5+ Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử (siêu hay)



Tổng hợp Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử hay nhất, ngắn gọn giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử

Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 1

1. Mở bài

    - Giới thiệu về di tích lịch sử đã tìm hiểu, lựa chọn để thuyết minh: Văn Miếu - Quốc Tử Giám

    - Đưa ra một vài nhận xét chung về di tích đó: là cụm di tích lịch sử - kiến trúc nổi tiếng; là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, nơi học của con vua chúa, quan lại; nơi thờ Khổng Tử, vinh danh những người đỗ đạt của các khoa thi thời phong kiến.

2. Thân bài

    - Vị trí, địa điểm di tích:

    + Địa chỉ: hiện nay cổng chính của Văn Miếu nằm tại số 58 phố Văn Miếu, quận Đống Đa, Hà Nội.

    + Cách di chuyển: có thể đi bằng xe du lịch, xe bus; nếu ở gần thì đi xe đạp.

    - Giới thiệu về những nét đặc biệt của di tích:

    + Có lịch sử lâu đời: Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070, đời Lý Thánh Tông; Năm 1076 vua Lý Nhân Tông cho xây trường Quốc Tử Giám bên cạnh Văn Miếu; Đến đời nhà Trần đổi tên thành Quốc họa viện, thu nhận cả những học sinh con nhà dân thường có sức học tốt; Từ năm 1448, vua Lê Thánh Tông cho dựng bia những người đỗ tiến sĩ qua các khoa thi tại đây. Bia đá được đặt trên lưng rùa, cho tới nay vẫn được trưng bày bên trong Quốc Tử Giám

⇒ Qua nhiều năm, Văn Miếu – Quốc Tử Giám bị bom đạn tàn phá nhiều, cho tới nay được phục dựng lại, trở thành nơi lưu giữ truyền thống hiếu học của dân tộc, trở thành một địa điểm tham quan văn hóa lớn.

    + Cảnh quan: hiện khu di tích bao gồm 3 khu vực chính là hồ Văn, vườn Giám và khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám

⇒ Khách tới tham quan chủ yếu trong khu nội tự

    + Nổi bật trong khu nội tự Văn Miếu – Quốc Tử Giám: gồm có cổng Văn Miếu, cổng Đại Trung, Khuê Văn các, cổng Đại Thành, khu điện thờ, cổng Thái Học và khu Thái Học; ấn tượng nhất trong em là nhà bia tiến sĩ, minh chứng cho sự tài giỏi của cha ông; bái đường Văn Miếu rộng đẹp, là nơi các tốp học sinh, các anh chị sinh viên thường chụp ảnh kỉ yếu.

⇒ Mỗi khu đều mang vẻ đẹp riêng, ý nghĩa riêng.

    - Vai trò của khu di tích:

    + Lưu giữ, thể hiện truyền thống hiếu học của dân tộc

    + Trở thành nơi tổ chức những hoạt động văn học, nghệ thuật: xin chữ đầu năm, hội chữ xuân, hội thơ...

    + Nơi đến tham quan của học sinh, sinh viên, du khách trong và ngoài nước.

3. Kết bài

    - Nêu cảm nghĩ: khu di tích là nơi tôn nghiêm, là một nét đẹp văn hóa, kiến trúc của dân tộc; cần phát huy tinh thần hiếu học của dân tộc.

Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 2

1. Mở bài

Giới thiệu về di tích lịch sử (Đó là di tích lịch sử nào?)

2. Thân bài

- Lịch sử hình thành:
+ Di tích ấy được hình thành vào thời gian nào? Ở đâu?
+ Mục đích xây dựng di tích ấy là gì?

- Giới thiệu khái quát về di tích:
+ Vị trí địa lí
+ Diện tích
+ Cấu trúc

- Giá trị văn hóa, lịch sử

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của di tích lịch sử ấy.
 

Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 3

I. Mở bài:

Chùa Hương - một trong những địa điểm tâm linh quan trọng và đẹp nhất của Việt Nam, đã thu hút hàng triệu du khách trong và ngoài nước bởi vẻ đẹp thiên nhiên và giá trị tâm linh độc đáo. Trong bài viết này, chúng ta sẽ khám phá lịch sử và những di tích quý báu trong khuôn viên của ngôi chùa nổi tiếng này.

II. Thân bài:

Lịch sử hình thành của chùa Hương:

Chùa Hương có một lịch sử hình thành hơn một nghìn năm và được coi là ngôi chùa cổ nhất của Việt Nam. Cái tên "Chùa Hương" xuất phát từ thời nhà Lý (11-12 thế kỷ) và đã tồn tại qua hàng thế kỷ, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử Việt Nam.

Quá trình phát triển và khôi phục của chùa:

Trải qua thời kỳ chiến tranh và tàn phá, chùa Hương đã được nhiều thế hệ xây dựng lại và phát triển. Công trình kiến trúc của chùa được bảo tồn và cải tạo nhiều lần, với nhiều di tích và tượng Phật quý báu được thêm vào.

Các di tích lịch sử trong chùa Hương:

Chùa Hương không chỉ là một ngôi chùa đẹp mắt mà còn là nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử quý báu. Trong khuôn viên chùa, bạn có thể tìm thấy các tượng Phật và những bảo vật có giá trị lịch sử, từ thời kỳ đầu của chùa đến những thế kỷ sau đó.

Vị trí và cảnh đẹp trong chùa:

Chùa Hương được xây dựng tại vùng núi nổi tiếng với những dãy núi non hùng vĩ và thung lũng uốn lượn. Vị trí độc đáo này đã tạo nên cảnh quan tuyệt đẹp và yên bình, với các ngôi chùa, đền thờ và thác nước trong một khuôn viên thiên nhiên tuyệt đẹp.

III. Kết luận:

Chùa Hương không chỉ là một điểm du lịch nổi tiếng mà còn mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc đối với người dân Việt Nam. Nó thể hiện sự kết hợp tinh tế giữa thiên nhiên và văn hóa tôn giáo. Chùa Hương là điểm đến quyến rũ cho du khách, nơi họ có cơ hội tìm hiểu về lịch sử và văn hóa của Việt Nam và đặt chân vào một không gian thiêng liêng để tìm kiếm bình an và sự kết nối tâm linh. Đây là điểm đến không thể bỏ lỡ khi bạn đến Việt Nam.

Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 4

I. Mở bài:

Thơ đã từng dẫn dắt chúng ta qua bao cảnh đẹp của thủ đô Hà Nội, từ Kiếm Hồ thơ mộng đến cầu Thê Húc xinh đẹp. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng nhau bước vào một di tích lịch sử độc đáo và ấn tượng - Đền Ngọc Sơn. Được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt từ năm 2013, Đền Ngọc Sơn không chỉ là một địa điểm du lịch quan trọng mà còn là minh chứng rõ ràng của văn hóa và lịch sử của thủ đô Hà Nội.

Nêu cảm nhận khái quát: Với cái nhìn tròn đầy hơn về Đền Ngọc Sơn, tôi không thể không tự hào và kính phục trước vẻ đẹp và ý nghĩa của nó. Đây thực sự là một di tích lịch sử vô cùng tiêu biểu, độc đáo của thủ đô Hà Nội, chứng tỏ sự nghị lực và tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam trong hàng nghìn năm lịch sử.

II. Thân bài:

1. Giới thiệu khái quát:

- Đền Ngọc Sơn không chỉ là một di tích quốc gia đặc biệt mà còn là điểm đến không thể thiếu khi bạn đến thủ đô Hà Nội.

- Đến Đền Ngọc Sơn, bạn sẽ được trải nghiệm không gian tĩnh lặng, kết hợp với phong cảnh tuyệt đẹp nhìn ra Hồ Gươm, tạo nên một không gian thanh bình và hào nhoáng.

- Bạn có thể đến Đền Ngọc Sơn bằng nhiều phương tiện khác nhau, từ đi bộ và đạp xe đến xe máy hoặc ô tô.

2. Nguồn gốc lịch sử, tên gọi:

Đền Ngọc Sơn có một lịch sử phức tạp và nhiều lần thay đổi tên gọi:

+ Ban đầu gọi là chùa Ngọc Sơn. Sau đó, đổi thành đền Ngọc Sơn, thờ thần cai quản văn chương khoa cử Văn Xương Đế Quân và Hưng Đạo Đại Vương.

+ Thời vua Lý Thái Tổ, đổi tên thành Ngọc Tượng.

+ Thời Trần, đổi tên thành đền Ngọc Sơn với mục đích thờ các anh hùng liệt sĩ có công đánh thắng quân Mông Nguyên.

+ Đền sau đó bị sụp đổ do lâu năm không được tu bổ.

+ Thời vua Lê, chúa Trịnh xây dựng thành cung Thụy Khánh.

+ Một nhà từ thiện cuối thời Lê tên là Tín Trai đã xây dựng chùa Ngọc Sơn.

+ Năm 1865, Nguyễn Siêu tu sửa, cải tạo lại đền Ngọc Sơn.

3. Kiến trúc đền Ngọc Sơn:

- Đền Ngọc Sơn có kiến trúc đặc biệt, hình chữ Tam với nhiều câu đối, hoành phi, và các vật phẩm bài trí linh thiêng.

- Bao gồm 2 đền thờ chính, phía Bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương, phía Nam thờ Văn Xương.

- Các công trình kiến trúc xung quanh như cầu Thê Húc, tháp Bút, đài Nghiên, tháp Rùa cũng đều có giá trị văn hóa và lịch sử riêng biệt.

4. Giá trị về văn hóa, lịch sử:

- Đền Ngọc Sơn là một ví dụ hoàn hảo về kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất, thể hiện sự hòa quyện giữa con người và thiên nhiên.

- Đây cũng là chứng tích của Hà Nội xưa, mang trong mình lịch sử và tham quan du lịch quý báu của thủ đô.

- Đền thờ linh thiêng này còn là nơi cầu mong cho sự thành công trong kì thi của các sĩ tử.

III. Kết bài:

Như vậy, Đền Ngọc Sơn không chỉ là một di tích lịch sử quý báu của Hà Nội, mà còn là biểu tượng của tinh thần kiên trì và lòng yêu nước của người dân Việt Nam. Cứ mỗi lần đến thăm đền, tôi lại cảm nhận sự kính trọng và tự hào về di sản văn hóa này. Đền Ngọc Sơn thật sự xứng đáng là một ngôi đền thiêng liêng của đất nước.

Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 5

I. Mở bài:

Trong bài viết này, em muốn giới thiệu đến quý độc giả một danh lam thắng cảnh đẹp tuyệt vời mà em đã có dịp trải nghiệm và để lại trong lòng em những ấn tượng khó quên. Đó chính là Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, một trong những điểm đến nổi tiếng ở Việt Nam. Sự kết hợp hài hòa giữa thiên nhiên và văn hóa ở đây khiến cho nơi đây trở thành một ngôi sao sáng rực rỡ trong danh sách các địa điểm tham quan của nước ta.

Cảm nghĩ chung của em về Tam Cốc - Bích Động là sự kích thích và ngạc nhiên trước vẻ đẹp hoang sơ và tráng lệ của nó. Em đã trải qua một hành trình thú vị và đầy cảm xúc tại đây, và bây giờ em muốn chia sẻ những trải nghiệm đó với mọi người.

II. Thân bài:

1. Giới thiệu khái quát:

Tam Cốc - Bích Động nằm tại xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, nằm cách Hà Nội khoảng 100 km về phía Nam. Khu vực này nổi tiếng với dãy núi đá vôi hùng vĩ, các con sông uốn lượn, và những cánh đồng lúa mênh mông. Đặc biệt, Tam Cốc được biết đến như "Vịnh Hạ Long trên cạn" với các thung lũng nước xanh mát và các hang động độc đáo.

Để đến Tam Cốc, bạn có thể đi bằng ô tô từ Hà Nội hoặc bằng xe đạp từ thị trấn Ninh Bình. Nếu muốn trải nghiệm thêm, bạn có thể thuê thuyền đò để khám phá cảnh quan độc đáo của Tam Cốc.

2. Lịch sử hình thành:

Tam Cốc - Bích Động đã tồn tại từ hàng nghìn năm trước và có nguồn gốc liên quan đến văn hóa Phật giáo. Cụ thể, nơi đây là một trong những điểm dừng chân quan trọng của Đức Phật trong thời kỳ tạo dựng và truyền bá đạo Phật. Danh lam thắng cảnh này còn được biết đến với tên gọi "Bích Động" xuất phát từ sự kỳ diệu của các hang động trong lòng núi đá vôi ẩn chứa nhiều cảnh tượng tượng trưng trong đạo Phật.

3. Kiến trúc và cảnh vật:

Khi bạn đặt chân đến Tam Cốc - Bích Động, điều đầu tiên thu hút bạn chính là vẻ đẹp hoang sơ và hùng vĩ của cảnh quan. Những ngọn núi đá vôi cao vút mọc lên từ lòng đất, tạo thành một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Khi nhìn từ xa, bạn có thể thấy những dãy núi xanh mướt nối tiếp nhau, cùng với một mạng lưới các con sông uốn lượn.

Tại Tam Cốc - Bích Động, bạn có thể tham quan các hang động và di tích lịch sử, trong đó có chùa Bích Động với kiến trúc truyền thống và những tượng Phật linh thiêng. Mỗi hang động đều mang một tên gọi độc đáo và có những cảnh tượng tượng trưng riêng, đánh dấu sự tương tác đặc biệt giữa thiên nhiên và con người.

4. Ý nghĩa về lịch sử, văn hóa:

Tam Cốc - Bích Động không chỉ là một điểm tham quan đẹp mắt mà còn có ý nghĩa về lịch sử và văn hóa lớn. Địa điểm này có sự liên quan mật thiết với sự phát triển của đạo Phật tại Việt Nam và đã được coi là một điểm hành hương quan trọng của Phật giáo.

III. Kết bài:

Tôi tin chắc rằng Tam Cốc - Bích Động không chỉ là một địa điểm du lịch nổi tiếng, mà còn là một biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên và tâm linh độc đáo của Việt Nam. Khám phá nơi này là một trải nghiệm không thể nào quên, và tôi hy vọng rằng mọi người sẽ có cơ hội đến đây để khám phá và tận hưởng vẻ đẹp tuyệt vời của Tam Cốc - Bích Động, nơi tựa như một thiên đàng trên đất.

Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 6

I. Mở bài:

Chúng ta hãy cùng nhau khám phá một di tích lịch sử vô cùng đặc biệt, một biểu tượng của sự hiếu học và tinh thần học tập của dân tộc Việt Nam - Văn Miếu - Quốc Tử Giám.

Văn Miếu - Quốc Tử Giám không chỉ là một cụm di tích lịch sử và kiến trúc nổi tiếng, mà còn là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, nơi đã hình thành và phát triển nền giáo dục từ hàng ngàn năm trước. Đây cũng là nơi thờ Khổng Tử, vinh danh những người đỗ đạt của các khoa thi thời phong kiến, và ghi dấu ấn của sự hiếu học trong lòng mỗi người.

II. Thân bài:

1.  Vị trí, địa điểm di tích:

- Văn Miếu - Quốc Tử Giám nằm tại số 58 phố Văn Miếu, quận Đống Đa, Hà Nội.

- Bạn có thể dễ dàng đến đây bằng xe du lịch, xe bus, hoặc thậm chí là xe đạp nếu bạn ở gần.

2. Giới thiệu về những nét đặc biệt của di tích:

- Di tích này có một lịch sử vô cùng lâu đời, bắt đầu từ năm 1070, đời của vua Lý Thánh Tông.

- Văn Miếu đã trải qua nhiều thời kỳ phát triển và biến đổi, từ việc đổi tên thành Quốc họa viện và thu nhận học sinh từ giai cấp dân thường, đến việc xây dựng bia đá thể hiện danh tính của những người đỗ tiến sĩ.

- Khu di tích bao gồm nhiều khu vực quan trọng như cổng Văn Miếu, cổng Đại Trung, Khuê Văn các, cổng Đại Thành, khu điện thờ, cổng Thái Học và khu Thái Học.

- Bạn sẽ không thể không để ý đến những bia đá tiến sĩ, mỗi viên đá là một minh chứng cho tài giỏi của cha ông.

- Không gian bái đường Văn Miếu rộng lớn, thường được sử dụng để chụp ảnh kỷ yếu và tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật.

3. Vai trò của khu di tích:

- Văn Miếu - Quốc Tử Giám là nơi lưu giữ và thể hiện truyền thống hiếu học của dân tộc.

- Đây cũng là nơi tổ chức các hoạt động văn học và nghệ thuật quan trọng như xin chữ đầu năm, hội chữ xuân, và hội thơ.

- Đối với học sinh, sinh viên, và du khách trong và ngoài nước, đây là một điểm đến thú vị để tìm hiểu lịch sử và văn hóa của Việt Nam.

III. Kết bài:

Văn Miếu - Quốc Tử Giám không chỉ là một di tích lịch sử, mà còn là biểu tượng của sự kiên trì, lòng yêu nước và tinh thần học tập của dân tộc Việt Nam. Đây là một trong những nơi lưu giữ nét đẹp văn hóa và kiến trúc truyền thống của chúng ta. Chúng ta cần phát huy tinh thần hiếu học và tự hào về di sản văn hóa này để truyền cho thế hệ sau.

Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 7

1. Mở bài

- Giới thiệu về danh lam thắng cảnh bạn cần thuyết minh.

- Nêu cảm nhận chung về danh lam thắng cảnh đó

2. Thân bài

Giới thiệu vị trí địa lí

- Địa chỉ/ nơi tọa lạc?

- Diện tích nơi đó? Rộng lớn hay nhỏ?

- Cảnh vật xung quanh ra sao?

- Có thể đến đó bằng phương tiện gì?

+ Phương tiện du lịch: xe du lịch,…

+ Phương tiện công cộng: xe máy, xe buýt,…

Nguồn gốc: (lịch sử hình thành)

- Có từ khi nào?

- Do ai khởi công (làm ra)?

- Xây dựng trong bao lâu?

Cảnh bao quát

- Từ xa,…

- Nổi bật nhất là…

- Cảnh quan xung quanh…

Chi tiết

- Cách trang trí:

+ Mang đậm nét văn hóa dân tộc.

+ Mang theo nét hiện đại.

- Cấu tạo.

Giá trị văn hóa, lịch sử

- Lưu giữ:

+ Tìm hiểu nhiều hơn về lịch sử, quá khứ của ông cha ta.

+ Tô điểm cho… (TP HCM, Nha Trang, Việt Nam,…), thu hút khách du lịch.

- Một trong các địa điểm du lịch nổi tiếng/ thú vị/ hấp dẫn/ thu hút khách du lịch.

3. Kết bài

- Nêu cảm nghĩ về đối tượng.

Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 8

a. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về Chùa Hương.

b. Thân bài

- Lịch sử hình thành của chùa Hương.

- Cung cấp một số thông tin quan trọng như lịch sử hình thành, quá trình phát triển của chùa từ xây dựng, bị tàn phá cho đến khôi phục lại.

- Các di tích lịch sử có trong chùa hương.

- Vị trí các di tích, cảnh đẹp trong chùa.

c. Kết luận

- Ngôi chùa Hương có ý nghĩa không chỉ là cảnh đẹp mà còn mang lại ý nghĩa tâm linh.

- Chùa Hương nơi đón nhiều du khách trong và ngoài nước đến du lịch, khám phá.

Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 9

1. Mở bài

- Giới thiệu di tích lịch sử đó là gì: Đền Ngọc Sơn

Có thể sử dụng thơ để dẫn dắt:

"Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ,

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn."

- Nêu cảm nhận khái quát của bản thân về di tích đó: Đây là một di tích lịch sử vô cùng tiêu biểu, độc đáo của thủ đô Hà Nội, chứng tích của Hà Nội nghìn năm văn hiến.

2. Thân bài

a) Giới thiệu khái quát

- Đền Ngọc Sơn được xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt của nhà nước ta (9/12/2013), đồng thời là địa điểm du lịch không thể thiếu khi đến thăm Hà Nội.

- Vị trí tọa lạc: Trên gò đất cao về phía Đông Bắc Hồ Gươm (hồ Hoàn Kiếm).

- Phương tiện di chuyển đến đó: Nếu gần có thể đi bộ hoặc đạp xe, nếu xa có thể đi xe máy, ô tô.

- Khung cảnh bao quát: Đền hướng về phía Nam, xung quanh trồng nhiều cây cổ thụ soi bóng xuống mặt hồ Gươm, phong cảnh vừa gợi vẻ cổ kính vừa nên thơ hữu tình.

b) Nguồn gốc lịch sử, tên gọi

- Thời gian xây dựng: Thế kỉ XIX

- Lịch sử hình thành và rất nhiều lần đổi tên gọi khác nhau của đền Ngọc Sơn:

+ Ban đầu, gọi là chùa Ngọc Sơn, sau đổi thành đền Ngọc Sơn, thờ thần cai quản văn chương khoa cử Văn Xương Đế Quân và Hưng Đạo Đại Vương.

+ Khi rời đô ra thành Thăng Long năm 1010, vua Lý Thái Tổ đã đặt tên lại là Ngọc Tượng.

+ Thời Trần, đền được đổi tên là đền Ngọc Sơn. Mục đích: Thờ các anh hùng liệt sĩ có công đánh thắng quân Mông Nguyên. Nhưng cuối cùng đền bị sụp đổ do lâu năm không được tu bổ.

+ Thời vua Lê, chúa Trịnh, trên nền đền Ngọc Sơn cũ được xây dựng thành cung Thụy Khánh, tuy nhiên, sau đó cũng bị phá hủy.

+ Một nhà từ thiện cuối thời Lê tên là Tín Trai đã xây dựng chùa Ngọc Sơn trên nền đất cũ của cung Thụy Khánh, được ít năm chuyển giao cho một hội từ thiện khác tu sửa, cải tạo thành đền thờ Văn Xương Đế Quân, xây dựng từ mùa đông năm Tân Sửu và hoàn thành vào mùa thu năm Nhâm Dần.

+ Năm 1865, Nguyễn Siêu (thần Siêu, thánh Quát) tu sửa, cải tạo lại ngồi đền bằng cách đắp thêm đất và xây kè đá xung quanh, xây thêm đình Trần Ba, cầu Thê Húc, dựng Đài Nghiên, Tháp Bút. Đền Ngọc Sơn hiện giờ ngoài Văn Xương Đế Quân, Trần Hưng Đạo, còn thờ thêm Lã Tổ (vị thần chữa bệnh), Quan Vân Trường và cả Phật A Di Đà.

c) Kiến trúc đền Ngọc Sơn

- Kiểu kiến trúc: Hình chữ Tam, có nhiều câu đối, hoành phi, các vật bài trí linh thiêng.

Gồm 2 đền thờ chính nối liền nhau:

+ Phía Bắc, thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Ở hậu cung có tượng Trần Hưng Đạo và thần Văn Xương bằng đá, đứng trên bệ cao gần 1 mét, tay cầm bút.

+ Phía Nam, đình Trấn Ba hình vuông, 8 mái, mái 2 tầng có 8 chiếc cột đỡ, một nửa số cột ngoài bằng đá, còn lại cột bên trong bằng gỗ.

- Các kiến trúc tiêu biểu xung quanh đền Ngọc Sơn:

+ Cầu Thê Húc: Màu đỏ son, cong cong như con tôm dẫn vào đền Ngọc Sơn. Ý nghĩa tên Thê Húc chính là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời.

+ Tháp Bút: Trên núi Ngọc Bội, đỉnh tháp có hình ngọn bút lông hướng lên trời xanh, thân tháp có khắc "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh).

+ Đài Nghiên: Nghiên mực hình nửa quả đào bổ đôi bằng đá, phía dưới có ba con ếch đội đài nghiên, trên nghiên là bài giới thiệu về công dụng của nghiên mực.

+ Tháp Rùa: Đứng trên cầu Thê Húc, phóng tầm mắt ra xa là tháp Rùa cổ kính.

d) Giá trị về văn hóa, lịch sử:

- Đền Ngọc Sơn tiêu biểu cho kiến trúc Thiên - Nhân hợp nhất (sự kết hợp hài hòa giữa đền và hồ), gợi cảm giác hòa hợp giữa con người với thiên nhiên.

- Chứng tích của Hà Nội xưa, là di tích lịch sử và tham quan du lịch tiêu biểu của thủ đô.

- Đền thờ linh thiêng là nơi lui tới của các sĩ tử mỗi mùa thi đến, cầu mong kì thi đạt kết quả cao.

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị, ý nghĩa của di tích lịch sử này đối với Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung.

- Nêu cảm nghĩ của em về đền Ngọc Sơn.

Dàn ý Thuyết minh về di tích lịch sử - mẫu 10

Mở bài

- Giới thiệu đối tượng thuyết minh: Tên danh lam thắng cảnh mà em muốn giới thiệu.

- Cảm nghĩ chung của em về danh lam thắng cảnh đó.

Thân bài

Giới thiệu khái quát:

- Vị trí địa lí, địa chỉ

- Khung cảnh bao quát

(Nếu có thể em hãy giới thiệu chi tiết cách thức đi tới danh lam thắng cảnh này.)

Lịch sử hình thành:

- Thời gian xây dựng, nguồn gốc hình thành

- Ý nghĩa tên gọi hoặc tên gọi khác (nếu có)

Giới thiệu về kiến trúc, cảnh vật

- Cấu trúc khi nhìn từ xa

- Chi tiết từng đặc điểm đặc sắc và nổi bật nhất của danh lam thắng cảnh

(Tại đây cần sử dụng các yếu tố tự sự, miêu tả để người đọc có thể hình dung hình ảnh của đối tượng thuyết minh một cách chi tiết và đặc sắc nhất.)

Ý nghĩa về lịch sử, văn hóa của đối tượng thuyết minh đối với:

- Địa phương

- Đất nước

Kết bài

- Khẳng định lại một lần nữa giá trị, ý nghĩa của danh lam thắng cảnh mà em thuyết minh ở trên đối với địa phương hoặc đất nước.

- Nêu cảm nghĩ của bản thân về đối tượng thuyết minh.

Thuyết minh về một di tích lịch sử - Địa đạo Củ Chi

Nằm cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 70 km về hướng Tây Bắc, Địa đạo Củ Chi là nơi thu nhỏ trận đồ biến hóa và sáng tạo của quân và dân Củ Chi trong cuộc kháng chiến lâu dài, ác liệt suốt 30 năm chống kẻ thù xâm lược, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Với tầm vóc chiến công của mình, địa đạo Củ Chi đã đi vào lịch sử đấu tranh anh hùng của nhân dân Việt Nam như một huyền thoại của thế kỷ 20 và trở thành một địa danh nổi tiếng trên thế giới. Đây là một kỳ quan đánh giặc độc đáo có một không hai với khoảng 250 km đường hầm tỏa rộng như mạng nhện trong lòng đất, có các công trình liên hoàn với địa đạo như: Chiến hào, ụ, ổ chiến đấu, hầm ăn, ngủ, hội họp, sinh hoạt, quân y, kho cất dấu lương thực, giếng nước, bếp Hoàng Cầm …

Những sự tích có thật từ địa đạo đã vượt quá sức tưởng tượng của con người. Chỉ cần chui xuống một đoạn đường hầm, bạn sẽ hiểu vì sao nước Việt Nam nhỏ bé lại chiến thắng kẻ thù là một nước lớn và giàu có bậc nhất thế giới. Vì sao Củ Chi, mảnh đất nghèo khó lại đương đầu ròng rã suốt 21 năm với một đạo quân đông hơn gấp bội, thiện chiến, được trang bị vũ khí, phương tiện chiến tranh hiện đại, tối tân. Trong cuộc đọ sức này, quân và dân Củ Chi đã chiến thắng oanh liệt.

Dựa vào hệ thống đường ngầm, công sự, chiến hào, chiến sĩ và nhân dân Củ Chi đã chiến đấu vô cùng anh dũng, lập nên những chiến công thần kỳ. Quân đội Mỹ lần đầu vào đất Củ Chi gặp phải sự kháng cự quyết liệt từ các địa đạo trong vùng căn cứ hiểm yếu, đã phải thốt lên: “Làng ngầm”, “Mật khu nguy hiểm”…

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954). Các chiến sĩ cách mạng ẩn náo dưới những căn hầm bí mật trong vùng địch hậu, được nhân dân che chở, bảo vệ. Hầm bí mật cấu tạo theo nhiều cách, nhưng chủ yếu là trong lòng đất, chỉ có một miệng lên xuống vừa lọt vai người và có lỗ thông hơi để thở. Khi đóng nắp miệng hầm lại, kẻ thù đi trên mặt đất khó phát hiện được căn hầm.

Người cán bộ sống trong vùng địch, ban ngày náu mình dưới hầm bí mật, ban đêm mới lên khỏi mặt đất, đi hoạt động.

Nhưng hầm bí mật có nhược điểm là khi bị phát hiện, dễ bị địch khống chế vây bắt hoặc tiêu diệt, bởi địch đông và lợi thế hơn nhiều. Từ đó người ta nghĩ rằng cần phải kéo dài căn hầm bí mật thành những đường hầm và trổ lên mặt đất bằng nhiều cửa bí mật để vừa trú ẩn vừa đánh lại quân địch, và khi cần, sẽ thoát khỏi chỗ nguy hiểm đến một nơi khác.

Từ đó, địa đạo ra đời mang một ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong hoạt động chiến đấu, công tác đối với cán bộ, chiến sĩ và đồng bào vùng ven Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định.

Ở Củ Chi, địa đạo có sớm nhất vào năm 1948 ở hai xã: Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An. Lúc đầu chỉ có những đoạn ngắn cấu trúc đơn giản dùng để cất giấu tài liệu, vũ khí, trú ém cán bộ hoạt động trong vùng địch hậu. Về sau lan rộng ra nhiều xã. Từ năm 1961 đến năm 1965 cuộc chiến tranh du kích của dân nhân ở Củ Chi đã phát triển mạnh, gây cho địch những tổn thất lớn, góp phần đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ. Sáu xã phía bắc huyện Củ Chi đã hoàn chỉnh đường địa đạo “xương sống”. Sau đó, các cơ quan, đơn vị phát triển địa đạo nhánh ăn thông với đường “xương sống”, thành hệ thống địa đạo liên hoàn.

Bước sang thời kì chống đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam, địa đạo Củ Chi phát triển mạnh, nhất là đầu năm 1966, khi Mỹ dùng Sư đoàn đoàn bộ binh Số 1 “Anh cả đỏ” thực hiện cuộc hành quân lớn mang tên Crimp, càn quét, đánh phá vùng căn cứ, và tiếp theo, đưa Sư đoàn 25 “Tia chớp nhiệt đới” đến lập căn cứ Đồng Dù, liên tiếp mở các cuộc càn quét, đánh phá ác liệt lực lượng cách mạng nơi đây.

Trước sức tấn công ác liệt của Mỹ – ngụy bằng cuộc chiến tranh hủy diệt dã man, Khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định và Huyện ủy Củ Chi đã lãnh đạo nhân dân và lực lượng võ trang quyết tâm bám trụ chiến đấu, tiêu diệt quân địch bảo vệ quê hương, bảo vệ vùng căn cứ cách mạng mang tính chiến lược quan trọng, là hướng tiếp cận và tiến công hiểm yếu đối với thủ đô ngụy Sài Gòn. Với khẩu hiệu “một tấc không đi, một ly không rời”, bộ đội, dân quân du kích, cơ quan dân chính đảng cùng với nhân dân ra sức thi đua đào địa đạo, chiến hào, công sự suốt ngày đêm, bất chấp đạn bom, mưa nắng, tích cực xây dựng “xã ấp chiến đấu” thiết lập “vành đai diệt Mỹ” thành thế trận vững chắc bao vây, tiến công tiêu hao, tiêu diệt kẻ thù.

Phong trào đào địa đạo ngày càng phát triển rầm rộ, mạnh mẽ khắp nơi, trẻ già, trai gái nô nức tham gia kiến tạo đường hầm đánh giặc. Sức mạnh ý chí của con người đã chiến thắng khó khăn. Chỉ bằng phương tiện dụng cụ hết sức thô sơ là lưỡi cuốc và chiếc ki xúc đất bằng tre, quân và dân Củ Chi đã tạo nên công trình đồ sộ với hàng trăm km đường ngầm dọc ngang trong lòng đất, nối liền các xã ấp với nhau như một “làng ngầm” kỳ diệu. Chỉ riêng việc chuyển tải hàng vạn mét khối đất đem đi phi tang ở một nơi khác để giữ bí mật địa đạo, đã là chuyện vô cùng gian khổ, công phu. Có người hỏi khối lượng đất lớn đó giấu vào đâu cho hết? Xin thưa, có nhiều cách: đổ xuống vô số những hố bom ngập nước, đắp thành ụ mối, đổ ra đồng ruộng cày bừa, trồng hoa màu lên trên…chỉ một thời gian là mất dấu vết. Các gia đình ở khu vực “vành đai”, nhà nào cũng đào hầm, hào nối liền vào địa đạo, tạo thế liên hoàn để vừa bám trụ sản xuất, vừa đánh giặc giữ làng. Mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi địa đạo là một pháo đài đánh giặc.

Đúng một năm sau cuộc càn Crimp, ngày 08/01/1967, quân Mỹ mở cuộc hành quân Cedar Falls vào vùng “Tam giác sắt”, nhằm triệt phá căn cứ và tiêu diệt lực lượng cách mạng. Thời gian này hệ thống địa đạo đã đạt đến độ dài với tổng số khoảng 250 km. Địa đạo Củ Chi không mang tính thụ động mà mang tính chủ động chiến đấu kết hợp với trận địa mìn trái dày đặt trên mặt đất, đã trở thành mối nguy hiểm thường nhật đối với địch trong suốt cuộc chiến tranh.

Hệ thống địa đạo chạy ngoắt ngoéo trong lòng đất, từ đường “xương sống” (đường chính) tỏa ra vô số nhánh dài ngắn, ăn thông với nhau, hoặc độc lập chấm dứt tùy theo địa hình. Có nhiều nhánh trổ ra sông Sài Gòn, để khi bị tình thế nguy kịch, có thể vượt qua sông sang vùng căn cứ Bến Cát (Bình Dương).

Đường hầm không sâu lắm nhưng chống được đạn pháo và sức nặng của xe tăng, xe bọc thép, những đoạn nằm sâu chống được bom cỡ nhỏ. Có những đoạn được cấu trúc từ hai đến ba tầng (tầng trên gọi là “thượng”, tầng dưới gọi là “trầm”). Chỗ lên xuống giữa các tầng, có nắp hầm bí mật. Trong địa đạo có những nút chặn những điểm cần thiết để ngăn chặn địch hoặc chất độc hóa học do địch phun vào. Có những đoạn hẹp, phải thật gọn nhẹ mới chui qua được. Dọc theo đường hầm có lỗ thông hơi bên trên được ngụy trang kín đáo và trổ lên mặt đất bằng nhiều cửa bí mật. Vô số cửa được cấu trúc thành ổ chiến đấu, ụ súng bắn tỉa rất linh hoạt. Đây chính là chỗ bất ngờ với quân địch. Dưới những khúc địa đạo ở khu vực hiểm yếu, có đặt hầm chông, hố đinh, cạm bẫy…

Chung quanh cửa hầm lên xuống được bố trí nhiều hầm chông, hố đinh, mìn trái (gọi là tử địa), có cả mìn lớn chống tăng và mâm phóng bom bi chống máy bay trực thăng đổ chụp, nhằm tiêu diệt ngăn chặn quân địch tới gần.

Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi sau khi chiến đấu, mắc võng được. Có các nơi dự trữ vũ khí, lương thực, thực phẩm, nước uống, có giếng nước, bếp Hoàng Cầm (bếp giấu khói trong đất), hầm làm việc của các vị lãnh đạo, chỉ huy, hầm giải phẫu, nuôi dưỡng thương binh, hầm chữ A vững chắc cho phụ nữ, người già, trẻ em trú ẩn. Có những hầm lớn, mái lợp thoáng mát, bên trên ngụy trang khéo léo để hội họp, chiếu phim, biểu diễn văn nghệ…

Vào thời kỳ đánh phá ác liệt, mọi hoạt động của lực lượng chiến đấu và sinh hoạt của nhân dân đều “âm” xuống lòng đất. Trong điều kiện gian khổ vẫn cố gắng tạo ra cuộc sống bình thường, mặc cho trên mặt đất không ngớt bom đạn cày xới, lửa khói mịt mù…nhưng thực tế ở trong địa đạo hết sức gian khổ, là chuyện vạn bất đắc dĩ.

Do cần bảo tồn lực lượng để chiến đấu lâu dài nên phải chấp nhận mọi sự khắc nghiệt vượt quá sự chịu đựng của con người. Bởi trong lòng đất đen tối, chật hẹp đi lại rất khó khăn, phần lớn đi khom hoặc bò. Đường hầm có nơi ẩm ướt và ngột ngạt do thiếu dưỡng khí, ánh sáng (ánh sáng chủ yếu là đèn cầy hoặc đèn pin). Mỗi khi có người ngất xỉu, phải đưa ra cửa hầm để hô hấp nhân tạo mới tỉnh lại. Vào mùa mưa, lòng đất phát sinh nhiều thứ côn trùng độc hại, nhiều nơi có cả rắn rết…Đối với phụ nữ, sinh hoạt càng khó khăn hơn. Có chị sinh con và nuôi con trong hầm địa đạo phải chịu biết bao cực khổ.

Đã thế, hàng trăm người lên xuống hằng ngày qua miệng hầm mà vẫn giữ bí mật cho địa đạo là chuyện hết sức phức tạp. Một cọng cỏ bị gãy, bị dính đất, một chiếc lá bị rách khác thường cũng phải sửa sang lại nếu không muốn bị địch phát hiện, tấn công.

Ngay từ những ngày đầu, khi quân xâm lược Mỹ đổ vào đất Củ Chi, đã vấp phải sức kháng cự quyết liệt của chiến sĩ và đồng bào nơi đây. Địch bị thiệt hại về người và phương tiện chiến tranh trong các cuộc càn quét vùng giải phóng. Sau những bất ngờ, chúng nhận ra được các lực lượng chiến đấu đều xuất phát từ dưới đường hầm, các công sự và quyết tâm phá hủy hệ thống địa đạo lợi hại này. Kết hợp với hủy diệt đường hầm, triệt hạ căn cứ nhằm tiêu diệt và đánh bật lực lượng cách mạng ra xa, tạo vành đai an toàn để bảo vệ Sài Gòn, trung tâm đầu não guồng máy chiến tranh Mỹ – ngụy, đồng thời là thủ đô của chính phủ tay sai “Việt Nam Cộng hòa”.

Suốt trong một thời gian dài, địch liên tục tấn công đánh phá vùng căn cứ và hệ thống địa đạo hết sức khốc liệt.

Với giá trị và tầm vóc chiến công được đúc kết bằng xương máu, công sức của hàng vạn chiến sĩ, đồng bào, khu căn cứ địa đạo Củ Chi đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích Lịch sử Văn hóa quốc gia.

Địa đạo Củ Chi nhanh chóng thu hút sự chú ý của mọi người. Khách trong nước, ngoài nước tới tham quan, tìm hiểu ngày càng đông. Địa đạo Củ Chi trở thành điểm hẹn truyền thống của các thế hệ Việt Nam và niềm kính phục của bạn bè thế giới.

Từ ngày hòa bình trở lại, đã có hàng chục ngàn đoàn du khách với hàng triệu người đủ màu da, sắc tộc trên thế giới đến viếng thăm địa đạo Củ Chi. Từ các vị Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản, Nguyên thủ Quốc gia, đến các chính khách, tướng lĩnh, nhà khoa học, triết học, nhà văn, nhà báo, cựu chiến binh Mỹ…đã đặt chân xuống địa đạo với tất cả niềm xúc động và kính phục đối với vùng đất anh hùng. Một chính khách ở Cộng hòa Liên Bang Đức đã phát biểu: “Đã nhiều năm tôi nghi ngờ về cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam. Làm sao một nước nhỏ và nghèo lại có thể đánh thắng một nước lớn và giàu có như nước Mỹ. Nhưng khi tới đây, chui qua 70m đường hầm, tôi đã tự trả lời được câu hỏi đó”.

Thuyết minh về một di tích lịch sử - Đền Hùng

"Dù ai đi ngược về xuôi,

Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba."

Giỗ tổ Hùng Vương hay lễ hội đền Hùng là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam. Hàng năm, vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, hàng vạn người từ khắp mọi miền tổ quốc đổ về đền Hùng để tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân tộc.

Đền Hùng là một khu du lịch nổi tiếng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Vĩnh Phú cách Hà Nội 100km về phía Bắc. Đó là một quần thể kiến trúc bao gồm lăng tẩm, đền, miếu cổ kính. Do những biến động của lịch sử và sự khắc nghiệt của thời gian, các kiến trúc ở đền Hùng đã được trùng tu và xây dựng lại nhiều lần, gần đây nhất là vào năm 1922. Từ chân núi đi lên, qua cổng đền, điểm dừng chân của du khách là đền Hạ, tương truyền là nơi bà Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng. Trăm trứng ấy đẻ ra trăm người con, năm mươi người theo cha xuống biển, bốn chín người theo mẹ lên núi. Người con ở lại làm vua, lấy tên là Hùng Vương (thứ nhất). Qua đền Hạ là đền Trung, nơi các vua Hùng dùng làm nơi họp bàn với các Lạc hầu, Lạc tướng. Trên đỉnh núi là đền Thượng là lăng Hùng Vương thứ sáu (trong dân gian gọi là mộ tổ) từ đền Thượng đi xuống phía Tây nam là đền Giếng, nơi có cái giếng đá quanh năm nước trong vắt. Tương truyền ngày xưa các công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con vua Hùng Vương thứ mười tám, thường tới gội đầu tại đó.

Lễ hội đền Hùng bao gồm những hoạt động văn hóa, văn nghệ mang tính chất nghi thức truyền thống và những hoạt động văn hóa dân gian khác... Các hoạt động văn hóa mang tính chất nghi thức còn lại đến ngày nay là lễ rước kiệu vua và lễ dâng hương. Đó là hai nghi lễ được cử hành đồng thời trong ngày chính hội. Đám rước kiệu xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đó là một đám rước tưng bừng những âm thanh của các nhạc cụ cổ truyền và màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống... Dưới tán lá mát rượi của những cây trò, cây mỡ cổ thụ và âm vang trầm bổng của trống đồng, đám rước như một con rồng uốn lượn trên những bậc đá huyền thoại để tới đỉnh núi Thiêng.

Góp phần vào sự quyến rũ của ngày lễ hội, ngoài những nghi thức rước lễ còn những hoạt động văn hóa quần chúng đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Vĩnh Phú, những cuộc thi vật, thi kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến.

Người hành hương tới đền Hùng không chỉ để vãn cảnh hay tham dự vào cái không khí tưng bưng của ngày hội mà còn vì nhu cầu của đời sống tâm linh. Mỗi người hành hương đều cố thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương.

Trẩy hội Đền Hùng là truyền thống văn hóa đẹp của người Việt Nam. Trong rất nhiều những ngày hội được tổ chức trên khắp đất nước, hội đền Hùng vẫn được coi là hội linh thiêng nhất bởi đó là nơi mỗi người Việt Nam nhớ về cội nguồn và truyền thống oai hùng, hiển hách của cha ông.

Thuyết minh về một di tích lịch sử - Đền Trạng Trình

Hải Phòng là quê hương của danh nhân văn hóa Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm và là nơi có khu di tích Ðền Trạng nổi tiếng tại thôn Trung Am, xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo. Ðây hiện là một trong những điểm đến du lịch văn hóa, tâm linh thu hút đông du khách trong chương trình du khảo đồng quê của ngành du lịch thành phố.

Chương trình du lịch đồng quê Hải Phòng đang trở thành một sản phẩm du lịch đặc thù với điểm nhấn hấp dẫn là khu di tích Ðền Trạng, thờ Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491- 1585), vị Trạng nguyên lỗi lạc, một danh nhân văn hóa lớn của đất nước. Không chỉ được biết đến là một nhà thơ, nhà triết học, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là ông Trạng của dân gian qua 300 câu sấm Trạng lưu truyền đời này sang đời khác. Không sa vào mê tín, thần bí, nhưng việc khôi phục sự hấp dẫn về văn hóa tâm linh, cắt nghĩa một cách có cơ sở triết học, suy tôn một danh nhân văn hóa dân tộc là cần thiết để hướng dẫn du khách khi đến nơi đây thành kính thắp nén hương tưởng nhớ, tìm hiểu và nghe bình sấm Trạng, lôi cuốn du khách với mục đích hướng thiện. Ðã nghe và từng đọc về Trạng Trình, chắc chắn nhiều du khách mong muốn hơn một lần được đến tận nơi để mắt thấy, tai nghe và có những giây phút thư thái: cày mây, cuốc nguyệt, gánh yên hà để đắm mình vào không gian lịch sử mà sinh thời Trạng từng trải.

Ðền Trạng được xây dựng từ khoảng năm 1586, sau đó đã được trùng tu qua các đời và đã được Nhà nước xếp hạng Di tích cấp quốc gia từ năm 1991. Cuối năm 2000, kỷ niệm 415 năm Ngày mất của Trạng Trình, UBND Thành Phố Hải Phòng đã phê duyệt kế hoạch nâng cấp quần thể di tích danh nhân văn hóa Nguyễn Bỉnh Khiêm với các hạng mục công trình: Quán Trung Tân, mộ phần cụ Nguyễn Văn Ðịnh (thân phụ Nguyễn Bỉnh Khiêm), khu vực tượng đài Nguyễn Bỉnh Khiêm, chùa Song Mai, nơi phu nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tu hành. Ðường đi được làm lại, khuôn viên, vườn cây lưu niệm được quy hoạch với cảnh quan đẹp và khang trang. Việc quy hoạch, trùng tu, xây dựng khu di tích Ðền Trạng thể hiện cao nhất tính lịch sử, giá trị văn hóa, đồng thời nắm bắt được những nhu cầu hàng đầu của du khách khi về thăm Ðền Trạng. Tham quan các di tích, du khách có thể hiểu phần nào về một nhà nho ưu thời, mẫn thế, lấy chí trung là chí thiện Chí thiện tư vi cực, để cắt nghĩa về một đời tài hoa, xuất xử linh hoạt đến kỳ lạ, ở ẩn trước khi làm quan: Thánh 40 tuổi chẳng còn ngờ/ Ta tuổi 40 vẫn líu lô/ Ðảo lý nẻo xa đen như mực/ Văn chương nghề cũ xác như vờ. Và "hưu tại chức, quan tại nhà", 45 tuổi mới đi thi, làm quan vào hàng đầu triều tám năm lại rũ áo ra về ở ẩn, về mà: "Xa vua đâu phải đã nguôi lòng", vẫn "Phù trì xã tắc ngửa nghiêng, Ruổi rong há chịu ngồi yên phận già", đến "Quá bảy mươi tư mới Mừng được về nhà, thăm chốn xưa". Ðây còn là nơi đã tạo nguồn cảm hứng của 1.000 bài thơ Hán, Nôm, nói lên sự thanh bạch, trong sáng của lòng trung, nơi đã từng đào tạo hàng trăm nhân tài cho đất nước. Dân làng Trung Am đã khéo chọn hoành phi "An nam Lý Học", và đôi câu thơ treo dọc chính giữa Ðền như hai câu đối: Cổ lai quốc dĩ dân vi bản/ Ðắc Quốc ưng tri tại đắc dân (Xưa nay nước lấy dân làm gốc, được nước nên biết bởi được dân)... Thăm khu di tích, nghe về thơ văn, thân thế sự nghiệp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, du khách còn được thưởng thức cả hương vị ẩm thực của quê hương Trạng. Người dân Vĩnh Bảo khéo tay, hay làm, chế biến nhiều món ăn đồ uống địa phương đa dạng, sẽ làm hài lòng du khách.

Phác họa đôi nét như vậy để thấy được sức hấp dẫn của chương trình du lịch thăm khu Ðền Trạng. Chương trình được nghiên cứu với một hàm lượng văn hóa cao, trên cơ sở tôn trọng lịch sử, lôi cuốn du khách qua những di tích, di sản còn lại, đặc biệt là qua thơ văn, bia, sấm Trạng và nội dung hướng dẫn, thuyết minh về thân thế, sự nghiệp, tài thơ văn, tài tiên tri, phong cách, lối sống, đạo đức, tấm lòng đau nước thương dân của danh nhân văn hóa Trạng Trình, đúng với "tiếng tăm lừng lẫy như sấm rền, năng lực như cột trụ chống trời, tài năng kiệt xuất, dung mạo rực rỡ như tiên nơi trần thế" của Trạng Nguyên Trình Quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khu di tích Ðền Trạng được giữ gìn, trùng tu, xây dựng và khai thác trong phát triển du lịch, đã và đang là trọng tâm của tuyến du lịch du khảo đồng quê Hải Phòng với các điểm du lịch phụ cận phong phú như xem rối cạn Bảo Hà, rối nước Nhân Hòa, thăm Ðình Nhân Mục, làng nghề tạc tượng Ðồng Minh ở Vĩnh Bảo và kéo dài tuyến ra Núi voi Kiến An, Ðồ Sơn, Cát Bà, làm nên nét đặc sắc không đâu có ngoài Hải Phòng.

Sau khi dự án đường 10 hoàn chỉnh, tuyến du lịch từ quốc lộ 1 nối sang quốc lộ 10, liên kết những điểm du lịch nổi tiếng của Ninh Bình, Nam Ðịnh, Thái Bình, sang Cát Bà, Ðồ Sơn (Hải Phòng), Hạ Long, Móng Cái (Quảng Ninh) hoặc qua Ninh Giang (Hải Dương) về Hà Nội. Ðiều này góp phần đưa di tích Ðền Trạng trở thành tâm điểm của tuyến du lịch quốc gia và đang được nhiều hãng lữ hành quốc tế quan tâm đưa vào chương trình du lịch. Rượu Trạng Trình, cơm niêu, mái rạ, đàn bầu quê Trạng cùng những lời thơ, bia ký, Sấm truyền của Trạng và mở rộng hơn là những giá trị văn hóa tốt đẹp của vùng nông thôn duyên hải đang theo chân du khách đi khắp mọi miền đất nước, đến với bầu bạn năm châu, làm rạng danh quê hương, con người đất Trạng, góp phần phát triển du lịch Hải Phòng.

Thuyết minh về một di tích lịch sử - Văn Miếu Quốc Tử Giám

Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích đã được xếp hạng, thì Văn Miếu - Quốc Tử Giám là một di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam.

Theo Đại Việt sử ký, vào mùa thu năm Canh Tuất - 1070, Vua Lý Thánh Tông đã cho khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc tiên thánh tiên hiền, các bậc nho gia có công với nước, trong đó có thờ Khổng Tử - người sáng lập ra nền nho giáo phương Đông và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam. Sáu năm sau - năm 1076, Vua Lý Nhân Tông quyết định khởi xây Quốc Tử Giám - một trường Nho học cao cấp nhất hồi bấy giờ nhằm đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự chọn lựa đầu tiên của triều đình phong kiến Việt Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con người Việt Nam theo mô hình Nho học châu Á.

Hiện trong di tích còn có 82 tấm bia đá, trên đó được khắc tên của 1306 vị đã từng đỗ tiến sĩ trong 82 kỳ thi từ giữa năm 1484 và 1780. Cũng trên các tấm bia này đã ghi lại người đỗ tiến sĩ cao tuổi nhất trong lịch sử là ông Bàn Tử Quang. Ông đỗ tiến sĩ khi 82 tuổi. Người trẻ nhất là Nguyễn Hiền, quê Nam Trực (Nam Định), đậu trạng nguyên năm Đinh Mùi niên hiệu Thiên ứng Chính bình thứ 16 (tức năm 1247) dưới triều Trần Thái Tông khi đó mới 13 tuổi. Từ đó Văn Miếu cùng Quốc Tử Giám - được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam đã tồn tại đến thế kỷ 19.

Tọa lạc trên khuôn viên hơn 54.000m2, khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám nằm giữa bốn dãy phố, cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phố Tôn Đức Thắng, phía Tây là phố Văn Miếu. Bên ngoài có tường vây bốn phía, bên trong chia làm 5 khu vực. Khu vực 1 gồm có Văn hồ (hồ văn); Văn Miếu môn, tức cổng tam quan ngoài cùng, cổng có ba cửa, cửa giữa to cao và xây hai tầng, tầng trên có ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai, từ cổng chính đi thẳng vào cổng thứ hai là Đại Trung môn, bên trái là Thánh Dực môn, bên phải có Đạt Tài môn. Tiếp trong là Khuê Văn Các (được xây dựng vào nǎm 1805). Khu vực 3 là giếng Thiên Quang (Thiên Quang Tỉnh có nghĩa là giếng trời trong sáng). Tại khu vực này có 82 bia Tiến sĩ dựng thành hai hàng, mặt bia quay về giếng, là một di tích thật sự có giá trị. Qua cửa Đại Thành là vào khu vực thứ 4, cửa Đại Thành cũng mở đầu cho những kiến trúc chính như hai dãy Tả Vu và Hữu Vu, chính giữa là Toà Đại Bái đường, tạo thành một cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và truyền thống. Xưa, đây là nơi thờ những vị Tổ đạo Nho. Khu trong cùng là nơi giảng dạy của trường Quốc Tử Giám thời Lê, nhiều thế hệ nhân tài "nguyên khí của nước nhà" đã được rèn giũa tại đây. Khi nhà Nguyễn dời trường Quốc học vào Huế, nơi đây dùng làm đền thờ Khi Thánh (cha mẹ Khổng Tử), nhưng ngôi đền này đã bị hư hỏng hoàn toàn trong chiến tranh...

Điều đáng mừng là trong nǎm 2000, Chính phủ Việt Nam đã quyết định khởi công xây dựng Thái học đường với giá trị 22 tỷ đồng. Dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2003 nhằm làm cho khu di tích Vǎn Miếu - Quốc Tử Giám ngày càng hoàn chỉnh hơn, đúng với tầm cỡ và vị trí của di tích. Công trình này mang tính yêu cầu của thời đại, đó là công trình mới nhằm tôn vinh nền văn hoá của dân tộc. Những người đời sau đến đây có được những giây phút tưởng niệm những người đã có công sáng lập và xây dựng nền giáo dục Việt Nam.

Trải qua bao thăng trầm và những biến cố của lịch sử, Văn Miếu - Quốc Tử Giám không còn nguyên vẹn như xưa. Những công trình thời Lý, thời Lê hầu như không còn nữa. Song Văn Miếu - Quốc Tử Giám vẫn giữ nguyên được những nét tôn nghiêm cổ kính của một trường đại học có từ gần 1000 năm trước của Hà Nội, xứng đáng là khu di tích vǎn hoá hàng đầu và mãi là niềm tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Xem thêm các phần Dàn ý và văn mẫu lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:


viet-bai-tap-lam-van-so-1.jsp