5+ Dàn ý Biện pháp tu từ ẩn dụ trong Truyện Kiều (siêu hay)



Dàn ý Biện pháp tu từ ẩn dụ trong Truyện Kiều hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn hay hơn.

Bài giảng: Truyện Kiều - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Dàn ý Biện pháp tu từ ẩn dụ trong Truyện Kiều

1, Mở bài:

    - Giới thiệu tác phẩm: “Truyện Kiều” là tác phẩm truyện thơ Nôm viết theo thể lục bát, là kết tinh nét đẹp thơ ca, văn hóa của dân tộc.

    - Về việc vận dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ của Nguyễn Du: Ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình là những biện pháp tu từ ẩn dụ được dùng để xây dựng nhân vật, cảnh vật trong văn học Trung đại. Nguyễn Du đã nâng giá trị của biện pháp tu từ ẩn dụ này lên ngưỡng hoàn hảo, toàn diện. Bốn đoạn trích đã học cho ta thấy điều đó.

2, Thân bài:

a, Biện pháp tu từ ẩn dụ trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều

    - Sử dụng những hình ảnh thiên nhiên để ẩn dụ cho vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều.

    + “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”: sự thẳng thắn trong cốt cách như cành mai, hình dáng yểu điệu như hoa mai, tinh thần trong sáng thánh thiện như tuyết.

    + Bốn câu thơ tiếp theo tả Thúy Vân: “khuôn trăng” - khuôn mặt phúc hậu, xinh tươi như trăng rằm; “hoa cười ngọc thốt” – cười tươi như hoa, tiếng nói trong như ngọc; “mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” - tóc mềm hơn mây, da trắng hơn tuyết.

    + Tả Thúy Kiều: “Làn thu thủy, nét xuân sơn/ Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh” – dùng hình ảnh làn nước mùa thu, nét núi mùa xuân để nói về vẻ đẹp đôi mắt Kiều. Kiều đẹp đến nỗi hoa, liễu phải ghen tị.

⇒ dùng thiên nhiên để ẩn dụ cho vẻ đẹp con người, đặc biệt là người phụ nữ, tác giả vừa vận dụng nghệ thuật truyền thống vừa thể hiện tinh thần tiến bộ, tôn trọng phái đẹp.

b, Biện pháp tu từ ẩn dụ trong đoạn trích Cảnh ngày xuân

    - Hình ảnh ẩn dụ “yến anh” để nói về sự tươi đẹp, đông vui của khách đi dự hội.

    - Hình ảnh hoán dụ “ngựa xe”, “áo quần” để chỉ người đi hội, đi đôi với so sánh “như nước”, “như nêm” tạo nên một bức tranh rực rỡ, sống động, nhộn nhịp.

c, Biện pháp tu từ ẩn dụ trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều

    - Ẩn dụ: “thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”, “ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày”, lấy hoa để nói về Thúy Kiều trong ngày bán mình cho Mã Giám Sinh.

⇒ Diễn tả về sự đau lòng, vẻ miễn cưỡng nhưng vẫn cho thấy vẻ đẹp của Kiều.

d, Biện pháp tu từ ẩn dụ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

    - “Kiều ở lầu Ngưng Bích” sử dụng biện pháp tả cảnh ngụ tình đề nói về tâm trạng của Thúy Kiều:

    + Ẩn dụ: “người dưới nguyệt chén đồng” nói về Kim Trọng và mối tình tươi đẹp nhưng dang dở đầy bất hạnh của hai người; “người tựa cửa hôm mai”, “sân lai”, “gốc tử” nói về cha mẹ của Thúy Kiều, thể hiện sự lo lắng hiếu thuận của Kiều. Hình ảnh cửa bể, cánh buồm, ngọn nước, hoa trôi, nội cỏ, chân mây mặt đất, gió, sóng đều ẩn dụ cho hoàn cảnh, số phận cô đơn, trôi nổi, bấp bênh của Kiều.

    + Hoán dụ: “tấm son” – nói về danh dự, nhân phẩm, tiết hạnh của Thúy Kiều, cũng là về bản thân Kiều. Trong nỗi nhớ, sự đau khổ tình yêu, Thúy Kiều luôn day dứt nỗi đau nhân phẩm.

    + Điệp ngữ “buồn trông” lặp lại 4 lần: tả tâm trạng sợ hãi, cô đơn và tuyệt vọng của Thúy Kiều.

3, Kết bài:

    - Các biện pháp ẩn dụ đều dùng lời ít ý nhiều để tả ngoại hình, tả tâm trạng của nhân vật.

    - Nguyễn Du đã kết hợp các biện pháp tu từ một cách hiệu quả.

Phân tích biện pháp tu từ ẩn dụ trong Truyện Kiều - mẫu 1

    Nguyễn Du là người nghệ sĩ bậc thầy, ông không chỉ tài năng trong cách vận dụng thể thơ lục bát thuần dân tộc để sáng tác nên Truyện Kiều bất hủ. Mà để tạo nên thành công cho tác phẩm, ta không thể không nhắc đến tài năng vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật trong tác phẩm của mình, đặc biệt là nghệ thuật ẩn dụ. Trong khuôn khổ của một bài khảo cứu ngắn, chúng tôi chỉ khảo sát nghệ thuật ẩn dụ trên hai phương diện là: nghệ thuật ẩn dụ trong tả người và nghệ thuật ẩn dụ trong tả cảnh.

    Trước hết về nghệ thuật ẩn dụ trong tả người của Nguyễn Du cũng đã đạt đến độ điêu luyện, xuất thần. Bằng những phác họa hết sức ít ỏi nhưng họ đã làm bật lên vẻ đẹp chân dung tinh thần của hai nàng Kiều: “Mai cốt cách tuyết tinh thần/ Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” . Và để từ đó lần lượt hiện lên chân dung hai nàng:

           Vân xem trang trọng khác vời

                 

    Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da

    Tác giả đã vẽ nên bức chân dung Thuý Vân bằng nghệ thuật so sánh ẩn dụ và ngôn ngữ thơ chọn lọc, chau chuốt: khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, tươi sáng như mặt trăng; lông mày sắc nét như con ngài; miệng cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo; mái tóc đen óng ả hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn. Còn với nàng Thúy Kiều, không đi vào chi tiết, mà chỉ vào tập chung vào đôi mắt đầy xúc cảm của nàng:

           “Làn thu thủy nét xuân sơn

    Hoa ghen thua thắm liễu hơn kém xanh”.

    Đây là nghệ thuật điểm nhãn đặc trưng của văn học trung đại. Tác giả không đi vào miểu tả kĩ đối tượng, giống như Thúy Vân, chi tiết từng bộ phận trên mặt, mà chỉ lấy một vài điểm ấn tượng nhất, có hồn nhất để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật. Với nàng Kiều chính là đôi mắt và đôi mày. Mắt nàng nhưng làn nước mùa thu trong vắt gợi đôi mắt long lanh, thông minh mà đa tình, đa cảm, ẩn dưới nét lông mày như nét vẽ của Kiều. Còn đôi lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân, tươi trẻ đầy sức sống. Hệ thống hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để miêu tả vẻ đẹp của Kiều: “thu thủy”, “xuân sơn”, “hoa”, “liễu”. Nếu như thiên nhiên được dùng để miêu tả Vân là một thế giới thiên nhiên viên mãn, tròn đầy, ổn định thì Thúy Kiều lại gắn với một thiên nhiên sống động, biến hóa. Hơn nữa, trước vẻ đẹp của Thúy Kiều, thiên nhiên phải “hờn”, “ghen”, do vậy cũng báo trước một số phận đầy sóng gió. Như vậy kết hợp với bút pháp gợi tả cùng với nghệ thuật ẩn dụ tài tình, Nguyễn Du đã tạc lên trước mắt chúng ta hai mĩ nhân tuyệt đẹp, đặc biệt là vẻ đẹp của nàng Kiều. Thúy Kiều đẹp vượt ngoài quy chuẩn của thiên nhiên, đó chính là nhan sắc của tuyệt thế giải nhân, chim sa cá lặn, nhưng đồng thời sau bức chân dung đó lại dự báo một số phận đầy sóng gió, truân chuyên.

    Không chỉ thành thục trong việc vận dụng nghệ thuật ẩn dụ trong tả người, mà Nguyễn Du còn tỏ ra hết sức tài năng, khéo léo khi vận dụng nghệ thuật ẩn dụ trong miêu tả khung cảnh thiên nhiên. Đó là khung cảnh lễ hội mùa xuân náo nức, vui tưới, nam thanh nữ tú đua nhau đi hội:

           Gần xa nô nức yên anh

    Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân

    Nguyễn Du đã mượn hình ảnh chim yến chim oanh để miêu tả cảnh nam thanh nữ tú, từng đoàn người nô nức đi chơi xuân như chim én, chim oanh bay ríu rít. Và ấn tượng nhất là nghệ thuật ẩn dụ trong tám câu thơ cuối của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, đến đây nghệ thuật ẩn dụ đã đạt đến độ tài tình.

           “Buồn trông cửa bể chiều hôm,

    Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

           Buồn trông ngọn nước mới sa,

    Hoa trôi man mác biết là về đâu ?

           Buồn trông nội cỏ dầu dầu,

    Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

           Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.

    Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

    Điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu tạo nên âm điệu trầm buồn, mở ra bốn cảnh, mỗi cảnh lại là một tâm trạng khác nhau của Kiều. Nỗi buồn đó ngày càng mãnh liệt, chồng chất triền miên qua nghệ thuật tăng cấp. Kết hợp với điệp từ là những hình ảnh so sánh ẩn dụ đặc sắc, giàu giá trị biểu đạt. Con thuyền lẻ loi đơn độc kia chẳng phải đó cũng chính là ẩn dụ cho cuộc đời lênh đênh, chìm nổi của nàng Kiều đó sao. Không chỉ vậy hình ảnh con thuyền còn biểu tượng cho khát khao đoàn tụ, sum họp gia đình của nàng. Hình ảnh ẩn dụ “hoa trôi man mác” là biểu tượng cho thân phận chìm nổi, bé bỏng, mong manh của Kiều. Kiều cũng như cánh hoa kia, lênh đênh theo dòng đời, không biết rồi số phận của mình sẽ ra sao, không biết sẽ trôi dạt về đâu. Câu hỏi tu từ “biết là về đâu” vang lên như một tiếng than ai oán càng nhấn mạnh sự vô định không có quyền tự quyết số phận cuộc đời mình. Từ đó càng làm tăng thêm sự buồn tủi về thân phận bèo bọt, phụ thuộc. Và khung cảnh thiên nhiên càng trở nên dữ dội hơn nữa, màu xanh nhạt nhòa, héo úa, những cơn sóng điện cuồng ập đến bủa vây lấy người con gái nhỏ bé, đáng thương, tội nghiệp. Lời độc thoại “buồn trông” lặp đi lặp lại cùng với các hình ảnh ẩn dụ đặc sắc càng khắc sâu nỗi buồn da diết, dai dẳng, triền miên của Thúy Kiều.

    Với ngôn ngữ cô đọng, hàm súc kết hợp với các biện pháp nghệ thuật đặc biệt là nghệ thuật ẩn dụ, Nguyễn Du đã làm cho tác phẩm của mình giàu sức sống, hàm ẩn nhiều ý nghĩa để bạn đọc các thế hệ cùng khám phá. Nghệ thuật ẩn dụ trong tác phẩm Truyện Kiều đã đạt đến độ bậc thầy, truyền tải giá trị tư tưởng nhân văn của thi hào Tố Như.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:


truyen-kieu.jsp