10+ Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí (điểm cao)
Tổng hợp 10+ Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí điểm cao, hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Dàn ý Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí
- Sơ đồ tư duy Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí
- Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí (mẫu 1)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí (mẫu 2)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí (mẫu 3)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí (mẫu 4)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí (mẫu 5)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí (mẫu 6)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí (mẫu 7)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí (mẫu 8)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí (mẫu 9)
- Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí (mẫu 10)
Dàn ý Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí
1. Mở bài
+ Sơ nét về tác giả Chính Hữu qua những nét nổi bật nhất.
+ Giới thiệu tác phẩm Đồng chí cùng giá trị đặc sắc về nội dung.
+ Dẫn dắt vấn đề: cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí (7 câu thơ đầu bài Đồng chí).
2. Thân bài
+ Điểm qua về phong cách sáng tác của Chính Hữu.
+ Tìm hiểu hoàn cảnh ra đời của Đồng chí.
+ Nêu hoàn cảnh xuất thân của những người lính cụ Hồ.
+ Hoàn cảnh gặp gỡ của con người xa lạ từ những miền quê khác nhau.
+ Sự gắn bó chia ngọt sẻ bùi của những người lính bộ đội cụ Hồ.
+ Đánh giá tác phẩm khi cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí của Chính Hữu.
+ Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ Đồng chí.
3. Kết bài
+ Tóm tắt nội dung và giá trị của toàn tác phẩm.
+ Tổng kết ý nghĩa của khổ 1 bài Đồng chí.
+ Bày tỏ cảm xúc cá nhân khi cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí.
Sơ đồ tư duy Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí
Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí - mẫu 1
Chính Hữu là một trong những tác giả nổi bật của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp. Thơ Chính Hữu giản dị, chân thật mà thấm đượm tình người, những trang thơ của ông đã mở ra trong tâm hồn người đọc những cảm xúc khó quên về vẻ đẹp của những người lính nơi chiến trận. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Chính Hữu là "Đồng chí", bài thơ viết về tình đồng đội, đồng chí cao đẹp. Đặc biệt, trong khổ 1, nhà thơ đã tập trung làm sáng tỏ cơ sở hình thành nên tình cảm cao đẹp, thiêng liêng ấy.
Ngay trong phần đầu bài thơ, tác giả Chính Hữu đã mượn thành ngữ dân gian giới thiệu về quê hương, hoàn cảnh gặp gỡ của những người lính:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Các từ cùng trường nghĩa "quê hương", "làng" gắn với đặc điểm địa lý được tác giả vận dụng tinh tế để gợi liên tưởng về những vùng quê nghèo. Anh và tôi đều xuất thân từ nông dân, sinh ra và lớn lên nơi sỏi đá khô cằn, nơi đồng chua nước mặn. Những hình ảnh được gợi lên từ sự sáng tạo những thành ngữ dân gian"nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" đã cho thấy được những khó khăn, nhọc nhằn của người lao động nơi đây, họ phải kiếm sống, làm ăn nơi vùng đất không mấy thuận lợi, cỏ cây, hoa màu khó sinh trưởng. Những người lính có sự tương đồng về cảnh ngộ, họ đều là những người nông dân nghèo quanh năm chân lấm tay bùn. Cũng chính sự tương đồng về xuất thân, hoàn cảnh sống đã giúp những người lính trở nên gắn bó với nhau.
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Các xưng hô "anh" - "tôi" tưởng như xa lạ nhưng khi kết hợp cùng quan hệ từ "với" lại gợi sự gắn bó, gần gũi biết bao! Đồng thời, đó cũng là cách mà người lính thể hiện tình cảm, sự trân trọng của mình dành cho người đồng chí chiến đấu "anh"- "tôi". Họ đến từ những quê hương, phương trời xa lạ, họ gặp nhau khi con tim cùng chung nhịp đập của lòng yêu nước, khi có chung mục đích chiến đấu lớn lao, khi cả hai cùng mang sứ mệnh đấu tranh bảo vệ quê hương. Tình cảm gắn bó giữa hai người lính không chỉ là cùng cảnh ngộ mà còn là sự hoà hợp cả về lý tưởng và mục đích cao đẹp: chiến đấu vì Tổ quốc.
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ"
Những người lính rời xa tay cày nơi ruộng đồng để đến nơi chiến trường khắc nghiệt theo tiếng gọi của Tổ quốc. Họ sát cánh bên nhau làm nhiệm vụ, luôn trong tư thế cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu với quân thù "súng bên súng". Câu thơ sóng đôi, phép điểm từ "súng', bên cùng nhịp thơ 3/3 kết hợp với hình ảnh giàu chất hội họa trong ngôn từ, Chính Hữu đã dựng lên một bức tranh đẹp của tình đồng chí trong khi thực thi nhiệm vụ. m điệu nhịp nhàng, cảnh vừa thực, vừa mộng. Tác giả đang thi vị hoá cái hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh nhưng không hề chối bỏ cái khốc liệt của nó, dựng lên hình ảnh "súng bên súng" để khẳng định lý tưởng yêu nước, quyết tâm chống giặc của những người lính. Ở nơi chiến trường, những người lính không chỉ phải đối mặt với hiểm nguy của bom đạn mà còn đối mặt với cả nhưng thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần. Nhưng cũng chính cái thiếu thốn, khắc nghiệt của hoàn cảnh sống càng làm cho tình đồng đội, đồng chí trở nên bền chặt, đáng quý:
"Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Khi màn đêm buông xuống cũng là khi những người lính cảm nhận thấm thía cái lạnh cắt da cắt thịt của thời tiết nơi rừng thiêng nước độc. Khó khăn là vậy, gian khổ là vậy nhưng những người lính vẫn san sẻ cho nhau chút hơi ấm ít ỏi từ tấm chăn mỏng "Đêm rét chung chăn". "Chung" ở đây không chỉ là hành động sẻ chia về vật chất mà còn là sự gắn bó về tinh thần, tình cảm. Câu thơ gợi ra cái khắc nghiệt của hoàn cảnh sống nhưng cũng làm nổi bật lên vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giữa những người lính.
Câu thơ thứ 7 trong lời mở đầu cất lên chỉ hai tiếng thân tình mà chất chứa bao tình cảm cao đẹp, thiêng liêng: "Đồng chí!"
Anh và tôi từ "đôi người xa lạ" trở thành "đôi tri kỉ" và gắn bó thân thiết thành "đồng chí". Hai tiếng "Đồng chí!" ngắn gọn với hai tiếng kết hợp cùng dấu chấm than vang lên như một lời khẳng định về tình cảm bình dị mà thật thiêng liêng, cao đẹp, nó được hình thành trong những ngày tháng gian khó nhất của cuộc chiến tranh vệ quốc, giữa những con người có chung xuất thân, cùng chung lí chí hướng cao cả. Câu thơ thứ bảy như một nốt nhạc ngân vang, kết tinh những tình cảm tuyệt diệu, thiêng liêng, chân thật nhất của những người lính trao nhau giữa chiến trường.
Bêlinxki từng nói: "Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật". Quả thật, Chính Hữu đã tái hiện chính cuộc đời qua ngôn từ của mình. Đoạn thơ đã thể hiện được tình đồng chí chân thực trong thời chiến với những gì giản dị, chân chất, tự nhiên nhất, mỗi lời thơ, tứ thơ đều góp phần thể hiện tình cảm cao đẹp của người cách mạng thời chiến.
Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí - mẫu 2
Có thể nói, xuyên suốt bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đều tập trung làm nổi lên vẻ đẹp, sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội. Trong đó bảy câu thơ đầu đã lí giải về cơ sở hình thành của tình đồng chí của những người lính. Cơ sở đầu tiên hình thành nên tình đồng chí giữa những người lính đó là chung hoàn cảnh xuất thân, hoàn cảnh ở đây được nhấn mạnh ngay trong hai câu thơ mở đầu:
"Quê hương anh đất mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Một lời giới thiệu cũng như lời nhấn mạnh về cái chung hoàn cảnh quê hương nghèo khó, dù là người miền biển đất nhiễm mặn đồng phèn chua hay người miền núi đất trơ sỏi đá thì "anh" và "tôi" đều đi ra từ những làng quê nghèo, điều kiện sống khắc nghiệt và đều là những người nông dân tay lấm chân bùn. Họ đều trải qua cuộc sống khó khăn, nhọc nhằn, tương đồng về xuất thân lại tương đồng cảnh ngộ nên họ dường như tìm thấy được điểm chung.
Tình đồng chí còn được hình thành từ sự hòa hợp về nhận thức và niềm tin vào lí tưởng cách mạng, chung mục đích chiến đấu, đều xuất phát từ một lòng nồng nàn yêu nước, mang trong mình sứ mệnh đấu tranh và cùng đi theo ngọn đuốc cách mạng của Đảng. Từ những người xa lạ họ đã về đứng trong cùng hàng ngũ, cùng chung một kẻ thù chung mục đích chiến đấu, luôn sát cánh bên nhau, hỗ trợ cho nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ được giao"Súng bên súng, đầu sát bên đầu".
Cuối cùng, tình đồng chí ở những người lính có được sự thiêng liêng không gì sánh bằng chính nhờ sự keo sơn gắn bó trong suốt quá trình cùng nhau chiến đấu nơi chiến trường. "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ", không cùng nhau trải qua khó khăn gian khổ sao có thể thành đồng chí, họ luôn đoàn kết với nhau như một khối thống nhất, chia sẻ chan hòa mọi gian lao vất vả, vui buồn nơi chiến trường. Ở nơi chiến trường khắc nghiệt ấy, nơi thiếu thốn cả vật chất và tinh thần, nơi họ phải vô số lần đối mặt với cái chết tình đồng chí chính là điểm tựa tinh thần vững chắc nhất, xoa dịu mọi vết thương và nỗi đau. Cùng nhau trải qua vui buồn, gian khổ, tình đồng chí ở những người lính càng bền chặt, càng đáng tự hào để rồi nhà thơ phải cất lên tiếng vang "Đồng chí". Hai từ "đồng chí" như một lời khẳng định chất chứa trong đó biết bao niềm xúc động về tình cảm gắn bó thiêng liêng, sâu nặng.
Đọc hết đoạn thơ ta vẫn thấy lời thơ âm vang, tha thiết, chân thành mà cảm động, những hình ảnh về đồng chí cách mạng vẫn còn hiện lên với vẻ đẹp thật giản dị mà thiêng liêng.
Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí - mẫu 3
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu là một trong những tác phẩm xuất sắc viết về đề tài người lính thời kì đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Xuất phát từ những cảm xúc chân thực và tình cảm yêu nước sâu sắc, Chính Hữu tìm cách lí giải những cơ sở hình thành nên tình đồng chí, đồng đội keo sơn, thắm thiết của người lính.
Ở đoạn đầu, với 7 câu tự do, dài ngắn khác nhau, có thể xem là sự lý giải về cơ sở tạo nên tình đồng chí, đồng đội của những người lính. Mở đầu bằng hai câu đối nhau rất chỉnh:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu thơ đầu tiên giới thiệu quê hương “anh” và “tôi” – những người lính xuất thân là nông dân. “Nước mặt đồng chua” là vùng đất ven biển nhiễm phèn khó làm ăn, “đất cày lên sỏi đá” là nơi đồi núi, trung du, đất bị đá ong hoá, khó canh tác. Hai câu chỉ nói về đất đai – mối quan tâm hàng đầu của người nông dân, cho thấy sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở sự đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Từ “tôi” chỉ hai người, hai đối tượng chẳng thể tách rời nhau kết hợp với từ “xa lạ” làm cho ý xa lạ được nhấn mạnh hơn. Từ những phương trời xa xôi tuy chẳng quen nhau nhưng ở họ có cùng một nhịp đập của trái tim, cùng tham gia chiến đấu, giữa họ đã nảy nở một tình cảm cao đẹp: Tình đồng chí. Tình cảm ấy không phải chỉ là cùng cảnh ngộ mà còn là sự gắn kết trọn vẹn cả về lý trí, lẫn lý tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu vì độc lập, tự do của tổ quốc.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
Tình đồng chí cao đẹp ấy còn được ươm mầm và trở nên bền chặt trong lối sống chan hoà, chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn, niềm vui, nỗi buồn. Đó là mối tình tri kỷ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. “Chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, khó khăn của cuộc đời người lính, chia sẻ cuộc sống thiếu thốn, nhất là chung hơi ấm để vượt qua cái lạnh, mà sự gắn bó là thành thật với nhau. Câu thơ đầy ắp kỷ niệm và ấm áp tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng. Từ “chung” nhưng bao hàm nhiều ý: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung một khát vọng…
Nhìn lại cả 7 câu thơ đầu những từ ngữ nói về người lính ta thấy rõ một sự vận động của tình cảm con người. Đầu tiên là “anh” và “tôi” trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi mới gặp gỡ, dường như vẫn là hai thế giới riêng biệt. Rồi “anh” với “tôi” trong cùng một dòng, đến “đôi người” nhưng là “đôi người xa lạ”, và rồi đã biến thành đôi tri kỷ – một tình bạn keo sơn, gắn bó. Và cao hơn nữa là đồng chí. Như vậy, từ rời rạc riêng lẻ, hai người đã dần hòa nhập thành chung, thành một, khó tách rời.
Có thể thấy, cơ sở tạo nên tình đồng chí, đồng đội của những người lính trước hết, họ cùng chung lớp người nghèo khó, bị thực dân tước mất quyền làm người, quyền sinh tồn, đẩy họ vào tình thế phải đối kháng. Thứ hai, ở họ có tình yêu nước sâu đậm, quyết không khuất phục kẻ thù xâm lược. Thứ ba, họ là những người có trái tim giàu lòng yêu thương, biết sẻ chia, nâng đỡ, động viên, gắn bó, cùng chia ngọt sẻ bùi để vượt qua gian lao, thử thách, thực hiện lý tưởng cao đẹp. Ở họ là một ý chí chiến đấu kiên cường. Không tiếc máu xương, họ đã đã chấp nhận sống vì đất nước, vì cuộc sống hòa bình của dân tộc.
Hai tiếng “Đồng chí!” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng. Chỉ với hai chữ “Đồng chí’ và dấu chấm cảm, tạo một nét nhấn như một điểm tựa vững vàng. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định đinh ninh, một tiếng gọi tràn đầy xúc động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về hai tiếng thiêng liêng ấy. Câu thơ như một bản lề gắn kết hai phần bài thơ làm nổi rõ một kết luận: họ có cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng cảnh ngộ, cùng lý tưởng thì trở thành đồng chí của nhau. Đồng thời nó cũng mở ra vẻ đẹp tình đồng chí của người lính thiêng liêng ở đoạn sau của bài thơ.
Không có tiếng tiếng súng nhưng người đọc vẫn cảm nhận rất rõ ràng sự khốc liệt của cuộc chiến. Hình tượng người lính cũng được khắc họa đậm nét qua những biểu tượng giàu sức gợi tả. Thành công của Chính Hữu trong bài thơ “Đồng chí” chính là ở chỗ nói những điều bình dị để lộ rõ cái phi thường của người lính. Bởi thế, dù trải qua thời gian, bài thơ vẫn còn sức gợi đối với người đọc hôm nay.
Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí - mẫu 4
Chính Hữu quê ở Hà Tĩnh là nhà thơ chiến sĩ viết về người lính và hai cuộc chiến tranh, đặc biệt tình cảm cao đẹp của người lính như tình đồng chí, đồng đội và tình yêu quê hương. Tác phẩm “Đồng Chí” được viết vào năm 1948, in trong tập “Đầu súng trăng treo” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết về người lính cách mạng của văn học thời kháng chiến chống Pháp. Ở bảy câu thơ đầu, tác giả đã cho chúng ta thấy cơ sở để hình thành nên tình đồng chí đồng đội của những người lính cách mạng:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”
Đầu tiên tác giả cho ta thấy tình đồng chí của họ bắt nguồn từ sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu thơ có kết cấu sóng đôi, đối ứng với nhau: “quê hương anh - làng tôi”, “nước mặn đồng chua - đất cày lên sỏi đá”, cách giới thiệu thật bình dị, chân thật về xuất thân của hai người lính họ là những người nông dân nghèo. Thành ngữ: “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” gợi ra sự nghèo khó của những vùng ven biển bị nhiễm mặn, đất khô cằn không trồng trọt và khó canh tác được. Qua đó, ta có thể thấy đất nước đang trong cảnh nô lệ, chiến tranh triền miên dẫn đến cuộc sống của những người nông dân rất nghèo khổ, khó khăn nhiều thứ. Từ hai miền đất xa lạ, “đôi người xa lạ” nhưng cùng giống nhau ở cái “nghèo”:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Từ “đôi” đã gợi lên một sự thân thiết, chung nhau nhưng chưa thể bộc bạch đấy thôi. Nói là “chẳng hẹn” nhưng thật sự họ đã có hẹn với nhau. Bởi anh với tôi đều có chung lòng yêu nước, lòng căm thù giặc và ý chí chiến đấu để thoát khỏi sự nô lệ của thực dân Pháp, cùng nhau tự nguyện vào quân đội để rồi “quen nhau”. Đó chẳng phải là đã có hẹn hay sao? Một cái hẹn không lời nhưng mà mang bao ý nghĩa cao cả từ trong sâu thẳm tâm hồn của những chiến sĩ.
Tình đồng chí còn được nảy nở từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
Câu thơ là bức tranh tả thực tư thế sẵn sàng, sát cánh bên nhau của người lính khi thi hành nhiệm vụ. Vẫn là hình ảnh sóng đôi, nhịp nhàng trong cấu trúc “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. “Súng” biểu tượng cho sự chiến đấu, “đầu” biểu tượng cho lý trí, suy nghĩ của người lính. Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo âm điệu khỏe, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung nhiệm vụ, cùng chung chí hướng và lý tưởng. Và tình đồng chí, đồng đội càng trở nên bền chặt và nảy nở hơn khi họ cùng nhau chia sẻ mọi khó khăn, vất vả ở cuộc sống chiến trường:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”
Ở núi rừng Việt Bắc thì những cái lạnh giá buốt làm cho những chiến sĩ của chúng ta rất lạnh, đôi khi họ còn bị sốt rất cao do phải sống trong một môi trường khắc nghiệt như vậy. Nhưng vượt lên trên tất cả những khó khăn, thiếu thốn, khắc nghiệt của thời tiết thì họ đã chia sẻ chăn cho nhau để giữ ấm. Chăn không đủ thì những đêm rét buốt họ đắp chung nhau một chiếc chăn để giữ ấm. Chính cái “chung chăn” ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để rồi họ trở thành “đôi tri kỷ”. “Tri kỷ” thân thiết, gắn bó, hiểu tâm tư tình cảm của nhau. Mà là “đôi tri kỷ” thì lại càng gắn bó, thân thiết với nhau hơn. Chính vì thế câu thơ nói đến sự khắc nghiệt của thời tiết, của chiến tranh nhưng sao ta vẫn cảm nhận được cái ấm của tình đồng chí, bởi cái rét đã tạo nên cái tình của hai anh lính chung chăn.
Câu thơ cuối là một câu thơ đặc biệt chỉ với hai tiếng “Đồng chí” khi nghe ta cảm nhận được sự sâu lắng chỉ với hai chữ “Đồng chí” và dấu chấm cảm, tạo một nét nhấn như một điểm tựa, điểm chốt, như đòn gánh, gánh hai đầu là những câu thơ đồ sộ. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một tiếng gọi trầm xúc động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về hai tiếng mới mẻ, thiêng liêng ấy. Câu thơ như một bản lề gắn kết hai phần bài thơ làm nổi rõ một kết luận: cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lí tưởng thì trở thành đồng chí của nhau.
Tình đồng chí của những người lính cách mạng dựa trên cơ sở cùng chung cảnh ngộ và lý tưởng chiến đấu được thể hiện thật tự nhiên, bình dị mà sâu sắc trong mọi hoàn cảnh, nó góp phần quan trọng tạo nên sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần của những người lính cách mạng.
Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí - mẫu 5
Mỗi khi đọc bài thơ “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu có lẽ không ai trong chúng ta không cảm nhận được tình cảm đồng đội đồng chí chân thành và sâu sắc. Đặc biệt điều đó đã được thể hiện ngày ở bảy câu thơ đầu tiên:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”.
Mở đầu bài thơ, Chính Hữu đã nêu ra hoàn cảnh xuất thân của những người lính. Họ đều là những người lính đi ra từ miền quê lam lũ. Nếu “anh” ra đi từ miền “nước mặn đồng chua” thì “tôi” đến từ “miền đất cày lên sỏi đá”. Hai miền đất xa lạ nhưng đều gặp nhau ở một điểm chung, đó là cái khắc nghiệt của tự nhiên đã cuốn lấy cuộc sống của những người lao động, khiến cho cái nghèo cái khổ đi theo họ suốt năm suốt tháng.
Những người lính đến từ khắp mọi miền đất nước “tự phương trời” nhưng chẳng hẹn mà lại quen biết nhau. Họ mang trong mình một lý tưởng chung, một tình cảm chung với đất nước, với nhân dân để rồi những điều đó gắn kết họ với nhau trở thành đồng đội của nhau. Thật kì lạ khi những con người vốn xa cách về địa lý nhưng lại gặp gỡ và gắn bó với nhau như người thân trong gia đình.
Đặc biệt, Chính Hữu đã sử dụng một hình ảnh mang tính biểu tượng cao: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Trong những ngày tháng ở nơi chiến trường bom đạn, những người lính họ sống và chiến đấu cùng nhau. “Súng” chính là biểu tượng cho nhiệm vụ, cho những cuộc chiến đấu mà họ cùng nhau trải qua. Còn “đầu” là biểu tượng cho mục đích, lý tưởng mà họ cùng hướng tới. Biện pháp tu từ điệp ngữ được sử dụng nhằm nhấn mạnh sự hòa hợp giữa những người lính. Họ cùng chung mục đích, chung lý tưởng là chiến đấu bảo vệ quê hương tổ quốc và bảo vệ nhân dân.
Không chỉ cùng chung lý tưởng chiến đấu, tình đồng chí còn thể hiện qua sự chia sẻ những khó khăn vất vả: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Trong những ngày hành quân, những người lính phải ngủ nơi “rừng hoang sương muối”. Nếu chưa từng trải qua có lẽ chẳng ai hiểu thấu được cái lạnh ban đêm của nơi rừng sâu. Chỉ có những người lính cùng chung cảnh ngộ, họ đã biết chia sẻ khó khăn với nhau, họ đã trở thành “đôi tri kỷ” thấu hiểu và chia sẻ với nhau.
Hai từ “đồng chí” ở câu thơ cuối được thốt ra giống như một lời gọi thân thương nhất, đầy trân trọng và tự hào.
Như vậy, chỉ với bảy câu thơ thôi nhưng Chính Hữu đã khắc họa được hình ảnh những người lính một cách chân thực, cũng như tình đồng chí keo sơn gắn bó của họ.
Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí - mẫu 6
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
Qua khổ 1 bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã cho người đọc thấy cơ sở của tình đồng đội, đồng chí.
Hai câu thơ mở đầu bằng lối cấu trúc song hành, đối xứng như làm hiện lên hai gương mặt người chiến sĩ. Họ như đang đối thoại với nhau. Giọng điệu tự nhiên, đầy thân tình. “Quê anh” và “làng tôi” đều là những vùng đất nghèo, cằn cỗi, xác xơ. Đó là nơi “ nước mặn đồng chua” – vùng đồng bằng ven biển, là xứ sở của “đất cày lên sỏi đá” – vùng đồi núi trung du. Hai vùng đất trên xa cách hoàn toàn về địa lý. Tác giả đã sử dụng thành ngữ, tục ngữ để nói quê hương của những người chiến sĩ. Điều ấy đã làm cho lời thơ mang đậm chất chân thôn quê và dân dã đúng như con người – những chàng trai chân đất, áo nâu lần đầu mặc áo lính lên đường ra trận. Như vậy, cùng chung xuất thân chính là cơ sở để hình thành nên tình đồng chí.
Từ những phương trời xa lạ, họ đã nhập ngũ và trở thành đồng đội. Hình ảnh “Súng bên súng” thể hiện cho những con người cùng chiến đấu. Họ cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, giữ gìn nền độc lập tự do của dân tộc với tinh thần: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Còn hình ảnh “đầu sát bên đầu” lại diễn tả sự đồng ý, đồng tâm, đồng lòng của hai con người đó. Cuối cùng câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” lại là câu thơ ắp đầy kỉ niệm về một thời gian khổ, cùng nhau chia ngọt sẻ bùi: “Bát cơm sẻ nửa – Chăn sui đắp cùng” . Họ thực sự đã trở thành những người bạn tri kỷ, thấu hiểu và chia sẻ trong mọi hoàn cảnh. Đoạn thơ khép lại với hai từ “Đồng chí!” thể hiện một cảm xúc chân thành, dồn nén. Chỉ hai từ ngắn thôi nhưng đã thể hiện tình cảm thiêng liêng sâu nặng giữa những người lính.
Như vậy, khổ đầu của “Đồng chí” vừa lí giải cơ sở của tình đồng chí lại vừa cho thấy sự biến đổi kì diệu: từ những người nông dân xa lạ họ trở thành những đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.
Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí - mẫu 7
Bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu thể hiện hình tượng người lính cách mạng và sự gắn bó keo sơn của họ thông qua những chi tiết, hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực, cô đọng, giàu sức biểu cảm.
Ngay từ những câu thơ mở đầu bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu đã lý giải những cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của “anh” và “tôi” – của những người lính cách mạng:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
Thành ngữ “nước mặn đồng chua” và hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”, giọng điệu thủ thỉ tâm tình như lời kể chuyện, cùng nghệ thuật sóng đôi, tác giả cho thấy tình đồng chí, đồng đội bắt nguồn sâu xa từ sự tương đồng cùng cảnh ngộ. Họ là những người nông dân áo vải, ra đi từ những miền quê nghèo khó – miền biển nước mặn, vùng đồi núi trung du. Không hẹn mà nên, những người nông dân ấy gặp nhau tại một điểm: lòng yêu nước. Tình yêu quê hương, gia đình, nghĩa vụ công dân thúc giục họ lên đường chiến đấu. Bởi thế nên từ những phương trời xa lạ, mọi người “chẳng hẹn mà quen nhau”. Giống như những anh lính trong bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên: “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ - Gặp nhau từ hồi chưa biết chữ - Quen nhau từ buổi “một, hai” - Súng bắn chưa quen - Quân sự mươi bài - Lòng vẫn cười vui kháng chiến”.
Trong môi trường quân đội, đơn vị thay cho mái ấm gia đinh, tình đồng đội thay cho tình máu thịt. Cái xa lạ ban đầu nhanh chóng bị xóa đi. Sát cánh bên nhau chiến đấu, càng ngày họ càng cảm nhận sâu sắc về sự hòa hợp, gắn bó giữa đồng đội cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp: “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Hình ảnh sóng đôi, các điệp từ “súng”, “đầu”, giọng điệu thơ trở nên tha thiết, trầm lắng như nhấn mạnh tình cảm gắn bó của người lính trong chiến đấu. Họ đồng tâm, đồng lòng, cùng nhau ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước, quê hương, giữ gìn nền độc lập, tự do, sự sống còn của dân tộc - “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Và chính sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau đã giúp các anh gắn bó với nhau, cùng sẻ chia mọi gian lao thiếu thốn của cuộc đời người lính: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Từ gian khó, hiểm nguy, tình cảm trong họ đã nảy nở và họ đã trở thành những người bạn tâm giao, tri kỉ, hiểu nhau sâu sắc, gắn bó thành đồng chí. Hai tiếng “Đồng chí” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng! Nó như một nốt nhạc làm bừng sáng cả đoạn thơ, là điểm hội tụ, nơi kết tinh của bao tình cảm đẹp mà chỉ có ở thời đại mới: tình giai cấp, tình đồng đội, tình bạn bè trong chiến tranh.
Tóm lại, qua đoạn thơ mở đầu bài thơ “Đồng chí”, người đọc đã thấy được cơ sở của tình đồng chí cũng như sự biến đổi kì diệu: từ những người nông dân xa lạ họ trở thành những đồng chí, đồng đội sống chết có nhau.
Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí - mẫu 8
Tình đồng chí, đồng đội cao quý, trong sáng mà không kém phần thiêng liêng của những người lính được tác giả Chính Hữu tái hiện đầy sinh động trong bài thơ Đồng chí. Trong bảy câu thơ mở đầu, tác giả đã nói về nguồn gốc xuất thân của những người lính. Họ vốn là những con người hoàn toàn xa lạ nhưng lại gắn kết với nhau bởi chiến tranh, cùng chung lí tưởng đó chính là đấu tranh cho độc lập, cho tự do.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua”
“Nước mặn đồng chua” là vùng đất bị nhiễm mặn ở ven biển và vùng đất phèn có độ chua cao, là những vùng đất khó trồng trọt. Từ đặc điểm về tự nhiên ta có thể xã định những người lính này đến từ miền Trung, miền Nam của tổ quốc.
“Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Còn “đất cày lên sỏi đá” nói về sự cằn cỗi, tiêu điều của đất đai, đặc điểm này gợi cho ta liên tưởng đến những vùng trung du miền núi Bắc bộ.
Đặc điểm chung của những người lính này là họ đều đến từ những vùng quê nghèo trên khắp cả nước. Trước khi trở thành những người đồng đội họ hoàn toàn xa lạ, không hề quen biết, nhưng họ lại có chung một lí tưởng. Họ đi theo tiếng gọi của tổ quốc mà trở thành những người tri kỉ, những người bạn thân thiết mà theo cách định nghĩa của Chính Hữu thì họ đã trở thành những người tri kỉ.
Những người lính đã sát cánh bên nhau cùng chiến đấu, cùng giúp đỡ nhau vượt qua những khó khăn. Hai tiếng “Đồng chí” vang lên cuối khổ thơ thứ nhất như lời khẳng định về sự gắn bó trong tình cảm, về sự thiêng liêng của mối quan hệ.
Như vậy, qua bảy câu thơ đầu tiên, Chính Hữu đã xác lập được cơ sở của tình đồng đội, đồng chí, làm cơ sở cho sự phát triển tình đồng chí ở những khổ thơ sau đó.
Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí - mẫu 9
Chính Hữu là cây bút nổi bật thời kì kháng chiến chống Pháp. Thơ ông đã mở ra trong ta bao cảm nhận về con người kháng chiến đặc biệt là chân dung những anh bộ đội cụ Hồ. Và đẹp hơn cả ở họ là tình đồng chí, đồng đội gắn kết được nhà thơ khắc họa qua Đồng chí. Bảy câu thơ đầu của bài đã cho chúng ta những cảm nhận, những hiểu biết về cơ sở hình thành tình đồng chí trong gian khổ chiến tranh.
Đồng chí là bài thơ tiêu biểu nhất của thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được viết năm 1948 trong những ngày đông lạnh giá tại núi rừng căn cứ địa kháng chiến và làm nổi bật, làm sáng chân dung anh bộ đội cụ Hồ với vô vàn nét đẹp đáng trân, đáng quý! Tình đồng chí ở họ cũng đẹp và ấm áp như vậy trong ngày đông giá lạnh nơi chiến khu!
Cơ sở trước hết gắn kết người lính là sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó. Một loạt hình ảnh như quê anh, làng tôi kết hợp cùng với thành ngữ như nước mặn đồng chua hay ẩn dụ đất cày lên sỏi đá đều cho người đọc hiểu được đây là những miền quê nghèo trên đất nước. Miền quê nghèo vật chất nhưng giàu giá trị tinh thần đã cho tổ quốc người con thật đẹp là anh và tôi. Để rồi từ hai phương trời xa lạ, tưởng chừng chẳng liên quan ấy mà người nông dân cùng nhau gặp gỡ, cùng đồng hành.
Ở người lính, tương đồng về giai cấp xuất thân đã giúp họ thêm hiểu nhau hơn bao giờ hết. Xuất thân cơ hàn đã giúp họ mạnh mẽ vượt qua mọi gian khó nơi chiến địa và cùng nhau hiểu được nỗi vất vả khó nhọc để rồi cùng đứng lên vì Tổ quốc.
Nhưng có lẽ đẹp hơn cả là sự gắn kết trong một lí tưởng lớn lao: Súng bên súng, đầu sát bên đầu. Hình ảnh chiếc súng kia là ẩn dụ cho chiến tranh khói lửa, cho nhiệm vụ thường trực của người lính. Họ nhọc nhằn trong nhiệm vụ chiến đấu nhưng họ tự hòa và mang theo khí thế niềm tin. Chính những tương đồng tưởng chừng bé nhỏ này lại là sợi dây tình cảm sâu sắc nhất gắn kết người lính cách mạng dẫu trong gian khổ chiến trường ác liệt.
Và đặc biệt, tình cảm ấy giữa hai người xa lạ đã nhân lên thành tình cảm quý báu thiêng liêng: Đồng chí! Đó là hai từ giản dị mà hàm súc chứa chan bao tình cảm gắn kết của anh bộ đội cụ Hồ. Tình cảm thiêng liêng ấy đã và đang làm lòng người thêm muôn phần xúc động, thấm thía. Nốt nhạc của tình đồng chí, đồng đội ngân vang trong không khí chiến trường dẫu khói lửa. Và đó là sự keo sơn gắn bó của tình cảm thiêng liêng, cao quý vô ngần!
Thể thơ tự do được nhà thơ khai thác triệt để nhằm ngân vang dòng cảm xúc. Mỗi một lời thơ với hình ảnh giàu sức gợi, hình ảnh ẩn dụ biểu trưng đều đang góp phần làm đẹp bức tranh tình cảm của người lính cách mạng. Chân dung tự họa về tình cảm anh bộ đội cụ Hồ thời kì kháng chiến chống Pháp làm ta vô cùng xúc động.
Bảy câu đầu bài Đồng chí đã cho bạn đọc những hiểu biết về cơ sở hình thành tình cảm cao đẹp này. Tình đồng chí đã tồn tại và thật đẹp trong những trang thơ kháng chiến chống Pháp nói riêng và xuyên suốt thời kì lịch sử dân tộc nói chung. Sự cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội đã và đang góp phần giúp ta hiểu thêm về tình cảm cao đẹp trong chiến tranh khắc nghiệt!
Cảm nhận khổ 1 bài Đồng chí - mẫu 10
Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt" người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá".
Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là nơi "nước mặn, đồng chua", là xứ sở "đất cày lên sỏi đá". Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn thân yêu của mình, Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.
Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ "đôi người xa lạ" rồi "thành đôi tri kỉ", về sau kết thành "đồng chí". Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: "Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau". Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
"Súng bên súng" là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu, "anh với tôi" cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. "Đầu sát bên đầu" là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bạn tâm giao. Câu thơ "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ" là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới "thành đôi tri kỉ". "Đôi tri kỉ" là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đấu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ "đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhì vốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành - đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấm áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên.
Như vậy, qua khổ 1 bài Đồng chí, Chính Hữu đã xác lập được cơ sở của tình đồng đội, đồng chí, làm cơ sở cho sự phát triển tình đồng chí ở những khổ thơ sau đó.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:
- Cảm nhận khổ 1 bài thơ Nói với con
- Cảm nhận khổ 1 bài Viếng lăng Bác
- Cảm nhận khổ 1 Sang thu
- Cảm nhận khổ 2 3 bài Mùa xuân nho nhỏ
- Cảm nhận khổ 2 bài Viếng lăng Bác
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều