10+ Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa (điểm cao)
Bài văn Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa
- Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa (mẫu 1)
- Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa (mẫu 2)
- Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa (mẫu 3)
- Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa (mẫu 4)
- Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa (mẫu 5)
- Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa (mẫu 6)
- Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa (mẫu 7)
- Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa (mẫu 8)
- Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa (mẫu 9)
- Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa (mẫu 10)
Dàn ý Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Bằng Việt và bài thơ Bếp lửa.
- Giới thiệu về nội dung khổ thơ thứ sáu và tầm quan trọng của nó trong việc thể hiện tình cảm của người cháu đối với bà và những giá trị sâu sắc của bài thơ.
2. Thân bài
a) Bối cảnh ra đời của bài thơ
- Bài thơ Bếp lửa được sáng tác trong bối cảnh kháng chiến chống Mỹ.
- Nội dung bài thơ là những kỷ niệm về bà, tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước.
b) Tình cảm sâu sắc của người cháu dành cho bà
- Bà là người nhóm lửa suốt cuộc đời, không chỉ nhen lên lửa vật chất mà còn thắp sáng ngọn lửa tinh thần.
- Khổ thơ thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với sự hy sinh, công lao của người bà.
c) Hình ảnh bếp lửa trong khổ thơ thứ sáu
- Không chỉ là nơi giữ ấm cơ thể mà còn là nơi thắp sáng tình yêu thương, hy vọng và niềm tin vào tương lai.
- Gợi lại những kỷ niệm tuổi thơ của cháu, là nơi lưu giữ những tình cảm gia đình ấm áp.
d) Nghệ thuật của khổ thơ thứ sáu
- Điệp từ “nhóm”: Nhấn mạnh công việc vất vả và sự kiên trì của bà trong việc giữ lửa, truyền lửa.
- “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” thể hiện sự xúc động, khâm phục của người cháu đối với bà và hình ảnh bếp lửa.
3. Kết bài
- Tóm tắt lại giá trị nghệ thuật và nội dung khổ thơ thứ sáu.
Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa - mẫu 1
Bằng Việt là nhà thơ tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Năm 1963, Bằng Việt sáng tác bài thơ Bếp lửa, một bài thơ ngắn gọn nhưng sâu bên trong ẩn chứa nhiều giá trị nghệ thuật và nội dung độc đáo. Đặc biệt, qua bài thơ tác giả đã gợi lên những kỷ niệm đẹp về người bà, tình cảm sâu sắc và dịu dàng giữa bà và cháu.
Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà chính bà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin cho các thế hệ sau. Ở khổ thơ thứ sáu, lòng tự hào và biết ơn đối với công lao, hy sinh của người bà kính yêu được thể hiện rõ ràng nhất:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Những suy nghĩ và kỉ niệm về bà hiện lên thật chân thực, rõ nét. Bà là người nhóm lửa suốt cuộc đời, kể cả nắng mưa vẫn không quản ngại khó khăn với công việc của mình. Bà thắp sáng ngọn lửa không chỉ bằng đôi bàn tay gầy guộc mà còn bằng cả tấm lòng chân thành mà bà giành cháu và tất cả mọi người. Sự lặp lại của từ “nhóm” và câu thơ cảm thán đã khắc sâu hình ảnh bà trong tâm trí của cháu. Bà đại diện cho phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam, tần tảo, nhẫn nại và đầy ắp tình yêu thương.
Không chỉ đơn giản là nhóm bếp lửa, mà bàn tay bà cũng nhóm lên niềm vui, niềm hạnh phúc và sự sống. Chính vì thế mà nhà thơ cảm nhận được trong hình ảnh ngọn lửa giản dị, quen thuộc, nhưng cũng vô cùng thiêng liêng. Bếp lửa là thứ giản dị và gần gũi, phổ biến trong mỗi gia đình Việt Nam, nhưng qua những vần thơ sâu sắc của tác giả, ta thấy được bếp lửa thật cao quý và thiêng liêng, bởi nó gắn liền với hình ảnh người bà, gắn liền với kỉ niệm thời thơ ấu của cháu.
Qua khổ thơ thứ 6, tác giả muốn truyền tải đến thế hệ chúng ta cần nhớ về cội nguồn, nhớ về nơi mình sinh ra và lớn lên, nhớ về hình ảnh thiêng liêng bên bếp lửa để cuộc sống thêm ý nghĩa.
Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa - mẫu 2
Bằng Việt có một tuổi thơ đầy hoài niệm về hình ảnh người bà kính yêu. Tình cảm ấm áp, yêu thương giữa bà và cháu đã đan xen thành một bài thơ giàu cảm xúc và gợi lên nhiều ý nghĩa. Đó là bài thơ “Bếp lửa”.
Hình ảnh người bà hiện lên thật hiền hậu và bếp lửa quê hương là hình ảnh trung tâm của nỗi buồn hoài niệm, lan tỏa và vương vấn trong suy nghĩ của người cháu. Trong khổ thơ thứ 6, tác giả đã thể hiện rất chi tiết sự cần cù, tần tảo và đức tính cao đẹp, hy sinh của người bà để chăm sóc cháu.
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Hình ảnh người bà cũng là hình ảnh đại diện cho người phụ nữ Việt Nam giàu lòng hy sinh, dù gian khổ, khó khăn vẫn luôn tỏa sáng tình yêu thương. Tình thương dành cho người bà được thể hiện qua từng câu chữ. Tình cảm đó giản dị, chân thành nhưng rất sâu sắc và nồng nàn.
Trong cuộc sống, người bà luôn chăm lo cho cháu cả về vật chất lẫn tinh thần để cháu có thể trưởng thành. Bà là người thắp lên ngọn lửa, và cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa ấm áp và tỏa sáng trong gia đình. Để khắc họa những hình ảnh sắc nét, điệp từ “nhóm” trong khổ thơ thứ sáu được lặp lại bốn lần và mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Nó làm tăng thêm sự kỳ lạ và thiêng liêng của bếp lửa thân thương. Bà không chỉ là người truyền hơi ấm tình thương mà còn là người khơi dậy trong tâm hồn cháu tình cảm ruột thịt, dạy cháu biết cách sẻ chia, biết đoàn kết và gắn bó với hàng xóm và rộng hơn là tình yêu quê hương đất nước.
Trong tâm trí của người cháu, bếp lửa và bà là những thứ tuy rất giản dị nhưng ẩn chứa điều gì đó cao quý và đáng trân trọng. Cảm xúc thôi thúc, tác giả phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Hình ảnh người bà và hình ảnh bếp lửa luôn tươi sáng và đẹp đẽ trong tâm hồn nhà thơ. Câu thơ giàu cảm xúc với cấu trúc đảo cho thấy sự ngạc nhiên, ngỡ ngang của người cháu khi khám phá ra một điều thiêng liêng giữa cuộc sống bình dị.
Khổ thơ thứ 6 trong “Bếp lửa” của Bằng Việt là những vần thơ đẹp về hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu khi đã lớn lên, gợi lại những kỷ niệm đầy cảm xúc của người bà và mối quan hệ giữa bà và cháu. Qua đó, thể hiện tình cảm sâu sắc đối với gia đình, quê hương, đất nước.
Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa - mẫu 3
Tình cảm bà cháu luôn là thứ tình cảm kì diệu và thiêng liêng mà chúng ta cần nâng niu, trân trọng. Đặc biệt đối với những người xa qua thì nỗi nhớ về những kỉ niệm quê hương, về những người bà, người mẹ lại càng da diết và mãnh liệt hơn cả. Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt đã khơi nguồn cảm xúc, đánh thức những năm tháng tuổi thơ trong lòng độc giả. Ông là một nhà thơ tinh tế, nhạy cảm và đầu sự sáng tạo, mới mẻ. Nỗi nhớ về những kỉ niệm quê hương, về bà luôn gắn liền với hình ảnh bếp lửa. Và tình cảm ấy được thể hiện rõ nét qua khổ thơ thứ 6 của bài thơ:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Từ ngọn lửa của tình người nhà thơ đã suy ngẫm về cuộc đời bà. Cuộc đời bà là những gian truân, vất vả, gian lao. Từ láy tượng hình “lận đận” đã cho ta thất sự vất vả đến cùng cực. Không chỉ vậy sự lận đận ấy còn kết hợp trong cụm từ “biết mấy nắng mưa” càng tô đậm thêm những thăng trầm cuộc sống mà bà đã phải trải qua. Dù khó khăn, vất vả, gian lao là vậy nhưng bà chưa bao giờ rời xa hình ảnh bếp lửa. Bà gắn bó với bếp lửa, với sự hy sinh đã “mấy chục năm rồi”, dù nắng hay mưa, bà vẫn luôn dậy sớm. Ta có thể cảm nhận được sự tần tảo, hy sinh của bà lúc nào cũng vẹn nguyên. Điệp từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần như ngân lên, lan tỏa biết bao yêu thương, rung cảm trong lòng tất cả mọi người. Mỗi hình ảnh liệt kê là một dòng suy ngẫm xúc động trong lòng bạn độc. “Bếp lửa ấp iu nồng đượm” khẳng định sự cần mẫn, khéo léo của bà. “Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi” để nuôi dạy cháu trong lúc thiếu thốn. Để từ đó bà nhắc nhở cháu không được quên đi những năm tháng nghĩa tình vhia nhau từng củ khoai, củ sắn. Câu thơ như một lời răn dạy cháy phải biết yêu thương, sẻ chia. Chính vì vậy mà nó “nhóm dậy cả những tâm tình thuở nhỏ”. Bà chính là tấm gương cho cháu noi theo. Bà chính là người nhóm lửa và truyền lửa cho cháu biết bao bài học, bao kỉ niệm.
Một lần nữa ta có thể khẳng định, bà là người nhóm lửa, giữa lửa và truyền lửa, truyền niềm tin, sức mạnh cho cháu. Để từ đó tác giả phải thốt lên sự nhớ nhung, trân trọng:
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Câu thơ với từ cảm thán “ôi” như chất chứa, dồn nén bao tình cảm. Sức mạnh kì lạ ấy đã nhóm dậy cả những kỉ niệm tuổi thơ của cháu. Sự thiêng liêng ấy là điều cháu luôn gìn giữ và nhớ mãi.
Qua khổ thơ ta có thể thấy được sự tần tảo, hy sinh tình yêu thương vô bờ bà dành cho cháu cũng như tình cảm, sự biết ơn, nhớ thương cháu dành cho bà dù đang ở nơi xa nhất. Bài thơ như chạm vào trái tim bạn đọc để ta rung động và suy ngẫm về tình cảm mình dành cho bà của mình, cho quê hương, đất nước.
Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa - mẫu 4
Người bà là nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều nhà thơ, nhà văn. Trong bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt, ông thể hiện nỗi nhớ với người bà hiền hậu, tần tảo gắn liền với bếp lửa mỗi sớm mai. Và hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cảm xúc và dòng hồi tưởng của giả về bà. Phân tích khổ 6 bài bếp lửa ta thấy được tình cảm chân thành, nồng đượm của người bà và người cháu nay đã trưởng thành, bay xa với ước mơ.
Kỷ niệm tuổi thơ bên bà là được bà chăm dạy, cùng bà lớn lên mỗi ngày. Lúc này, khi ở xa quê hương, mọi ký ức ùa về trong tâm trí tác giả, khiến ông xúc động. Và tác giả viết nên những dòng thơ tâm tình ẩn chứa triết lí sâu xa mà ta sẽ thấy khi phân tích khổ 6 bài bếp lửa:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Ở khổ đầu bài thơ, hình ảnh người bà “biết mấy nắng mưa”. Sự xuất hiện thêm lần nữa ở khổ thơ cuối như một sự nhấn mạnh cuộc đời cơ cực của bà. Hai chữ “lận đận” là gói gọn cuộc đời bà. Bà âm thầm chịu đựng bao vất vả, khó khăn, gian nan, nguy hiểm để chăm sóc cháu, để con cái yên tâm chiến đấu ở mặt trận kháng chiến.
Sau này, dù chiến tranh đã qua, nhưng nhọc nhằn chưa từng vơi bớt, thói quen dậy sớm bà vẫn giữ. Những gian nan, vất vả trong đời bà dường như không bao giờ dứt. Phân tích khổ 6 bài bếp lửa, ta thấy người bà luôn thức khuya dậy sớm, chăm sóc, vun vén cửa nhà, dù vất vả nhất bà vẫn luôn là người nhóm lên ngọn lửa yêu thương ấm áp trong gia đình:
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Trong đoạn thơ này, từ “nhóm” được lặp lại nhiều lần nhằm khẳng định, không ai khác chính là bà đã làm nhen và thổi bùng ngọn lửa tình yêu thương trong lòng cháu. Khi “nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”, là bà đang dạy cháu về tình yêu thương ruột thịt, tình yêu thương trong gia đình. Khi nhóm “khoai sắn ngọt bùi” là giúp cháu hiểu về tình nghĩa làng xóm, về tình yêu hương dù là mảnh đất nghèo. Khi bà “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”, cháu học được từ bà tấm lòng rộng mở, luôn biết chia sẻ với mọi người xung quanh.
Cháu dù trưởng thành về thể xác, nhưng nếu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa của bà, bằng tấm lòng yêu thương của bà, tâm hồn cháu có lẽ không thể lễ nghĩa ở đời. Phân tích khổ 6 bài bếp lửa ta thấy, người bà mang một sức mạnh kì diệu, đã nuôi lớn tâm hồn cháu với biết bao tình cảm, nghĩa tình cao đẹp, ươm mầm và chắp cánh cho người mơ bay cao, bay xa của cháu. Và lúc này, cảm xúc của tác giả dâng trào, thể hiện qua âm điệu dạt dào của câu thơ:
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Câu thơ ngắn nhưng đã khái quát những suy nghĩ và tình cảm của nhà thơ Bằng Việt dành cho bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà. Bà là người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa và cũng là người bồi đắp yêu thương, hoài bão cho cháu. Cháu đã trưởng thành, đã bay xa, đã không còn được bên cạnh bà nhưng bà và bếp lửa mãi mãi là một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu và mất đi trong cuộc đời cháu.
Quả thực, “bếp lửa” là một hình ảnh gần gũi nhưng được Bằng Việt sáng tạo thành một hình tưởng mang ý nghĩa tượng trưng điển hình. Bài thơ vì thế mang triết lí sâu sắc. Phân tích khổ 6 bài bếp lửa ta thấy rõ nhất triết lí ấy. Đó là ký ức tuổi thơ tươi đẹp, đầy tình yêu thương sẽ là sức mạnh nâng đỡ con người, giúp mỗi người kiên trì, tỏa sáng trong hành trình cuộc đời riêng mình. Và chính từ thân, tình hàng xóm bình dị sẽ khởi nguồn cho tình yêu quê hương đất nước.
Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa - mẫu 5
Bà đã chịu đựng tất cả nhọc nhăn, khôn khổ, mất mát, hi sinh. Bà đã góp gom, ấp ủ, chắt chiu, nhen nhóm. Những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa dã man, kì lạ thay, lại được hồi sinh trong ngọn lửa của bà! Cứ thế cuộc đời bà cháu được chở che, duy trì qua bao năm tháng. Cứ thế sự sống muôn đời được giữ gìn nuôi dưỡng, trường tồn.
Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ trong bếp lửa kia! Vừa kể lại, vừa tỏ lòng thương nhớ, biết ơn, vừa suy tư. Đến đây nhà thơ mới đúc kết về sự kì lạ và linh thiêng bếp lửa của bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi rất xa nơi bếp lửa của bà, đã biết đến khói trăm miền, đã vui với ngọn lửa trăm nhà. Cháu đã đi ra với đất rộng trời cao, đến với những chân trời hạnh phúc. Nhưng trong lòng cháu vẫn chỉ nhớ về ngọn khói đã làm nhèm mắt cháu thuở lên bốn, chỉ nhớ về ngọn lửa tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà. Cháu chẳng bao giờ quên bếp lửa bởi đó là cội nguồn, bởi cuộc đời cháu đã được nhen lên từ trong ngọn lửa ấy.
“Bếp lửa” là bài thơ cảm động! Tình cảm dạt dào trong lòng đã tìm đến một giọng điệu, một nhịp điệu thật phù hợp, ấy là nhịp bập bùng của lửa! Giọng kể lể và bộc bạch cứ tràn ra, cứ dâng lên, mỗi ngày một nồng nàn, ấm nóng. Đâu phải ngẫu nhiên bài thơ bắt đầu bằng một đoạn ba câu, rồi càng những đoạn sau, số câu trong từng đoạn nhiều mãi. Khi số lượng không nhiều, thì giọng thơ lại cuộn lên. Lối trùng điệp được sử dụng hết sức biến hóa. Những kiểu câu lặp lại, những vế câu láy lại, những lời nhấn nhá thật nhiều. Tất cả phối hợp với nhau góp phần tạo nên sự dạt dào xáo động của tâm tình, tất cả góp phần tạo nên cái nhịp chờn vờn, bập bùng, dai dẳng của ngọn lửa. Vì lối viết như vậy mà người đọc bị cuốn vào âm điệu thật đặc biệt.
Đọc khổ thơ này chẳng những thấy được một dòng tâm tư sâu nặng dạt dào của một đứa cháu nghĩa tình hiếu thảo, mà còn như thấy rõ ngọn lửa cứ chờn vờn, bập bùng suốt cả âm điệu nồng hậu của bài thơ.
Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa - mẫu 6
Hình ảnh người bà hiền hậu và bếp lửa quê hương là hình ảnh trung tâm của nỗi nhớ, có sức lan tỏa và đọng lại trong những suy ngẫm của người cháu trong bài thơ. Chính hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà.
Có thể thấy, từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Sự tần tảo và đức hy sinh chăm lo cho người của bà được tác giả thể hiện trong một chi tiết rất tiêu biểu:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm”, từ láy tượng hình “lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” diễn tả cảm nhận của nhà thơ về cuộc đời gian nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương, chịu khó của bà. Cuộc đời bà là một cuộc đời đầy gian truân, vất vả, nhiều lận đận, trải qua nhiều nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh dù gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương. Tình thương yêu tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà thật sâu nặng thiết tha.
Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình. Để khắc họa đậm nét hình ảnh ấy, trong khổ thơ thứ sáu, điệp từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác nhau. Nó cứ bồi đắp cao dần những nét kỳ lạ và thiêng liêng của bếp lửa.
Từ “nhóm” đầu tiên: “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm” nhóm là động từ thể hiện một hành động làm cho lửa bén, cháy lên ngọn lửa và một bếp lửa hoàn toàn có thật có thể cảm nhận bằng mắt thường để xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt để nấu chín thức ăn và đó là một bếp lửa rất bình dị có ở mọi gian bếp của làng quê Việt Nam. Thế nhưng từ “nhóm” trong những câu thơ sau: “Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi – Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui – Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” thì từ nhóm lại mang ý nghĩa ẩn dụ. Có nghĩa là bà đã “nhóm” lên, đã khơi dậy niềm yêu thương, những ký ức đẹp, có giá trị trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình yêu thương ruột thịt, tình cảm sẻ chia tình đoàn kết với hàng xóm láng giềng và rộng ra nữa là tình yêu quê hương đất nước.
Nhờ ngọn lửa mà bà “ủ”, bà “nhen”, bà “giữ”, cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng. Người cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu, thêm yêu dân tộc mình, nhân dân mình.
Trong tâm trí nhà thơ, bếp lửa và bà là những gì tuy thật bình dị, song ẩn giấu điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc dâng trào, tác giả đã phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa lúc nào cũng sáng đẹp lung linh trong tâm hồn nhà thơ. Câu thơ cảm thán với cấu trúc đảo thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như một khám phá ra một điều kỳ diệu giữa cuộc đời bình dị. Từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa.
Chắc chắn, cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. Bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời.
“Bếp lửa” của Bằng Việt là những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu. Qua đó, bộc lộ những tình cảm sâu nặng đối với gia đình, quê hương, đất nước. Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.
Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa - mẫu 7
Cuộc sống luôn có những gian lao, thử thách, nhưng chính trong những khó khăn đó, con người sẽ nhận ra giá trị tinh thần quý báu. Những giá trị và kỉ niệm ấy sẽ là nguồn động lực giúp ta vượt qua mọi khó khăn. Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt đã khắc họa chân lý này qua hình ảnh bếp lửa, gợi nhớ về những năm tháng bên bà. Khổ thơ thứ sáu của bài thơ đặc biệt gây ấn tượng với người đọc, mang đến những cảm xúc sâu sắc về tình bà cháu.
Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác năm 1963, khi tác giả 19 tuổi và đang học ngành Luật ở Liên Xô. Tác phẩm viết theo thể thơ tự do và được đưa vào tập thơ “Hương cây – Bếp lửa”, tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ. Bằng sự kết hợp hài hòa giữa biểu cảm với tự sự, miêu tả và nghị luận, bài thơ đã xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà và là điểm tựa khơi gợi mọi cảm xúc và suy nghĩ về tình bà cháu.
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Chất biểu cảm trữ tình vẫn còn nhưng đã dòng suy tưởng đã nhuốm màu nghị luận. “Lận đận” – từ láy gợi hình với hai thanh trắc đã diễn tả cả cuộc đời vất vả của bà, kết hợp với “biết mấy nắng mưa” – ẩn dụ để chỉ những thăng trầm của cuộc sống càng làm đậm thêm sự hy sinh cần mẫn của bà. Trải qua tất cả những khó khăn, thách thức ấy, hình ảnh bà vẫn chưa bao giờ tách rời với bếp lửa. “Mấy chục năm rồi”, lời thơ kể mà như đếm, gợi lên cả một tuổi thanh xuân, cả một đời người thức khuya dậy sớm gắn liền với khói bếp cay nồng. Ấy vậy mà trong “thói quen dậy sớm” ta cảm nhận được sự tần tảo, đức hy sinh vẫn nguyên vẹn như thuở nào.
Những năm tháng mà hai bà cháu sống trong sự đùm bọc, san sẻ cùng xóm làng với “nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”. Câu thơ như một lời răn dạy cháu hãy luôn sống chan hòa và biết nghĩ đến mọi người, đừng ích kỉ cho riêng mình. Chính những bài học thầm lặng và gắn liền với cuộc sống ấy đã rọi vào tâm hồn người cháu và thắp sáng những ước mơ, khát vọng. Chính vì vậy mà tác giả đã thốt lên rằng “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” ?
Bà không chỉ thấu hiểu cháu mà còn là tấm gương cho cháu noi theo. Ký ức tuổi thơ tuy không rõ ràng nhưng vẫn ghi dấu từng hình ảnh cụ thể “khoai sắn”, “xôi gạo” và tượng trưng “yêu thương”, “tâm tình” đan xen, quấn quít vào nhau giữa cuộc sống đời thường và giá trị tinh thần. Bà thì nhóm lửa còn Bằng Việt thì nhóm lên biết bao hoài niệm, khơi dậy bao đợt sóng yêu thương trong lòng người đọc. Hình ảnh người bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin và sức sống cho người cháu. Người bà ấy giản dị nhưng lại có một sức mạnh kì diệu. Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà – người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh.
Để rồi từ đó nhà thơ thốt lên trong bao nhung nhớ và trân trọng :
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Câu thơ với từ cảm thán “ôi” như chất chứa, dồn nén biết bao điều. Trong đó là sức mạnh “kì lạ” đã nhóm dậy cả một chân trời kỉ niệm, cả một tuổi thơ, cả một tâm hồn. Trong đó là sự “thiêng liêng” nhà thơ đã trân trọng gìn giữ trong tim nơi đất khách quê người. Ngay cả dấu gạch ngang cũng là một dấu lặng đầy nghệ thuật, là sự im lặng rất lạ, rất riêng giữa các từ, chứa đựng bao cảm xúc không thể diễn tả hết. Hãy lắng nghe sự im lặng đó để cảm nhận một lần nữa sự “kì lạ và thiêng liêng” kia, để thấu được tiếng lòng thi sĩ dội lại trong đó. Dấu gạch ấy như khoảng lặng trong bản nhạc để làm nền cho hai tiếng “bếp lửa” ngân lên diễn tả bao tâm tình, bao sự kính trọng và ngưỡng mộ đối với bà. Đến đây, ta mới thực sự cảm nhận được toàn bộ vẻ đẹp của hình ảnh “bếp lửa”. Hình ảnh ấy cùng chất trữ tình kết hợp với bình luận đã trở thành cái nền hoàn hảo để mở ra dòng suy ngẫm của cả tác giả lẫn độc giả về cuộc đời tần tảo và nghĩa tình của bà.
Có thể nói rằng “Bếp lửa” của Bằng Việt là một bài thơ độc đáo. Bài thơ ấy và nhất là khổ thơ thứ 6 đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta càng thêm cảm phục trước tài năng của nhà thơ, càng thêm yêu mến, trân trọng những năm tháng tuổi thơ của mình, trân trọng gia đình và quê hương đất nước. Và có lẽ chính vì thế mà sau hơn nửa thế kỉ, “ Bếp lửa” của Bằng Việt vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc.
Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa - mẫu 8
Trong cuộc đời, mỗi người đều giữ cho mình những ký ức của tuổi thơ ngây thơ, trong sáng. Những ký ức đó là những điều quý giá nhất, có sức mạnh phi thường đẩy lùi những gian khó trong cuộc sống. Bằng Việt cũng có kỉ niệm riêng của mình, đó là thời gian sống cùng bà, cùng bà gắn bó với chiếc bếp lửa thân thương. Không chỉ thế, điều đặc biệt trong trái tim của Bằng Việt còn là tình cảm sâu đậm giữa hai bà cháu. Chúng ta có thể cảm nhận điều này qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.
Hảnh bếp lửa đã khơi lên dòng hồi tưởng về bà, là những kỷ niệm tuổi thơ sống bên bà và hình ảnh bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa tuổi thơ. Sau những đoạn thơ hồi tưởng về thời ấu thơ sống bên bà của mình, người cháu tiếp tục suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời của bà qua hình ảnh bếp lửa:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Cụm từ “biết mấy nắng mưa” gợi lên cuộc đời của người bà vất vả, gian truân nhưng vẫn sáng lên những phẩm chất thiêng liêng, cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Điệp từ “nhóm” (bốn lần) nói lên ý nghĩa cao cả của công việc mà bà vẫn làm mỗi sớm sớm, chiều chiều: Bà là người nhóm lửa và cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong mỗi gia đình. Từ “ấp iu nồng đượm” gợi tả công việc nhóm bếp và ngọn lửa luôn đượm than hồng bởi bàn tay khéo léo, cần mẫn, chi chút của bà. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai còn nhóm lên cả niềm yêu thương, sự sẻ chia chung vui và tâm tình tuổi nhỏ của người cháu. Đến đây, hành động nhóm lửa của bà đâu đơn thuần chỉ là hành động nhóm bếp thông thường nữa mà cao hơn nó đã thành hình ảnh ẩn dụ biểu trưng cho ý nghĩa của công việc nhóm lửa của bà. Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người cháu hơi ấm của tình yêu, sự sẻ chia với mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc ghi nhớ tới cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc mình. Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng “Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!”. Từ cảm thán “Ôi” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lý, điều kì diệu giữa cuộc đời bình dị. Bếp lửa và bà như hóa thân vào làm một, luôn rực cháy, bất tử thiêng liêng.
Bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt là một tác phẩm đầy cảm xúc. Hình ảnh bếp lửa được thể hiện độc đáo qua giọng điệu tâm trạng, thiết tha; nhịp điệu thơ linh hoạt; và sử dụng trùng điệp một cách tinh tế, khiến cho lời thơ với hình ảnh bếp lửa hiện lên, dâng trào, mỗi khi càng trở nên ấm áp hơn. Điều này khiến cho người đọc cảm thấy chạm đáy lòng, xúc động trước kỷ niệm ấu thơ của người cháu và tình cảm của nhà thơ dành cho người bà yêu dấu.
Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa - mẫu 9
Bằng Việt là một trong những nhà thơ thuộc thế hệ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của ông toát lên sự thiết tha và nồng thắm. Dù chỉ là tiếng gà mái nhảy ổ cục trong nắng trưa, hoặc chỉ là một bếp lửa chờn vờn sương sớm, nhưng tại sao lại chứa đựng nhiều nghĩa tình đến thế, tại sao lại rơi vào tận sâu trong lòng? Có lẽ những điều nhỏ bé nhất thường chứa đựng tâm tình sâu sắc, thể hiện những giá trị thiêng liêng, và làm hiện lên những tình cảm chân thành, không thể phai mờ. Bài thơ Bếp lửa đã để lại trong lòng chúng ta những dư vị ngọt ngào.
Suốt bài thơ là những kí ức thời thơ ấu bên bà. Được bà chăm sóc, dạy dỗ, chứng kiến sự trưởng thành của mình. Như một cuộn phim chậm, tất cả những kí ức tràn về, làm đầy lòng tác giả với cảm xúc dâng trào. Hồi ức vẫn còn nguyên, và hiện tại trong tâm trí nhà thơ, những suy tư sâu xa bắt đầu nảy sinh:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Liệu đó có phải là sự nhấn mạnh, việc làm nổi bật những khó khăn trong cuộc đời bà? Cuộc đời của người bà đan xen trong hai từ 'lận đận'. Bao nhiêu gian khổ, vất vả, khó khăn, 'biết mấy nắng mưa', bà âm thầm chịu đựng để lo lắng và chăm sóc cho con cháu. Mấy chục năm đã trôi qua, chiến tranh vẫn còn, khó khăn vẫn chưa dừng lại, nhưng bà vẫn 'giữ thói quen dậy sớm'. Cuộc đời bà vẫn tiếp tục gian khổ, vất vả như vậy, dường như không bao giờ kết thúc. Bà là người thức khuya, dậy sớm, chịu nhiều gian khổ nhất trong nhà, nhưng cũng chính là người khơi lên ngọn lửa của tình yêu thương trong gia đình:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Từ 'nhóm' lặp lại nhiều lần trong khổ thơ như lời khẳng định: bà chính là người nhóm lên trong lòng cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của đức hy sinh cao cả. Khi nhóm lên 'lửa ấp iu nồng đượm', bà đã dạy cho cháu tình yêu thương những người ruột thịt. Nhóm tình quê 'khoai sắn ngọt bùi', bà dạy cháu tình yêu thương xóm làng, yêu mảnh đất quê nghèo. 'Nhóm nồi xôi gạo mới mẻ chung vui', bà dạy cháu phải luôn mở lòng ra với mọi người xung quanh.
Bếp lửa của bà khó khăn, nhọc nhằn, vất vả. Bà nuôi cháu khôn lớn bằng bếp lửa ấy. Vậy mà giờ đây, cháu đã du học tận trời Nga xa xôi, xa bà, xa quê hương, xa Tổ quốc. Cuộc đời của cháu như một câu chuyện cổ tích. Và ở đấy, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng đỡ từng bước đi của cháu. Cháu đã trưởng thành từ bếp lửa của bà. Từ cuộc sống nghèo khổ, bà ươm mầm ước mơ cho cháu đi du học phương xa. Tất cả những gì cháu có được ngày hôm nay chính là nhờ ngọn lửa trong bà, ngọn lửa ấy chắp cánh cho người cháu tự tin bay vào cuộc đời cao rộng.
Âm điệu câu thơ dạt dào, lan tỏa như lửa ẩm hay đó chính là cảm xúc đang dâng trào trong trái tim để rồi nhà thơ phải thốt lên:
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Câu thơ chỉ với tám chữ nhưng nó tóm gọn suy nghĩ và tình cảm của tác giả dành cho hình ảnh bếp lửa kết hợp với hình ảnh người bà - người truyền lửa, nhóm lửa, giữ lửa, xây dựng tuổi thơ cho cháu. Bà và bếp lửa đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của tác giả, dù lúc này, hai bà cháu đã chia xa.
Từ tình cảm bà cháu, bài thơ lan tỏa ra tình yêu với quê hương, với Tổ quốc. Và hình tượng 'bếp lửa' trở thành niềm tin sâu sắc, kỳ diệu trong tâm hồn tác giả, là nguồn động viên cho người cháu khi bước ra khỏi quê hương đi tìm ước mơ.
Cảm nhận khổ 6 bài thơ Bếp lửa - mẫu 10
Ai sinh ra và lớn lên đều mang theo một hành trang ký ức của tuổi thơ, thời gian trong sáng bên người thân. Bằng Việt cũng không ngoại lệ, ông có một tuổi thơ dịu dàng bên người bà, những kỷ niệm đó luôn hiện hữu dù sau này ông đã trưởng thành và xa nhà. Kỷ niệm về bà và chiếc bếp lửa luôn sống mãi trong ông. Đó là lý do của sự xuất hiện của bài thơ Bếp lửa.
Từ những kí ức về tuổi thơ, người cháu suy ngẫm về cuộc đời của bà. Bà đã hy sinh cả cuộc đời để nhóm lửa bếp và giữ cho ngọn lửa luôn ấm áp, sáng rực trong gia đình:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Bà là một người phụ nữ tầm thường, nhưng giàu lòng hi sinh. Bếp lửa bà được thắp lên mỗi sáng không chỉ bằng lửa bếp mà còn bằng ngọn lửa trong tâm hồn, là ngọn lửa của sự sống, lòng yêu thương và niềm tin. Từ bếp lửa giản dị, quen thuộc, người cháu nhận ra nhiều điều 'kỳ diệu' và 'thiêng liêng'. Ngọn lửa được bà nhóm lên từ lòng dũng cảm của bà đã nuôi lớn tuổi thơ cháu: 'Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ'. Bà âm thầm chịu đựng, hy sinh vì: 'Bố ở chiến khu, bố còn việc bố'. Chính vì thế, đứa cháu cảm nhận được trong bếp lửa giản dị mà thân thuộc có những nỗi vất vả, gian khổ của người bà.
Người cháu năm xưa giờ đã lớn lên, đi xa. Trước mắt là những 'niềm vui trăm ngả', 'có khói trăm tàu', 'có lửa trăm nhà', một thế giới rộng lớn với nhiều điều mới mẻ được khám phá. Nhưng đứa cháu vẫn không ngừng tự hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Mỗi ngày đều tự hỏi “Sớm mai này” là mỗi ngày cháu đều nhớ về bà. Hình ảnh người bà luôn ấm áp và động viên cháu trên con đường phía trước.
Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng 'bếp lửa' mang ý nghĩa cả vật chất và tượng trưng. Giọng điệu tâm tình trầm lắng, sâu sắc đã làm cho người đọc bị cuốn hút. Bài thơ 'Bếp lửa' của Bằng Việt như một triết lý tiềm tàng. Những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ cần được trân trọng và chúng sẽ là động lực trong cuộc hành trình của cuộc đời. Bằng Việt đã thể hiện lòng biết ơn và tình yêu sâu sắc đối với người bà. Biết ơn chính là cách thể hiện tình yêu với quê hương, đất nước khi bước đi xa.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Cảm nhận khổ thơ đầu Vội vàng
- Cảm nhận Làng
- Cảm nhận Người đàn bà hàng chài
- Cảm nhận nhân vật Khách trong Phú sông Bạch Đằng
- Cảm nhận nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều