10+ Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà (điểm cao)
Tổng hợp 10+ Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà điểm cao, hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Dàn ý Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà
- Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà (mẫu 1)
- Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà (mẫu 2)
- Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà (mẫu 3)
- Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà (mẫu 4)
- Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà (mẫu 5)
- Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà (mẫu 6)
- Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà (mẫu 7)
- Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà (mẫu 8)
- Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà (mẫu 9)
- Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà (mẫu 10)
Dàn ý Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà
1. Mở bài
+ Nguyễn Tuân là một tác giả tài hoa, uyên bác, luôn kiếm tìm cái đẹp. Trước cách mạng ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, khi cách mạng thành công ông tìm kiếm vẻ đẹp ngay trong cuộc sống hiện tại. Người lái đò sông Đà là tùy bút tiêu biểu cho những sáng tác sau cách mạng của ông.
+ Ông lái đò chính là chất vàng mười đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân tìm kiếm, người anh hùng trong thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ hình ảnh người anh hùng trong thơ ca Nguyễn Tuân trước cách mạng (Huấn Cao – Chữ người tử tù)
2. Thân bài
+ Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với thiên nhiên hung bạo.
+ Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến: “tay lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, ... chất mun”, đó là ngoại hình khỏe khoắn của con người lao động luôn gắn bó với nghề
+ Là người có lòng dũng cảm, tình yêu nghề: “giữ mái chèo, nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái”
+ Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.
+ Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”, “sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc ... xuống dòng”, ...
+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba:
* Ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo ...” để phá trùng vi thạch trận thứ nhất.
* Ông lái đò “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật, ông ”“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luận phục kích của lũ đá nơi ải nước”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...”
* Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nướng cơm lam và toàn bàn về chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh, ...
+ Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mĩ, luôn miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
3. Kết bài
+ Nêu cảm nhận về hình tượng nhân vật ông lái đò: là đại diện cho con người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, là con người vừa có phẩm chất anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, chứa đựng chất vàng mười đã qua thử lửa.
+ Người lái đò sông Đà là tùy bút xuất sắc miêu tả chân thực vẻ đẹo vừa hung bạo vừa trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, giữa nền thiên nhiên nổi bật lên là vẻ đẹp của những người lao động bình dị.
Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà - mẫu 1
Nhân vật và tự nhiên luôn song hành trong văn học. 'Người lái đò Sông Đà' của Nguyễn Tuân đã thành công trong việc mô tả sự hài hòa giữa hai yếu tố này, tạo ra một bức tranh toàn diện về vùng đất Tây Bắc hoang sơ nhưng đầy màu sắc. Con người trong tác phẩm hiện ra với vẻ đẹp oai vệ, tài năng và khéo léo. Họ là biểu tượng cho những lao động sau Cách mạng và cũng là biểu tượng của sự tiến bộ trong nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Người lái đò trở thành những anh hùng trên dòng nước. Bằng bút tài của mình, Nguyễn Tuân đã tái hiện một cách sống động cảnh đẹp và hung dữ của sông Đà. Mô tả về vùng bờ sông, về thác nước dữ dội, mọi chi tiết đều được miêu tả tỉ mỉ. Những người lái đò không chỉ dũng cảm đối mặt với khó khăn mà còn biến cuộc chiến trở nên dễ dàng. Họ là những nghệ sĩ thực thụ trong nghệ thuật vượt thác, biến mỗi chuyến đi thành một tác phẩm nghệ thuật.
Không chỉ dũng cảm, người lái đò còn là những nghệ sĩ tài hoa trong việc vượt thác. Họ không chỉ am hiểu về sông nước mà còn biết cách đối phó với mọi khó khăn. Mỗi động tác của họ đều được thực hiện một cách linh hoạt và uyển chuyển. Cuộc sống của họ cũng đơn giản và hạnh phúc, không cần phải quá phấn khích với những thử thách hàng ngày.
Bên cạnh những công việc gian khổ, người lái đò cũng biết tận hưởng cuộc sống đời thường. Họ thích thú với những khoảnh khắc bình dị và không cần phải quá lo lắng về cuộc sống hàng ngày. Tác giả nhấn mạnh vào sự đơn giản và bền bỉ của họ, đồng thời ca ngợi sự cống hiến của họ đối với cộng đồng.
Hình ảnh những người lao động hiện lên đẹp đẽ trong các tác phẩm văn học của Nguyễn Tuân, là điểm nhấn sau Cách mạng. Tác giả tìm kiếm vẻ đẹp trong sự bình dị và âm thầm, với ngôn ngữ tinh tế và kiến thức sâu rộng.
Tác phẩm 'Người lái đò Sông Đà' của Nguyễn Tuân không chỉ tái hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc mà còn khẳng định phong cách nghệ thuật tài hoa, uyên bác. Giá trị của tác phẩm này sẽ mãi mãi tồn tại trong lòng độc giả.
Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà - mẫu 2
Tố Hữu đã từng viết:
'Mười năm với Điện Biên vinh quang
Trời nắng hoa đỏ, sử sách vàng'
Sau chiến thắng Điện Biên hào hùng, với hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, miền Bắc tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Dưới sự kêu gọi của Đảng, những người miền Bắc trỗi dậy trong phong trào tình nguyện, đến những vùng đất xa xôi của Tổ quốc để phục hồi kinh tế, làm lành những vết thương chiến tranh. Họ trở lại nhiều hơn cả những nơi từng là trận địa chiến. Tây Bắc Điện Biên trở thành một miền đất hứa. Con người mới của xã hội chủ nghĩa với niềm đam mê đến miền Tây của Tổ quốc. Họ đi đầy tiếng hát, sông, cầu. Cuộc sống trở thành văn chương với sự xuất hiện của nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại. Nếu Nguyễn Khải viết 'Mùa lạc', Nguyễn Huy Tưởng có tác phẩm 'Bốn năm sau', Chế Lan Viên sáng tác 'Tiếng hát con tàu' thì Nguyễn Tuân tạo ra tập tùy bút 'Sông Đà' với mười lăm bài viết từ năm 1958 đến 1960 khi ông thực hiện thực tế trên mảnh đất Tây Bắc. Trong tập tùy bút này, Nguyễn Tuân đã vẽ nên hình ảnh chân thực, sống động của con sông Đà. Linh hồn của tập tùy bút là bài viết 'Người lái đò sông Đà'. Tác phẩm được coi là một trong những kiệt tác của Nguyễn Tuân trong lĩnh vực văn học. Sự thành công của Nguyễn Tuân trong tác phẩm này không chỉ là việc mô tả chân thực, sống động con sông Đà mà còn là việc vẽ nên hình tượng của con người mới trong xã hội chủ nghĩa thông qua hình ảnh ông lái đò Lai Châu. Điều này chứng tỏ ngòi bút của Nguyễn Tuân đã mở ra một trang mới trong văn chương Việt Nam.
Đến với tác phẩm 'Người lái đò sông Đà' của Nguyễn Tuân, độc giả văn chương đầu tiên sẽ phải ngạc nhiên trước hình ảnh chân thực và sống động của con sông Đà được nhà văn tài hoa này xây dựng. Dòng sông hiện lên đầy bất ngờ, đầy lãng mạn và thơ mộng. Tuy nhiên, con sông Đà chỉ là bối cảnh cho hình ảnh của con người mới trong xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là ông lái đò Lai Châu. Chỉ khi ông xuất hiện, bức tranh Đà Giang của Nguyễn Tuân mới hoàn chỉnh vì ông chính là chủ thể của bức tranh thiên nhiên. Điều này là nhờ Nguyễn Tuân đã hiểu được lý tưởng của Đảng. Trong văn chương, những người nghệ sĩ cách mạng, dù thiên nhiên hùng vĩ, mĩ lệ đến đâu, cũng chỉ là nền tảng cho sự hiện diện của con người. Con người làm chủ thiên nhiên, làm chủ núi rừng, làm chủ dòng sông, làm chủ cuộc sống. Ông lái đò Lai Châu là một người như vậy.
