên "lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt". Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao!

Nhưng ngày ấy đã vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Anh không kịp đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đã hi sinh trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng "hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được". Không còn đủ sức trăn trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc "đưa tay vào túi, móc cây lược" đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành một người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.

Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật cũng đã đành một lẽ còn người chết cũng phải chết bí mật nữa. Mộ của anh không thể đắp cao lên được, vì tìm thấy mồ mả bọn chúng sẽ đào lên và tìm ra dấu vết, cho nên ngôi mộ của anh là ngôi mộ bằng, bằng phẳng như mặt rừng vậy. Bác Ba bạn của anh đã lấy dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh chỗ anh nằm làm dấu cho dễ nhớ. Sống như thế và chết như thế hỏi vậy làm sao mà chịu được. Chúng ta buộc phải cầm súng. Và bé Thu không còn là cô bé ngày xưa nữa mà là một cô giao liên thông minh, quả cảm. Thu đi theo con đường mà ba cô đã chọn. Thu đi để trả thù cho quê hương, cho cha mình đã bị bọn giặc giết hại.

Tuy anh Sáu đã hi sinh nhưng câu chuyện về hai cha con anh sẽ còn sống mãi. Hình ảnh chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của chiến tranh. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa rõ nét tâm hồn, tình cảm của anh Sáu và bé Thu. Truyện dẫn người đọc dõi theo số phận và lòng quả cảm, dõi theo tâm tình của cha con một người chiến sĩ diễn ra hàng chục năm trời đi qua hai cuộc chiến tranh. Người còn, người mất nhưng kỉ vật, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại của chiếc lược ngà vẫn còn đây. Đây là minh chứng đối với chúng ta "cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã khuất, là tổ ấm gia đình không còn tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội ác, là những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ bạo tàn gây ra cho chúng ta. Song cái được mà chúng ta nhìn thấy là không có sự bi luỵ xảy ra, sức mạnh của lòng căm thù đã biến cô bé Thu trở thành một người chiến sĩ thông minh, dũng cảm, đã gắn bó cuộc đời con người có ít nhiều mất mát xich lại gần nhau để cùng đứng lên viết tiếp bản ca chiến thắng.

Gấp sách lại, chia tay với ông Ba, câu chuyện về "Chiếc lược ngà" với lời nói cuối cùng của ông - giọng trầm ấm khoan thai - cứ âm vang mãi trong bạn đọc chúng ta, như sự âm vang của một truyện cổ tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc tạo tình huống truyện, miêu tả tâm lý, tình cảm nhân vật và giọng kể nhẹ nhàng, thấm thía truyền cảm. Ông Ba - người kể chuyện - hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng? Phải là người từng trải sống hết mình vì công cuộc kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động như vậy. Đồng thời truyện đã làm sống lại quãng thời gian giữ nước để thông qua đó tác giả muốn người đọc phải suy nghĩ và thấm thía nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh mang đến. Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng, ngời sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước.

Qua cuộc đời nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng như muốn nói rằng trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là tình cha con, đồng đội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và người sống... mãi mãi bất diệt. Như chiếc lược ngà ba tặng lại không bao giờ có thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ mãi mãi bất diệt!

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 8

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng sinh năm 1932, quê ở huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Năm 1945, ông tập kết ra Bắc và bắt đầu viết văn. Ông viết nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim; đề tài chính; cuộc chiến đấu của nhân dân Nam Bộ. Chiếc lược ngà viết năm 1966, khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là truyện ngắn xuất sắc viết về tình cha con và nỗi đau chiến tranh do quân giặc gieo rắc thời chống Mĩ thông qua nhân vật ông Sáu và bé Thu.

Truyện đã thể hiện tình cha con sâu sắc của hai cha con ông Sáu trong hai tình huống. Tình huống thứ nhất, hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu phải ra đi. Đây là tình huống cơ bản thể hiện sâu sắc tình cảm của bé Thu dành cho người cha thân yêu. Tình huống thứ hai, ở khu căn cứ, ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và mong nhớ đứa con vào việc làm cây lược ngà để tặng con, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao món quà ấy cho con gái. Tình huống này bộc lộ sâu sắc tình cảm của người cha đối với con.Tình yêu của bé Thu đối với cha được thể hiện thật đặc biệt. Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy con.

Nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra ngờ vực, lảng tránh và ông Sáu càng muốn gần con thì đứa con lại càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách. Tâm lí và thái độ ấy của Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà người kể chuyện quan sát và thuật lại rất sinh động. Khi mới gặp ông Sáu, cô bé hốt hoảng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên. Những ngày ông Sáu ở nhà, bé Thu chỉ gọi trống không với ông mà không chịu gọi cha, nhất định không chịu nhờ ông chắt nước nồi cơm to đang sôi. Bữa cơm, Thu liền hất cái trứng cá mà cha nó gắp cho. Cuối cùng, khi bị ông Sáu tức giận đánh cho một cái thì bỏ về nhà bà ngoại, khi xuống xuồng còn cố ý khua cái dây cột xuồng kêu rổn rảng thật to.Sự ương ngạnh ấy của cô bé hoàn toàn không đáng trách.

Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé nhỏ để coa thể hiểu được nhưĩng tình thế khắc nghiệt, éo le của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó những khả năng bất thường, nên nó không tin ông Sáu là ba nó chỉ vì trên mặt ông có thêm vết sẹo, khác với hình ba mà nó được biết. Phản ứng tâm lí của em là hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu sắc, chân thật, em chỉ yêu ba khi tin chắc đó đúng là ba. Trong cái cứng đầu của em có chứa cả sự kiêu hãnh rtẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha khác – người trong tấm hình chụp với má em.Nhưng trong buổi sáng cuối cùng, trước phút ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đã đột ngột thay đổi hoàn toàn.

Lần đầu tiên Thu cất tiếng gọi ba mà tiếng kêu như tiếng xé, rồi nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhan như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó, nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó, và đôi vai nhỏ bé của nó run run.Sở dĩ có sự biến đổi đột ngột như vậy trong thái độ và hành động của bé Thu là vì trong đêm bỏ về nhà bà ngoại, Thu đã được bà giải thích về vết thẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu được giải toả và ở cô bé nảy sinh một tạng thái như là sự ân hận, hối tiếc: Khi nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn.

Vì thế, trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nối nhớ mong với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu, nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.Đó là tình cảm thật sâu sắc, mạnh mẽ nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Ở Thu còn có nét cá tính là sự cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ.Qua những diễn biến tâm lí của bé Thu được miêu tả trong truyện, ta thấy tác giả tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ.Nhân vật chính thứ hai trong tác phẩm là nhân vật ông Sáu.

Tình cảm của ông đối với con gái nhỏ được biểu hiện phần nào ở tình huống thứ nhất, trong chuyến về thăm nhà. Cũng như bao người khác ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng ông. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi “Sao không cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con ông đành ngắm con qua ảnh vậy... Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẳng ấy cũng làm tăng lên trong lòng người cha nỗi nhớ nhung, mong chờ, ông Sáu ao ước gặp con. Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực.

Ông Sáu được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí ông. Khi xuồng vừa cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Hẳn vì quá xúc động nên lúc ấy ông Sáu đã có những cử chỉ mà ngay cả người bạn của ông cũng không ngờ tới “giọng anh tập bập run run”, ông dang hai tay chờ đó con và sải những bước dài đến gần con. Tưởng rằng con bé sẽ chạy tới nhào vào lòng ông nhưng không ngờ bỗng nó hét lên “má...má” và bỏ chạy. Hành động của con bé khiến ông sững sờ. Bao yêu thương, mong chờ mà ông dồn nén bấy lâu dường như tan biến hết chỉ còn lại trong ông là nỗi đau khổ vô bờ.Nỗi đau ấy còn dày vò ông trong suốt ba ngày ở nhà.

Ba ngày ở nhà ông Sáu không đi đâu xa mà chỉ quanh quẩn ở nhà chơi với con. Ông muốn dùng lời nói, hành động của mình để bù đắp những mất mát về tình cảm cho con bé. Dường như ông muốn bằng những cử chỉ và lời nói yêu thương tràn đầy âu yếm, ông sẽ xoa dịu đi những nghi ngờ, xoá tan những lạnh lùng của con bé đối với ông. Người cha muốn ôm con và có lẽ chắc ông cũng mong đứa con gái của mình có thể chạy sà vào lòng. Thế nhưng không... những gì ông từng mơ ước, từng suy nghĩ, giờ chỉ như giấc mơ không thật bởi chính thái độ của Thu đối với ba nó. Khi mẹ bảo nó gọi bố vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Câu nói của con bé như đánh vào tâm can ông, nhưng ông vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và “Con kêu rồi mà người ta không nghe”.

Đến lúc này ông chỉ biết “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được, nên anh phải cười vậy thôi.”Dường như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên ông Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, cưng con, ông gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, ông đã vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do ông quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hết cái trứng ra khỏi chén như một ngoài nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay ông dồn nén và chất chứa trong lòng.Song đến giây phút cuối cùng, trước khi ông Sáu đi xa thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân ông ngập ngừng không muốn bước.

Hẳn rằng ông Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó lại giẫy đạp và bỏ chạy nên ông chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của ông, chất chứa bao yêu thương mà ông muốn trao gởi tới con. “Thôi ba đi nghe con”. Cũng chính giây phút ấy, ông nghe thấy từ con tiếng gọi “Ba...a....a...ba”. Tiếng gọi bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà ông Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại. Người cha không cầm nổi nước mắt vì bất ngờ, vì sung sướng, vì thương yêu và vì cả sự éo le của tình cảm nữa. Hạnh phúc đến với ông quá đột ngột khiến cổ ông nghẹn lại. Không kìm được xúc động, ông Sáu đã khóc. Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của vui sướng, hạnh phúc.

Và không muốn cho con thấy mình khóc, ông Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con...Thế là con bé đã gọi ông bằng ba. Ai có thể ngờ được một người lính đã dày đạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ ông có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi, từng giây từng phút mong ông quay về.Tình cảm của ông Sáu dành cho bé Thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết ở tình huống thứ hai của câu chuyện, lúc ông Sáu ở rừng. Ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt.

Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Ông bỗng loé lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, ông không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quí hiếm - chiếc lược cho con của ông phải được làm bằng thứ quý gí ấy. Và ông không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Ông sẽ đặt vào trong đấy tất cả tình cha con của mình.Kiếm được ngà voi, mặt ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi ông “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”.

Ông thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao!Nhưng ngày ấy đó vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Ông không kịp đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đó hi sinh trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hifnh như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăn trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm được một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu.

Nhưng đó là điều trăn trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đó biến người đồng đội thành một người cha - người cha thứ hai của cô bé Thu.Câu chuyện về chiếc lược ngà không chỉ nói lên tình cha con thắm thiết, sâu nặng, mà còn gợi cho người đọc nghĩ đến và thấm thía những mất mát đau thương, éo le mà chiến tranh gây ra cho bao nhiêu con người, bao nhiêu gia đình.

Truyện Chiếc lược ngà diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Qua đó, tác giả khẳng định và ca ngợi tình cảm cha con thiêng liêng như một giá trị nhân bản sâu sắc, nó càng cao đẹp trong những cảnh ngộ khó khăn. Truyện thành công nổi bật ở nghệ thuật xây dựng tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí, ở ngòi bút miêu tả tâm lí và tính cách nhân vật, nhất là nhân vật trẻ em.

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 9

   Đối với nhân dân ta, tình cảm gia đình luôn là thứ tình cảm thiêng liêng, đẹp đẽ nhất. Trong những năm tháng chiến tranh, gia đình phải chia lìa thì tình cảm ấy lại càng thiêng liêng, đáng trân trọng hơn. Trong truyện ngắn Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng tình phụ tử thiêng liêng sâu nặng được thể hiện vô cùng chân thực và cảm động, làm thổn thức trái tim biết bao thế hệ bạn đọc.

   Câu chuyện kể về cha con ông Sáu sau hơn tám năm xa cách mới có cơ hội gặp lại nhau, chỉ vì vết thẹo dài trên mặt ông Sáu mà bé Thu kiên quyết không nhận ba. Những ngày sau đó Thu luôn thờ ờ với ông. Khi nhận ra ba thì cũng là lúc ông phải lên đường trở về đơn vị. Những ngày ở khu căn cứ, ông Sáu dốc sức làm chiếc lược ngà như đã hứa với con, nhưng ông đã hi sinh trước khi trao món quà ấy cho bé Thu.

   Nghe theo tiếng gọi của tổ quốc lên đường nhập ngũ, những ngày ở chiến trường ông da diết nhớ gia đình đặc biệt là cô con gái nhỏ. Sau bao năm xa cách, ông được trở về nhà thăm gia đình, ông khao khát gặp con và được nghe tiếng con gọi mình là ba. Bởi vậy, khi về gần đến nhà, thoáng thấy bóng con, không chờ xuồng cập bến ông đã vội vàng nhảy lên bờ, tiếng ông gọi con thật tha thiết, thân thương: Thu! Con. Nhưng ngược lại với mong đợi của ông, đứa con ngơ ngác, hốt hoảng rồi bỏ chạy. Thật đáng thương cho tình cảnh của ông, đôi tay ông buông thõng xuống như bị gãy. Suốt ba ngày nghỉ phép ông ở nhà cùng con để vun đắp tình cảm với mong mỏi con sẽ cất tiếng gọi ba. Nhưng ông càng cố gắng bao nhiêu thì nó lại càng tìm cách đẩy ông ra xa bấy nhiêu. Bị con cự tuyệt lòng ông xao xác buồn, nhưng ông không trách con, chỉ buồn vì chiến tranh chia cắt mà gia đình ông phải chịu tình cảnh éo le. Giờ phút lên đường, ông muốn chạy lại ôm con lần cuối, nhưng vì sợ con cự tuyệt nên ông chỉ nhìn Thu từ xa. Và khi ông nghe tiếng con gọi “ba” ông đã xúc động mà bật khóc “không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. Đó là giọt nước mắt hạnh phúc gắn với tình yêu thương con sâu nặng. Tình cảm sâu nặng của anh với con còn được tác giả thể hiện đầy cảm động khi ông ở khu căn cứ. Vẫn khắc ghi lời con dặn, khi tìm được mảnh ngà, ông kì công mài thành lược cho con: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Bao nhiêu tình yêu thương con ông dồn cả vào việc làm chiếc lược và khắc dòng chữ đầy yêu thương: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Cây lược ngà chính là kết tinh của tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đậm sâu. Nhưng chiến tranh lại một lần nữa cướp đi cơ hội ông được gặp con, trong một trận càn lớn, ông bị thương nặng và hi sinh. Trước khi mất ông không đủ sức trăng trối điều gì nhưng tình cha con thì không thể chết, bằng chút sức lực ông lấy chiếc lược trao lại cho người đồng đội. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện thiêng liêng của tình phụ tử.

   Đối với bé Thu, tình yêu thương cha cũng được thể hiện thật đặc biệt. Thoạt đầu, khi thấy ông Sáu gọi mình là con, có những hành động vồ vập, bé Thu tỏ ra lảng tránh, lạnh nhạt, xa cách ông. Dù trong ba ngày, ông Sáu tìm mọi cách để thân thiết với con, nhưng Thu lại tìm mọi cách để đẩy ông ra. Thu nhìn cha bằng cặp mắt xa lạ và cảnh giác, nhất quyết không chịu gọi ba, dù mẹ đã có lần nhắc nhở. Sự bướng bỉnh ấy thể hiện rõ nhất khi anh Sáu gắp cho nó cái trứng ca, nó đã bỏ ra khỏi chén cơm. Đây là hành động mang tính chất quyết liệt, cự tuyệt mọi quan tâm, chăm sóc của anh Sáu. Bị cha nổi giận đánh vào mông, bé Thu không khóc nó bỏ dở bữa cơm và bỏ sang nhà ngoại ở. Những cử chỉ, hành động đó của bé Thu không đáng trách hoàn toàn, vì Thu còn nhỏ, chưa hiểu hết những tàn phá mà chiến tranh gây ra với con người. Đồng thời thái độ đó của em cũng cho thấy một tình yêu thương cha mãnh liệt sâu sắc, em chỉ nhận cha khi người đó giống với trong bức ảnh chụp chung với má. Ngoài ra, em sẽ không nhận bất cứ ai làm cha của mình. Cái ương ngạnh, bướng bỉnh của em cũng thể hiện tình yêu thương cha sâu nặng, tha thiết.

   Mọi nghi ngờ của em chỉ được giải tỏa khi nghe những lời bà giải thích. Đồng thời đó cũng là lúc tình cảm phụ tử bùng lên mãnh liệt trong em, nhất là buổi sáng em về nhà, nhìn ba đang đón tiếp mọi người, chỉ dám đứng từ xa nhìn ba, không dám đến gần người mà em vô cùng mong nhớ yêu thương. Nhưng giây phút anh Sáu chuẩn bị đi, bao nhiêu tình cảm dồn nén bấy lâu nay được bung ra quyết liệt, tiếng gọi ba: Ba…a…a…ba! Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé tan sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa và tiếng nói hòa trong tiếng khóc nức nở: “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con”. Khiến tất cả mọi người đều vô cùng xúc động và thương cảm cho hoàn cảnh éo le của hai cha con. Những lời níu kéo của bé Thu cũng không thể níu giữ anh Sáu ở lại. Khoảnh khắc hạnh phúc của hai cha con thật ngắn ngủi, điều ấy càng khắc đậm sâu hơn những khắc nghiệt và éo le mà chiến tranh gây ra.

   Tạo nên tự thành công cho tác phẩm, trước hết là ở việc Nguyễn Quang Sáng đã lựa chọn một tình huống truyện tự nhiên, hợp lí. Nghê thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, sâu sắc và cảm động. Ngôn ngữ đậm dấu ấn Nam Bộ, giàu cảm xúc. Tất cả những yếu tố đó đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

   Chiếc lược ngà là câu chuyện cảm động về tình cha con trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Tác phẩm là bài ca ca ngợi tình cảm gia đình trong hoàn cảnh chiến tranh éo le, chính trong hoàn cảnh này tình cảm gia đình lại càng thiêng liêng và đáng trân trọng hơn bao giờ hết. Mỗi chúng ta cũng cần phải yêu quý, giữ gìn và bảo vệ tình cảm thiêng liêng, đẹp đẽ này.

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 10

Tình cảm gia đình vốn là một đề tài xuyên suốt trong nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Trong tư tưởng Nho giáo, người đàn ông được đề cao và được xem là nhân tố cấu thành và chi phối các mối quan hệ xã hội. Thế nhưng, với nền văn hóa trọng mẫu, những tác phẩm viết về tình mẹ vẫn chiếm ưu thế hơn. Hiếm hoi mới có tác phẩm hay viết về tình cha.Với truyện ngắn Lão Hạc, Nam Cao đã tạc vào nền văn học bức tượng đài tình cha con vĩ đại trong hoàn cảnh đói khổ cùng cực.

Trong truyện ngắn Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng đã phát hiện ra vẻ đẹp tình cha con thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Còn Y Phương, qua bài thơ Nói với con đã đem đến cho ta vẻ đẹp tình cha con thắm thiết trong lời dặn chân thành, mộc mạc mang đậm chất Tày.

Y Phương viết bài thơ Nói với con năm 1980, khi đất nước đã giải phóng. Đó là thời điểm đất nước gặp vô vàn khó khăn do cuộc chiến tranh kéo dài để lại. Nền kinh tế bị phá hoại nặng nề, sản xuất yếu kém, trì trệ, con người khi bước ra khỏi cuộc chiến có nhiều thay đổi, khó giữ được mình trước sự cám dỗ của đời sống vật chất. Hiện tượng trộm cướp nảy sinh. Con người trong cuộc giành giật sự sống trở nên lừa dối, tham nhũng, tha hóa đạo đức, đánh mất nhân cách, rời bỏ nguồn cội, phủ nhận quá khứ.

Là người lính kiên trung, trước thực trạng ấy, Y Phương vô cùng đau lòng, mất niềm tin và định hướng trước cuộc sống. Cả xã hội lúc bấy giờ đang hối hả, gấp gáp kiếm tìm tiền bạc mà bất chấp đạo lí, quên đi các giá trị mà ta mới giành lại được. Muốn sống đàng hoàng, tử tế như một con người đích thực, gắn mình với dân tộc, với nguồn cội, ông nghĩ phải bám chắc vào văn hóa và tin vào những giá trị vững bền vĩnh cửu của văn hóa dân tộc.

Và người thực hiện mong ước ấy chính là các thế hệ mai sau. Tâm tình ấy ông gửi gắm vào lời nói với con trẻ, dặn dò thiết tha đứa con của mình. Qua lời dặn ấy, ông muốn nói lên rằng chúng ta phải vượt qua sự đói khổ ngặt nghèo bằng sức mạnh của văn hóa với niềm tin tưởng lớn lao, dù có thế nào đi nữa.

Bởi thế, mở đầu bài thơ là tiếng reo vui biết bao triều mến khi đứa con chập chững những bước đi đầu đời:

“Chân phải bước tới cha

Chân tái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”.

Bằng những hình ảnh bình dị, cụ thể, giàu chất thơ, kết hợp với nét độc đáo trong tư duy, cách diễn đạt rắn rỏi của người miền núi, bốn câu thơ mở ra khung cảnh một gia đình hạnh phúc, đầy ắp tiếng cười tiếng nói. Bước chân đầu đời con bước tới cha là bước đến tinh thần, lý tưởng cao đẹp. Bước thứ hai con bước đến mẹ là bước vào tình yêu thương và sự chở che vững chắc. Gia đình là nguồn sinh dưỡng đầu tiên, là điểm tựa nâng bước chân con vào đời. Lời thơ như chảy ra từ tâm hồn vô vàn yêu mến và tự nhiên vô cùng.

Nhịp thơ chậm rãi hiện rõ từng bước đi ngập ngừng có chút e sợ của người con càng làm cho ta thêm quý trọng những phút giây đầu đời. Hình ảnh thơ không chút cầu kì, cứ tự nhiên như lời nói nhưng đó là lời nhắc nhở thiêng là, là niềm mong muốn của cha.

Mai này con có bước đi chân đi xa hơn nữa thì phải nhớ đến gia đình, nhớ đến cha mẹ, nhớ đến cội nguồn sinh dưỡng đầu tiên đã cho con sức mạnh. Con có vững bước ở tương lai là bởi hôm nay có cha có mẹ dìu dắt con bước tới. Sự khám phá đầu tiên trong cuộc đời có sự nâng đỡ của gia đình. Tình phụ tử thiêng liêng, thầm kín là mối dây ràng buộc, gắn kết gia đình bền chặt được hình thành và phát triển trong phút giây hạnh phúc bình dị đáng nhớ ấy. Lời thơ ngay từ đầu đã chạm đến niềm rung cảm sâu xa nhất trong trái tim con người, tạo nên sự đồng cảm có sức lan tỏa mạnh mẽ.

Người cha cũng không quên nhắc nhở con yêu về tình nghĩa quê hương nguồn cội, về con người và núi rừng Tây Bắc, nơi chôn nhau cắt rốn bao đời trong niềm tự hào lớn lao:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng”.

Từ trong gia đình, nhà thơ mở ra không gian rộng lớn để con hiểu biết, trân trọng và gìn giữ. Tuy có chút vội vàng nhưng đó lại là tin thiết tha mà người cha muốn con thấu hiểu. Cội nguồn sinh dưỡng đích thực của đời người chính là quê hương, nguồn cội, là đất, là rừng, là con đường thắm đượm nghĩa tình dẫn bước ta đi. Đất và người nuôi ta khôn lớn, cho ta sức mạnh, tình yêu và sự sống; hình thành cho ta nền văn hóa, tư tưởng và khát vọng chinh phục. Người đồng mình luôn lấy cái tươi đẹp làm nguồn sống của mình, lấy tình yêu thương làm cái để cho tặng.

Đối với người cha, đất và người là cội nguồn của mọi sự sống, mọi tinh thần. Bởi thế, ba tiếng “người đồng mình” vang lên nghe tha thiết vô cùng. Nó chứa đựng cái tình, cái nghĩa thắm ngọt của quê hương, bản làng. Người cha mong muốn con phải biết “người đồng mình” đã sống như thế ấy, mạnh mẽ và thủy chung, bình dị mà tươi đẹp, trong sạch, vững bền. Họ biết trân trọng cái đẹp và không ngừng làm đẹp cho cuộc đời mình dù hết sức nhỏ bé. Và con hãy ghi nhớ điều đó trước khi đời sống vật chất chưa kịp chạm đến tâm hồn và thổi bùng những tham vọng trong con, như cha mẹ nhớ về khoảnh khắc thiêng liêng này:

Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.

Không chút triết lí cho một lời gửi gắm hết sức đơn giản nhưng rất quan trọng đối với mỗi đời người. Điều mà người cha muốn nói là con phải biết trân trọng cuộc đời, trân trọng quê hương với những gì bình dị, thiêng liêng nhất. Đó là nguồn sống, là sức mạnh bất diệt dẫn bước con vượt qua thử thách hướng đến tương lai. Không những thế, người cha còn nhắc nhở về ý chí và khát vọng hướng về quê hương, cội nguồn và biết tự hào về nơi con đã sinh thành:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha cũng muốn

Sống trên đá không chê đá ghập ghềnh

Sống trong thung không che thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc”.

Trước hết là nhắc nhở về tinh thần: “Cao đo nỗi buồn, xa nuôi chí lớn”. Cách so sánh mộc mạc, bình dị như cuộc sống và tâm hồn của người miền sơn cước. Họ không hề tô vẽ hay ẩn ý xa xôi. Qua cách nói có chút cường điệu, người cha muốn con phải biết yêu thương và tự hào về quê hương dù nó không to nhất, không đẹp nhất.

Nhưng quê hương lúc nào cũng chân thật, tự nhiên, không tham lam, không giả dối. Họ muôn đời lam lũ trong đói nghèo, kham khổ đi lên nhưng lúc nào cũng mạnh mẽ, không bao giờ kiêu ngạo hay bị khuất phục. Đó là những đức tính quý báu của người đồng mình, người cha mong con ghi lấy, nhớ lấy, tìm thấy và gìn giữ mãi mãi trong phong ba bão tố đường đời.

Câu thơ “Dẫu làm sao thì cha cũng muốn” nghe có chút ngậm ngùi nhưng lại chuyển tải hết niềm mong mỏi của cha. Con sẽ thế nào, tất cả do con quyết định. Bởi người cha biết rằng, trong cuộc sống mới, khi mà đời sống vật chất được đề cao hơn bao giờ hết, thì việc giữ gìn và phát triển đạo lí, tình người là một nhiệm vụ hết sức khó khăn. Câu thơ đọc lên thấy nghẹn ngào, rưng rưng nước mắt như tấm lòng của người cha, dù có tin tưởng nhưng chưa thể hoàn toàn khẳng định được điều thiêng liêng ấy.

Niềm tự hào về quê hương và con người một lần nữa lại dâng trào trong lời dặn đinh ninh như sắt đá:

“Người đồng mình tuy thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục”.

Có thể nói, hình ảnh đất và người trong hiện tại và tương lai chính là điểm tựa của tác giả khi ông triển khai mạch thơ. Một lần nữa hình ảnh “người đồng mình” lại xuất hiện trong tư thế cao vời, lẫm liệt ngang tầm vũ trụ. Tuy thô sơ da thịt, nhưng họ từ bao đời luôn có ý thức tự lập, tự cường, tự tôn bản sắc riêng biệt của mình, chẳng bao giờ nhỏ bé.

Sự đối lập giữa cái thô sơ bên ngoài và cái cao quý ẩn chứa bên trong; giữa hình thức và tinh thần càng làm cho con người trở nên cao đẹp lạ thường. Sức sống mãnh liệt của họ luôn được khẳng định với một niềm tin vững chắc. Họ kiên trì xây dựng quê hương và gìn giữ phong tục riêng. Và đó cũng là giá trị mà mỗi con người phải trân trọng và gìn giữ đến suốt cuộc đời.

Con sẽ bước tiếp trên con đường dân tộc đã đi qua, có máu và nước mắt của bao con người. Một lối mòn nhỏ nhưng dẫn đến một chân trời mới. Truyền thống quê hương sẽ là nguồn sức mạnh để con nhận ra mình, khẳng định mình. Quê hương sẽ đồng hành cùng con để con sẽ không cô đơn mỗi khi con gặp khó khăn thử thách:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con”.

Khép lại bài thơ bằng âm hưởng của một lời nhắn nhủ vừa nghiêm khắc vừa trìu mến bao dung. Hai tiếng “nghe con” đặt vào lòng con cả tình cha, tình mẹ và sự hoài mong của quê hương xứ sở. Mở ra một chân trời mới, quê hương nhỏ sẽ theo con đến với cuộc đời lớn, đó là điều mà người cha vừa lo lắng vừa tin tưởng trong niền hân hoan tha thiết.

Nhỏ nhẹ như lời tâm tình thủ thỉ, bài thơ thể hiện vẻ đẹp tình cha con thắm thiết. Qua lời tâm sự, dặn dò con trẻ lúc ban sơ, người cha thể hiện niềm tự hào lớn lao về nguồn cội quê hương và mong muốn con sau này phải trân trọng, gìn giữ lấy những giá trị cao đẹp mà người đồng mình đã muôn đời gìn giữ.

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 11

Thơ Y Phương hồn nhiên mà trong sáng, chân thật mà mạnh mẽ như một bức tranh thổ cẩm đan dệt những sắc màu phong phú và đa dạng, nhưng trong đó luôn có một màu sắc chủ đạo là bản sắc dân tộc đậm nét và độc đáo. Nói với con là một bài thơ hay của nhà thơ. Bài thơ như là một khúc tâm tình của người cha, thể hiện lòng yêu thương con của người miền núi và mong ước thế hệ con cái phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương.

Xưa nay, tình cha con luôn là một tình cảm thiêng liêng cao đẹp. Yêu thương con, người cha luôn có rất nhiều điều muốn nói với con. Trong bài thơ, điều đầu tiên người cha muốn nhắc nhở con của mình, đó là cội nguồn hạnh phúc của con người chính là gia đình, quê hương. Ngay từ bốn câu thơ đầu, tác giả đã gợi ra một hình ảnh gia đình đầm ấm hạnh phúc. Người con chập chững bước từng bước đi trong mái ấm gia đình ấy. Cách liệt kê “chân phải”, “chân trái”, “một  bước”, “hai bước” khiến ta hình dung những bước đi của đứa con nhỏ. Cả ngôi nhà rung lên những tiếng cười của cha, của mẹ, của con... Rồi người con khôn lớn trưởng thành dần trong cuộc sống lao động, trong thiên nhiên thơ mộng và trong nghĩa tình sâu nặng của quê hương. Tác giả đã có cách gọi độc đáo về những con người quê hương, một cách gọi thật gần gũi thân thương “người đồng mình”. Cách gọi ấy lại gắn liền với lời tâm tình rất tha thiết của cha với con “Người đồng mình yêu lắm con ơi”. Người cha đã lí giải để con có thể hiểu được “người đồng mình” đáng yêu thế nào. Họ sống rất đẹp, trong căn nhà của họ bao giờ cũng vang vọng tiếng hát: “Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát”. Các động từ “cài”, “ken” gây cảm giác quấn quýt thân thương, gợi một cuộc sống lao động êm đềm, vui tươi trong cảnh quê hương giàu đẹp nghĩa tình:

Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng

Cách nhân hoá “rừng”, “con đường” cho ta cảm nhận thiên nhiên quê hương như người mẹ đã che chở, nuôi dưỡng tâm hồn đẹp đẽ của con người...

Đoạn thơ tiếp theo, người cha đã tha thiết nói với con về những phẩm chất của con người quê hương. Cụm từ “người đồng mình” được lặp đi lặp lại nhiều lần gây ấn tượng về hình ảnh con người quê hương. Lời gọi con thật thiết tha, lời nhắn nhủ thật chân tình “Người đồng mình thương lắm con ơi”, người cha đã lần lượt ca ngợi những phẩm chất của “người đồng mình” với cách nói cụ thể, mộc mạc và độc đáo của người dân tộc miền núi. Người cha như giảng giải để cho đứa con hiểu về “người đồng mình”: Họ có thể có những nỗi đau buồn nhưng ý chí nghị lực luôn vươn lên “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. Người đồng mình chấp nhận gian khó không sợ gian khổ nghèo đói. Điều đó được thể hiện trong điệp từ “không chê”, “không lo” và cách nói tha thiết yêu quý tự hào về quê hương. Nói với con về “người đồng mình”, người cha muốn nhắc nhở con phải sống thuỷ chung với quê hương, không chê quê hương dù quê hương có đói nghèo vất vả. Người cha tiếp tục nói với con về “người đồng mình” sống mạnh mẽ “như sông như suối dù có “lên thác xuống ghềnh” với cặp từ trái nghĩa “lên” “xuống” càng nhấn mạnh thêm ý chí của “người đồng mình”. Dùng những hình ảnh cụ thể của thiên nhiên như “sông”, “suối”, “thác”, “ghềnh” mang tính chất biểu trưng cho những khó khăn gian khổ và sức mạnh vượt khó khăn của những con người quê hương là một cách độc đáo để người cha tâm sự với con.

Phẩm chất của những con người miền núi còn được người cha ca ngợi qua cách nói đối lập tương phản giữa hình thức bên ngoài và giá trị tinh thần bên trong: “Người đồng mình tuy thô sơ da thịt/ Chẳng có ai nhỏ bé đâu con”. “Người đồng mình” là vậy, không biết nói hay nói khéo, tuy mộc mạc chân chất, tuy “thô sơ da thịt” nhưng phẩm chất cao đẹp của họ, tâm hồn ý chí họ không bao giờ nhỏ bé. Vì thế, trên đường đời con phải làm những điều lớn lao, con phải sống cao thượng để xứng đáng là “người đồng mình”. “Người đồng mình” xây dựng quê hương bằng chính sức lực và tính bền bỉ của mình:

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục

Việc “đục đá” là khó, đòi hỏi phải có tinh thần ý thức cao, vậy mà “người đồng mình” đã làm được để rạng rỡ quê hương. Họ sáng tạo và lưu truyền những phong tục tập quán đẹp. Người cha đã tâm sự, đã truyền cho con mình vẻ đẹp, sức mạnh truyền thống quê hương.

Kết thúc bài thơ là lời dặn, lời khuyên của người cha đối với con. Đó là lời gọi trìu mến, lời nhắn nhủ thiết tha. Điều người cha dặn con thật ngắn gọn, hàm súc mà sâu sắc “Con ơi tuy thô sơ da thịt/ Lên đường/ Không bao giờ nhỏ bé được/ Nghe con”. Người cha muốn nhắc nhở con là phải biết tự hào về những truyền thống quê hương, sống sao cho đẹp, xứng đáng với những phẩm chất của “người đồng mình” và phải tự tin vững bước trên đường đời, phải nhớ về cội nguồn dinh dưỡng, cội nguồn quê hương đất nước. Đó là cái nôi nuôi dưỡng con người khôn lớn trưởng thành. Thể thơ tự do, nhịp điệu lúc bay bổng nhẹ nhàng, lúc mạnh mẽ đã tạo ra sự cộng hưởng hài hoà với những thang bậc tình cảm khác nhau khiến lời người cha truyền thấm sang con.

Những phương tiện ngôn ngữ, những hình thức diễn đạt của người miền núi đã góp công lớn trong việc diễn tả tình cảm yêu thương con của người cha. Bài thơ Nói với con đã góp phần tạo nên một tiếng nói riêng độc đáo về tình cảm gia đình, tình cảm quê hương trong làng thơ Việt Nam.

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 12

Người ta vẫn thường nói rằng:

Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ

Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha

Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ

Mây trời lồng lộng không phủ kín công cha

Quả thật đúng như vậy, cha mẹ người sinh thành nuôi dạy ta trưởng thành, làm sao có thể đong đếm nổi công ơn. Nếu như mẹ là chỗ dựa tinh thần vững chắc thì cha lại là người định hướng, đưa ra cho con những lời khuyên hữu ích trên con đường đời đầy chông gai, bão tố. Có rất nhiều bài thơ, bài văn đã thể hiện vấn đề đó và ta không thể không nhắc đến bài thơ Nói với con của Y Phương. Những lời tâm sự giản dị mà chân thành của ông với con đã thể hiện tình cảm cha con sâu nặng, tha thiết.

Tình cảm gia đình vốn là thứ tình cảm vô cùng thiêng liêng, cao đẹp, không chỉ người mẹ mà người cha luôn mong những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với đứa con của mình. Y Phương cũng không phải là một ngoại lệ, để con sống có ích, hiểu về nguồn cội của mình, ngay từ những dòng thơ đầu ông đã cho con thấy nguồn cội sinh dưỡng của con:

Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một nước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười.

Nguồn cội đầu tiên con sinh ra chính là từ tình yêu thương của cha mẹ. Con là kết tinh của tình yêu ấy. Những hình ảnh giàu giá trị tạo hình: “chân phải/ chân trái/ một bước/ hai bước” đã khắc họa những bước chân con trẻ chập chững biết đi. Đồng thời với biện pháp liệt kê: tiếng nói, tiếng cười, tới cha, tới mẹ cho thấy không khí gia đình hạnh phúc, ấm áp. Qua lối miêu tả hết sức giản dị người cha đã cho con biết gia đình chính là nguồn cội tinh thần nuôi dưỡng con, là nơi cho con yêu thương, ấm áp đầu đời và mãi sau này.

Không chỉ cho con thấy cuội nguồn con được sinh ra là cha mẹ, mà Y Phương còn cho con biết con được khôn lớn, trưởng thành còn bởi quê hương:

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Con đường cho những tấm lòng”.

Đoạn thơ sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi “đan lờ cài nan hoa” vừa thể hiện được công cụ lao động đẹp đẽ vừa cho thấy đôi bàn tay cần cù, khéo léo và óc sáng tạo của người đồng mình. “Vách nhà ken câu hát” lại cho thấy nhịp sinh hoạt văn hóa của con người nơi đây và còn thấy được đời sống tâm hồn tinh tế, lạc quan của họ. Cùng với gia đình, truyền thống văn hóa, nghĩa tình quê hương đã nuôi dưỡng con khôn lớn, trưởng thành. Kết thúc đoạn thơ là lời tâm tình đầy hạnh phúc của cha: “Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới/ Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”, đó là ngày tình yêu cha mẹ được đơm hoa và cũng từ đó con được sinh ra, là kết quả của tình yêu đó.

Đoạn thơ tiếp theo, ông tha thiết nói với con về những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc mình. Sau lời thơ “người đồng mình thương lắm con ơi”, người cha đã lần lượt nêu ra và ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình ấy là: có ý chí nghị lực vươn lên những khó khăn của cuộc sống; thủy chung với quê hương; sống mạnh mẽ lạc quan và còn tự lực, tự cường xây dựng và giữ gìn bản sắc của quê hương. Công lao vĩ đại của người đồng mình: “đục đá kê cao quê hương” – xây dựng quê hương, tạo nên ruộng đồng, dựng lên nhà cửa, bản làng, làm nên giá trị vật chất, tinh thần cho quê hương. “Làm phong tục” – tạo nên bao nề nếp, phong tục đẹp, làm nên bản sắc riêng của cộng đồng. Lời thơ tràn đầy niềm tự hào về vẻ đẹp của người đồng mình. Nhắn ngủ con phải biết kế thừa, phát huy những truyền thống đó.

Từ đó, người cha khuyên con biết sống theo những truyền thống của người đồng mình: “Dẫu làm sao…/ … không lo cực nhọc”. Điệp từ “sống” khởi đầu ba dòng thơ liên tiếp, tô đậm mong ước thiết tha, mãnh liệt của cha dành cho con. Ẩn dụ “đá” “thung” chỉ không gian sống của người niềm cao, gợi lên những nhọc nhằn, gian khó, đói nghèo. Người cha mong con “không chê” tức là biết yêu thương, trân trọng quê hương mình. Nghệ thuật đối “lên thác xuống ghềnh” cho thấy cuộc sống không dễ dàng, bằng phẳng, cần dũng cảm đối mặt, không ngại ngần. Cha khuyên con tiếp nối tình cảm ân nghĩa, thủy chung với mảnh đất nơi mình sinh ra của người đồng mình và cả lòng can đảm, ý chí kiên cường của họ. Để rồi, bài thơ khép lại bằng lời dặn dò vừa ân cần, vừa nghiêm khắc của người cha:

“Con ơi .....

.............. nghe con”

“Thô sơ da thịt” được nhắc lại để nhấn mạnh những khó khăn, thử thách mà con có thể gặp trên đường đời, bởi con còn non nớt, con chưa đủ hành trang mà đời thì gập ghềnh, gian khó. Dẫu vậy, “không bao giờ nhỏ bé được” mà phải biết đương đầu với khó khăn, vượt qua thách thức, không được sống yếu hèn, hẹp hòi, ích kỉ. Phải sống sao cho xứng đáng với cha mẹ, với người đồng mình. Lời nhắn nhủ chứa đựng sự yêu thương, niềm tin tưởng mà người cha dành cho con.

Bài thơ là những tình cảm thiêng liêng sâu sắc mà người cha dành cho con. Quan trọng hơn, qua từng ý thơ ông còn gửi gắm con những bài học sâu sắc về ý chí nghị lực trong cuộc sống, về sự tiếp thu truyền thống, làm giàu thêm vốn văn hóa quê hương. Những tình cảm ấy không chỉ dành cho riêng đứa con gái bé nhỏ mà đó còn là mong mỏi của biết bao ông bố, bà mẹ ở khắp mọi nơi.

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 13

Tình cảm gia đình, tình phụ tử, tình mẫu tử thiêng liêng vốn không phải là một đề tài quá mới mẻ trong nền văn học Việt Nam, đã có rất nhiều những sáng tác hay và độc đáo về đề tài này. Điều này cũng ít nhiều gây ra những áp lực cho những nhà văn, nhà thơ thế hệ sau khi muốn chắp bút viết về gia đình,về tình phụ mẫu…Nhưng, đến lượt mình, nhà thơ Y Phương không những không hề tỏ ra lúng túng, áp lực trước những tác phẩm đã quá thành công trước đó, ông lựa chọn một khía cạnh hoàn toàn mới mẻ ở đề tài tưởng chừng như rất quen thuộc này, bài thơ “Nói với con” chính là một minh chứng tiêu biểu cho sự sáng tạo ấy.

“Nói với con” là một bài thơ tha thiết, đầy xúc động trước lời của người cha dặn dò đứa con trai của mình, đó là những lời khuyên nhủ, những lời nhắc nhở đầy chân thành, tha thiết. Cách thể hiện của nhà thơ Y Phương cũng rất mới lạ, độc đáo, lời thơ mang cái vẻ giản dị, mộc mạc nhưng rất đỗi chân thành của những người con dân tộc. Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã gợi liên tưởng về những bước chân nhỏ bé được sự khuyến khích, động viên của người cha, cùng với đó là những lời nói đầy dịu dàng:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai tiếng chạm tiếng cười”

Câu thơ đã gợi cho người đọc liên tưởng đến những bước đi chập chững của đứa trẻ khi đang bắt đầu tập đi, những bước đi đầu tiên ấy hướng về người bố, người mẹ tức là những người gần gũi, thân thiết nhất với đứa trẻ ấy “Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ”, và dõi theo từng bước chân nhỏ bé ấy là những ánh mắt đầy âu yếm của những người cha, người mẹ, mỗi một bước chân đều làm cho những bậc cha mẹ ấy vui mừng khôn xiết, mọi niềm vui, tiếng nói, tiếng cười cũng xuất phát từ sự tiến bộ của con mình. Nhưng trong những câu thơ này ta cũng có thể hiểu theo cách khác, đó chính là quá trình trưởng thành của người con, từ khi biết đi đến khi biết nói, biết cười, và mỗi giai đoạn trưởng thành ấy đều được người cha ghi nhớ, lưu giữ trong kí ức của mình.

“Người đồng mình yêu lắm con ơi

Đan lờ cài đan hoa

Vách nhà ken câu hát

Rừng cho hoa”

Những câu thơ trên là lời tâm sự đầy tha thiết của người cha với con, người cha nói với con của mình về những người thân thương, những người cùng sinh sống trong một không gian, người cha dùng những từ ngữ đầy gần gũi “người đồng mình”, đó là những con người chân quê nhưng luôn dành cho nhau những tình cảm yêu thương gắn bó nhất, họ vui với hoạt động sản xuất lao động “Đan lờ cài đan hoa”, cuộc sống tuy vất vả nhưng họ vẫn luôn yêu đời, lạc quan với những tiếng hát ngân nga, thân tình “Vách nhà ken câu hát”. “Rừng cho hoa” thì hoa ở đây chính là những nguồn tài nguyên, những nguồn sống có thể duy trì, nuôi dưỡng sự sống của con người.

“Con đường cho những tấm lòng

Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”

Tiếp đó, người cha muốn nói về sự gia đời của đứa con yêu thương, đó chính là kết tinh yêu thương của hai tấm lòng, hai trái tim cùng chung nhịp đập “Con đường cho những tấm lòng”, và trong kí ức của cha thì ngày đẹp nhất, ý nghĩa nhất trên đời, đó là “ngày cưới”, ngày kết nối hai tấm lòng yêu thương. Nói về những kí ức vui vẻ, người cha như muốn nói với con mình về mái nhà hạnh phúc của mình, bởi đứa con được sinh ra trong tình yêu thương, gắn kết của cha mẹ, đó là một gia đình đầy hạnh phúc.

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh,

Sống trong thung không chê thung nghèo đói”

Đây có thể xem là những câu thơ hay nhất của bài thơ này, là lời dạy của người cha với con trai của mình, lời dạy đầy chân thành nhưng cũng không kém phần nghiêm khắc. Những “người đồng mình” không chỉ biết yêu thương, gắn bó giúp đỡ nhau trong cuộc sống mà còn là những con người tài giỏi, có chí lớn. Những nỗi buồn của quê hương, của dân tộc được đo bằng chiều cao của núi, thâm trầm nhưng không lãng quên mà ấp ủ chí lớn.

 Dù cuộc sống có nghèo đói, có khó khăn thì nên thích nghi, cố gắng phấn đấu cải tạo nó chứ không chê bai hay phủ nhận nguồn gốc, cội nguồn của mình “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong thung không chê thung nghèo đói”.

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 14

Viết về tình cảm gia đình, niềm tự hào đối với quê hương và sự ước vọng của mẹ cha dành cho con cái, muốn con khôn lớn trưởng thành là một trong những chủ đề được trở đi trở lại nhiều lần trong suốt chiều dài nền văn học. Ta có thể bắt gặp hình ảnh người mẹ Tà ôi địu con lên rẫy hát ru con thấm đượm nghĩa tình cách mạng trong bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm hay đó là hình ảnh người mẹ đưa nôi hát ru con với lời ru ngọt ngào, tha thiết trong bài thơ “Con cò” của Chế Lan Viên… Mỗi nhà thơ, bằng sự trải nghiệm và tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim, hòa cùng những rung cảm mãnh liệt của nghệ thuật đã diễn tả thật hay, thật độc đáo, mới mẻ về những tình cảm thiêng liêng, cao đẹp ấy. Y Phương – một nhà thơ dân tộc Tày, với một phong cách thơ hồn nhiên, trong sáng, chân thật, giàu hình ảnh cũng đã góp mình vào chủ đề đó qua bài thơ “Nói với con” (1980). Bài thơ là lời tâm tình sẻ chia của người cha dành cho con với niềm hi vọng người con sẽ tiếp nối, phát huy được những phẩm chất truyền thống cao đẹp, quí báu của “người đồng mình”, làm cho quê hương, dân tộc mình ngày một vững mạnh hơn.

Trước hết, mở đầu bài thơ là lời tâm tình của người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng: con lớn lên bởi tình yêu của cha mẹ và quê hương. Đầu tiên, người cha nói về tình cảm gia đình – cái nôi đầu tiên nuôi dưỡng người con khôn lớn trưởng thành:

“Chân phải bước tới cha

Chân trái bước tới mẹ

Một bước chạm tiếng nói

Hai bước tới tiếng cười”

Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu tính chất tạo hình ” chân phải”, “chân trái”, “tiếng nói”, “tiếng cười”, nhà thơ đã dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh của một em bé đang chập chững tập đi và bi bô tập nói bên cạnh cha mẹ. Từ đó, Y Phương gợi tả được không khí gia đình thật ấm áp, hạnh phúc, tràn ngập tiếng cười nói của trẻ thơ. Đồng thời nhà thơ đã cho người đọc thấy được từng bước đi, từng tiếng cười nói của con đều được cha mẹ nâng niu, chăm sóc, mong chờ. Đó là tình cảm gia đình ruột thịt, là công lao trời bể lớn lao và thiêng liêng mà cha mẹ dành cho con cái, muốn người con luôn phải khắc cốt ghi tâm.

Bên cạnh tình cảm gia đình, người cha muốn nói cho con biết về cội nguồn sinh dưỡng rộng lớn hơn đó là tình làng,quê hương nghĩa xóm. Với cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi, nhà thơ Y Phương đã miêu tả thật chân thực, sinh động cuộc sống lao động thật nghĩa tình và thơ mộng của “người đồng mình”. “Người đồng mình” là để chỉ những người vùng mình, miền mình, những người cùng sống trên một miền đất, quê hương, cùng dân tộc. Câu thơ sử dụng từ ngữ hô gọi “con ơi” kết hợp với từ tình thái “yêu lắm” làm cho lời thơ trở nên ngọt ngào, chan chứa niềm tự hào với tình yêu thương quê hương da diết. Cuộc sống lao động cần cù và vui tươi của “người đồng mình” được gợi lên qua một số những hình ảnh rất cụ thể, giàu sức gợi: “đan lờ” – dụng cụ đánh bắt cá của người dân miền núi, dưới bàn tay khéo léo đã thành “cài nan hoa”; những ngôi nhà sàn không chỉ được dựng lên bằng những tấm ván gỗ mà còn được tạo nên bởi những “câu hát” – chiều văn hóa, lối sống của “người đồng mình”. Những động từ “đan”, “cài”, “ken” vừa có tác dụng diễn tả những động tác lao động; lại vừa cho thấy những phẩm chất cần cù, chịu khó, yêu lao động, yêu cuộc sống, chan chứa niềm vui của những bàn tay khéo léo, tài hoa của người dân miền núi.

Cũng nói về quê hương, người cha còn nhắc tới “rừng núi” và những “con đường” của “người đồng mình”:

“Rừng cho hoa

Con đường cho những tấm lòng.”

Rừng không chỉ cho gỗ, cho măng tre mà còn cho cả “hoa”. “Hoa” là sản phẩn của thiên nhiên, là sự kết hợp những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất, lãng mạn nhất của trời và đất mà rừng núi quê hương đã ban tặng cho con người nơi đây. Còn “con đường” là sợi dây liên kết gắn bó, chặt chẽ của những “người đồng mình”. Những “con đường” ấy được tạo nên bởi những “tấm lòng” nhân hậu, bao dung. Đó là con đường ra thung ra suối, con đường vào làng vào bản, con đường tới trường, tới lớp, con đường ra ruộng, ra đồng… Chính những con đường đó đã gắn bó tình đoàn kết của những con người nơi đây. Như vậy, thiên nhiên rừng núi không chỉ ban tặng cho con người cái đẹp của tạo hóa mà còn che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống. Từ tình cảm quê hương, người cha đột ngột chuyển sang nói với con về tình cảm riêng tư của “ngày cưới”:

“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới

Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.”

Không ít người đã thắc mắc về sự chuyển biến đột ngột này. Y Phương chia sẻ: tình cảm của những đôi trai gái, của cha mẹ được nảy nở, bắt nguồn từ tình yêu đối với quê hương, tình yêu đối với cuộc sống lao động. Như vậy, nhà thơ quan niệm: khi con người sống gắn bó với quê hương, với lao động thì con người sẽ tìm được tình yêu, hạnh phúc. Vì thế, người con từ đó được ra đời không chỉ là xuất phát từ sự kết tinh tình yêu của cha mẹ mà còn xuất phát từ là tình cảm rộng lớn của quê hương. Và quê hương đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở che con ngay từ khi bắt đầu con cất tiếng khóc chào đời.

Từ việc nhắc lại cội nguồn sinh dưỡng ở khổ đầu, đến khổ hai, người cha tiếp tục ngợi ca những đức tính cao đẹp của người đồng mình, gợi cho con lòng tự hào về quê hương, dân tộc, dặn dò con cần phát huy và sống thật xứng đáng với truyền thống của quê hương mình:

“Người đồng mình thương lắm con ơi

Cao đo nỗi buồn

Xa nuôi chí lớn

Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn

Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc.”

Câu thơ đầu được điệp lại “Người đồng minh thương lắm con ơi” nhưng đã có sự thay đổi chút ít. Nếu như câu thơ ở khổ đầu là “yêu” tức là xuất phát từ tình cảm chân thành, từ trái tim tha thiết thì đến câu thơ ở khổ hai này lại là: “thương”. “Thương” là một trạng thái tình cảm không chỉ xuất phát từ trái tim yêu thương chân thành nữa mà còn gói ghém cả sự sẻ chia, đồng cảm ở trong lòng. Chính vì thế, “người đồng mình” – những con người cùng miền đất, quê hương, dân tộc cùng chí hướng đã đoàn kết, gắn bó, sẻ chia và đồng cảm với nhau mà dựng xây quê hương mình trở nên ngày một giàu đẹp hơn. Hai câu tiếp: Sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường của “người đồng mình”. Nghệ thuật đối lập tương phản: ” cao đo – xa nuôi”, “nỗi buồn – chí lớn”, tác giả đã diễn tả những trạng thái khác nhau của “người đồng mình”. “Nỗi buồn – chí lớn” là khái niệm vô hình nhưng đã được tác giả hình dung cụ thể như có hình, có khối. “Người đồng minh” buồn, lo lắng, khắc khoải ở trong lòng vì trước mắt họ là biết bao nhiêu là khó khăn, gian nan thử thách; khi mà cả quê hương họ còn chưa vươn tới được tầm cao nhân văn, vẫn còn quanh quẩn với cái đói, cái nghèo. Nhưng “Người đồng mình” không bao giờ nhụt chí, mạnh mẽ, vững vàng đối diện với những khó khăn, thách thức ấy mà đưa quê hương tiến lên phía trước, trở nên giàu mạnh, phát triển, văn mình. Câu thơ giản dị, mộc mạc nhưng đã diễn tả được tinh thần, ý chí quật cường, mạnh mẽ của người dân vùng cao. Niềm tự hào về con người quê hương gắn liền với những phẩm chất quí báu mà người cha muốn truyền cho con:

“Sống trên đá không chê đá gập ghềnh

Sống trong thung không chê thung nghèo đói

Sống như sông như suối

Lên thác xuống ghềnh

Không lo cực nhọc.”

Nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh để nói tới cuộc sống của người miền núi như: “đá gập ghềnh”, “thung nghèo đói” “lên thác xuống ghềnh” có ý nghĩa diễn tả những khó khăn, vất vả, nghèo đói và nhọc nhằn mà họ đã và đang phải đương đầu. Điệp ngữ “sống … không chê” (2 lần), kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và biện pháp so sánh “như sông như suối” có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, bền bỉ của những người con miền núi cao trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi mà chiến tranh lùi xa không được bao lâu.Qua đó, nhà thơ thể hiện niềm tự hào về “người đồng mình” với sức mạnh, ý chí thật phóng khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Từ đó, người cha mong muốn con: phải sống có tình, có nghĩa, thủy chung với quê hương, đất nước, dân tộc mình; biết chấp nhận và sẵn sàng vượt qua những khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin tất thắng.

Đến bốn câu thơ tiếp theo mạch tâm tình nhắn nhủ của người cha dành cho con vẫn được tiếp nối nhưng đã chuyển sang giọng điệu triết lí sâu sắc:

“Người đồng mình thô sơ da thịt

Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con

Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.”

Nghệ thuật đối lập tương phản: giữa ngoại hình và tâm hồn. Hình ảnh “thô sơ da thịt” diễn tả vẻ đẹp mộc mạc, bình dị, chân chất, khẳng khái của “người đồng mình”. Nhưng họ không hề “nhỏ bé” về tâm hồn mà rất giàu lòng tự trọng, giàu chí khí, niềm tin cao đẹp với khát vọng dựng xây, phát triển quê hương. Muốn vậy, “người đồng mình” phải lao động:

“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương

Còn quê hương thì làm phong tục.”

Câu thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Và tác giả đã miêu tả cuộc sống lao động của họ qua cụm từ “tự đục đá” thường thấy của người dân miền núi cao. Công việc của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự phát triển của quê hương mình. Nhưng hình ảnh “kê cao quê hương” còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc của “người đồng mình”. Chính những con người cần cù, nhẫn nại, bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương, làm nên phong tục tập quán lâu đời tốt đẹp của dân tộc.

Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò người con phải tự hào về truyền thống quê hương, lấy những tình cảm ấy làm hành trang bước vào đời:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con.”

Hình ảnh “thô sơ da thịt” được lặp lại lần hai có tác dụng khẳng định và nhấn mạnh lại niềm mong muốn của người cha dành cho con: Người đồng mình tuy mộc mạc, chân chất, bình dị, bộc trực, khẳng khái nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, luôn vươn tới những lẽ sống cao đẹp. Vì thế, trên đường đời, con phải thật tự tin, tự hào về quê hương, sống xứng đáng với “người đồng mình”, không cúi đầu trước giông tố khó khăn, vất vả ở phía trước. Bởi đằng sau con luôn có tình cảm chở che, nâng đỡ của cha mẹ, gia đình, của quê hương và đặc biệt trong bản thân con chất chứa phẩm chất quí báu của “người đồng mình”. Hai tiếng “nghe con” ở cuối bài thơ chứa đựng biết bao nhiêu là yêu thương và niềm tin của người cha dành cho con, nhẹ nhàng, xao xuyến.

Tóm lại, bằng bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên, bằng những hình ảnh cụ thể mà vẫn giàu chất thơ, “Nói với con” đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Điều lớn lao nhất mà người cha truyền đến được cho con chính là lòng tự hào về quê hương và niềm tự tin khi bước chân vào đời. Khi biết tự hào một cách chính đáng thì sẽ có lòng tự tin vững chắc. “Lên đường/ Không bao giờ nhỏ bé được / Nghe con” – bài thơ là lời nhắc nhở thấm thía mỗi con người về nghĩa tình gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.

Phân tích tình cảm cha con trong truyện Chiếc lược ngà - mẫu 15

Tình cảm gia đình luôn là một chủ đề lớn, thu hút được sự quan tâm của các tác giả. Mỗi người có những khám phá, phát hiện riêng về chủ đề này, làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam. Góp một phần nhỏ bé nhưng cũng không kém phần đặc sắc đó là bài thơ Nói với con của nhà thơ Y Phương. Tác phẩm là những lời nói chân thành của người cha với con, qua đó thể hiện được những triết lí, chiêm nghiệm sâu sắc của ông.

Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh của một đứa trẻ thật ngây thơ, đáng yêu với những bước chân chập chững: “Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ/ Một bước chạm tiếng nói/ Hai bước tới tiếng cười”. Nhưng câu thơ không chỉ dừng lại ở đó, mà sâu xa hơn tác giả muốn nói về cội nguồn con được sinh ra là từ tình yêu thương của cha mẹ. Câu thơ với nhịp 2/3 thật nhịp nhàng, hài hòa kết hợp với biện pháp lặp cấu trúc, phép liệt kê “chân trái – chân phải”, “một bước – hai bước” “tiếng nói – tiếng cười”, tác giả đã tạo ra âm điệu vui tươi, quấn quýt, hòa hợp với nhau. Từng bước con đi luôn được cha mẹ quan tâm, chăm chút; từng tiếng con cười luôn là niềm vui, niềm hạnh phúc cho cha mẹ. Từ đó tác giả muốn hướng đến một điều cao cả hơn đó là con được sinh ra trong hạnh phúc và lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, gia đình là cái nôi ấm áp nuôi dưỡng mỗi chúng ta trưởng thành, khôn lớn.

Bảy câu thơ tiếp theo lại vẽ ra khung cảnh lao động tươi vui của người đồng mình, và con cũng được lớn lên trong chính tình đồng bào ấm áp, thuận hòa ấy. Cuộc sống của người đồng mình diễn ra hết sức vui tươi: Đan lờ cài nan hoa/ Vách nhà ken câu hát. Cách gọi người đồng mình thật giản dị, thân thương, đó là những người miền mình, sống cùng trên một mảnh đất quê hương. Với ngôn từ đậm màu sắc địa phương tác giả đã vẽ ra không khí lao động vui vẻ: những chiếc lờ bắt cá dưới đôi bàn tay khéo léo của họ tạo nên những bông hoa đẹp đẽ; vách nhà không chỉ được ken bằng tre nứa mà còn được làm từ những câu hát. Câu thơ không chỉ cho thấy sự tài hoa, khéo léo của người đồng mình mà còn thấy lối sống lạc quan, yêu đời của họ. Các động từ “cài, ken” đi kèm danh từ “nan hoa, câu hát” vừa cho thấy đôi bàn tay khéo léo vừa cho thấy cuộc sống ngập tràn niềm vui.

Thiên nhiên nơi đây luôn bao bọc, che chở cho con người, hai câu thơ vừa khái quát vừa có sức gợi lớn. Núi rừng quê hương không chỉ thơ mộng mà luôn tràn đầy tình nghĩa. Chính thiên nhiên đã che chở, nuôi dưỡng con cả về tâm hồn và lối sống. Quê hương đã cho con những gì tốt đẹp nhất để nuôi dưỡng con trưởng thành. Và đây chính là chiếc nuôi thứ hai nuôi con khôn lớn. Người đồng mình không chỉ tài hoa, khéo léo mà còn mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp. Trước hết họ là người có ý chí, nghị lực kiên cường vượt qua mọi khó khăn: “Cao đo nỗi buồn/ Xa nuôi chí lớn”. Trong cuộc sống họ phải đối mặt với không ít gian nan, trắc trở nhưng họ luôn có ý chí, nghị lực để vượt qua mọi thử thách ấy. Câu thơ như một lời khẳng định: cuộc sống nhiều gian truân, vất vả chỉ rèn thêm ý chí, nghị lực cho con người.

Họ còn có tấm lòng thủy chung với quê hương: “Sống trên đá không chê đá gập ghềnh/ Sống trong thung không chê thung nghèo đói”. Câu thơ vừa khẳng định vẻ đẹp phẩm chất của người đồng mình vừa như một lời dặn dò con phải luôn có lối sống thủy chung, tình nghĩa với quê hương. Họ còn sống phóng khoáng, lạc quan, điều này được tác giả khắc họa qua hình ảnh so sánh đặc sắc “sống như sông như suối” kết hợp với thành ngữ “lên thác xuống ghềnh” gợi nên cuộc sống lao động đầy vất vả, thế nhưng họ vẫn “không lo cực nhọc” rất lạc quan, yêu đời. Họ tự tin, bản lĩnh, yêu đời và họ tự tay xây dựng lên phong tục, tập quán quê hương mình: “Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương/ Còn quê hương thì làm phong tục”. Câu thơ đã cho thấy những công việc hàng ngày của họ thật dung dị nhưng chính nó làm nên nét phong tục, đặc trưng cho nơi đây. Bởi vậy câu thơ đã khái quát tinh thần tự tôn, ý thức xây dựng và phát triển, bảo vệ cội nguồn của tác giả. Qua đó người cha mong muốn con hãy kế tục và phát huy truyền thống quê hương, hãy lấy đó làm hành trang để vững bước vào đời:

“Con ơi tuy thô sơ da thịt

Lên đường

Không bao giờ nhỏ bé được

Nghe con”

Hai tiếng “con ơi” vang lên thật trìu mến, tha thiết, dồn nén biết bao tin tưởng, hi vọng của người cha vào đứa con bé bỏng, đáng yêu. Lời nói như một lời cổ vũ, động viên con hãy cố gắng trên bước đường đời để ghi dấu ấn mình trong cuộc sống. Lời thơ còn mang ý nghĩa khái quát không chỉ là lời cha nói với con mà còn là lời trao gửi, động viên đến biết bao thế hệ. Bài thơ được viết bằng giọng điệu thơ tha thiết, trìu mến. Xây dựng những hình ảnh cụ thể mà vẫn hết sức khái quát, chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị mà sâu sắc vô cùng. Xây dựng bố cục thơ chặt chẽ, hợp lí, cách dẫn dắt tự nhiên, hấp dẫn.

Qua bài thơ tác giả đã khái quát được một thứ tình cảm thiêng liêng bất diệt trong mỗi con người đó là tình cảm gia đình mà rộng ra là niềm tự hào quê hương, đất nước. Chính những yếu tố này nâng bước, dìu dắt mỗi chúng ta trên đường đời đầy giông bão. Kết hợp với ngôn ngữ tự nhiên, giọng điệu chân thành đã tạo nên sức hấp dẫn và thành công cho tác phẩm.

Bài giảng: Chiếc lược ngà - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Xem thêm các bài văn mẫu phân tích, dàn ý truyện ngắn Chiếc lược ngà lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần: