phân tích bài thơ Bài thơ quê hương của Nguyễn Bính

Câu hỏi phân tích bài thơ Bài thơ quê hương của Nguyễn Bính thuộc bộ Ngữ liệu ngoài sgk dành cho học sinh lớp 9, lớp 12 đầy đủ câu hỏi đọc hiểu và viết có hướng dẫn chi tiết giúp Giáo viên có thêm tài liệu ôn tập cho học sinh ôn thi Văn vào lớp 10 hoặc Tốt nghiệp THPT đạt kết quả cao. Mời các bạn đón đọc:

Xem thử

Chỉ từ 150k mua trọn bộ 70 Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Thơ bản word có lời giải chi tiết:

Nội dung bài thơ Bài thơ quê hương

BÀI THƠ QUÊ HƯƠNG

(Nguyễn Bính)

Trải nghìn dặm trời mây bạn tới.
Thăm quê tôi, tôi rất đỗi vui mừng!
Bạn nán lại cùng tôi thêm buổi nữa.
Để tôi xin kể nốt chuyện quê hương.

...Quê hương tôi có cây bầu cây nhị
Tiếng “đàn kêu tích tịch tình tang...”
Có cô Tấm náu mình trong quả thị,
Có người em may túi đúng ba gang.

Quê hương tôi có ca dao tục ngữ,
Ông trăng tròn thường xuống mọi nhà chơi.
Một đĩa muối cũng mặn tình chồng vợ,
Một dây trầu cũng nhắc chuyện lứa đôi.

Con chim nhỏ cũng đau hồn nước mất
“Cuốc cuốc” kêu rỏ máu những đêm vàng
Chân ngựa đá cũng dính bùn trận mạc.
Theo người đi cứu nước chống xâm lăng.

Quê hương tôi có bà Trưng, bà Triệu
Cưỡi đầu voi, dấy nghĩa, trả thù chung.
Ông Lê Lợi đã trường kỳ kháng chiến,
Hưng Đạo vương đã mở hội Diên Hồng.

Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm,
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo.
Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”.
Có Nguyễn Du và có một “Truyện Kiều”.

Quê hương tôi có Trường Sơn một dải,
Có Hồng Hà lại có Cửu Long Giang
Có Hà Nội có hồ Tây, hồ Kiếm.
Chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng.

Quê hương tôi có sầu riêng, măng cụt
Lòng bưởi đào, lòng gấc đỏ như son.
Có gạo tám xoan thổi nồi đồng điếu,
Cam xã Đoài ai bóc cũng thơm ngon.

Cánh đồng nào cũng chôn vàng giấu bạc,
Bờ biển nào cũng chói ngọc ngời châu.
Có thanh quế ngửi qua là khỏi bệnh,
Có cây lim đóng cả một thân tầu.

Quê hương tôi có những người con gái
“Một ngày hai bữa cơm đèn...”
Cách sông cái cũng bắc cầu dải yếm,
Cho chàng sang đính ước chuyện nhân duyên.

Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát;
Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ.
Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng,
Sớm hay chiều, đều mượn cánh cò đưa.

Khi có giặc những tre làng khắp nước,
Đều xả thân làm ngọn mác, mũi chông,
Những trai gái thôn Đông, xóm Bắc
Thoắt vươn vai thành những anh hùng...

Quê tôi đó - bạn ơi! - là thế đó.
Mà nghìn năm rặt những tiếng kêu thương
Sung sướng làm sao! Bỗng một ngày: có Đảng
Có Bác Hồ, làm sống lại quê hương.

Đánh Nhật, đuổi Tây cứu dân, dựng nước
Hai mươi năm kể biết mấy công trình!
Và từ đây, núi sông và cuộc sống.
Và quê hương mới thực sự của minh.

Cuộc đời mới con người cũng mới,
Khắp bốn phương lộng lẫy ánh sao cờ,
“Đoàn quân Việt Nam đi... chung lòng cứu quốc...”
Đầu ngẩng cao từ cách mạng mùa thu.

Những xiềng xích nghìn năm đều bẻ gãy.
Những bài ca điệu múa lại vui tươi.
Những trận khóc đêm dài không có nữa.
Thành thị nông thôn rộn rã tiếng cười.

Trong luỹ tre xanh vui mùa hợp tác,
Mái ngói nhô lên như những nụ hoa hồng.
Chung ruộng, chung trâu, chung lòng, chung sức
Chung con đường gặt lấy ấm no chung.

Trong xưởng máy tưng bừng như đám hội.
Những chủ nhân là chính những công nhân.
Tiếng máy reo chen tiếng cười tiếng hát,
Chẳng còn đâu tiếng chủ thét, cai gầm!

Những nhà thơ được tự do ca ngợi,
Quê hương. Tổ quốc, con người...
Và đời sống khỏi túng, nghèo, đói, khổ.
Khỏi bị ai khinh rẻ, dập vùi!

Đời trước thường mơ chuyện tiên, chuyện Phật,
Truyện thiên đường trong những cõi hư vô...
Đời nay dựng thiên đường trên mặt đất,
Dựng mùa xuân trong tất cả bốn mùa.

Khi con người được tự do giải phóng.
Đất rộng hơn mà trời cũng xanh hơn.
Quả trên cành cũng thêm ngon, thêm ngọt,
Hoa trong vườn cũng thêm sắc, thêm hương.

Và ý nghĩa những ca dao, tục ngữ
Ngày càng thêm thắm thiết, ngọt ngào.
Và “Truyện Kiều” mới có chân giá trị,
Và Nguyễn Du mới thành đại thi hào.

Thửa ruộng cũ cấy thêm mùa lúa mới,
Khung trời quê mọc những nóc lò cao.
Dây “cao thế” đã chăng dài khắp nẻo,
(Xóm làng tôi điện sẽ át trăng sao).

Những gỗ tốt đã dựng câu lạc bộ,
Gạo tám xoan thơm bếp lửa nhân dân.
Những cô Tấm tự tay xây hạnh phúc
Chẳng phải gian nan hoá kiếp mấy lần.

Và lớp lớp những anh hùng xuất hiện.
Sức thanh niên: sức Phù Đổng là đây!
Đẩy biển lùi ra, ngăn sông đứng lại,
Khẩu súng trường cũng hạ nổi máy bay.

Hội Diên Hồng thôn xã nào cũng mở,
Chuyện “kháng chiến trường kỳ” ai cũng nhớ nhập tâm.
“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”
Câu ấy giờ đây đã đúng cả trăm phần.

Đảng cùng dân đã viết thêm lịch sử,
Lửa Điện Biên sáng dậy cả trăm năm.
Lửa Ấp Bắc, Chu Lai cũng bừng rực rỡ,
Lửa chiến công đang chói lọi miền Nam.

Khi có Đảng, có Bác Hồ lãnh đạo;
Có truyền thống cha ông để lại tự bao đời.
Thì đánh Mỹ nhất định là phải thắng
Chuyện ấy, quê tôi, thành chuyện dĩ nhiên rồi.

***

Câu chuyện quê tôi, sơ sài mấy nét.
Bạn trở về xin kể mọi người hay.
Riêng phần tôi có thơ này tặng bạn,
Tặng quê mình, nhân dịp tết năm nay.

(Tết Bính Ngọ, 1966)

(Nguyễn Bính, Nguyễn Bính thơ và đời, NXB Văn học Hà Nội, trang 134-135)

Chú thích: Nguyễn Bính quê Làng Thiện Vịnh, xã Đồng Đội, Vụ Bản, Nam Định. Là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại. Ông được coi là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ mang sắc thái dân dã, mộc mạc. Bài thơ “Bài thơ quê hương” được Nguyễn Bính sáng tác vào dịp Tết Bính Ngọ (1966).

* nồi đồng điếu: là loại nồi được làm từ đồng, có hình dáng đặc biệt với phần đáy sâu, miệng rộng, hường dùng trong nấu nướng.

Câu hỏi: Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích bài thơ “Bài thơ quê hương” của Nguyễn Bính.

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích bài thơ “Bài thơ quê hương” của Nguyễn Bính.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài

- Giới thiệu khái quát về Nguyễn Bính – một nhà thơ nổi tiếng với phong cách dân gian, đậm chất quê hương.

- Dẫn vào bài thơ “Bài thơ quê hương” – được viết trong kháng chiến chống Mỹ, mang âm hưởng tự hào, sâu nặng nghĩa tình và tràn đầy cảm hứng cách mạng.

- Nêu vấn đề cần phân tích: bài thơ là bản hòa ca lớn về vẻ đẹp quê hương, truyền thống dân tộc và niềm tin vào cách mạng, vào tương lai đất nước.

* Thân bài

a. Cảm hứng và giọng điệu bài thơ

- Viết theo thể thơ tự do, kết hợp lời kể – tả – bình, mang âm điệu trò chuyện thân tình giữa tác giả và người bạn từ xa đến thăm quê.

- Giọng thơ mộc mạc, gần gũi, có lúc tha thiết trữ tình, có khi hào sảng bi tráng, thể hiện chiều sâu cảm xúc và sự chuyển động trong tâm thế người dân đất Việt.

b. Vẻ đẹp truyền thống của quê hương Việt Nam

- Văn hóa dân gian đậm đà bản sắc

+ Quê hương hiện lên với hình ảnh cây bầu, cây nhị, tiếng đàn, cô Tấm trong truyện cổ tích, ca dao tục ngữ,...

+ Các biểu tượng dân gian như đĩa muối – dây trầu, cánh cò, tiếng hát ru, yếm đào... gợi ra nền văn hóa nông nghiệp lâu đời, mang đậm hồn dân tộc.

- Truyền thống yêu nước, bất khuất chống giặc ngoại xâm

+ Gợi lại hào khí dân tộc: Bà Trưng, bà Triệu, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Hội nghị Diên Hồng, anh hùng xóm làng,...

+ Nhân dân từ bao đời luôn “xả thân làm ngọn mác, mũi chông” – chứng minh tinh thần yêu nước thấm sâu vào đời sống.

- Tự hào về địa danh, sản vật quê hương

+ Nhắc tới Trường Sơn, Hồng Hà, Cửu Long, Hà Nội, hồ Tây, chợ Đồng Xuân,...

+ Sản vật phong phú: sầu riêng, măng cụt, gạo tám xoan, cam xã Đoài, quế, lim... thể hiện sự trù phú và phong phú của đất nước.

c. Quê hương đổi thay dưới ánh sáng cách mạng

-  Từ khi có Đảng, có Bác Hồ

+ Niềm vui lớn lao khi đất nước thoát khỏi nô lệ: “Sung sướng làm sao! Bỗng một ngày: có Đảng”

+ Thành thị, nông thôn “rộn rã tiếng cười”; người dân làm chủ cuộc đời, tự do sáng tạo.

- Cuộc sống mới, con người mới

+ Tự do sản xuất, hợp tác hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa hiện đại hóa,...

+ “Những cô Tấm” không còn cam chịu mà tự xây hạnh phúc; “sức Phù Đổng” của thanh niên đẩy lùi thiên nhiên, giặc giã.

- Khí thế kháng chiến chống Mỹ cứu nước

+ Hào khí Điện Biên, Ấp Bắc, Chu Lai,... thể hiện truyền thống chiến đấu bất khuất tiếp nối không ngừng.

+ Lời khẳng định mạnh mẽ: “Đánh Mỹ nhất định là phải thắng” thể hiện niềm tin vào chính nghĩa và lý tưởng cách mạng.

d. Tình yêu tha thiết với quê hương và đất nước

- Tác giả kể về quê hương bằng cả trái tim yêu thương, lòng biết ơn và tự hào.

- Hình ảnh quê hương là sự tổng hòa của truyền thống – văn hóa – chiến đấu – đổi mới – phát triển.

* Kết bài

- Khẳng định giá trị bài thơ: “Bài thơ quê hương” là một bản tráng ca hào hùng và xúc động, ca ngợi vẻ đẹp của quê hương – đất nước gắn liền với cách mạng và lý tưởng dân tộc.

- Góp phần làm nên một Nguyễn Bính không chỉ là nhà thơ lãng mạn mà còn là nhà thơ của cách mạng, của quê hương trong thời đại mới.

- Liên hệ: Bài thơ khơi gợi niềm tự hào dân tộc và nhắc nhở thế hệ hôm nay trân trọng, giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống quý báu của quê hương đất nước.

Bài văn tham khảo

Bài thơ Bài thơ quê hương của Nguyễn Bính được sáng tác vào Tết Bính Ngọ năm 1966, trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra ác liệt. Đây không chỉ là một khúc ca ngợi ca vẻ đẹp của quê hương đất nước từ truyền thống đến hiện tại, mà còn là một bản trường ca thấm đẫm niềm tự hào dân tộc, niềm tin vào cách mạng, vào tương lai tươi sáng của nhân dân.

Mở đầu bài thơ là lời trò chuyện giản dị mà tha thiết giữa nhà thơ và người bạn phương xa về thăm quê. Cách xưng hô thân mật “bạn” và điệp từ “quê hương tôi” được lặp lại nhiều lần đã tạo nên giọng điệu trìu mến, tự hào. Nguyễn Bính giới thiệu quê hương mình bằng những hình ảnh gần gũi, thân thuộc của đời sống dân gian: “cây bầu cây nhị”, “cô Tấm trong quả thị”, “cô em may túi ba gang”, tiếng “tích tịch tình tang”… Những biểu tượng dân gian ấy như dòng sữa ngọt nuôi lớn tâm hồn người Việt qua bao thế hệ.

Bên cạnh truyền thống văn hóa dân gian, Nguyễn Bính còn tự hào giới thiệu những vẻ đẹp thiêng liêng của lịch sử dân tộc. Từ hình ảnh anh hùng dân tộc như bà Trưng, bà Triệu, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, đến Nguyễn Trãi với Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Du với Truyện Kiều, tất cả đều được nhắc tới với niềm kính trọng. Qua đó, nhà thơ khẳng định quê hương không chỉ có phong cảnh đẹp, văn hóa đậm đà, mà còn là nơi sản sinh ra những con người kiệt xuất, góp phần làm nên hồn cốt dân tộc.

Phần giữa bài thơ là sự chuyển biến mạnh mẽ về cảm xúc và tư tưởng. Nguyễn Bính không giấu được niềm xúc động khi ca ngợi vai trò của Đảng và Bác Hồ – những người đã “làm sống lại quê hương”. Cuộc cách mạng đã mang lại cho nhân dân tự do, ánh sáng và niềm vui sống. Hình ảnh quê hương hiện đại hiện lên tràn đầy sức sống: “trong xưởng máy tưng bừng như đám hội”, “trong luỹ tre xanh vui mùa hợp tác”… Sự thay đổi ấy không chỉ là vật chất mà còn là tinh thần, khi con người được sống, được ca ngợi, được làm chủ cuộc đời mình.

Điểm nổi bật của bài thơ còn nằm ở niềm tin mãnh liệt vào truyền thống yêu nước và sức mạnh của nhân dân. Nhà thơ tự hào rằng: “Khẩu súng trường cũng hạ nổi máy bay”, “Đẩy biển lùi ra, ngăn sông đứng lại” – hình ảnh đầy khí phách về sức mạnh dân tộc khi được hun đúc bởi truyền thống và cách mạng. Đặc biệt, câu thơ “Chuyện ấy, quê tôi, thành chuyện dĩ nhiên rồi” như một lời khẳng định giản dị mà kiêu hãnh về chân lý: quê hương – đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng nhất định sẽ chiến thắng.

Bài thơ quê hương là một bản tình ca chan chứa yêu thương, là bản hùng ca ca ngợi lịch sử, văn hóa, con người và cách mạng Việt Nam. Nguyễn Bính đã dùng giọng thơ mộc mạc, gần gũi, kết hợp linh hoạt giữa chất dân gian và cảm hứng hiện đại, giữa tự sự và trữ tình, để dựng lên một hình ảnh quê hương vừa thân thương, vừa thiêng liêng, vừa truyền thống, vừa hiện đại. Qua đó, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp quê hương mà còn được hun đúc niềm tin, niềm tự hào dân tộc trong trái tim mỗi người.

Xem thêm các câu hỏi Đọc hiểu và Viết trong bài thơ Bài thơ quê hương chọn lọc, hay khác:

Xem thêm bộ ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 9, lớp 12 phần Thơ chọn lọc, hay khác:


Đề thi, giáo án các lớp các môn học