Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ (hay, ngắn gọn)



Tổng hợp bài văn Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Bài giảng: Chuyện người con gái Nam Xương - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ - mẫu 1

   Nguyễn Dữ sống trong thế kỉ XVI, không rõ năm sinh và năm mất. Quê ông là làng Đồ Tùng, huyện Gia Phúc, nay thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thân sinh là tiến sĩ Nguyễn Tường Phiêu. Ông là học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, là bạn đồng học của Phùng Khắc Khoan.

   Nguyễn Dữ là tác giả của cuốn "Truyền kì mạn lục" bằng chữ Hán theo lối biền nhẫu xen những bài thơ, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Nhà sử học Phan Huy Chú cho biết là "Truyền kì mạn lục" có 22 truyện nhưng hiện nay chỉ còn lại 20 truyện:

  • 1. Câu chuyện ở đền Hạng Vương

  • 2. Người nghĩa phụ ở Khoai Châu

  • 3. Chuyện cây gạo

  • 4. Chuyện gã Trà đồng giánh sinh

  • 5. Chuyện kì ngộ ở Trại Tây

  • 6. Chuyện đối tụng ở Long cung

  • 7. Chuyện nghiệp oan của Đào thị

  • 8. Chuyện chức Phán sự ở đền Tản Viên

  • 9. Từ Thức lấy vợ tiên

  • 10. Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào

  • 11. Chuyện yêu quái ở Xương Giang

  • 12. Chuyện đối đáp của người tiểu phu núi Na

  • 13. Ngôi chùa hoang ở Đông Triều

  • 14. Nàng Túy Tiêu

  • 15. Bữa tiệc đêm ở Đà Giang

  • 16. Người thiếu phụ Nam Xương

  • 17. Lý tướng quân

  • 18. Chuyện Lệ Nương

  • 19. Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa

  • 20. Tướng Dạ Xoa

   Tính chất truyền kì hoang đường, tính nhân đạo là giá trị đặc sắc của "Truyền kì mạn lục" . Nó xứng đáng được ca ngợi là "thiên cổ kì bút", là "áng văn hay của bậc đại gia".

Dàn ý Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ

1. Mở bài: 

- Dẫn dắt và giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ và văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương”. 

2. Thân bài: 

a, Tác giả Nguyễn Dữ: 

- Sống vào khoảng thế kỉ 16. 

- Quê quán: Xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân (nay là xã Phạm Kha, huyện Thanh Miện), Hải Dương. 

- Theo tương truyền, ông là học trò của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm và là bạn học của Phùng Khắc Khoan. 

- Ông là người học rộng, chăm chỉ, từng làm quan dưới thời nhà Mạc, làm Tri huyện dưới thời nhà Lê nhưng rồi bất mãn với thời cuộc nên cáo quan về ở chốn rừng núi Thanh Hóa.

- Ông có quan điểm chính trị và thái độ nhân sinh rõ ràng: luôn khát khao về một xã hội yên bình, công bằng, con người được sống trong tình yêu thương và sự đủ đầy. 

b, Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”: 

- Xuất xứ: 

+ Trích trong tập “Truyền kì mạn lục”.

+ Bắt nguồn từ truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”.

- Giá trị nội dung: 

+ Ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ qua hình tượng nhân vật Vũ Nương: một người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo, người mẹ thương yêu con, một người giàu lòng tự trọng và sống ơn nghĩa, biết sau - trước. 

+ Lên án, phê phán chế độ nam quyền tàn ác, cổ hủ trong xã hội phong kiến đã đẩy người phụ nữ vào tận cùng bi kịch.

- Đặc sắc nghệ thuật: 

+ Nghệ thuật kể chuyện và sắp xếp cốt truyện logic, hợp lí.

+ Có chi tiết thắt nút, mở nút, gây được sự tò mò cho độc giả.

+ Kết hợp các yếu tố hư cấu, kì ảo để tăng sức hấp dẫn cho tác phẩm. 

3. Kết bài: 

- Khẳng định lại tài năng của Nguyễn Dữ và giá trị của tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương.

- Kêu gọi mọi người tự mình thưởng thức tác phẩm.

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ - mẫu 2

Tác giả Nguyễn Dữ hiện chưa rõ năm sinh năm mất, sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.

"Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.