Nguyễn Tuân viết thành công về ông lái đò Lai Châu trong tác phẩm của mình vì ông là một nhà văn của chủ nghĩa duy mĩ, dành cả cuộc đời để tôn vinh cái đẹp. Vì vậy, nhân vật của Nguyễn Tuân, dù làm bất kỳ công việc gì, cũng phải là một nghệ sĩ trên lĩnh vực của mình. Chúng ta đã từng biết đến một Huấn Cao với vẻ đẹp của chữ viết, một nghệ sĩ của văn chương. Đó cũng là một Bát Lê trong 'Bữa rượu máu', một đao phủ trở thành một nghệ sĩ kiếm thuật qua bàn tay của Nguyễn Tuân... Ở đây, ông lái đò Lai Châu cũng là một nghệ sĩ như thế. Dù đã bước vào tuổi bảy mươi nhưng khi lái thuyền trên dòng sông Đà đầy thác nước dữ dội, nhưng ông vẫn giữ vững tay lái. Ông làm chủ dòng sông Đà, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống của mình. Ông là một nghệ sĩ trên dòng sông mà Nguyễn Tuân đã tìm thấy ở Tây Bắc. Có thể khẳng định rằng người nghệ sĩ trên dòng sông Đà đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân.
Như vậy, ta có thể nhận thấy ông lái đò Lai Châu đã được tái hiện một cách tôn trọng đặc biệt dưới bút của Nguyễn Tuân. Điều này chỉ có thể xảy ra với một Nguyễn Tuân sau khi cách mạng tháng Tám đã được chiếu sáng bởi Đảng và được nhân dân nuôi dưỡng. Ông đứng giữa lòng nhân dân và nhân dân là nguồn cảm hứng cho nghệ thuật. Sự kết nối này được Tố Hữu thể hiện thành một hình tượng thơ đẹp:
'Nhân dân là biển
Văn nghệ là thuyền
Thuyền vượt sóng lớn
Sóng đẩy thuyền tới'
Trước cách mạng, Nguyễn Tuân sống trong thế giới cá nhân của mình, tập trung vào bản thân là một nhà văn lãng mạn tiêu biểu. Ông tập trung viết về những con người tinh túy, lớn lao như Huấn Cao trong tác phẩm 'Chữ người tử tù', lấy cảm hứng từ nguyên mẫu ngoài đời là Cao Bá Quát. Sau cách mạng, Nguyễn Tuân đã đi từ cái 'Tôi' cá nhân đến cái 'Ta' cộng đồng. Tuy nhiên, 'Tôi' của Nguyễn Tuân không mất đi mà ngược lại, nó được chiếu sáng bởi Đảng và nhân dân và trở nên đa chiều hơn, nhạy cảm hơn. Ông tìm thấy anh hùng trong cuộc sống hàng ngày của những người dân bình thường. Vì vậy, sau cách mạng, Nguyễn Tuân đã viết nhiều về các anh hùng như bộ đội, dân quân, du kích... Đó là những con người anh hùng trong cuộc sống bình thường, những con người rất bình dị. Ông lái đò Lai Châu là một ví dụ điển hình. Để khẳng định rằng anh đã tìm thấy chủ nghĩa anh hùng trong những người dân bình thường, Nguyễn Tuân đã tạo ra ông lái đò Lai Châu với một tên không rõ để ông cũng trở thành một con người bình thường như hàng ngàn dân Tây Bắc khác. Họ đều bình thường nhưng cũng là anh hùng, như Nguyễn Khoa Điềm đã viết:
'Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tĩnh
Không ai nhớ tên
Nhưng họ đã xây dựng đất nước'
Thêm vào đó, như đã đề cập trước đó, 'Người lái thuyền sông Đà' đặc biệt cũng như tập tùy bút 'Sông Đà' tổng thể được sáng tác vào những năm 1958 - 1960. Trong thời kỳ này, miền Bắc đang trải qua quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo lời kêu gọi của Đảng, các nhà văn đã hướng về Tây Bắc để khám phá tâm hồn văn hóa, xây dựng hình ảnh con người mới của xã hội chủ nghĩa trong văn học. Đó là anh Nhẫn trong 'Cỏ non' của Hồ Phương, anh Khôi trong 'Nước về', Quyên trong 'Cái sân gạch' của Đào Vũ, một thanh niên vô danh trong 'Lặng lẽ Sa Pa' của Nguyễn Tuân Long, là Huân, là Đào, là Duệ, là Dịu, là Lâm trong 'Mùa lạc' của Nguyễn Khải... Đồng hòa vào phong trào của Đảng, Nguyễn Tuân cũng tìm thấy hình ảnh của con người mới của xã hội chủ nghĩa, ông lái thuyền Lai Châu. Có thể khẳng định rằng họ chính là những bông hoa rực rỡ trong vườn hoa xã hội chủ nghĩa.
Như đã đề cập, ông lái thuyền Lai Châu trong tác phẩm này là một nhân vật không được đặt tên. Điều này cho thấy Nguyễn Tuân không có ý định tạo dựng hình ảnh ông theo một kiểu nhân vật điển hình. Nói cách khác, ông lái thuyền Lai Châu không phải là một biểu tượng văn học vì nhân vật điển hình luôn có tên, có địa chỉ cụ thể, có hoàn cảnh đặc trưng. Ông lái thuyền Lai Châu dù chỉ là một nhân vật vô danh trong cuộc sống hàng ngày nhưng ông lại có một vị trí đặc biệt trong trái tim của người yêu văn Nguyễn Tuân. Trong suốt mười năm gắn bó với nghề lái thuyền, mỗi ngày ông phải đối mặt với những thử thách khắc nghiệt của dòng sông Đà, nơi giữa sự sống và cái chết chỉ cách nhau một sợi tơ mảnh. Điều này đã khiến cho mười năm trở nên dài như thế kỷ.
Cuộc sống liên tục gắn bó với sông nước đã tạo nên nét đặc biệt của ông lái thuyền Lai Châu. Nguyễn Tuân đã chỉ ra những đặc điểm độc đáo đó: Tay ông như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh gò lại như cái cần lái thuyền trong tưởng tượng. Ông lái thuyền Lai Châu đã rời nghề lái thuyền được vài chục năm nhưng mỗi ngày, ông vẫn cảm giác như mình đang lái thuyền trên dòng sông. Tiếng nước sôi thác vang vọng vẫn còn trong giọng nói của ông. Đôi mắt của ông như mơ màng, nhìn về phía bờ sông nào đó trong sương mù. Đã bước sang tuổi bảy mươi nhưng ông vẫn giữ vững sức khỏe. Đầu óc lẻn vào một thân hình mạnh mẽ và tráng kiện. Người ta thường nói 'đôi mắt già, hai bàn tay khó khăn'. Nhưng với ông lái thuyền, có lẽ điều Nguyễn Tuân quan tâm là đôi bàn tay của ông. Đôi tay ấy vẫn trẻ trung đến lạ thường, khiến cho thời gian dường như đã ngừng lại trên con đường tuổi tác của ông. Thậm chí, là điều bình thường khi sống lâu trong cảnh vất vả thì con người sẽ già nua. Nhưng với ông lái thuyền Lai Châu, từ khuôn mặt đến nụ cười, đều toát lên vẻ trẻ trung của tuổi thanh xuân. Điều này là tiền đề để Nguyễn Tuân viết nên những dòng văn tuyệt vời: 'Khuôn mặt của ông vui vẻ với nửa bờ môi mỉm cười'.
Không chỉ giới hạn ở đó, ngòi bút tài ba của Nguyễn còn đi sâu vào để miêu tả những đặc tính riêng biệt của ông lái thuyền Lai Châu. Dù biết rằng sông Đà là một dòng sông đặc biệt trên đất nước này. Điều này đã được Nguyễn Quang Bích khẳng định nhiều lần:
'Những người thủy thủ Đông tẩu
Sông Đà lạc loài Bắc lưu'
Sự độc đáo của dòng sông Đà đã tạo nên sự hung dữ của nó. Để vượt qua được dòng sông Đà hung dữ, ông lái thuyền Lai Châu đã thể hiện bản thân mình như một người có tính cách phi thường như 'chim hải âu chỉ thích đối mặt với sóng dữ'. Ông chỉ thích lướt sóng, lướt thuyền trên dòng 'thác hùng bề đá đỏ rực trên sông'. Ông đã từng nói rằng 'Lái thuyền trên sông Đà khi không có sóng là rất dễ chán chường và rất dễ buồn ngủ.' Do đó, một người thích đối mặt với gian khổ, sẵn lòng hy sinh, ông lái thuyền Lai Châu thực sự là một con người có tính cách phi thường. Tổng quan, đây là sự phản ánh của tài năng văn chương của Nguyễn Tuân. Ông không ưa những điều bình thường, quen thuộc vì 'bình thường là cái chết của nghệ thuật'. Vì vậy, Nguyễn Tuân đã khẳng định vị thế của mình trên bảng văn chương thông qua những chủ đề góc cạnh để thể hiện tài năng, phong cách của một nghệ sĩ được giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đánh giá cao.
Ngoài ra, ông lái thuyền Lai Châu còn là một người có trí nhớ xuất sắc. Trí nhớ của ông giống như một quyển sách về thủy văn sông Đà. Ông nhớ đến từng chi tiết, như đang khắc sâu vào tâm trí từng con thác. Dù đã từng rời nghề nhiều năm nhưng khi Nguyễn Tuân đi khảo sát sông, ông vẫn có thể kể chi tiết về năm mươi trong tổng số bảy mươi ba con thác từ biên giới Việt - Trung đến Chợ Bờ. Ông hiểu rõ về tính cách và cấu trúc của từng con thác, từng đá cột ở đây từ cách chúng xếp hàng đội hình cho tới chiến thuật chiến đấu của chúng. Điều này không chỉ là biểu hiện của trí nhớ của một con người mà còn là biểu hiện của sự đam mê nghề nghiệp, xem nghề là nghiệp. Ông đã gắn bó với nghề nghiệp của mình như con ong gắn bó với việc làm mật từ những bông hoa của cuộc sống. Không có sự chăm chỉ của con ong, hoa sẽ không thể trở thành mật ngọt. Có thể khẳng định rằng, nếu coi ông lái thuyền như những con thác trên sông Đà như một nghệ sĩ đang làm nên tác phẩm của mình, coi sông Đà như một tác phẩm ca ngợi về vẻ đẹp dữ dội của Tây Bắc, thì ông lái thuyền Lai Châu chính là một phần của tác phẩm ấy, từng dấu chấm, dấu phẩy.
Không chỉ có trí nhớ xuất sắc, tính cách phi thường, ông lái thuyền còn là một người rất mạnh mẽ. Mỗi khi lái thuyền trên sông Đà, ông luôn phải tập trung cao độ, sẵn sàng đối mặt với mọi thử thách. Ông phải luôn sẵn sàng với mắt, chân, tay, gân và cả trái tim. Một chút lơ là là sẽ gây ra tai nạn, thậm chí làm chìm thuyền dưới dòng sông Đà như Nguyễn Tuân đã mô tả: 'Có những thuyền đã bị cuốn xuống, rồi bị vỡ tung trôi theo dòng, bị chìm và mất mạng dưới lòng sông trong vòng mười phút sau khi chìm.' Tuy nhiên, ông lái thuyền Lai Châu vẫn vượt qua những thách thức của dòng sông hung dữ bởi ông là một người gan dạ. Trước những đợt sóng, người khác có thể sợ hãi nhưng ông lại dũng cảm chèo thuyền, nắm chặt lấy cạnh sóng để vượt qua. Đã có những lúc thuyền của ông bị hỏng chèo, rơi vào tình trạng nguy hiểm, nhưng ông vẫn giữ vững tinh thần, chỉ huy thuyền một cách sắc bén và tỉnh táo vì ông là một người gan dạ hơn người.
Ngoài ra, tôi đã thấy người lái đò Lai Châu có kỹ năng tuyệt vời. Cách anh ta điều khiển thuyền trên dòng sông Đà thật sự là một nghệ thuật. Anh ta biết cách điều chỉnh nhịp chèo linh hoạt, từ nhẹ nhàng đến mạnh mẽ, quyết đoán. Anh ta nhớ rất rõ mọi chi tiết trên sông, từ con thác đến tảng đá, và biết cách vận hành thuyền một cách trôi chảy. Đôi khi anh ta tránh những chướng ngại để giảm sức đẩy, nhưng cũng có lúc anh ta vượt qua bằng cách chặt đôi thuyền. Thuyền của anh ta trôi nhẹ nhàng như cây tre lướt qua cánh cổng đá mở. Khi đến đoạn sông yên bình, anh ta thường ngồi thư thả, tận hưởng cảnh đẹp xung quanh. Tối về, chúng tôi thường dừng lại trong một hang đá để nấu cơm lam và chia sẻ những câu chuyện về cuộc sống, cũng như về sự đa dạng của hệ sinh thái sông Đà. Nguyễn Tuân không ghi nhận những chiến công, bởi vì ở đây, tính anh hùng là một phần của bản sắc dân tộc. Đối diện với sự khiêm tốn của người dân Tây Bắc, tôi không thể tự đặt mình lên trên hết. Điều này làm cho câu văn của tôi trở nên dễ chịu hơn, không cầu kỳ, không quá dài dòng, nhưng vẫn đầy ý nghĩa.
Bằng bài viết 'Người lái đò sông Đà', tôi đã thành công trong việc vẽ nên hình ảnh của người nghệ sĩ lái đò. Anh ta thực sự là một nghệ sĩ trên sông nước. Dù thuyền đi qua những con thác nguy hiểm, nhưng anh ta vẫn điều khiển thuyền một cách điêu luyện. Điều quan trọng là anh ta là biểu tượng của sự đẹp trong xã hội mới, những người sống một cách khiêm nhường, sẵn sàng hy sinh cho sự phát triển của đất nước. Đó thực sự là một bức tranh chân thực về con người mới, những người thực hiện công việc lớn mạnh cho sự thống nhất đất nước.
Có thể khẳng định rằng bài viết 'Người lái đò sông Đà' đã phản ánh đầy đủ phong cách và tài năng của tôi. Mọi người yêu quý tôi vì tôi có tài năng. Họ tôn trọng tôi vì tôi là một người nghệ sĩ thực thụ, một người mang đến vẻ đẹp trong sáng của nghệ thuật. Tuy nhiên, không phải ai cũng thích văn của tôi, đặc biệt là những bài tùy bút vì chúng thường dài và khá khó hiểu. Bài viết 'Người lái đò sông Đà' cũng có nhược điểm như vậy. Tuy nhiên, với việc tôi miêu tả về người lái đò và những đóng góp của mình trong văn học, tôi tin rằng mình là một tài năng lớn, một nhân vật có ảnh hưởng, đúng như lời của Nguyễn Minh Châu: 'Tôi là một định nghĩa về người nghệ sĩ'.
Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà - mẫu 3
Một tác phẩm văn học đích thực cần có những nhân vật đặc biệt, phản ánh hoàn cảnh và tâm hồn của nhân dân. Trong 'Người lái đò sông Đà', Nhà văn Nguyễn Tuân đã tạo ra một nhân vật đầy cảm xúc, đặc sắc.
Dưới bàn tay tài hoa của Nguyễn Tuân, bức tranh thiên nhiên sông Đà được tái hiện sống động, tạo nên nền tảng tuyệt vời cho sự nổi bật của người lao động. Nhân vật ông lái đò được mô tả rất sinh động, với những đặc điểm về ngoại hình và tính cách, tạo ra ấn tượng sâu sắc cho người đọc.
Nguyễn Tuân đã kết hợp tình yêu sâu đậm đối với sông Đà vào việc tạo dựng nhân vật ông lái đò. Ông là một phần của dòng sông, hiểu biết và yêu thương nó đến mức tận xương tủy. Tính cách của ông được thể hiện qua các trận đấu cam go với thiên nhiên dữ dội. Trong trận đấu thứ hai, sự mạnh mẽ và quyết liệt của dòng sông Đà được thể hiện rõ nét. Nhưng ông lái đò vẫn giữ vững sức mạnh và sự kiên nhẫn, vượt qua mọi khó khăn để chinh phục thác nước. Sức mạnh của con người khi đối mặt với thiên nhiên đã được tôn vinh qua bút pháp của Nhà văn Nguyễn Tuân.
Ông thuyền trưởng với bàn tay không ngừng, đôi mắt không lơi chút nào, giải phóng con thuyền khỏi vòng vây nguy hiểm mà thay đổi chiến thuật một cách tự tin. Ông đã làm chủ tình hình như một người cưỡi sóng sông Đà như cưỡi một con hổ, bám chặt vào cuộc chiến với sự quyết đoán và táo bạo. Những hành động mạnh mẽ liên tiếp nhau mang đến cho người đọc cảm giác như đang tham gia vào trận chiến giữa những đợt sóng lớn, tôn vinh những phẩm chất tinh thần như sự thông minh, dũng cảm và kiên định của ông thuyền trưởng.
Nguyễn Tuân thực sự là một nghệ sĩ tài ba với khả năng ca ngợi những người lao động trong môi trường khắc nghiệt nhưng lại đầy sức sống và vẻ đẹp. Hình tượng của ông lái đò trong bài viết 'Người lái đò sông Đà' là một minh chứng rõ ràng cho điều này, với những nét đẹp và tinh thần nghệ sĩ sáng tạo trong nghề.
Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà - mẫu 4
Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa, cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng được ví như bản trường ca bất tận rừng già của sông Đà. Song song với hình tượng con sông Đà vừa dữ dội, vừa dịu dàng ấy, là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà vừa hung hiểm vừa xinh đẹp.
Nguyễn Tuân đã có nhận xét ban đầu như thế này “Cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”. Để thấy rằng cuộc sống mưu sinh trên dòng sông hùng vĩ kiêu ngạo ấy phải vất vả, gian lao biết mấy, có lẽ là nơi chỉ dành cho những chàng trai lực lưỡng trẻ khỏe, đủ can đảm mà chiến đấu với con sông mang tâm tình bất định “lúc van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, như một con thú với tiếng rống “như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa…”. Ấy thế mà chẳng như chúng ta hằng tưởng tượng, người lái đò ấy lại là một ông lão, phải, là một ông lão đã tầm bảy mươi, ở độ tuổi thất thập cổ lai, với bao người là độ tuổi được an hưởng tuổi già, chứ chẳng phải lênh đênh kiếm kế mưu sinh trên sóng nước hiểm trở.
Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò đầy xuất sắc với hai vai trò nổi bật, vừa là một chiến sĩ can trường trên mặt trận sông nước với vũ khí duy nhất là mái chèo, vừa là một người nghệ sĩ tài hoa hằng ngày vẫn viết nên bản những bản hùng ca tuyệt đẹp về sức mạnh của những con người lao động. Theo Nguyễn Tuân, ông lái đò đã xuôi ngược trên sông Đà không dưới trăm lần, trong đó đã có tới 60 lần ông cầm lái chính. Hình ảnh ông lái đò Lai Châu hiện lên với một vẻ ngoài đầy phong sương, cơ thể in hằn mùi sông nước, gắn liền với nghề nghiệp của ông “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xe nào đó,…” đặc biệt trên ngực ông có nhiều “củ nâu” đó là vết tích của những ngày tháng chiến đấu vật lộn với sông Đà, mà Nguyễn Tuân đã dí dỏm ví nó như là “những huân chương lao động siêu hạng”.
Ông lái đò không phải là người an phận ngược lại ông thích đương đầu với hiểm nguy, khó khăn, với những pha hành động gay cấn, thế nên ông thích đi qua những ghềnh thác khó nhằn của con sông Đà, ông bảo rằng: “Chạy thuyền trên khúc sông không có thác nó dễ dạy, chân tay dễ buồn ngủ”. Dù tuổi đã cao, nhưng ông luôn mang một tâm hồn trẻ khỏe, hiếu chiến, bản tính mạnh mẽ, can trường, niềm tin yêu cuộc sống, cùng sự gắn bó với nghề nghiệp và con sông Đà hùng vĩ, công việc của ông nghiễm nhiên trở thành niềm đam mê bất diệt, là niềm vui trong cuộc sống lao động vốn vất vả của ông. Chỉ bằng những nét khái quát như vậy, hình ảnh ông lái đò của Nguyễn Tuân đã để lại một dấu ấn sâu sắc, ấn tượng trong lòng độc giả. Sông Đà trong lòng ông lái đò như một bản thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng, thuộc đến “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, sự tài hoa, tỉ mẩn ấy được tác giả ví như “đóng đanh vào lòng”. Ông lái đò cũng nắm vững “binh pháp của thần sông thần núi”, như một vị tướng tài vận dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử “biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng”, lại cũng như một người nghệ sĩ chuyên nghiệp nắm rõ cái mặt trận nghệ thuật đầy cam go của mà ông đã theo đuổi gần hết đời người. Trong cuộc chiến không cân sức, giữa người lái đò lẻ loi, cùng con sông Đà hung bạo, nguy hiểm, ông lái đò như một người hùng cưỡi chiến mã, tay vung gươm vượt qua kẻ địch, như chiến thần Triệu Vân của Tam Quốc, đơn thương độc mã phá vòng vây quân thù, chỉ khác mỗi điều mặt trận của ông là mênh mông sóng nước.
Trên cái mặt trận hung hiểm, trèo thác vượt ghềnh ấy, đòi hỏi người chiến sĩ phải cực kỳ dũng cảm và bình tĩnh để ứng phó với mọi sự biến đổi khôn lường, giảo hoạt của con sông, bởi chỉ sơ sẩy một chút thôi thì đến mạng cũng chẳng còn, nói gì đến chuyện làm một người nghệ sĩ tài hoa trên con sông Đà nghệ thuật. Nguyễn Tuân đã đặt cho những khó khăn, cửa ải mà ông lái đò phải vượt qua một cái tên rất “nhà binh” và cũng đầy tính nghệ thuật là “trùng vi thạch trận”. Ông lái đò đã xuất sắc lần lượt vượt qua những cửa ải hung hiểm ấy một cách điêu luyện, mặc dù có những lúc đã bị thương, nhưng nỗi đau đớn ấy chẳng thấm vào đâu so với việc bị mất mạng. Bằng kinh nghiệm dày dạn và lòng dũng cảm, một tinh thần vững chãi cùng lòng tự tin đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, cũng hiểu rõ phải chống trả, tránh né làm sao để qua được ải đầu tiên, ông lái đò bước vào “trùng vi thạch trận thứ nhất” đầy căng thẳng. Có những lúc trúng đòn hiểm, đau đớn đến “mặt méo bệch đi”, nhưng ông làm sao dám buông lỏng, chỉ cố nhịn đau mà “kẹp chặt lấy cuống lái”, bình tĩnh vượt qua trùng vi thạch trận thứ nhất, thế là qua được một ải. Không một phút nghỉ tay nghỉ mắt, ở trùng vi thạch trận thứ hai ông lập tức thay đổi chiến thuật “đánh nhanh thắng nhanh”, không cho con sông Đà có một cơ hội phải kích nào.
Vòng thứ hai này có phần hung hiểm hơn trước khi “tăng thêm nhiều cửa tử để lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại bố trí lệch sang bờ hữu ngạn”. Thế nhưng cái bẫy đó cũng chẳng qua nổi con mắt tinh tường của ông lái đò, bởi ông đã nắm chắc “quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này”. Ông ví lái đò qua khúc này như “cưỡi hổ phải cưỡi tới cùng”, phải nắm đúng cái “bờm sóng”, rồi cứ thế “phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy”. Ngặt thay lại có một bọn đá định lôi con thuyền vào tập đoàn cửa tử, thì ông đò “vẫn nhớ mặt bọn này”, bọn thác đá vẫn không ngừng khiêu khích, nhưng chúng chỉ như đang làm trò hề trước mặt ông đò, bởi ông đã tự tin “tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên chặt đôi mà mở đường tiến”. Thế là xong nốt ải thứ hai, nhanh và chuẩn xác. Nói nghe thì dễ đấy, nhưng có mấy ai đủ bình tĩnh và tay chèo điêu luyện để nhằm trúng vào cửa sinh như ông lái đò Lai Châu? Còn một ải cuối nữa, ải này “ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sóng ở chặng ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác”, mới nghe đã thấy khó khăn đủ bề, nhưng ông đò rất mạnh dạn “phóng thẳng thuyền, chọc thủng giữa cửa đó” ,“thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước”. Vậy là qua hết cả ba ải, mà ải nào cũng nguy hiểm vô cùng, con sông lại trở về với vẻ thanh bình, lặng lẽ.
Đọc hết đoạn vượt thác đầy cam go, gay cấn của ông lái đò Lai Châu, ta cứ cảm tưởng mình vừa coi một bộ phim hành động nghẹt thở, hồi hộp đến từng phút giây, mà ông lái đò chính là nhân vật chính. Hình ảnh người lao động anh hùng, hằng ngày chiến đấu vật lộn với thiên nhiên trong nguy hiểm trùng trùng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp và sức mạnh của con người trước thiên nhiên hùng vĩ và kiêu ngạo. Đây là một cuộc chiến không cân sức, nhưng bằng sự thông minh, gan dạ, kiên cường bất khuất, con người lao động đã chế ngự, vượt lên trên cái sự khiêu khích, hằn học của thiên nhiên. Hình tượng ông lái đò được tác giả xây dựng trên hai vai trò, vừa là người chiến sĩ anh hùng, quả cảm, vừa là người nghệ sĩ tài ba đã viết nên một bản hùng ca tuyệt đẹp về cuộc sống lao động, về nghệ thuật chèo lái trên con sông Đà rộng lớn. Nguyễn Tuân có một quan điểm nghệ thuật đầy mới mẻ, có phần tương đồng với một số tác giả như Nam Cao hay Nguyễn Huy Tưởng, ông cho rằng nghệ thuật không phải chỉ là những người nghệ sĩ với những hình tượng thơ mộng, mơ hồ cao xa như mây-trăng, gió-núi, mà người làm nghệ thuật còn là những người lao động, vốn đã nhuần nhuyễn, đạt đỉnh cao điêu luyện trong chính nghề nghiệp của mình thì cũng là người làm nghệ thuật chân chính, thứ nghệ thuật ấy chính là nghệ thuật trong lao động. Bởi trong những con người ấy chất chứa cả một niềm đam mê sâu sắc, niềm tin yêu, luôn tìm cách sáng tạo, đột phá, tạo ra những cung đường mới mẻ cho nghề nghiệp của mình.
Hình tượng người lái đò sông Đà được xây dựng rất thành công qua ngòi bút độc đáo và sáng tạo của Nguyễn Tuân. Trong hơi thở văn chương ấy, nhà văn đã khẳng định được tài năng và sức mạnh cường đại của con người, cuộc chiến không cân sức giữa con người lao động và thiên nhiên kỳ bí vốn có nhiều cam go, vất vả. Nhưng bằng sự thông minh, sáng tạo, đức tính kiên cường, tỉ mỉ vốn ăn sâu vào máu của những người lao động, họ đã chiến thắng một cách huy hoàng, vẻ vang nhất, trở thành người nghệ sĩ tài ba trên chính mặt trận tìm kế sinh nhai của mình.
Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà - mẫu 5
Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống. Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.
Tùy bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc. Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.
Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”
Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc họa những nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới: chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà. Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.
Người lái đò hiện lên trước hết là một người lao động từng trải, có nhiều kinh nghiệm đò giang, có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, nếu không phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. nhà văn gọi đây là cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như một trận đánh mà đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một:
“Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này… Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn. Mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn...”
Trong thạch trận ấy, người lái đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, ông lão vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm. “Phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất”, người lái đò “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Trong cuộc chiến không cân sức ấy, người lái đò chỉ có một cán chèo, một con thuyền không có đường lùi còn dòng sông dường như mang sức mạnh siêu nhiên của loài thuỷ quái. Tuy nhiên, kết cục cuối cùng, người lái đò vẫn chiến thắng, khiến cho bọn đá tướng tiu nghỉu bộ mặt xanh lè vì phải chịu thua một con thuyền nhỏ bé.
Người lái đò trong tác phẩm là một người lao động vô danh, làm lụng âm thầm, giản dị, nhờ lao động mà chinh phục được dòng sông dữ, trở nên lớn lao, kì vĩ, trở thành đại diện của CON NGƯỜI. Người lao động nhờ ý chí kiên cường, bền bỉ, quyết tâm mà chiến thắng sức mạnh thần thánh của thiên nhiên. Đó chính là yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Quy luật ở trên con sông Đà là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có thác lại dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ. Chung quy lại, nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng, chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác: sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ. Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi tra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. nhà văn Nguyễn Tuân đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, nhưng nhìn người lái đò tài hoa, chỉ có Nguyễn Tuân.
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật tài hoa uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm không chỉ ngợi ca vẻ đẹp kì vĩ thơ mộng của thiên nhiên Tây bắc mà còn ca ngợi vẻ đẹp bình dị, anh hùng mà tài hoa của người dân lao động nơi đây. Qua đó, nhà văn Nguyễn Tuân bộc lộ tình yêu đất nước, niềm tự hào hứng khởi, gắn bó tha thiết với non sông Việt.
Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà - mẫu 6
Nguyễn Tuân được mệnh danh là nhà văn của cái tuyệt mĩ. Cả cuộc đời ông là hành trình tìm kiếm vẻ đẹp toàn bích của cuộc đời và thiên nhiên. Đó chính là sợi dây chỉ đỏ xuyên suốt chi phối toàn bộ sáng tác của ông. Mặc dù vậy trước và sau cách mạng ta cũng có thể thấy sự chuyển biến lớn trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Tuân. Sau cách mạng nhân vật đánh dấu sự đổi mình ấy chính là người lái đò Lai Châu trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Người lái đò không được nêu rõ tên mà chỉ được Nguyễn Tuân gọi bằng cái tên chung ông lái đò Lai Châu, tuổi đã ngoài 70 cả cuộc đời gắn liền với con sông Đà vừa hung bạo, vừa trữ tình. Ngoại hình của người lái đò chỉ được Nguyễn Tuân phác họa bằng những nét hết sức ngắn gọn “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”.. Chỉ với những lời giới thiệu hết sức ngắn gọn, nhưng ta cũng có thể thấy được chân dung của một con người cả đời gắn bó với thiên nhiên, con người nơi đây.
Sau những nét vẽ phác họa, Nguyễn Tuân đi sâu vào sự từng trải, tay nghề điều luyện tài ba của ông trong một lần vượt thác sông Đà. Sông Đà là con sông đầy hiểm ác, với những cái bẫy chết người dụ những người lái đò sập bẫy. Nhưng dù sông Đà có thâm hiểm, xảo quyệt bao nhiêu thì bằng sự nhanh nhẹn, dũng cảm của mình, ông lái đò vẫn bình tĩnh đưa mình và những người khác vượt qua sông Đà thành công. Cả cuộc đời gắn bó với sông Đà, nên số lần ông vượt qua con sông này đã nhiều vô số kể. Ông đi trên sông Đà, lái lướt chẳng khác nào người ta đi bộ trên đất. Với ngòi bút miêu tả sinh động, Nguyễn Tuân đã tái hiện hoàn chỉnh một lần ông lái đò vượt thác. Sông Đà bày binh bố trận với những cửa tử, cửa sinh khác nhau, mà cửa tử nhiều hơn cửa sinh. Qua mỗi trùng vi thạch trận, ông lái đò đều biến đổi linh hoạt phương thức tác chiến, khi đè sấn lên thác mà đi, khi lại chặt đôi sóng mà tiến,… Dưới sự điều khiển của ông lái đò, con thuyền vun vút lao đi, lấn lên phía trước. Nhưng không phải lúc nào ông cũng dành thế chủ động, đôi khi những đòn đánh tỉa thâm hiểm cũng làm ông lái đò bệch mặt. Nhưng điều đó vẫn không làm ông nao núng tinh thần, bình tĩnh, chủ động linh hoạt, ông biến hóa đường đi, tay lái để tiếp chiêu của chúng, vượt qua cửa tử làm cho thạch trận tiu ngỉu ở phía sau.
Người lái đò không chỉ thông thạo, tài năng lái đò xuất chúng mà con hết sức hiên ngang, bình thản đối đầu với sông Đà. Ông coi đó như một niềm vui sống trong cuộc đời mình. Ông tâm sự, ông không thích chèo đò ở những nơi bằng phẳng, những nơi đó khiến chân tay ông dại đi, cơ thể ủ rũ và buồn ngủ. Đối với ông gềnh thác vừa là bạn, vừa là thử thách ông luôn khao khát muốn vượt qua. Cũng chỉnh bởi vậy nên khi phải đối mặt với con sông vô cùng hung bạo, một sống một chết những ông không hề lo lắng, sợ hãi, mà luôn bình tĩnh, chủ động, tinh thần sảng khoái tỉnh táo để chỉ huy con tàu vượt qua khỏi dòng thác dữ.
Vẻ đẹp nổi bật nhất ở ông lái đó chính là mang phong thái của người nghệ sĩ tài hoa. Đối với ông lái đò tài hoa không giống như Huấn Cao với những nét chữ đẹp mà bất cứ ai cũng muốn được để trong nhà mà tài hoa ở đây chính là trong nghệ thuật lái đò của ông – “tay lái ra hoa”. Sông Đà là con thủy quái vô cùng ghê gớm, ở bất cứ trùng vi thạch trận nào cũng phô trương sức mạnh nhằm đoạt lấy tính mạng của người lái đò. Trong trùng vi thứ nhất, chúng phô diễn sức mạnh đá, sóng, nước, nhằm dồn ông vào thế yếu. Tiếp đến trùng vi thạch trận thứ hai chúng biến hóa khôn lường, cửa tử nhiều mà chỉ có duy nhất cửa sinh một lần nữa muốn đoạt mạng người lái đò. Trùng vi thạch trận cuối cùng chúng lại càng tỏ ra hung hãn hơn, sóng, đá, nước lăm le tiến công, nước cuồn cuộn, kêu ùng ục chỉ chờ ông lái đò lơ đễnh là dồn đến. Nhưng bằng kinh nghiệm dạn dày, bằng kĩ thuận lái điêu luyện như một người nghệ sĩ ông lái đò đã bình tĩnh, mọi giác quan được phối hợp linh hoạt, nhịp nhàng đã giúp ông vượt qua mọi chướng ngại, mọi cửa tử để về bến an toàn.
Cuối tác phẩm hình ảnh ông lái đò hiện lên ở vẻ đẹp của bề sâu nhân cách, thể hiện một tấm lòng thiết tha sâu nặng với quê hương. Nhưng năm tháng chiến tranh ác liệt, ông sống ở rừng nhưng cũng không một ngày xa cách con sông đà. Cho đến những ngày hòa bình lập lại, tình yêu ấy vẫn không hề thay đổi. Ông tự hào kể với mọi người về việc trở một đoàn chuyên gia Nga đi khảo sát tình hình. Ông tự hào vì đã góp một phần sức lực nhỏ bé cho quê hương, đất nước.
Từ Huấn Cao cho đến người lái đò sông Đà ta không chỉ thấy những đặc điểm phong cách đậm nét vẫn được bảo lưu mà hơn nữa còn thấy được sử chuyển biến tích cực trong quan niệm về con người của ông. Nguyễn Tuân không còn đi tìm vẻ đẹp của những con người của một thời vang bóng, mà phát hiện vẻ đẹp đó ngay tại đây, ngày trong cuộc sống bình dị này. Đây chính là điểm chuyển biến lớn nhất trong quan niệm nghệ thuật về con người của ông. Họ - những con người lao động bình dị, thậm chí vô danh chính là những người đã góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước.
Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà - mẫu 7
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm gắn bó với đất nước quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý về phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. Người lái đò Sông Đà, đó là một bài tùy bút, cũng là một bài thơ bằng văn xuôi đã thể hiện được những nét tiêu biểu về phong cách đó.
Người lái đò Sông Đà trước hết là một tác phẩm viết về một con người và một con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và tài hoa của ông mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những công trình mĩ thuật, con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện. Bằng sự tiếp cận quan sát và khả năng mô tả cùng với một kho chữ nghĩa vô cùng giàu có, chuẩn xác, Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút độc đáo này.
Người lái đò trên sông Đà trong tác phẩm, trước hết là một ông già bảy mươi tuổi, đã dành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu chục lần..." trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục đối với con người này. "Sông Đà, đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng". Thật là một cách so sánh “rất văn chương" đầy thú vị và cũng "rất Nguyễn Tuân".
Hình tượng người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng, chất mùn" và những cánh tay vẫn là cánh tay của một "chàng trai', "trẻ trắng quá", Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “Vàng mười”, ông đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với những thế lực của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc thuyền nào nhô vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền". Và một mình một thuyền ông đã giao chiến như một dũng sĩ: hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh minh, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, vũ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò, đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông... Cách miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy sức mạnh ghê gớm của dòng thác hung dữ, con người chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo, tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại, "còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang, chứ không có mùi gì cả..”, vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh táo bạo, khơi gợi lạ lùng, tác giả đã tả sông Đả thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một bầy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông "reo lên như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang phải đóng vai một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ". “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay". Lại có những “hút nước" xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi".
Thật là một dòng sông Đà đầy hiểm trở, đầy nguy nan cho con người. Thế nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cải cuống lái..." Mặc dù mặt “méo bệch đi" vì những đòn hiểm, nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhằm đến một mục đích lớn: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt mười lăm năm làm người lái thuyền vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người và thiên nhiên thật ghê gớm, căng thẳng, đầy sáng tạo và con người đã chiến thắng, trở về cuộc sống thanh bình: "Thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hàng lạnh (...). Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam...".
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng, lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về con người lao động. Sau mười năm làm nghề lái đò, cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực người lái đò vẫn còn "bầm tụ” một “củ khoai nâu", với Nguyễn Tuân, “đó cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng".
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức và tri thức về cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ..., tác phẩm còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc, cái đẹp của con người cụ thể, con người lao động Người lái đò Sông Đà. Nguyễn Tuân đích thực là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang.
Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà - mẫu 8
Với "Sông Đà" Nguyễn Tuân đã để thơ vào sông núi Tây Bắc. Và "Người lái đò Sông Đà", một trong 15 bài tùy bút của kiệt tác "Sông Đà" ngào ngạt hương sắc như một cành hoa lan giữa mùa xuân tươi đẹp. Hai hình tượng đầy chất thơ đồng hiện trong bài tùy bút là hình tượng con sông Đà và hình ảnh người lái đò, đúng là "mười phân vẹn mười".
Từ "Vang bóng một thời" đến "Sông Đà", một hành trình 20 năm có lẻ, cụ Nguyễn đã "xê dịch" để đi tìm thứ "vàng mười" còn tiềm ẩn trong lòng người đó đây. Và một trong hàng triệu độc giả, ta càng cảm thấy sâu sắc hơn bao giờ hết "một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ". Ấn tượng ấy càng rõ nét khi ta tiếp cận tùy bút "Người lái đò Sông Đà".
Thế giới nhân vật trên trang văn của Nguyễn Tuân thật đáng yêu vô cùng. Một cụ Kép, lông mày bạc, tóc bạc, râu bạc, thấp thoáng giữa vườn lan "nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà nho để phụng sự hoa thơm cỏ quý" (Hương Cuội). Một cụ Ấm thức dậy lúc mờ sáng, mang phong thái "một triết nhân ngồi tính bước đi của thời gian". Trong ấm trà pha ngon, cụ đã "nhận thấy có mùi và một vị triết lí" (Chén trà sương). Một Huấn Cao tử tù chân vướng xiềng, cổ mang gông, vung bút viết lên tấm lụa bạch những chữ như rồng bay phượng múa, thể hiện "những cái hoài bão tung hoành của một đời con người"( Chữ người tử tù)... Và hình ảnh ông lái đò người Thái (Tây Bấc) có "tay lái ra hoa". Đó là những con người cực kì tài hoa mang cốt cách nghệ sĩ.
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ông lái đò sông Đà hiện lên trong tầm vóc một người lao động bình dị mà phi thường, tâm hồn và phong thái mang cốt cách tài hoa nghệ sĩ. Cũng như trăm nghìn người lái đò khác, ông lái đò sông Đà này có "tay lái ra hoa"đã từng vượt qua bao trùng vây thạch trận, giao phong sinh tử với "lũ đá nơi ải nước". Sau hơn mười năm chèo đò và chỉ huy một con thuyền có 6 mái chèo đã ngược xuôi sông Đà trăm chuyến, chở da trâu, xương hổ, chè, cánh kiến về xuôi, ông nắm vững từng con thác, cái ghềnh, nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá. Bước vào cái tuổi 70, đầu tóc bạc trắng, thân hình ông lái đò vẫn đẹp như một pho tượng tạc bằng đá cẩm thạch. Nước da ánh lẽn chất sừng chất mun. Cánh tay rắn chắc trẻ tráng. Cặp mắt tinh anh, nhãn lực nhìn xa vời vợi. Trên ngực của ông nổi lên một số thương tích trên "chiến trường Sông Đà" mà Nguyễn Tuân ngưỡng mộ gọi là "thứ Huân chương lao động siêu hạng".
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ồng lái đò là sự tài ba dũng mãnh của một vị thuyền trưởng dày dạn thủy chiến. Chất tài hoa nghộ sĩ của ông lái đò là ở bản lĩnh chiến đấu và tinh thần dũng cảm phi thường. Cảnh vượt thác của ông lái đò đã thể hiện rõ vẻ đẹp và cốt cách ấy. Ớ trùng vây thứ nhất, ông lái đò xung trận với khí thế nghênh chiến quyết thắng: "Thạch trận dàn bày vừa xong thì thuyền vụt tới". Cảnh hỗn chiến ác liệt diễn ra. Những hòn đá "bệ vệ oai phong lẫm liệt" được nước thác "reo hò làm thanh viện" liều mạng xông vào "đá trái mà thúc gối vào bụng và hông thuyền". Ông đã bình tĩnh "hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng". Lúc bị sóng thác đánh miếng đòn hiểm độc "bóp chặt lấy hạ bộ" đau điếng, nhưng vị thuyền trưởng "hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái", tiếng chỉ huy của ông vẫn "gọn ngắn tỉnh táo" đưa con thuyền thoát hiểm. Thật là cao cường biết bao!
Trùng vây thứ hai vô cùng hiểm trở, có nhiều cửa tử: "Dóng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá". Ông lái đò tấn công ngay "nắm chặt được bờm sóng" cho con thuyền "phóng nhanh vào cửa sinh". Bọn tướng đá, đứa thì "ông tránh mà rảo bơi chèo lên", đứa thì bị "ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến". Thằng đá tướng thất bại thảm hại "tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng".
Trùng vây thứ ba, bên phải bên trái đều là "luồng chết". Thần sông còn bố trí "bọn đá hậu vệ" của con thác hòng "bắt chết" cái thuyền. Ông lái đò mưu trí "phóng thẳng con thuyền", "chọc thủng" trùng vây rồi "vút qua cổng đá cánh mở cánh khép". Chiếc thuyền như một mũi tên tre "vút, vút" xuyên nhanh qua hơi nước. Thế là hết thác. Sông nước lại thanh bình.
Qua đó, ta thấy ông lái đò oai phong lẫm liệt như một vị danh tướng, trí dũng song toàn, quyết đoán và quyết thắng. Đó là vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò được Nguyễn Tuân khám phá và ca ngợi. Những ẩn dụ, so sánh, nhân hóa được tác giả sử dụng sáng tạo gợi lên cảm giác mãnh liệt đầy ấn tượng. Cảnh vượt thác là bài ca chiến trận hào hùng. Vói niềm hào hứng bốc cao, cụ Nguyễn đã tung vào cuộc đọ trí đua tài của ông lái đò với thần sông, thần đá nơi thác ghềnh Đà Giang cả cái kho ngôn từ giàu có của mình, và vận dụng con mắt và kĩ thuật của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, đặc biệt là hội hoạ, điện ảnh, âm nhạc, và cả khoa học quân sự, kiến thức võ thuật v.v... Câu văn co duỗi, dài ngắn, biến hóa... hấp dẫn lạ thường.
Vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ của ông lái đò còn được thể hiện trong những lúc ngừng chèo nghỉ ngơi. Sau một ngày giao tranh dữ dội với thần sông, thần đá, ông lái đò cùng các bạn chèo nghỉ trong hang đá. Lúc ngừng chco, họ chẳng bàn tán một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi "cửa ải nước tướng dữ quân tợn" vừa rồi. Rất ung dung và thanh thản, ông lái đò vừa nướng ống cơm lam, vừa kể chuyện về cá anh vũ, về cá dầm xanh, về những hang cá mùa khô nổ những tiếng to như mìn bộc phá rồi cá túa ra đầy tràn ruộng. Những câu chuyện rất đời thường nhưng phản ánh một đời sống tâm hồn gắn liền với sông nước rất dung dị mà tài hoa, cần lao mà nghệ sĩ.
Tùy bút "Người lái đò Sông Đà" đích thực là trang hoa, tờ hoa. Nguyên Tuân đã khám phá ra bao vẻ đẹp kì thú trong thiên nhiên và con người, đã nhìn sự vật ở phương diện văn hóa nghệ thuật, nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Mạch văn tự do theo dòng cảm xúc lai láng. Ông lái đò trong bài tùy bút là một sáng tạo nghệ thuật sáng bừng lên vẻ đẹp nhân vãn. Trên cái mênh mang của "Dải sông Đà bọt nước lênh bênh", và giữa lớp lớp trùng vây thạch trận "nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuộn luồng gió gùn ghè", ta thấy ông lái đò người Thái quắc thước và con thuyền 6 tay chèo đang dũng mãnh băng băng lướt qua. Ông lái đò là một bài ca về lao động và sự sống. Hình ảnh ông đẹp quá; một vẻ đẹp Tây Bắc như đang "đề thơ vào sông nước" Đà Giang.
Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà - mẫu 9
Hình tượng người lái đò sông Đà trong tác phẩm "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân là biểu tượng của sự kiên cường, dũng cảm và tài hoa. Qua đó, tác giả không chỉ khắc họa hình ảnh một con người lao động vất vả mà còn thể hiện tinh thần yêu nước và sức mạnh vô cùng to lớn của con người trước thiên nhiên.
Người lái đò sông Đà là một nhân vật có sức mạnh phi thường, vừa có sự hiểu biết thấu đáo về dòng sông, vừa có tài nghệ lái đò điêu luyện. Từ hình ảnh này, ta cảm nhận được một nhân vật không chỉ làm công việc nặng nhọc mà còn có lòng yêu nghề và yêu mến sông nước vô cùng.
Người lái đò sông Đà được miêu tả với một hình ảnh mạnh mẽ, vạm vỡ, “cơ thể rắn rỏi, đôi tay chắc khỏe” như một sức mạnh của tự nhiên. Ngoài vẻ ngoài, còn có đôi mắt sáng ngời, biểu hiện cho sự từng trải và bản lĩnh. Mỗi hành động của ông đều toát lên sự tự tin, mạnh mẽ và một tình yêu vô bờ bến đối với công việc của mình.
Để vượt qua những hiểm nguy của con sông Đà, người lái đò phải là một người can đảm, quyết đoán và đầy kiên nhẫn. Ông không sợ hãi khi đối mặt với những thử thách của dòng sông hung bạo mà luôn bình tĩnh đối mặt với mọi khó khăn. Ngoài sự mạnh mẽ về thể chất, người lái đò còn có phẩm chất dũng cảm, kiên cường trong công việc và đối với cuộc sống.
Sông Đà trong tác phẩm không chỉ là một con sông mà còn là một người bạn đồng hành của người lái đò. Người lái đò không những chiến đấu với sóng gió, mà còn hiểu rõ tính cách của dòng sông, cảm nhận được những sự thay đổi nhỏ nhất của nước. Họ có mối quan hệ mật thiết, gần gũi, tạo nên sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên.
Người lái đò sông Đà không chỉ là hình ảnh của người lao động trí thức mà còn là đại diện cho lòng kiên trì, sự sáng tạo và sự gắn bó mật thiết với thiên nhiên. Họ là hình mẫu lý tưởng của con người Việt Nam trong cuộc đấu tranh gian khổ, là biểu tượng cho những người luôn kiên cường vượt qua mọi thử thách.
Người lái đò sông Đà trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là một hình tượng nhân vật vĩ đại, khắc họa vẻ đẹp của con người trong cuộc sống lao động và trong mối quan hệ hòa hợp với thiên nhiên. Qua đó, tác giả không chỉ ca ngợi những phẩm chất đáng quý của người lao động mà còn thể hiện khát vọng mãnh liệt về sự vươn lên và chiến thắng mọi khó khăn của cuộc đời.
Cảm nhận hình tượng người lái đò sông Đà - mẫu 10
Người lái đò trên chiến trường sông Đà hiện lên với tinh thần dũng cảm, gan dạ và mưu trí. Trong cuộc chiến đấu đầy gian nan, họ vẫn giữ vững và chiến thắng, khiến đối phương phải ghen tỵ.
Sông Đà là một thách thức lớn đối với người lái đò, nhưng họ vẫn giữ bình tĩnh và mưu trí. Dù bị thương nhưng họ vẫn kiên cường vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng cuộc đấu với sức mạnh tự nhiên.
Trong cuộc chiến gian nan, người lái đò chỉ cần một cánh chèo và một con thuyền để chiến thắng. Dù đối diện với sức mạnh lớn, họ vẫn không từ bỏ và giành chiến thắng cuối cùng, khiến đối thủ phải nhượng bộ.
Người lái đò trong tác phẩm được miêu tả là một lao động vô danh, sống giản dị và kiên cường. Nhờ lòng quyết tâm và sức mạnh lao động, họ đã vượt qua mọi thách thức của dòng sông Đà và trở thành biểu tượng của sự vĩ đại của con người.
Phong cách của người lái đò sông Đà được nhà văn miêu tả như một nghệ sĩ tài hoa, ai cũng ngưỡng mộ. Họ hiểu rõ quy luật của sông Đà và tự do trong việc điều khiển thuyền, tạo ra sự hòa hợp và chính xác.
Cuộc sống trên sông Đà đầy nguy hiểm, nhưng người lái đò vẫn bình tĩnh và khôn ngoan. Họ là những nghệ sĩ thực thụ, không cần phải tự tán dương về công việc của mình, mà chỉ cần nhìn vào sự sống đằm thắm mà họ tạo ra từ dòng sông dữ.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:
- Cảm nhận hình tượng sông Đà
- Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí
- Cảm nhận khổ 1 bài thơ Nói với con
- Cảm nhận khổ 1 bài Viếng lăng Bác
- Cảm nhận khổ 1 Sang thu
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều