Phân tích bài thơ Đàn bầu của Lữ Giang

Câu hỏi Phân tích bài thơ Đàn bầu của Lữ Giang thuộc bộ Ngữ liệu ngoài sgk dành cho học sinh lớp 9, lớp 12 đầy đủ câu hỏi đọc hiểu và viết có hướng dẫn chi tiết giúp Giáo viên có thêm tài liệu ôn tập cho học sinh ôn thi Văn vào lớp 10 hoặc Tốt nghiệp THPT đạt kết quả cao. Mời các bạn đón đọc:

Xem thử

Chỉ từ 150k mua trọn bộ 70 Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Thơ bản word có lời giải chi tiết:

Nội dung bài thơ Đàn bầu

ĐÀN BẦU

(Lữ Giang)

Tặng anh Nguyễn Đình Phúc
Lắng tai nghe đàn bầu
Ngân dài trong đêm thâu
Tiếng đàn như suối ngọt
Cứ đưa hồn lên cao.

Tiếng đàn bầu của ta
Lời đằm thắm thiết tha
Cung thanh là tiếng mẹ
Cung trầm như giọng cha

Đàn ngày xưa não ruột
Có người hát xẩm mù
Ôm đàn đi trong mưa…
Mưa hoà cùng nước mắt

Đưa hồn ta lên cao
Đàn bầu làm suối ngọt
Tình yêu quê dâng trào
Thay cho dòng nước mắt.

(Mã Giang Lân sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu, Thơ Việt Nam 1954 - 1964, NXB Giáo dục, 1997, tr.155)

Câu hỏi: Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích bài thơ “Đàn bầu” của Lữ Giang.

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích bài thơ “Tiếng đàn bầu” của Lữ Giang.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu về đề tài: Trong văn học, âm nhạc dân tộc luôn là một mạch nguồn cảm hứng giàu bản sắc và xúc động.

- Dẫn vào tác phẩm: Bài thơ “Tiếng đàn bầu” của Lữ Giang là một khúc ngợi ca sâu lắng dành cho tiếng đàn truyền thống của dân tộc – đàn bầu.

- Nêu vấn đề nghị luận: Phân tích bài thơ để làm nổi bật vẻ đẹp của tiếng đàn bầu qua các cung bậc cảm xúc: êm dịu, sâu lắng, đau thương, rồi vút cao trong niềm tin và tình yêu quê hương.

* Thân bài:

1. Vẻ đẹp dịu dàng, thanh thoát của tiếng đàn bầu

- Ngay khổ thơ đầu, tiếng đàn được miêu tả như “ngân dài trong đêm thâu”, tạo nên không gian tĩnh lặng, thanh bình, như một dòng suối ngọt nuôi dưỡng tâm hồn.

- Hình ảnh so sánh “suối ngọt” → thể hiện âm thanh trong trẻo, nhẹ nhàng, đầy thi vị, đưa “hồn lên cao”, gợi cảm giác bay bổng, thăng hoa.

2. Tiếng đàn bầu – biểu tượng của tình cảm quê hương, gia đình

- “Tiếng đàn bầu của ta / Lời đằm thắm thiết tha” → khẳng định đây là âm thanh mang hồn dân tộc, chất chứa tình cảm sâu nặng.

- Hình ảnh độc đáo: “Cung thanh là tiếng mẹ / Cung trầm như giọng cha” → liên tưởng âm nhạc đến tình thân → gắn bó với cội nguồn, sự nuôi dưỡng và bao bọc của gia đình.

- Tiếng đàn mang ý nghĩa biểu tượng cho sự gắn kết, cho truyền thống và tình yêu thương.

3. Tiếng đàn bầu – nỗi buồn dân tộc, ký ức mất mát

- Khổ thơ thứ ba gợi về quá khứ đau thương của dân tộc qua hình ảnh “người hát xẩm mù” – tượng trưng cho thân phận người dân nghèo, bị lãng quên.

- “Ôm đàn đi trong mưa / Mưa hòa cùng nước mắt” → âm thanh đàn bầu như tiếng khóc, tiếng lòng lặng thầm của bao kiếp người khổ đau.

- Gợi nỗi niềm xót xa, đồng cảm với những mất mát trong lịch sử.

4. Tiếng đàn bầu – sức sống tinh thần và tình yêu quê hương

- Dù mang theo nỗi buồn, tiếng đàn vẫn có sức mạnh hồi sinh tinh thần: “Đưa hồn ta lên cao / Đàn bầu làm suối ngọt”.

- Hình ảnh “Tình yêu quê dâng trào / Thay cho dòng nước mắt” → âm nhạc trở thành niềm tin, niềm tự hào, thay thế cho bi lụy bằng sức sống mạnh mẽ.

- Khẳng định: Đàn bầu là biểu tượng cho tinh thần dân tộc – vượt qua gian khổ, hướng đến vẻ đẹp và tự do.

5. Giá trị nghệ thuật của bài thơ

- Thể thơ 5 chữ, ngắt nhịp linh hoạt (3/2, 2/3) tạo nhịp điệu mềm mại, gần với âm nhạc dân gian.

- Ngôn ngữ giản dị mà giàu sức gợi, hình ảnh gần gũi nhưng giàu tính biểu tượng.

- Các biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, đối lập (“suối ngọt – nước mắt”), liệt kê… tạo chiều sâu biểu cảm.

- Nhan đề “Đàn bầu” gợi mở nội dung trọng tâm và giàu chất văn hóa dân tộc.

* Kết bài:

- Khẳng định giá trị nội dung: “Đàn bầu” là một bài thơ ngắn nhưng hàm chứa nhiều tầng ý nghĩa – vừa ca ngợi vẻ đẹp âm nhạc dân tộc, vừa thể hiện tâm hồn sâu lắng, yêu nước của người Việt.

- Khẳng định giá trị nghệ thuật: kết hợp thành công giữa chất thơ và chất nhạc, mang đến một tác phẩm trữ tình – biểu tượng.

- Mở rộng: Bài thơ giúp người đọc thêm yêu tiếng đàn bầu – một biểu tượng thiêng liêng của bản sắc và tâm hồn Việt Nam.

Bài văn tham khảo

Âm nhạc dân tộc Việt Nam mang trong mình chiều sâu văn hóa lâu đời, trong đó đàn bầu là một nhạc cụ đặc biệt – chỉ với một dây nhưng có thể ngân lên muôn âm thanh, gợi biết bao cảm xúc. Trong bài thơ “Đàn bầu”, nhà thơ Lữ Giang đã dành những lời trân trọng, tha thiết để ngợi ca tiếng đàn – không chỉ là một âm thanh nghệ thuật, mà còn là biểu tượng tinh thần, là tiếng lòng của dân tộc Việt Nam qua bao biến cố.

Ngay từ khổ đầu tiên, tiếng đàn bầu hiện lên trong không gian tĩnh lặng: “Lắng tai nghe đàn bầu / Ngân dài trong đêm thâu”. Đó là âm thanh mềm mại, trong trẻo, như “suối ngọt” róc rách chảy vào tâm hồn, giúp con người quên đi những mệt mỏi thường ngày, đưa tâm hồn “lên cao”. Hình ảnh so sánh “như suối ngọt” không chỉ gợi sự êm dịu mà còn thể hiện chức năng chữa lành, làm dịu tâm hồn của tiếng đàn – một thứ âm nhạc mang đậm chất thiền.

Tiếng đàn bầu không chỉ đẹp ở mặt âm thanh, mà còn sâu lắng về tình cảm. Tác giả khẳng định: “Tiếng đàn bầu của ta / Lời đằm thắm thiết tha” – đó là tiếng nói của trái tim người Việt, chứa chan yêu thương, gần gũi và tha thiết. Hình ảnh “Cung thanh là tiếng mẹ / Cung trầm như giọng cha” là liên tưởng giàu chất dân gian, thể hiện tình cảm gia đình thiêng liêng, gắn bó. Tiếng đàn không còn là vật vô tri, mà là hơi thở của quê hương, là tình thân, là sự kết nối giữa người với người trong không gian văn hóa Việt.

Không dừng lại ở sự êm đềm, tiếng đàn bầu còn gợi lại một nỗi buồn lịch sử. Trong khổ thơ tiếp theo, hình ảnh “người hát xẩm mù” ôm đàn đi trong mưa hòa với nước mắt là biểu tượng của những phận người nhỏ bé, đau thương, từng bị cuốn trong dòng chảy thăng trầm của dân tộc. “Đàn ngày xưa não ruột” – tiếng đàn không chỉ ngân lên nốt nhạc, mà còn là tiếng khóc, tiếng xót xa vọng về từ những năm tháng mất mát. Âm nhạc ở đây trở thành ký ức, nỗi đau, và tiếng nói âm thầm của nhân dân lao động.

Thế nhưng, tiếng đàn ấy không mãi đắm trong u buồn. Ở khổ cuối, tác giả khẳng định: “Đưa hồn ta lên cao / Đàn bầu làm suối ngọt / Tình yêu quê dâng trào / Thay cho dòng nước mắt.” Từ nỗi đau, đàn bầu hóa thành sức mạnh tinh thần, hóa thành tình yêu quê hương tha thiết, trào dâng như lũ nguồn. Âm nhạc không còn là tiếng than, mà trở thành lời ngợi ca cuộc sống, niềm tin vào ngày mai.

Bài thơ được viết bằng thể thơ 5 chữ, ngắt nhịp linh hoạt, kết hợp với lối so sánh, ẩn dụ, đối lập, liệt kê và ngôn ngữ mộc mạc, giàu hình ảnh gợi cảm. Nhờ đó, tiếng đàn bầu hiện lên không chỉ là một hình ảnh âm thanh, mà là biểu tượng của văn hóa, lịch sử, tâm hồn và tinh thần dân tộc Việt Nam.

Tóm lại, “Đàn bầu” là một bài thơ ngắn nhưng sâu sắc. Qua tiếng đàn bầu, Lữ Giang đã thể hiện được những cung bậc cảm xúc phong phú: từ êm dịu, tha thiết, đến bi thương và dâng trào niềm tin yêu. Đàn bầu trong thơ ông không chỉ là nhạc cụ dân tộc – mà là tiếng nói của hồn Việt, chảy mãi trong tim mỗi người con đất Việt.

Xem thêm các câu hỏi Đọc hiểu và Viết trong bài thơ Đàn bầu chọn lọc, hay khác:

Xem thêm bộ ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 9, lớp 12 phần Thơ chọn lọc, hay khác:


Đề thi, giáo án các lớp các môn học