Vũ Thị Thiết - người con gái quê ở Nam Xương thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Chàng Trương Sinh mến vì đức hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Chẳng bao lâu Trương Sinh phải đi lính. Nàng đang có mang, xa chàng vừa đầy tuần thì sinh ra đứa con trai đặt tên là Đản, nửa năm sau, mẹ chàng vì già yếu và nhớ thương con mà lâm bệnh. Vũ Nương hết lòng săn sóc, cơm cháo thuốc men, mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ mình. Qua năm sau, giặc đã chịu lui, Trương Sinh trở về. Con trai đã vừa học nói nhưng chỉ vì câu nói ngây thơ của đứa con đã dẫn đến Trương Sinh hiểu lầm rằng vợ mình đã thay lòng đổi dạ. Trương Sinh nhiếc mắng, đuổi nàng đi. Nàng thanh minh cho mình, rồi hàng xóm bênh vực nhưng không được. Trước cảnh đau buồn đó Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Nàng chết rồi, một hôm Trương Sinh ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya chợt đứa con nói: "Cha Đản lại đến kìa" rồi chỉ cái bóng trên tường. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ, biết vợ mình chết oan. Lại nói về chuyện Phan Lang đã cứu Linh Phi, là vợ vua biển Nam Hải. Thế rồi Phan Lang không may đắm thuyền chết, được Linh Phi cứu giúp, chữa trị, đền ơn. Trong cuộc hành trình thăm động của Linh Phi, Phan Lang tình cờ gặp Vũ Nương. Nàng gửi về cho chồng một chiếc hoa vàng và dặn chồng con nhớ làm đàn giải oan... Phan Lang trở về kể chuyện cho Trương Sinh. Vũ Nương hiện lên đa tạ tình chàng nhưng nàng không thể trở về trần gian được.

Chuyện người con gái Nam Xương nói lên sự xót thương với những người phụ nữ tài sắc, đức hạnh mà chết oan trong bi kịch gia đình. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ già. Cái chết của Vũ Nương có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho hạnh phúc lứa đôi phải li biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn, lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó, Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Với nghệ thuật điêu luyện, bố cục chặt chẽ, chi tiết hoang đường, li kỳ, hấp dẫn, dùng chi tiết gợi mở, thắt nút cởi nút câu chuyện tài tình, giải quyết câu chuyện nhanh chóng, bất ngờ, kết thúc có hậu,... Chuyện người con gái Nam Xương đã khẳng định được nét đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện niềm cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và bi kịch. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng chuyện "Người con gái Nam Xương" có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Qua "Truyền kì mạn lục", người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ - mẫu 3

Nguyễn Dữ quê ở huyện Thanh Miện thuộc tỉnh Hải Dương là một trong những học trò giỏi của Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sống trong xã hội loạn lạc, chế độ phong kiến thối nát, sau một năm làm quan, ông trở về quê nuôi mẹ già, đóng cửa viết sách.

Ông để lại một số thư và cuốn Truyền kì mạn lục viết bằng chữ Hán. Đây là cuốn văn xuôi cổ gồm 20 truyện, mang yếu tố hoang đường, cốt truyện lưu truyền trong dân gian. Phần lớn là nhân vật phụ nữ tài sắc mà bất hạnh, một ít là trí thức phong kiến sống gần gũi với nhân dân, 19 trong 20 truyện có lời bình. Truyền kì mạn lục là áng văn xuôi cổ giàu giá trị nhân đạo và có tính nhân dân, sâu sắc.

Về Chuyện người con gái Nam Xương rút trong tập Truyền kì mạn lục:

Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp. Chàng Trương Sinh mến vì dung hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Chẳng bao lâu sau Trương Sinh phải đi lính đánh giặc Chiêm. Vũ Nương rót chén rượu đầy, tiễn chồng mà rằng: "Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên... .

Nàng đang có mang, xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra đứa con trai đặt tên là Đản. Nửa năm sau, mẹ chồng vì già yếu và nhớ thương con đi lính, rồi lâm bệnh. Vũ Nương hết lòng săn sóc, cơm cháo thuốc men. Mẹ chồng qua đời, nàng thương xót lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ mình.

Qua năm sau, giặc ngoan cố đã chịu trói, Trương Sinh được trở về. Con trai vừa học nói. Chàng bế con thơ đi thăm mồ mẹ. Đứa con quấy khóc, Trương Sinh hết sức dỗ dành. Con ngây thơ nói: "Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư. Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Chàng gặng hỏi, đứa con mới cho hay "có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả". Trương Sinh vốn tính hay ghen, đinh ninh là vợ hư, la um cho hả giận, nhiếc mắng đuổi đi. Nàng khóc lóc phân trần, họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, Trương Sinh cũng chẳng nghe. Trước cảnh bình rơi trâm gãy, Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang với lời nguyền: "nếu đoan trang" vào nước xin làm Ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ...". Nàng chết rồi, một hôm Trương Sinh ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng: "Cha Đản lại đến kia kìa!". Bây giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ, biết vợ mình đã bị chết oan!

Lại nói về chuyện Phan Lang trước làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh, đến xin kêu tha mạng. Sáng dậy, có người phường chài đem biếu một con rùa mai xanh. Chợt nghĩ đến chuyện chiêm bao, Phan Lang bèn thả con rùa. Sau đó, Phan Lang chạy loạn, đắm thuyền, thấy dạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi nhìn thấy nói rằng: "Đây là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa" rồi lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ, Phan Lang được cứu sống. Linh Phi là vua biển Nam Hải mở tiệc thiết đãi ân nhân mình. Có vô số mỹ nhân quần áo thướt tha, mái tóc dài đến dự tiệc.

Trong số đó có một thiếu phụ xinh đẹp chỉ điểm một chút son phấn rất giống Vũ Nương. Tiệc xong, người đàn bà ấy nói với Phan Lang: "Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã quên nhau rồi ư?"- Nghe kể đến chuyện làng quê Vũ Nương khóc. Nàng gửi về một chiếc hoa vàng và dặn chồng con nhớ làm đàn giải oan, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước thì nàng sẽ trở về...

Linh Phi sai sứ giả Xích Hỗn đưa Phan Lang ra khỏi Cung nước, về đến nhà, Phan Lang kể lại chuyện gặp Vũ Nương và trao lại chiếc hoa vàng. Trương Sinh bèn lập đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện. Trương Sinh thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, nói vọng vào: "... Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa..." - Bóng nàng mờ nhạt dần mà biến mất.

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ - mẫu 4

Nguyễn Dữ là 1 văn sĩ, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Ông là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Truyền kỳ mạn lục (in 1768).

Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn.

Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XV

Theo Bùi Duy Tân và một số học giả viết lời tựa cho các bản dịch Truyền kỳ mạn lục lưu tới ngày nay có ghi lại:

"Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái.

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ - mẫu 5

Văn hóa của dân tộc ta bị ảnh hưởng rất nhiều từ nền Nho học của Trung Quốc. Vậy nên văn học thời kì trung đại thường mang dấu ấn khá đậm nét của văn học Trung Hoa. Văn học thời kì này thường mang chút yếu tố kì ảo, huyền bí. Trong các tác phẩm, tác giả nổi tiếng ở thời kì này, ta không thể không kể đến Nguyễn Dữ cùng "Truyền kì mạn lục" của ông. Tập truyện này đã thể hiện rõ tư tưởng cũng như tinh thần sống của Nguyễn Dữ, đặc biệt là qua tác phẩm "Chuyện chức phán sự đền Tản Viên".

Nói về Nguyễn Dữ, người ta thường nhắc về một thi sĩ ở ẩn với những hiểu biết sâu rộng về cuộc đời. Ông sống vào thế kỉ XVI, hiện thời chưa xác định rõ được năm sinh năm mất, chỉ biết ông sống ở thời Hậu Lê. Quê quán của ông thuộc xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Tương truyền, ông là học trò của Tuyết Giang Phu Tử Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông là người có tài cao, trí lớn, học rộng hiểu nhiều, đã từng đỗ đạt và làm quan dưới triều Lê. Thế nhưng, nội chiến phân tranh liên miên giữa nhà Mạc, Lê, Trịnh đã khiến ông chán nản. Vậy nên, chỉ sau một năm làm quan, ông đã cáo quan về ở ẩn cùng mẹ già và viết sách, sống ẩn dật như nhiều trí thức đương thời khác.

Cuộc đời làm quan của ông tuy ngắn ngủi, nhưng với tầm hiểu biết của mình, ông đã để lại cho hậu thế những tác phẩm mang đầy tư tưởng lớn lao. Ông viết sách rất nhiều vào những năm sau khi cáo quan, thế nhưng tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc nhất của ông chính là "Truyền kì mạn lục". Tác phẩm đồ sộ với tư tưởng lớn này của ông đã giúp ông ghi lại dấu ấn của mình vào nền thi ca trung đại Việt Nam.

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ - mẫu 6

Nguyễn Dữ là một tác giả tài năng của văn học trung đại Việt Nam. Sống vào khoảng thế kỉ XVI, quê ở Thanh Miện, Hải Dương. Là người vốn chăm học và thông minh, ôm ấp mộng lớn từ nhỏ. Từng làm quan dưới thời Mạc và thời Lê nhưng do chán nản trước thời cuộc đảo điên, xã hội bất công trái ngang mà cuối cùng chọn cuộc sống ẩn dật tại Thanh Hoá. Ông để lại cho văn học nước nhà một tác phẩm xuất sắc và giàu giá trị đó là Truyện kì mạn lục.

Truyện được viết bằng chữ Hán gồm hai mươi truyện nhỏ, cuối mỗi tác phẩm có lời bình ghi nhận đánh giá sự kiện hoặc nhân vật. Truyện thông quá chuyện cỏ cây, ma quỷ hay thế giới thần tiên, huyền bí để kể chuyện đời thường. Thông qua đó phơi bày thực trạng xã hội lúc bấy giờ. Một xã hội tồn tại đầy rẫy tệ nạn, ở đó vừa quan ăn chơi không chăm lo đến đời sống nhân dân, người người giả nhân giả nghĩa, nạn cướp bóc, dối trá, ăn hối lộ hoành hành khắp nơi, mất trật tự thế sự điên đảo. Mỗi truyện đều mang một tư tưởng giàu giá trị, ý nghĩa nhân sinh, gửi gắm ước mơ của tác giả về một xã hội yên bình, sống trong sự công bằng, tình người được bảo bộc, ấm áp, sẻ chia. Truyền kì mạn lục còn lên án sự phân biết đối xử nam nữ thiếu công bằng. Đó là những người phụ nữ tài sắc nhưng chịu nhiều bất hạnh, khốn khổ trong cuộc đời. Họ chấp nhận thiệt thòi, thậm chí là hy sinh cả tính mạng để bảo vệ danh dự cho chính mình. Là tiếng nói cảm thông, xót thương cho số phận, ca ngợi trân trọng phẩm chất, tư dung tốt đẹp của những người phụ nữ đương thời. Truyện còn mang niềm tự hào về văn hoá dân tộc Việt Nam, đề cao lối sống nhân nghĩa thủy chung ân tình trong đời sống. Được xem là một "thiên cổ tùy bút" của Việt Nam.

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ - mẫu 7

Nhắc đến Nguyễn Dữ là nhắc đến một trong những nhà văn nổi tiếng của thế kỉ thứ 15. Một trong những nhà văn đã góp phần làm giàu thêm kho tàng văn học đồ sộ của nước nhà với thể loại truyện truyền kì. Mà tiêu biểu trong đó phải kể đến là “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên” và “Chuyện người con gái Nam Xương”. Tác phẩm của ông không chỉ thể hiện tài năng, kiến thức uyên bác mà còn chất chứa những hoài bão nguyện vọng thầm kín về khát vọng hạnh phúc, sự công bằng trong cuộc sống.

Nguyễn Dữ hiện năm sinh năm mất vẫn chưa rõ, là con trai cả của Nguyễn Tường Phiêu quê ở làng Đỗ Tùng, huyện Gia Phúc xưa nay là Đỗ Lâm huyện Tứ Lộc tỉnh Hải Dương. Sinh thời ông xuất thân trong một gia đình có nền tảng nho giáo cha đậu tiến sĩ khoa Bính Thìn  vào năm 1496. Ông được xem như một trong những người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm và là bạn học của Phùng Khắc Khoan.

Ngay từ khi còn nhỉ Nguyễn Dữ đã tỏ ra là một người chăm học, học rộng nhớ nhiều từng ôm ấp hi vọng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Lớn lên sau khi thi đỗ làm tri huyện Thanh Tuyền được một năm thì ông xin từ quan về quê nuôi mẹ già. Trong thời gian này ông đã miệt mài ghi chép gửi gắm ý tưởng của mình để hoàn thành tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn : Truyện kì mạn lục.

Tác phẩm Truyện Kì mạn lục được đánh giá là một thiên cổ kỳ bút. Bao gồm có 20 truyện có ảnh hưởng vô cùng lớn trong đời sống văn học nước nhà đương thời cũng như các thế kỉ sau này. Truyện kù mạn lục được viết bằng tản văn, xen lẫn đó là những biền văn và thơ ca. Ở cuối mỗi truyện sẽ đi kèm với lời bình của tác giả hoặc những người có cùng quan điểm với tác giả.

Hầu hết các câu chuyện thường xảy ra từ thời Lý, Trần, Hồ.... Nó dựa trên cốt truyện lấy từ những sự việc lưu truyền trong dân gian, có những sự việc xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn. Sở dĩ tác phẩm có tên là Truyện kì mạn lục ( Sao chép tản mạn những truyện lạ) vì tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người ghi chép những truyện cũ.  Với trí tưởng tượng phong phú và một bút pháp nghệ thuật vô cùng linh hoạt tác giả đã đưua người đọc vào một thế giới huyền bí vừa có thật vừa có ảo nhưng xuyên qua những sự ly kì thêu dệt đó vẫn thể hiện rõ một thế giới thật với nhan nhản những kẻ quyền thế độc ác, đồi bại. Căn cứ vào tính chất của các truyện thì Truyện kì mạn lục không phải một công trình sưu tập như những tác phẩm Lĩnh nam chích quái mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa vô cùng cụ thể. Nó đánh dấu bước phát triển vô cùng quan trọng sự phát triển của thể loại tự sự hình tượng trong văn học.

Thể kỉ XV thể kỉ mà nhà văn sinh sống là một giai đoạn lịch sử đầy rẫy những biến động, các tầng lớp phong kiến bắt đầu bị phân hóa mạnh mẽ, trật tự xã hội bị đảo lộn, chiến tranh diễn ra liên miên, đất nước chia cắt thành nhiều thế lực khác nhau, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.... Vì thế để phản ánh thực tế không chỉ dựa vào những câu chuyện sự ghi chép tản mạn ngoài đời mà thơ văn đã khéo léo tổ chức lại kết cấu, xây dựng nhân vật, thêm bớt cac tình tiết... tạo nên những câu chuyện mới. Vì vậy tuy là chuyện cũ song nó lại phản ánh sâu sắc nhất thực tế xã hội thế kỉ XVI. Đồng thời ông còn thể hiện những phẩm cách lương thiện, thanh cao của con người và mô tả nó thật đẹp và mỹ lệ.

Có thể nói mỗi câu chuyện trong Truyện Kì mạn lục của Nguyễn Dữ đều thể hiện một quan điểm chính trị một triết lí nhân sinh, một ý tưởng đạo đức sâu sắc. Nó không  chỉ là những mong muốn của tác giả mà còn là nỗi lòng của người dân mong muốn sự công bình, sự bác ái,... mang giá trị nhân văn sâu sắc.

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ - mẫu 8

Tác giả Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI, là người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thời ông sống, triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng suy thoái, các tập đoàn phong kiến tranh giành quyền lực gây ra liên tiếp các cuộc nội chiến kéo dài. Có giả thiết cho rằng ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Cha ông là tiến sĩ đời Lê Thánh Tông, bản thân ông cũng là người học rộng, tài cao nhưng giống như nhiều trí thức đương thời, ông chỉ làm quan một năm rồi xin về quê ẩn dật. Ông có tác phẩm tiếng Hán nổi tiếng Truyền kì mạn lục (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), một tác phẩm thể hiện quan niệm sống và tấm lòng của ông trước cuộc đời.

"Chuyện người con gái Nam Xương" là tác phẩm được rút trong tập truyện Truyền kì mạn lục của tác giả. Đây là một trong hai mươi truyện của tập sách này. Tác phẩm ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương, quê ở Nam Xương (thuộc tỉnh Hà Nam) ngày nay.

Vũ Thị Thiết - người con gái quê ở Nam Xương thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp. Chàng Trương Sinh mến vì đức hạnh xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Chẳng bao lâu Trương Sinh phải đi lính. Nàng đang có mang, xa chàng vừa đầy tuần thì sinh ra đứa con trai đặt tên là Đản, nửa năm sau, mẹ chàng vì già yếu và nhớ thương con mà lâm bệnh. Vũ Nương hết lòng săn sóc, cơm cháo thuốc men, mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay tế lễ như đối với cha mẹ mình. Qua năm sau, giặc đã chịu lui, Trương Sinh trở về. Con trai đã vừa học nói nhưng chỉ vì câu nói ngây thơ của đứa con đã dẫn đến Trương Sinh hiểu lầm rằng vợ mình đã thay lòng đổi dạ. Trương Sinh nhiếc mắng, đuổi nàng đi. Nàng thanh minh cho mình, rồi hàng xóm bênh vực nhưng không được. Trước cảnh đau buồn đó Vũ Nương đã nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Nàng chết rồi, một hôm Trương Sinh ngồi buồn dưới ngọn đèn khuya chợt đứa con nói: "Cha Đản lại đến kìa" rồi chỉ cái bóng trên tường. Bấy giờ Trương Sinh mới tỉnh ngộ, biết vợ mình chết oan. Lại nói về chuyện Phan Lang đã cứu Linh Phi, là vợ vua biển Nam Hải. Thế rồi Phan Lang không may đắm thuyền chết, được Linh Phi cứu giúp, chữa trị, đền ơn. Trong cuộc hành trình thăm động của Linh Phi, Phan Lang tình cờ gặp Vũ Nương. Nàng gửi về cho chồng một chiếc hoa vàng và dặn chồng con nhớ làm đàn giải oan... Phan Lang trở về kể chuyện cho Trương Sinh. Vũ Nương hiện lên đa tạ tình chàng nhưng nàng không thể trở về trần gian được.

Chuyện người con gái Nam Xương nói lên sự xót thương với những người phụ nữ tài sắc, đức hạnh mà chết oan trong bi kịch gia đình. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, hiếu thảo, một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ già. Cái chết của Vũ Nương có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc, lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho hạnh phúc lứa đôi phải li biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn, lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia trưởng độc đoán, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó, Chuyện người con gái Nam Xương có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Với nghệ thuật điêu luyện, bố cục chặt chẽ, chi tiết hoang đường, li kỳ, hấp dẫn, dùng chi tiết gợi mở, thắt nút cởi nút câu chuyện tài tình, giải quyết câu chuyện nhanh chóng, bất ngờ, kết thúc có hậu,... Chuyện người con gái Nam Xương đã khẳng định được nét đẹp tâm hồn truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện niềm cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và bi kịch. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng chuyện "Người con gái Nam Xương" có giá trị nhân đạo sâu sắc.

Qua "Truyền kì mạn lục", người đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.

Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ - mẫu 9

Nguyễn Dữ là nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XVI. Đây là thời kì xã hội phong kiến Việt Nam có nhiều biến động và khủng hoảng. Giống như nhiều trí thức khác của thời đại mình, Nguyễn Dữ chán nản và bi phẫn trước thời cuộc. Vì thế, sau khi đỗ Hương Cống, ông chỉ làm quan một năm rồi cáo quan về ở ẩn.

Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là tác phẩm tiêu biểu cho thể loại truyền kì ở Việt Nam. Tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương là một trong 20 tác phẩm của Truyền kì mạn lục. Qua cuộc đời của Vũ Nương, Nguyễn Dữ tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa đã làm tan vỡ hạnh phúc lứa đôi, đồng thời thể hiện sự cảm thông sâu sắc với khát vọng hạnh phúc cũng như bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa. Tác phẩm cũng là sự suy ngẫm, day dứt trước sự mong manh của hạnh phúc trong kiếp người đầy bất trắc. Tác phẩm cho thấy nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật già dặn. Sự đan xen thực ảo một cách nghệ thuật, mang tính thẩm mĩ cao. Chuyện người con gái Nam Xương là một truyện ngắn đặc sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ. Truyện đã thể hiện được sự phối hợp hài hòa giữa chất hiện thực (câu chuyện được lưu truyền trong dân gian) với những nét nghệ thuật đặc trưng của thể loại truyền kì (yếu tố kì lạ hoang đường).

Giá trị nội dung của tác phẩm được thể hiện ở hai khía cạnh: Hiện thực và nhân đạo. Hiện thực thứ nhất trong tác phẩm là số phận bi kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Vốn là người con gái xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng thùy mị, nết na; tư dung tốt đẹp. Khi chồng đi lính, Vũ Nương một mình vừa chăm sóc, thuốc thang ma chay cho mẹ chồng vừa nuôi con, đảm đang, tận tình, chu đáo. Để rồi khi chàng Trương trở về, chỉ vì câu nói ngây thơ của bé Đản mà Trương Sinh đã nghi ngờ lòng thủy chung của vợ. Từ chỗ nói bóng gió xa xôi, rồi mắng chửi, hắt hủi và cuối cùng là đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà, Trương Sinh đã đẩy Vũ Nương tới bước đường cùng, bế tắc, phải chọn cái chết để tự minh oan cho mình. Hiện thực thứ hai được phản ánh là xã hội phong kiến với những biểu hiện bất công vô lý. Đó là một xã hội dung túng cho quan niệm trọng nam khinh nữ, để cho Trương Sinh - một kẻ thất học, vũ phu ngang nhiên chà đạp lên giá trị nhân phẩm của người vợ hiền thục nết na. Hành động ghen tuông của Trương Sinh là hệ quả của một loại tính cách - sản phẩm của xã hội đương thời.

Giá trị nhân đạo thể hiện ở các khía cạnh: ngợi ca, tôn trọng vẻ đẹp của người phụ nữ thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Xuất thân từ tầng lớp bình dân nhưng ở Vũ Nương đã hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, theo quan điểm Nho giáo (tam tòng, tứ đức). Tác giả đã đặt nhân vật trong các mối quan hệ để làm toát lên vẻ đẹp ấy. Với chồng: nàng là người vợ hiền thục. Với con: nàng là người mẹ dịu dàng, giàu tình yêu thương. Với mẹ chồng: nàng đã làm tròn bổn phận của một người con dâu hiếu thảo. Những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương còn được thể hiện ngay cả khi nàng sống cuộc sống của một cung nữ dưới thủy cung: Sẵn sàng tha thứ cho Trương Sinh, một mực thương nhớ chồng con nhưng không thể trở về vì đã nặng ơn nghĩa đối với Linh Phi... Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng, từ đó khắc họa thành công hình tượng nhân vật người phụ nữ với đầy đủ những phẩm chất đẹp. Câu chuyện còn đề cao triết lí nhân nghĩa ở hiền gặp lành qua phần kết thúc có hậu giống như rất nhiều những câu chuyện cổ tích Việt Nam. Với đặc trưng riêng của thể loại truyện truyền kì, Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm phần cuối của câu chuyện. Vũ Nương đã không chết, hay nói đúng hơn, nàng được sống ở cõi khác bình yên và tốt đẹp hơn đó là chốn thủy cung. Qua đó có thể thấy rõ ước mơ của người xưa (cũng là của tác giả) về một xã hội công bằng, tốt đẹp mà ở đó con người sống và đối xử với nhau bằng lòng nhân ái, ở đó nhân phẩm của con người được tôn trọng. Oan thì phải được giải, người hiền lành lương thiện như Vũ Nương phải được hưởng hạnh phúc.

Bên cạnh giá trị nội dung, tác phẩm còn được đánh giá cao ở phương diện nghệ thuật. Đây là một tác phẩm được viết theo lối truyện truyền kì, tính chất truyền kỳ được thể hiện qua kết cấu hai phần: Vũ Nương ở trần gian, Vũ Nương ở thủy cung. Với kết cấu hai phần này, tác giả đã khắc họa được một cách hoàn thiện vẻ đẹp hình tượng nhân vật Vũ Nương. Mặt khác, kết cấu hai phần ở “Chuyện người con gái Nam Xương” đã góp phần thể hiện khát vọng về lẽ công bằng trong cuộc đời (ở hiền gặp lành). Chất hoang đường kì ảo cuối truyện cũng làm tăng thêm ý nghĩa phê phán đối với hiện thực: dù oan đã được giải những người đã chết thì không thể sống lại được. Do đó, bài học giáo dục đối với những kẻ như Trương Sinh càng thêm sâu sắc hơn. Ngoài ra còn phải kể đến nghệ thuật xây dựng tình huống bất ngờ, độc đáo nhưng hợp lý tạo tính kịch trong câu chuyện mà yếu tố thắt nút và gỡ nút của tấm kịch ấy chỉ là câu nói của một đứa trẻ lên ba với chi tiết cái bóng.

Tác phẩm thực sự là áng văn mẫu mực tiêu biểu cho Truyền kì của Nguyễn Dữ, sống mãi trong lòng người đọc bởi chất hiện thực sinh động và tấm lòng nhân đạo tha thiết của tác giả.

Bài giảng: Chuyện người con gái Nam Xương - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần: