10+ Cảm phố huyện lúc về đêm (điểm cao)

Bài văn Cảm phố huyện lúc về đêm điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

Dàn ý Cảm phố huyện lúc về đêm

1.1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm: Thạch Lam có giọng văn trong trẻo, nhẹ nhàng, gợi cảm. Khuất lấp sau những trang văn của ông là tấm lòng trắc ẩn đối với những kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ. Trong đó, "Hai Đứa Trẻ" là tác phẩm nổi tiếng của Thạch Lam.

- Giới thiệu vấn đề cần cảm nhận: bức tranh phố huyện lúc về đêm.

1.2. Thân bài:

- Khung cảnh của bức tranh thiên nhiên phố huyện mang những vẻ đẹp mộc mạc và giản dị, nhưng lại mang đến nhiều ý nghĩa cho toàn bộ tác phẩm.

- Bức tranh phố huyện nghèo đã tái hiện thành công hiện thực xã hội nghĩa lúc bấy giờ, làm cho người đọc như thấy được khung cảnh thực tế ngay trước mắt.

- Trước khung cảnh của tiêu điều của phố huyện, không gian mở ra những hình ảnh xa xăm trái ngược với sự huyên náo đáng lẽ phải có của phố huyện.

- Thời gian của toàn bộ khung cảnh là lúc về đêm, khiến cho không gian trở nên mù tối, con người như hòa mình với màn đêm và sự tĩnh mịch của không gian.

- Cảnh vật xơ xác, tiêu điều của con người, từ những rác rưởi, vỏ thị đến những thứ nhặt nhạnh ngoài đồng của những đứa trẻ nghèo khổ.

- Bức tranh thiên nhiên và con người nơi phố huyện gợi lại cho người đọc nhiều cảm xúc sâu sắc, đó là sự ảm đạm trong cảm nhận, nhưng vẫn mang một mong ước cháy bỏng về cuộc sống mới.

1.3. Kết bài

- Khái quát vấn đề và nêu lên giá trị nghệ thuật, giá trị nội dung.

Cảm phố huyện lúc về đêm - mẫu 1

Thạch Lam là gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam trước năm 1945. Tuy là một nhà văn lãng mạn nhưng tác phẩm của ông lại giàu yếu tố hiện thực, thấm đượm lòng nhân ái và chan chứa niềm xót thương những con người nhỏ bé. Văn Thạch Lam vì thế giống như một thứ hương hoàng lan được chưng cất từ những nỗi đời. "Hai đứa trẻ" là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của ông, được rút từ tập "Nắng trong vườn". Truyện ít sự việc, ít biến cố, chỉ chủ yếu xoay quanh việc hai đứa trẻ đợi tàu diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn từ lúc chiều tàn đến đêm khuya của một ngày mùa hạ. Nhưng vẫn đầy sức hấp dẫn bởi những trang văn giàu cảm xúc, miêu tả tinh tế những biến đổi tinh vi của cảnh và những xao xuyến mơ hồ của lòng người. Nổi bật trong truyện ngắn là khung cảnh bức tranh phố huyện lúc về đêm được hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của tác giả.

Trên nền tác phẩm là một phiên chợ tàn: "Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn sót lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá..."(Trích: "Hai đứa trẻ"). Thạch Lam tả cảnh chợ quê dịp chính phiên nhưng không thấy vẻ sầm uất, sôi động, mà lại làm nổi bật sự lèo tèo, vắng vẻ và ế ấm. Thế rồi, theo bước chuyển nhẹ nhàng của thời gian, phố huyện dần chuyển vào đêm. Trước hết là sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối.

Bất cứ ai từng đọc truyện Thạch Lam, đều không khỏi ấn tượng bởi những trang viết về bóng tối. Nhưng có lẽ chỉ khi đến với "Hai đứa trẻ", bóng tối mới hiện ra với đủ hình hài, cung bậc của nó. Từ ấn tượng ban đầu dịu nhẹ, êm mềm: "Trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ âm như nhung và thoảng qua gió mát", bóng tối từng bước chiếm lĩnh không gian: "Đường phố và các ngõ con dần dần chia đầy bóng tối", rồi bao trùm tất cả, mênh mông, dày đặc: "Tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa". Phố huyện nhỏ như là vương quốc của bóng tối, đến cả tiếng trống cầm canh cũng không xuyên qua được màn đêm đặc quánh, "chỉ tung lên một tiếng khó khăn rồi chìm ngay vào bóng tối".

Đối lập với bóng tối là ánh sáng nhỏ bé, yếu ớt, mong manh. Ánh sáng của thiên nhiên vũ trụ với "ngàn sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vật sáng xanh của những con đom đóm." Ánh sáng thiên nhiên đẹp đã nhưng xa xôi, khó nắm bắt khiến hai đứa trẻ mỏi trí nghĩ. Chúng tìm đến nguồn sáng thân thiết hơn của cuộc sống con người trên mặt đất. Đó là "những khe sáng từ vài cửa hàng còn thức"; là "quầng sáng thân mật từ ngọn đèn trên chống hàng chị Tí"; là "những hột sáng nhỏ, thưa thớt lọt qua phên nứa từ ngọn đèn trong cửa hàng của chị em Liên"; "là chấm lửa nhỏ, vàng, lơ lửng đi trong đêm của gánh phở bác Siêu." Ánh sáng nhỏ nhoi không đủ sức xua tan bóng tối mà chỉ khiến đêm tối đen hơn. Ánh sáng yếu ớt không đủ thắp sáng cuộc đời mà biến mỗi con người thành chiếc bóng đổ dài xuống mặt đất. Ánh sáng và bóng tối được Thạch Lam miêu tả trong sự tương quan đối lập. Tương quan ấy mang ý nghĩa biểu tượng. Bóng tối đặc quánh của không gian biểu tượng cho sự tối tăm vô tận của xã hội cũ. Còn ánh sáng của những ngọn đèn hay bếp lửa chính là sự sống leo lét, mù tối của những kiếp người nhỏ bé vô danh.

Trong bóng tối ngập tràn, tác giả khiến cho người đọc cảm nhận được cuộc sống của cư dân phố huyện vẫn diễn ra không chỉ nghèo khổ mà còn quẩn quanh, bế tắc vô cùng. Điển hình cho kiếp sống lay lắt của phố huyện này trước hết phải kể đến mẹ con chị Tí. Ban ngày chị lặn lội mò cua bắt tép, đến đêm lại lầm lũi dọn hàng nước nơi góc phố huyện nghèo. Gánh hàng của chị chỉ có lèo tèo vài thứ đồ lặt vặt, sơ sài. Tất cả cái cửa hàng được hai mẹ con dọn ra mà vẫn nhẹ tênh tênh. Khách hàng của chị toàn những người dưới đáy xã hội, làm thuê, làm mướn hoặc đi ở. Dẫu cho chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng hôm nào hai mẹ con vẫn dọn hàng từ chập tối tới đêm khuya. Hình ảnh chị Tí phe phẩy cành chuối khô, đuổi ruồi bò trên mấy thức hàng, mòn mỏi chờ mong những khách hàng quen trong vô vọng đã gieo vào lòng người đọc một nỗi buồn không sao tả xiết. Mẹ con chị Ti đang sống ở đó ư? Có lẽ không phải, đó đâu phải là sống mà chỉ là cầm cự với sự sống. So với mẹ con chị Tí, gánh hàng phở của bác Siêu có phần khá khẩm hơn nhưng lại đứng trước nguy cơ phá sản. Bởi lẽ, trong phố huyện nghèo này, phở là một món ăn quá xa xỉ. Cuộc sống của chị Tí, bác Siêu đã cơ cực là vậy, nhưng người đọc có thể thấy rõ nhất tận cùng của sự khốn khổ là gia đình bác xẩm. Gia tài chỉ vẻn vẹn một manh chiếu rách, một thau sắt trắng méo mó, cây đàn bầu cũ kĩ, và bác sống bằng nghề hát rong.

Nhìn vào cuộc sống cư dân nơi phố huyện mà độc giả cảm thấy thật xót xa. Bởi họ luôn hiện lên với những hành động quen thuộc, với những suy nghĩ mong đợi không khác mọi ngày. "Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ?"... "dễ họ không phải đi gọi đâu!" Chẳng cần phải nói cụ thể, rõ ràng bởi những cư dân nơi đây đã thấu hiểu mọi suy nghĩ, mong đợi của nhau. Ngày nào cũng giống ngày nào, hôm nay cũng giống hôm qua và sẽ còn tiếp diễn ở ngày mai. Nhịp sống của cư dân phố huyện lặp đi lặp lại một cách đơn điệu, và tẻ nhạt. Họ không chỉ khổ nghèo về vật chất mà còn quẩn quanh, lay lắt về tinh thần. Họ không phải đang sống theo đúng nghĩa mà chỉ là cầm cự trong vô vọng. Phố huyện giống như sân khấu cuộc đời chỉ độc diễn một màn buồn tẻ, không có sự thay đổi cả cảnh lẫn người.Tất cả cùng chung kiếp sống mòn. Điệu sống của cư dân phố huyện nghèo này chính là điệu sống của cả xã hội Việt Nam trước Cách mạng:

"Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu

Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người

Vì quá quen nên quá đỗi buồn cười

Môi nhắc lại có ngần ấy chuyện" - (Huy Cận)

Dù vậy "chừng ấy người trong bóng tối vẫn mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ". Ước mơ thật nhỏ bé, mơ hồ, tội nghiệp. Thạch Lam đã phát hiện, trân trọng và nâng niu mọi ước mơ, hy vọng dù là nhỏ nhoi nhất của những con người phố huyện. Niềm xót thương da diết thể hiện kín đáo ngay trong cách dựng cảnh, dựng người. Vì vậy có thể nói "văn Thạch Lam lúc nào cũng đằm thắm, đôn hậu, nghẹn ngào chút lệ của tình thương".

Bằng ngôn từ trong sáng, giản dị; ngòi bút tài hoa, tinh tế và cái nhìn trìu mến, yêu thương, Thạch Lam đã dựng nên bức tranh chân thực đầy xúc động về cuộc sống đói nghèo tăm tối nơi phố huyện, tiêu biểu nhất là cảnh phố huyện vào đêm. Qua đó, người đọc đã thấy được tấm lòng nhân hậu, đầy tình yêu thương của ông. Dù ra đời cách đây nhiều năm, nhưng ngày nay đọc "Hai đứa trẻ" ta vẫn thấy đầy đủ "cái dư vị và nhã thú của một tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học" (Nguyễn Tuân)

Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" đã tái hiện một cách nhẹ nhưng thấm thía niềm xót thương của Thạch Lam với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở một phố huyện nghèo. Đồng thời, truyện cũng cho thấy sự trân trọng của nhà văn với những mong ước đổi đời tuy còn mơ hồ của họ. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam với cốt truyện đơn giản, ít sự kiện mà đầy ắp tâm trạng. Với thành công của "Hai đứa trẻ", Thạch Lam xứng đáng là một nhà văn xuất sắc, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

Cảm phố huyện lúc về đêm - mẫu 2

Hẳn các bạn đã từng thả hồn mình cho bóng hoàng lan rũ xuống để thưởng thức giọng văn tươi mát dịu ngọt "ngon lành như cánh bướm non" của Thạch Lam? Và với giọng văn quyến rũ ấy ông đã gây được nhiều ấn tượng tốt đẹp trong lòng người đọc khi miêu tả bức tranh đời sống phố huyện lúc về chiều. Hai đứa trẻ xuất bản năm 1938 in trong tập "nắng trong vườn".

Đã gọi là nắng trong vườn thì làm sao có được những cảnh ồn ào nhộn nhịp khẩn trương nơi đô thị. Buổi chiều nơi phố huyện thật lặng lẽ và cô quạnh. Không gian êm ả đâu đó có tiếng động là tiếng của côn trùng nỉ non ngoài bãi cỏ. "Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào". Nhịp điệu câu văn như buông chùng, kéo dài gợi nỗi buồn man mác khó lí giải. Không phải tác giả giật mình nhận ra chiều đang tới mà có lẽ hình ảnh buổi chiều đã in đậm sâu trong tâm hồn người nên câu văn "chiều, chiều rồi" chỉ đọc ba tiếng nhưng tiết tấu của nó ngân vang toàn tác phẩm. Âm thanh thiên nhiên biểu hiện qua tiếng muỗi vo ve, tiếng ếch nhái bên bờ ruộng xa xa... Thạch Lam đã lấy ngày tàn làm nền bóng tối là gam màu chủ yếu, bóng tối quê nhà như phủ đầy phố huyện, phủ lên số phận cô đơn tủi cực của một số kiếp người, trong đôi mắt Liên thì con đường phố huyện thăm thẳm tăm tối, gian hàng phở của Bác Siêu, manh chiếu của người xẩm mù hay hàng nước của chị Tí đầy bóng tối. Những ánh đèn leo lét hắt ra từ những ngôi nhà phố huyện tăng thêm đêm tối mịt mù.

Tuy nhiên, dưới ngòi bút tinh tế và nặng lòng gắn bó với quê hương thì bức tranh quê hiện lên bình dị và có phần nên thơ. Đó là đời sống phố huyện nghèo được miêu tả chân thực, cảm xúc trữ tình đã gây cho ta buồn thương day dứt về số phận của con người.

Hình ảnh những đứa trẻ nghèo hèn nhặt nhạnh bất cứ thứ gì còn sót lại, cái người ta vứt trên nền chợ đã làm Liên động lòng thương, Liên rất muốn giúp đỡ chúng nhưng chính chị cũng không có tiền kia mà ! Cái nghèo cái đói đã cướp đi ba dự định tốt đẹp vốn có tính truyền thống "lá lành đùm lá rách" của đạo lí Việt Nam. Và ở đâu đấy còn biết bao hình ảnh thương tâm khác đang diễn ra tương tự trong âm thầm lặng lẽ... Đó là mẹ con chị Tí dọn hàng để rồi thu xếp hàng về vì chẳng có ai buồn ghé lại uống cho chị vài bát nước. Chị vẫn ngồi đó, ngồi để làm bạn với lũ ruồi, ngồi để hi vọng về một điều gì. Bác phở Siêu cũng vậy, ở xứ sở mà người ta chỉ dám mua một phần hai bánh xà phòng thì hàng của bác quả là 1 thứ xa xỉ chả ai dám mò đến...Họa chăng người ta chỉ nhắc đến nó với niềm tiếc rẻ về 1 kỉ niệm xa xôi...Qua giọng văn miêu tả ta cũng thấy rõ sự ế ẩm chán nản mòn mỏi nơi phố huyện về đêm. Có lẽ hình ảnh đau lòng hơn cả là gia đình bác xẩm mù bên manh chiếu rách. Thời buổi người ta ko còn lòng thương để lo cho cho chính mình thì làm sao bác xẩm có thể khơi gợi lòng thương từ người khác ? bác sờ sẫm cuộc đời mình trong bóng tối ? có lẽ mọi bế tắc của cuộc đời đều dồn về với bác, bác không thấy ánh sáng bình thường cuộc đời và bất hạnh hơn khi trông thấy được tương lai phía trước. Rồi lại đột ngột xuất hiện tiếng cười trong chuyện một kiểu Chí Phèo thứ 2. Đó là bà cụ hơi điên tên Thi, một cuộc đời vô chi ko nghĩa lí cũng tiếng cười man rợ.

Đó là cả cuộc sống bế tắc hoàn toàn ko vui buồn hờn giận. Cả phố huyện dường như bị tê liệt hay mắc chứng bệnh tự kỉ. Chị em Liên cũng vậy hết dọn hàng rồi lại kiểm hàng mà quanh đi quẩn lại chỉ mấy bánh xà phòng mấy món vặt cũng tạo thành "gian hàng" của chị. Chính sự lặp lại nhàm chán ấy làm cho họ không màng suy nghĩ không màng trò chuyện với nhau. Chợ huyện lạ thật, họ chỉ hỏi nhau và trả lời theo quán tình vì có chuyện gì đâu để nó với nhau. Quanh đi quẩn lại thì vẫn:

- Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?

- Cô chưa dọn hàng à?

Rồi những câu trả lời dường như được sắp xếp sẵn, có khi vừa hỏi thì nó đã bật ra tiếng cười trả lời: "ối chao sớm với muộn mà có ăn thua gì". Cuộc sống của họ như mòn đi. Mẫu đối thoại rời rạc, câu trả lời nhiều lúc giật mình ta mới nhận thấy người ta nói để có chuyện chứng tỏ mọi người đã hiểu nhau và ko còn gì để nó với nhau. Cuộc sống cô đọng, khép kín và nhạt nhẽo đến lạ lùng. Dường như sự băng hoại sắp sửa gặm nhấm ấy nếu họ ko có một thứ đó là lòng tin, niềm hi vọng. Phải, dù trong lòng đêm heo hút hay bán buôn ế ẩm nhưng họ vẫn tin tưởng vào một điều gì đó dù rất mơ hồ. Khi con người ta gặp nhiều đau khổ thì cần có 1 niềm tin để sống cần phải hi vọng dù đang thất vọng.

Cảm phố huyện lúc về đêm - mẫu 3

Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Thạch Lam là một nhà văn yêu mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”. Nguyễn Tuân là nhà văn cùng thế hệ với Thạch Lam, cùng có chân trong Tự lực văn đoàn, Nguyễn Tuân đã khẳng định mình thẩm mĩ độc đáo và tình cảm nhân đạo đằm thắm trong những trang văn Thạch Lam.

Truyện của Thạch Lam không có chuyện, mỗi tác phẩm như một bài thơ văn xuôi, thấm đẫm chất trữ tình, man mác xót thương. Đó là loại truyện tâm tình nồng nàn ý vị. “Dưới bóng hoàng lan'’, “Nhà mẹ Lê”, “Cô hàng xén", “Hai đứa trẻ”... là những truyện ngắn rất hay của Thạch Lam.

Truyện “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn”, nhà xuất bản "Đời tay”, Hà Nội, 1938. Truyện ngắn này tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật Thạch Lam, khai thác những mẫu đời thường mà nơi sâu kín tâm hồn của mảnh đời nào cũng chứa đầy bao nỗi xót xa, thương cảm.

Bối cảnh câu chuyện là một phố huyện nghèo nàn, xơ xác, có đường tàu đi qua, một ga xép, một cái chợ nhỏ bé nằm giữa thôn xóm và cánh đồng. Thời gian là một buổi chiều muộn và cảnh đầu hôm cho đến lúc chuyến tàu chạy qua. Có hai đứa trẻ ngồi trong một ngôi hàng xén nhỏ nhoi ngắm nhìn cảnh vật và cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua.

Chuyện mở ra một thời điểm là phố huyện lúc chiều xuống. Tiếng là phố huyện nhưng chỉ là một thị trấn nhỏ bé, nghèo nàn ở nước ta những năm đầu thế kỉ XX mà Tú Xương có nói đến: “Phố phường tiếp giáp với bờ sông” ... Cảnh một chiều hè muộn ở đồng quê. “phương Tây đỏ rực như trời cháy...”, "Một chiều êm ả như ru" có tiếng trống thu không, tiếng ếch nhảy kêu ran ngoài đồng. Màn đêm dần dần buông xuống, tiếng muỗi kêu vo ve trong các cửa hàng hơi tối. Cảm xúc của nhà văn như tràn ra câu chữ, biểu lộ một tấm lòng sâu nặng gắn bó với quê hương. Bức tranh quê hiện lên dưới ngòi bút tinh tế của Thạch Lam trở nên gần gũi, thân thiết, bình dị mà nên thơ.

Nhưng “Hai đứa trẻ” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà trước hết còn là bức tranh đời sống. Đó là bức tranh đời sống của phố huyện nghèo ngày xưa lúc chiều tối và đêm xuống, được quan sát và cảm nhận qua tâm hồn ngây thơ nhạy cảm của hai đứa trẻ - hai chị em Liên và An.

Trước cái giờ khắc của ngày tàn, Liên ngồi yên lặng bên mấy quán thuốc sơn đen, cô thấy “lòng buồn man mác”, đôi mắt “bóng tối ngập đầy dần” và cái buồn của buổi chiều quê thấm thìa vào tâm hồn ngây thơ của cô. Trời nhá nhem tối, các nhà đã lên đèn: “Đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách...”. Cát trên phố “lấp lánh từng chỗ”, đường “mấp mô thêm” trong cảnh tranh sáng tranh tối. Chợ “vãn từ lâu” là một cảnh buồn và xơ xác của bức tranh đời sống phố huyện nghèo lúc buổi chiều tối. Không một tiếng ồn ào, vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, bã mía và rác rưởi còn lại trên đất. Vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa. Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ lom khom đi lại tìm tòi “nhặt thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Chúng đi lại chập chờn như những linh hồn bơ vơ. Thấy chúng nó, Liên động lòng thương nhưng chị cũng không có tiền mà cho chúng nó.

Cái nghèo là cảnh đời chung cua mọi người, mọi nhà, và cái mùi ẩm ẩm bốc lên, mùi cát bụi lẫn hơi nóng mà Liên tưởng là “mùi riêng của đất, của quê hương”. Đó chính là mùi vị của cái “Ao đời”, của lầm than và nghèo khó. Trong cảnh xác xơ, tiêu điều và ngập đầy bóng tối hiện lên những mảnh đời lầm lũi, đáng thương. Cuộc đời mẹ con chị Tí như gắn liền với màn đêm bóng tối. “Thằng cu bé xách điếu đóm và khiêng cái ghế trên lưng và trong ngõ đi ra”. Mẹ của nó, chị Tí đi theo sau "đội cái chõng trẽn đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc...”. Ngày thì mò cua bắt tép, chiều nào cũng dọn hàng “từ chập tối cho đến đêm” mà “chả kiếm được bao nhiêu!”. Hình ảnh hai mẹ con chị Tí đã làm ta nhớ đến cuộc đời hai mẹ con cái Hiên trong truyện “Gió lạnh đầu mùa” : mẹ thì mò cua bắt ốc, con thì áo rách phong phanh, đứng co ro trước làn gió lạnh... Thạch Lam đã dành cho những bà mẹ nghèo, những em bé nghèo khổ nhiều trắc ẩn, xót thương. Cảnh gia đình bác xẩm mới thê lương. Tiếng đàn bầu bần bật, ngồi trên manh chiếu, trước mắt là cái chậu thau sắt trắng, thằng con ngồi trên đất “nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Và bác bán phở rong trong đêm, một thứ quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được. Đòn gánh bác kêu “kĩu kịt”, bóng bác “mênh mang ngã xuống được một vùng...".

Tất cả góp phần vào cảnh đời đầy bóng tối nơi phố huyện nghèo nàn xơ xác, những kiếp sống lầm than, tàn tạ và cơ cực. Đêm nào cũng vậy, An và Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt, nhưng vẫn cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua. Liên đón nhìn con tàu từ xa “ngọn lửa xanh biếc, nát mặt đất như ma trơi”, tiếng còi tàu vang lại kéo dài ra theo gió xa xôi đoàn tàu đến gần, vụt qua “các toa đèn sáng trưng", rồi nó “đi vào đêm tối. để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”. Tàu đã chạy xa mà hai chị em Liên còn nhìn theo “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng..." Chờ tàu đến, nuối tiếc con tàu chạy qua. Rầm rộ lên chốc lát. bừng sáng lên khoảnh khắc, để rồi sau đó, “từ phía ga, bóng đêm lồng với bóng người đi về”. Chuyến tàu đêm đã thành một biến cố trọng đại nơi phố huyện nghèo: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một điều gi tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ".

Bức tranh đời sống phố huyện nghèo sau khi con tàu chạy vụt qua, đêm khuya dần càng trở nên yên tĩnh mênh mông. Chỉ có đêm khuya, “tiếng trống ấm cảnh và tiếng chó cắn”. Chị Tí sửa soạn đồ đạc, bác xẩm đã ngủ gục trên manh chiếu. Liên chìm dần vào giấc ngủ yên tĩnh “tịch mịch và đầy bóng tối” như đêm yên tĩnh trong phố hụyện nghèo. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về dĩ vãng, đồng thời cũng đóng lên một cái gì còn ở trong tương lai... Nơi thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc “Hai đứa trẻ”, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm ái và sâu kín.

Cảm phố huyện lúc về đêm - mẫu 4

Trong văn học, thơ ca, phong cách riêng của mỗi nhà văn, nhà thơ chính là điểm thu hút độc giả và tạo nên thành công cho riêng họ và nhà văn Thạch Lam chính là một ví dụ như vậy. Một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách văn chương Thạch Lam và đã góp phần không nhỏ vào thành công của nhà văn là tác phẩm “Hai đứa trẻ”, trong đó bên cạnh hai nhân vật chính, người đọc cũng vô cùng ấn tượng với bức tranh phố huyện lúc về đêm được tác giả kì công dồn nhiều tâm sức.

Được in trong tập “Nắng trong vườn” xuất bản năm 1938, có thể nói rằng “Hai đứa trẻ” là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà văn Thạch Lam. Khác với nhiều nhà văn khác trong tác phẩm của mình luôn tập trung xoay quanh một hay nhiều nhân vật chính, trong “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam chẳng tập trung xây dựng cốt truyện cho nhân vật chính của mình mà ông tập trung miêu tả khung cảnh là chính, vì vậy mà xuyên suốt tác phẩm, chúng ta có thể thấy rõ ràng khung cảnh phố huyện nơi hai chị em Liên đang sinh sống tại nhiều thời điểm trong nhà. Và khi những ánh nắng cuối cùng trong ngày chợt tắt, cuộc sống của những người dân nơi phố huyện vẫn chưa ngừng lại. Nhưng cuộc sống về đêm ấy chẳng tấp nập, sôi động như ta tưởng mà có chút gì đó buồn man mác, càng nổi bật hơn cuộc sống bình dị, lam lũ của những người dân nơi phố huyện.

Ngay từ những dòng văn đầu tiên mở đầu câu chuyện, Thạch Lam đã cho độc giả thấy được khả năng quan sát tài tình và ngòi bút tài hoa của mình bằng cách vẽ lên một bức tranh đơn giản mà đẹp đến không ngờ, cũng những sự vật mà hằng ngày chúng ta vẫn thường thấy nhưng qua trang văn của Thạch Lam, chúng bỗng dưng như biến thành khung cảnh của một câu chuyện cổ nào đó với “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương Tây, đỏ rực như lửa cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn; dãy tre làng nước trước mắt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Nhà văn đã rất tinh tế khi điệp từ “chiều”, tạo cảm giác bóng tối như lan nhanh hơn mà thấm đẫm tâm hồn bé Liên, âm thanh “êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ra ngoài đồng” làm trong lòng cô bé dậy lên “nỗi buồn man mác trước thời khắc của ngày tàn”.

Trời đã muộn, phiên chợ phố huyện cũng đã “vãn từ lâu”, “người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, làm trở lại những “rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá dứa” và “mùi âm ẩm bốc lên”. Rõ ràng là một phiên chợ huyện thế nhưng khung cảnh ấy lại tiêu điều, đơn sơ quá mức, càng làm nổi bật thêm sự nghèo khó, lam lũ của người dân nơi đây. Đặc biệt là hình ảnh những đứa trẻ nhà nghèo lom khom đi lại, tìm tòi, hi vọng bắt được một chút gì đó có giá trị còn sót lại sau phiên chợ ấy càng làm độc giả thêm trăn trở, xúc động.

Và rồi sự nghèo khó, đơn sơ của nơi phố huyện này được bộc lộ rõ nhất khi hình ảnh sinh hoạt của người dân nơi đây lần lượt được tác giả miêu tả. Đó là hình ảnh mẹ con chị Tí xách điếu đóm, đội chõng tre dọn hàng nước mặc dù chẳng kiếm được bao nhiêu. Chắc hẳn sẽ có độc giả nghĩ rằng nếu đã chẳng thể kiếm lời được từ việc ấy thì tại sao lại không bỏ nó đi để tìm một công việc khác, thế nhưng bán nước tuy chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng ít nhất nó là công việc mà hai mẹ con có thể nhờ nó mà kiếm được miếng cơm manh áo, bỏ nó rồi biết làm gì giữa phố huyện nghèo nàn như thế. Tiếp theo, chúng ta có thể thấy hình ảnh gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau trắng để trước mặt hay hình ảnh gánh phở của bác Siêu mà đối với chị em Liên thì đó quả là một thứ xa xỉ. Phải khó khăn, lam lũ đến mức nào mà một tô phở vốn chúng ta coi là rất bình thường lại có thể trở thành một thứ đồ xa xỉ như vậy?

Không chỉ dừng lại ở đó, chúng ta còn bắt gặp hình ảnh bà cụ Thi hơi điên vẫn mua rượu ở hàng Liên, bà cụ mà vẫn cất tiếng cười khanh khách rồi lẽo đẽo đi vào trong màn đêm tăm tối mênh mông và lay lắt như ngọn đèn trước gió của hàng nước chị Tí. Có lẽ cũng chính vì cuộc sống lam lũ, bươn chải cực nhọc đã đẩy một bà lão ở độ tuổi đáng được hưởng phúc của con cháu phải rơi vào một hoàn cảnh đáng thương đến thế. Những nhân vật này chỉ là một phần rất nhỏ đại diện cho những mảnh đời bất hạnh nơi phố huyện, đại diện cho cuộc sống tăm tối như màn đêm đen kịt ngoài kia của họ.

Bằng tài năng và tình thương yêu con người, Thạch Lam đã thành công vẽ lên một bức tranh phố huyện lúc về đêm với cảnh vật yên bình, thơ mộng nhưng lại là nền để khắc hoạ những mảnh đời bất hạnh của người dân nơi đây, qua đó để lại nhiều trăn trở, cảm xúc trong lòng độc giả.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Thạch Lam là một nhà văn yêu mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học”. Nguyễn Tuân là nhà văn cùng thế hệ với Thạch Lam, cùng có chân trong Tự lực văn đoàn, Nguyễn Tuân đã khẳng định mình thẩm mĩ độc đáo và tình cảm nhân đạo đằm thắm trong những trang văn Thạch Lam.

Cảm phố huyện lúc về đêm - mẫu 5

Phân tích cảnh phố huyện lúc đêm khuya chi tiết – Thạch Lam là hiện tượng đặc biệt trong nền văn học lãng mạn 1930 – 1945, ông là cây bút viết truyện ngắn xuất sắc nhất với những tác phẩm mang hơi hướng nhẹ nhàng nhưng sâu lắng và ý nghĩa. Mỗi tác phẩm của ông đều tập trung khai thác sự biến đổi trong tâm lý con người, nó không quá phô ra sự mạnh mẽ mà lại rất trầm, tinh tế. Đặc biệt, với tấm lòng trắc ẩn của nhà văn đối với con những kiếp người nghèo khổ trong xã hội cũ đã cho ra đời những tác phẩm giàu tính nhân văn, tình người cao cả, khát vọng sống mãnh liệt. Nổi bật nhất trong những truyện ngắn để đời của ông là tác phẩm Hai Chị Em, trong đó cảnh pố huyện lúc đêm khuya là cảnh tượng lột tả đời sống nhân vật, con người nơi đó rõ ràng và ấn tượng nhất.

Hai đứa trẻ là tác phẩm xuất sắc của Thạch Lam. Truyện kể về hai chị em Liên và An. Cốt truyện chỉ xoay quanh thế giới tâm hồn hai chị em nhưng lại ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa về sự biến đổi của xã hội, của khát vọng sống. Khung cảnh trong chuyện xuất hiện từ sáng sớm đến chiều tàn, đặc biệt là cảnh lúc đêm khuya qua cái nhìn của hai chị em vừa cô đơn, xác xơ, buồn tẻ nhưng lại vừa đẹp rực rỡ, vừa mang nhiều hi vọng.

Bức tranh phố Huyện dần hiện ra trong khung cảnh chiều tàn xác xơ và nghèo khổ. Nói đến chiều tàn là người ta nghĩ ngay đến sự kết thúc trong một ngày. Màu trời bắt đầu thay đổi từ ánh nắng chói chang chuyển sang trầm hơn, mặt trời màu đỏ khuất sau lũy tre làng. Cảnh tượng bắt đầu có dấu hiệu của sự u ám, bóng tối dần che lấp ánh sáng và lan tỏa khắp nơi, từ những con đường nhỏ đến khung cảnh chợ chiều. Đặc biệt, âm thanh lúc chiều tàn gợi lên mới não nề làm sao, đó là tiêngs trống thu không vang lên từng tiếng gọi buổi chiều. Sau đó đến màu sắc  cũng bắt đầu chuyển mình: Đó là từ màu đỏ rực như lửa cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, báo hiệu một ngày sắp hết nhường chỗ cho bóng tối.

Bức tranh chiều tối còn hiện lên là khung cảnh phố huyện nghèo nàn xơ xác, tiếng muỗi kêu vo ve, tiếng ếch nhái kêu ra rả, cảnh chợ tàn với nền đất còn nhiều rác rưởi chưa kịp quét dọn, bóng dáng người bắt đầu tản về với những khuôn mặt mệt phờ, buồn tẻ. Dường như với cách tả cách phố huyện lúc chiều tàn của Thạch Lam khiến người ta cảm thấy đây như một miền đất đang lụi tàn trong quên lãng.

Tác giả đã tận dụng khung cảnh phố huyện bằng các điểm chấm phá như màu sắc, âm thanh, hình ảnh gợi cảm để cho thấy phố huyện lúc chiều tàn mới buồn và nghèo làm sao. Cái buồn, cái nghèo không chỉ hiện ra bằng hình ảnh thiên nhiên mà còn thông qua hình ảnh con người, cảnh phố huyện lúc chiều còn thê lương hơn cả.

Phân tích cảnh phố huyện lúc đêm khuya chi tiết – Trong cái nghèo xác xơ ấy, bóng tối không chỉ che lấp khung cảnh phố huyện mà còn che lấp những cuộc đời. Những đứa trẻ nghèo đang vật vờ trong buổi chợ tàn, chúng rủ nhau bới tìm đồ trong những đống rác ngoài chợ xem còn có gì để cho vào miệng không. Hay như mẹ con chị Tí hàng ngày mò cua bắt tép cứ tối đến lại đội cái chõng che ra sân ga bày bán với hi vọng còm cõi không khác gì gánh hàng của chị. Bà cụ Thi xất hiện trong bóng tối rồi cũng khuất sau bóng tối, gánh hàng phở nghi ngút khói nhưng cũng ế ẩm vì đây là món ăn xa xỉ của con người nơi phố huyện. Có thể nói, xung quanh họ đều là những con người nghèo khổ, xơ xác, vật vờ như những cái xác không hồn, cuộc sống buôn bán chậm chạp, ế ẩm, nhặt từng đồng qua ngày cũng khó khăn vô cùng.

Liên cũng vậy. Qua cái nhìn của Liên cuộc sống nơi đây buồn tẻ vô cùng. Cảnh chiều tàn kêt hợp với cuộc sống thê lương càng khiến Liên buồn. Một nỗi buồn man mác, đôi mắt ngập bóng tối và cái buồn của chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của cô. Cô quan sát cuộc sống từng người, cảnh tượng từng người mà thấy thương vô cùng, nhất là những đứa trẻ con nghèo nhặt rác kiếm đồ ăn, Liên muốn cho chúng tiền lắm mà bản thân Liên cũng không có để cho.

Bức tranh con người và thiên nhiên như quyện vào nhau. Con người thì mệt mỏi, buồn lúc chiều tàn. Khung cảnh thì buồn tẻ, xác xơ u ám với màu ánh sáng nhạt dần, mùi ẩm mốc từ chợ bốc lên. Tất cả quyện thành mùi vị của cuộc đời. Một cuộc đời nghèo nàn, buồn chán qua bức tranh thiên nhiên phố huyện lúc chiều tàn.

Một ngày tàn đã qua, nhưng đêm nào cũng vậy, dù buồn ngủ ríu cả mắt, hai chị em Liên vẫ cố thức đợi chuyến tàu đêm chạy qua. Đây là hi vọng duy nhất của chị em Liên và của những con người sống nơi phố huyện nghèo nơi đây. Tác giả miêu tả chi tiết từ cảnh đợi tàu cho đến cảnh tàu qua để lột tả được tâm trạng từ háo hức chờ đợi đến hi vọng và hụt hẫng.

Chỉ cần nghe những âm thanh dấu hiệu tàu sắp qua là Liên và An tỉnh ngủ. Liên đón con tà từ xa qua hình ảnh  ngọn lửa xanh biếc, tiếng còi réo dài ra theo gió. Sự háo hức của Liên và an cũng như niềm hi vọng về một thế giới mới. Thứ ánh sáng diệu kì từ các toa tàu thắp sáng cả một cảnh phố huyện chính là thứ ánh sáng hi vọng và hạnh phúc. Khi đoàn tàu đến, cảnh phố huyện trở nên huyên náo, xôn xao hơn cả. Khách xuống mua hàng, nghỉ chân, cảnh buôn bán tấp nập chính là phần quà cho sự chờ đợi của Liên và An. Hai đứa trẻ cũng đã từng sống ở Hà Nội, một nơi náo nhiệt như thế. Nhưng giờ đây chúng phải ở nơi phố huyện nghèo này, cuộc sống buồn tẻ biết bao, và đoàn tàu đi qua đã mang đến niềm vui, khao khát, hạnh phúc của Liên và An.

Rồi đoàn tàu cũng rời đi, thứ ánh sáng kì diệu kia từ từ nhỏ dần, nhỏ dần và biến mất. Phố huyện lại chìm vào một màn đêm tĩnh mịch, mọi người rục rịch dọn hàng và chính thức kết thúc một ngày buôn bán. Dường như, tất cả mọi người nơi phố huyện đều lấy dấu mốc đoàn tàu đi qua làm thời gian kết thúc trong ngày. Nó không chỉ đơn giản là bán thêm được hàng mà nó là khát khao về một cuộc sống mới, hạnh phúc và rực rỡ hơn. Có lẽ đúng như Thạch lam viết: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một điều gi tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”.

Vậy là chính thức kết thúc một ngày. Bức tranh phố huyện về đêm sau chuyến tàu lại là cảnh đêm tĩnh mịch, mênh mông. Họ lại trở về cuộc sống xác xơ, nghèo khổ trước khi đoàn tàu đến. Chị Tí sửa soạn đồ, bác xẩm đã ngủ gục trên manh chiế và Liên, An cũng chìm dần trong giấc ngủ.

Qua hình ảnh bức tranh Phố huyện lúc đêm khuya, ta mới thấy Thạch Lam yêu con người nơi đây thế nào. Tác giả đồng cảm, thương cho cuộc sống của những con người nghèo, họ sông trong cái nghèo quá lâu đôi khi không biết là mình khổ. Trong khi thế giới ngoài kia mới rực rỡ, tươi đẹp làm sao. Thạch Lam đã xây dựng hình ảnh chuyến tàu qua để mang đến cho họ những khát vọng về cuộc sống mới, tươi đẹp và rực rỡ như những ánh đèn trên các toa tàu.

Khép lại trang sách chúng ta vẫn cảm thấy đâu đây hình ảnh đoàn tàu đi qua, hình ảnh Liên và An vui vẻ, ánh mắt rực rỡ. Để rồi khi đoàn tàu đi nhân vật trong câu chuyên có phần hụt hẫng nhưng mọi thứ lại quay về vòng quay của nó, một ngày trôi qua như vậy đấy và đoàn tàu chính là niềm vui cuối ngày, là hi vọng cho mỗi ngày, cho mỗi con người. Trong cuộc đời mỗi chúng ta sẽ có biết bao nhiêu hi vọng, cơ hội đi qua như thế, nếu mạnh dạn nắm bắt, dám bước chân lên những toa tàu sáng rực kia thì có lẽ cuộc sống sẽ vô cùng thú vị và không còn buồn tẻ như cảnh phố huyện và con người lúc đêm khuya. Có lẽ, đây cũng là tâm tư mà Thạch Lam muốn nhắn nhủ qua tác phẩm. Ông đã đưa ra một cái kết, một hi vọng rất hợp lý và phù hợp trong hoàn cảnh này. Con người sống trong sự buồn tẻ quá lâu đã quên rằng, ngoài kia còn rất nhiều điều tuyệt vời đang chờ đợi. Và với tâm hồn khát khao hạnh phúc như của Liên và Lan nhất định sẽ có một chuyến tàu hi vọng nào đó đưa hai chị em đi và sống khác hơn.

Chúng ta, những con người của thế kỉ 21, cuộc sống vô cùng thoải mái, náo nhiệt hơn rất nhiều so với cuộc sống của Liên và An trong xã hội xưa. Qua tác phẩm, chúng ta càng thấm thía và trân trọng hơn cuộc sống bây giờ và không ngừng phấn đấu, nỗ lực để đạt được các thành quả tốt nhất sau này. Bởi vì chúng ta hơn An và Liên, hơn những con người nghèo khổ trong tác phẩm, chúng ta được sống trong một thế giới mới hạnh phúc và nhiều ánh đèn rực sáng hơn.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học