Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm thơ - Cánh diều

Với soạn bài Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm thơ trang 45, 46, 47, 48, 49 Ngữ văn lớp 11 Cánh diều sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó dễ dàng soạn văn 11.

1. Định hướng

1.1 Nghị luận về một tác phẩm thơ

Ở lớp 10, các em đã được làm quen với kiểu bài phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ (chủ yếu là bài thơ). Ở lớp 11, bên cạnh các thao tác và kĩ năng đã được giới thiệu, các em cần lưu ý.

- Bài thơ là một cấu trúc mang tính chỉnh thể (các yếu tố nghệ thuật trong tác phẩm có sự gắn kết, tương tác làm nên một thể thống nhất để đem lại những thông điệp độc đáo, hàm súc)Nghị luận về một tác phẩm thơ đòi hỏi phải biết phân tích một cách tổng thể những yếu tố hình thức để qua đó nhận biết một cách toàn diện những thông điệp, những tầng ý nghĩa của tác phẩm.

Ngoài ra, bài thơ hay luôn gắn với một cái nhìn, một cách cảm thụ độc đáo về thế giới của tác giả. Vì thế, khi nghị luận về một tác phẩm thơ nên đặt bài thơ trong sự so sánh với những bài thơ khác để làm rõ hơn nét độc đáo về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm cần nghị luận.

- Nghị luận về một tác phẩm thơ có thể là phân tích, đánh giá toàn bộ tác phẩm nhưng cũng có thể chỉ tập trung phân tích một số yếu tố nội dung hoặc hình thức của tác phẩm. Ví dụ:

+ Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.

+ Cảm nhận của em về bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

+ Vẻ đẹp của những yếu tố tượng trưng trong bài thơ Tình ca ban mai của Chế Lan Viên.

1.2. Để viết bài nghị luận về một tác phẩm thơ, các em cần lưu ý

- Đọc kĩ bài thơ, đoạn thơ, chú ý xác định các yếu tố hình thức (tên bài thơ, thể thơ, vần, nhịp, nhân vật trữ tình, phép điệp, đối, hình ảnh, các biện pháp tu từ, cấu tứ,...) từ đó, phân tích để chỉ ra giá trị của chúng trong việc thể hiện nội dung, chủ đề của bài thơ, đoạn thơ.

- Xác định các luận điểm trong bài viết, lựa chọn các dẫn chứng từ bài thơ cho mỗi luận điểm.

- Liên hệ, so sánh với các tác giả, tác phẩm có cùng đề tài, chủ đề để nhận xét điểm gặp gỡ và sáng tạo riêng của tác giả bài thơ, đoạn thơ được nêu trong đề văn.

- Biết cách sử dụng các từ ngữ để diễn tả chính xác, truyền cảm những cảm nhận và rung động của em với các chi tiết, hình ảnh.... đặc sắc trong bài thơ.

- Suy nghĩ về giá trị, sự tác động của bài thơ, đoạn thơ đối với người đọc và với chính bản thân.

2. Thực hành

2.1 Thực hành viết theo các bước

Bài tập (trang 46 sgk Ngữ văn 11 Tập 2) Phân tích sự độc đáo về nội dung và hình thức của bài thơ “Đây mùa thu tới” (Xuân Diệu).

a) Chuẩn bị

-  Xem lại nội dung đọc hiểu bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu.

+ Trọng tâm cần làm rõ sự độc đáo về nội dung và hình thức của bài thơ Đây mùa thu tới.

+ Kiểu văn bản chính: nghị luận về một tác phẩm thơ.

+ Phạm vi dẫn chứng: văn bản Đây mùa thu tới và các bài thơ có cùng đề tài (đặc biệt là những bài thơ về mùa thu trong văn học trung đại của Nguyễn Khuyến, Đỗ Phủ).

b) Tìm ý và lập dàn ý

- Tìm ý cho bài viết bằng cách suy luận từ khái quát đến cụ thể theo sơ đồ sau:

Soạn bài Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm thơ | Hay nhất Soạn văn 11 Cánh diều

- Lập dàn ý cho bài viết:

Mở bài

Nêu vấn đề bằng một trong các cách: phản đề, so sánh, đặt câu hỏi,...

Thân bài

Giải quyết vấn đề, ví dụ:

- Phân tích khổ 1: Mùa thu về

+ Vẻ đẹp tang tóc: Tiễn đưa mùa hạ

+ Vẻ đẹp kiêu sa của một giai nhân: Mùa thu với sắc vàng mơ kiều diễm (so sánh với sắc xanh của mùa thu truyền thống trong thơ Nguyễn Khuyến).

+...

- Phân tích khổ 2: Mùa thu ngấm sâu vào thế giới cảnh vật.

+ Phân tích khổ 3:...

+ Phân tích khổ 4:...

Kết bài

Tổng hợp vấn đề bằng một trong các cách: tóm lược, phát triển, phối hợp giữa tóm lược và phát triển,...

c) Viết

Dựa vào dàn ý đã chuẩn bị để thực hành viết với những yêu cầu khác nhau:

- Viết đoạn mở bài, kết bài hoặc một số đoạn trong phần thân bài (chọn viết về một hoặc một số ý mà em thấy hứng thú và tâm đắc).

+ Có thể viết mở bài theo nhiều cách (trực tiếp hay gián tiếp, phản đề hay so sánh. dẫn dắt,...). Tuy nhiên, dù mở bài theo cách nào cũng cần nêu được sự độc đáo trong nội dung và hình thức của bài thơ (gắn với phong cách của Xuân Diệu)

+ Đối với phần thân bài: Xác định rõ nội dung đoạn cần viết là gì, các dẫn chứng nào cần đưa ra và những lí lẽ, lập luận nào cần triển khai. Vì viết về ý mà em tâm đắc, hứng thú nên cần tập trung làm nổi bật được nét riêng trong cảm thụ và phân tích của mình. Ở đây, thao tác so sánh, liên tưởng là rất cần thiết. Dù chỉ viết về một ý nhưng các em cũng nên lưu ý về mối quan hệ của ý đó với các ý trước và sau nó.

- Viết bài văn hoàn chỉnh (làm ở nhà hoặc trên lớp nếu có thời gian)

Trả lời

- Đoạn văn mẫu mở bài:

Xuân Diệu (1916-1985) là nhà thơ tình, viết hay nhất và nhiều nhất trong thời đại chúng ta. Thi sĩ đã để lại trên 400 bài thơ tình,; là nhà thơ "mới nhất trong những nhà thơ mới". Xuân Diệu cũng là thi sĩ của mùa thu. Với Xuân Diệu nếu "Tình không tuổi và xuân không ngày tháng" thì cảnh thu chứa đựng biết bao tình thu, bao rung động xôn xao, bởi lẽ "Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền”.

- Đoạn văn phân tích khổ 2:

Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới đến khổ thơ 2, chúng ta càng thấm thía hơn khung cảnh ảm đạm của mùa thu. Dưới con mắt nhạy cảm, tinh tế nhưng đầy u uất của nhà thơ, mùa thu tới mang theo sự chia lìa, khi các loài hoa thay nhau rụng xuống. Thay vì sắc xanh tươi trẻ của mùa hè thì giờ đây sắc đỏ đã chiếm chỗ và xua đuổi màu xanh đi để chiếm trọn không gian thu cho riêng mình. Không những thế, mùa thu tới mang theo những cơn gió heo may se se lạnh, khiến cho cành lá rung rinh một cách run rẩy chứ không phải rung rinh vui vẻ như khi mùa hè. Cùng với đó là những cành cây rụng hết là chỉ còn trơ xương gầy mỏng mảnh thiếu sức sống.

“Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.

Cả khổ thơ, tác giả đã dùng màu sắc và các nét chấm phá để khắc họa lên bức tranh thu đầy xơ xác và khô héo. Dường như nó ẩn chứa dáng vẻ thất vọng, chán chường của tâm trạng con người. Con người trước Cách mạng tháng tám hay chính nhà thơ đang thấy mình thiếu sức sống, không biết bấu víu vào đâu và cảm thấy run rẩy trước dòng chảy của thời gian. Bốn câu thơ đều sử dụng phép đảo ngữ, nhằm nhấn mạnh những thay đổi của thiên nhiên khi mùa thu tới và cũng nhằm làm nổi bật nét thu đầy buồn thương.

- Đoạn văn mẫu kết bài:

Bút pháp tạo hình trong Đây mùa thu tới là sự tác động đến các giác quan con người ở hàng thông báo mang tính cái có giá trị trong đời sống đang bị hủy diệt, đang bị lụi tàn giá lạnh. Tất cả chỉ mới bắt đầu thật sự không phải mọi đóa hoa đều rụng mà chỉ “một loài hoa ” Không phải tất cả tán cây lá xanh đều bị tuyệt diệt sắc xanh mà là màu đó đang rua rủa màu xanh. Không phải tất cả mọi cành đều khô héo mà “đôi nhánh khô già). Không phải luồng gió nào cũng lạnh lẽo mà “rét mướt”chỉ mới ngấm ngầm trong luồng gió. Tính giao mùa hấp hối đó càng thấm thía hơn bởi những vùng màu nghĩa của áo mơ phai, luổng run rẫy, đã nghe rét mướt. Người đọc nhiều lúc có cảm giác mùa thu đã thực sự chiếm hữu cảnh vật, thậm chí mùa đông đã có mặt trong thu… Tất cả những điều ấy là một phiến âm bài: Trong phong cách tư tưởng của nhà thơ Xuân Diệu. Vì yêu cuộc sống, Xuân Diệu rất sợ từng giây từng phút của cuộc sống bị gặm nhấm, tàn phai, rất sợ tuổi trẻ lại càng làm tâm hồn già. Nói tóm lại, về mặt tư tưởng Đây mùa thu tới là sự dị ứng với Xuân không tuổi của Xuân Diệu, xuân mới kì diệu mới là bản chất của ông.

* Bài văn mẫu tham khảo

Xuân Diệu ông hoàng của thơ tình yêu, chưa kể những bài thơ của ông đều mang những quan niệm rất mới về cuộc sống, tuổi trẻ và về tình yêu. Ông cũng được xem là thi sĩ của mùa thu, cũng chính vì cái lãng mạn, khoảnh khắc xao xuyến của thu mà những vần thơ của nhà thơ hồn hậu và có hồn biết bao nhiêu. Đây mùa thu tới là một trong số những sáng tác tiêu biểu của Xuân Diệu. Mùa thu đó hiện ra thật đáng yêu, làm cho tâm hồn thi sĩ như dây đàn rung lên những điệu nhạc xao xuyến lòng người.

Rút từ tập “ Thơ Thơ”, sáng tác "Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Diệu, xuất bản năm 1938. Thu đến, những chiếc lá rụng, gió hắt hiu làm xốn xang lòng người đặc biệt là một tâm hồn của một người thi sĩ, vốn đã có chút nhạy cảm với những thay đổi của đất trời dù là nhỏ nhất.

Nhưng có lẽ hình ảnh mùa thu tới trong tác phẩm khiến cho người đọc cảm nhận một không khí tang thương bi ai,những hình ảnh không phải hoa lá, không phải gió đưa cần trúc, không phải mặt nước xanh biếc mà gắn với hình ảnh những cành liễu

"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng".

Không gian hiện ra với vẻ "đìu hiu", buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như "đứng chịu tang". Lá liễu buông dài như tóc nàng cô phụ "buồn buông xuống". Sương thu ướt đẫm trên những nhánh liễu khiến tác giả ngâm nga một câu khiến chúng trở nên có hồn. Những cành liễu giống như những cô giá thướt tha, nhưng mắt buồn đẫm lệ. Biện pháp láy âm được Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu: "đìu hiu – chịu", "tang – ngàn – hàng", "buồn – buông – xuống". Đây tạo nên những nét thú vị của thơ Xuân Diệu những năm đầu thế kỉ 20.

Ngắm nhìn rặng liễu, đột nhiên tác giả chợt nhận ra màu thu đã tới, với cách ngắt nhịp 4/3 với điệp ngữ "mùa thu tới" đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ.

"Đây mùa thu tới mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng".

Cách hiệp vần lưng thần tình: "tới – với", một chữ "dệt" tinh tế trong miêu tả và cảm nhận. Thu tới cũng chính muôn nơi được nhuộm bởi một màu vàng của cây đổi lá, nó được dệt một cách tỉ mỉ mang tới một vẻ đẹp không phải tự dưng mà có. "Với áo mơ phai dệt lá vàng" là một câu thơ thi vị biết bao, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi lên cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô cùng. Tuy nhiên mùa thu đó lại bắt đầu với một nỗi buồn ảm đạm hắt hiu.

Thu về cũng chính là lúc cảnh vật đổi khác, khoác lên mình những màu sắc rực rỡ. Thu đã về và thu dần trôi,thời gian trôi nhanh không tưởng. Cảnh vật một lúc một khác, hoa rơi, màu đỏ lấm chấm dần và rủa màu xanh. Cây cối cảnh vật bắt đầu rụng lá trơ cành như đang "run rẩy", khẽ "rung rinh" trước những làn gió thu lành lạnh, se sắt.

"Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.

Những luồng run rẩy, rung rinh lá,

Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh".

Ở khổ thơ này, tác giả sử dụng những từ láy như: "run rẩy", "rung rinh”, "mỏng manh" là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Đặc biệt hình ảnh sắc đỏ “ rủa “ màu xanh khiến cho câu thơ mang một nét đẹp nghệ thuật độc đáo. Màu xanh đó không mướt như ngọc mà từ từ từ lan rộng ra, và mọi thứ như ngấm chất thu vào đó.

Thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo ở khổ thơ thứ 3 được sử dụng một cách triệt để: là "nàng trăng tự ngẩn ngơ" trên bầu trời. Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Hình ảnh núi nhấp nhô trong làn sương mờ cành làm nổi bật những hình ảnh của mùa thu. Trăng và núi trong thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:

“Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ

Non xa khởi sự nhạt sương mờ… "

"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,

Đã vắng người sang những chuyến đò”

Hai tiếng "đã nghe", "đã vắng" gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu với không khí se se lạnh. Chúng ta thấy có chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác. Sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió, về cái xa vắng không chỉ bằng giác quan mà còn bằng cả linh hồn nữa. Như chính tác giả dang đứng giữa chiều gió thu, se se lạnh,chữ "luồn" đã cụ thể hóa cái rét, cảm nhận được nó bằng trực giác.

Đâu đẹp bằng hình ảnh thiên nhiên đẹo đẽ ở khổ thơ cuối.Có vẻ đẹp của thiên nhiên, của mây trời, cánh chim, xuất hiện vẻ đẹp thiếu nữ. Cảnh đẹp, người đẹp nhưng mà thoáng buồn mơ hồ mênh mông. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn đẹp chia li như "bèo dạt mây trôi" của tình ca!

"Mây vẩn từng không chim bay đi,

Khí trời u uất hận chia li"…

"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,

Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì"

Bao giờ trong thơ Xuân Diệu luôn xuất hiện hình bóng của giai nhân. Đây mùa thu tới cũng vậy, xuất hiện hình bóng một giai nhân trong tương tư, đang mộng tưởng. Đó cũng là một nét mới nói về mùa thu trong thơ Xuân Diệu.

Bài thơ “Đây mùa thu tới” lắng đọng trong độc giả những cảm xúc rất riêng, không những vậy cách cảm nhận của tác giả cũng rất mới mẻ. Mọi cảnh vật trong bài thơ mặc dù có thiên nhiên nhưng không thể thiếu được trong thơ Xuân Diệu là hình bóng giai nhân. Bao nhiêu nét thu là bấy nhiêu nét vẽ tài hoa. Dáng thu, sắc thu, tình thu đều đẹp đều hiện ra với nỗi buồn mênh mang không biết từ đâu đến.

d) Kiểm tra và chỉnh sửa

Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 5, phần Viết, mục d (trang 26), đối chiếu với dàn ý đề văn đã làm ở bài này.

2.2 Rèn kĩ năng viết: Phân tích tác dụng của hình thức thơ

a. Cách thức

- Bài văn phân tích tác dụng của hình thức thơ là bài nghị luận về tác dụng của một hoặc toàn bộ yếu tố hình thức của tác phẩm thơ như: nhan đề, thể loại, cấu tứ, nhân vật trữ tình, giọng điệu, bối cảnh, hình tượng, bút pháp....

- Mỗi yếu tố hình thức trong một bài thơ có tác dụng nghệ thuật riêng. Ví dụ: nhan đề có tác dụng gợi dẫn về chủ đề của bài thơ, tạo cảm xúc hay đánh thức trường liên tưởng cho người đọc, cũng có khi chỉ là để gây tò mò, thu hút người đọc đến với bài thơ, cấu tứ giúp người đọc nhận thấy được sự vận động và biến đổi trong mạch cảm xúc của bài thơ, nhân vật trữ tình và giọng điệu có tác dụng đem đến một cách nhìn, một cách cảm thụ về thế giới, qua đó bộc lộ chủ đề và ý nghĩa của bài thơ....

Cần lưu ý là các yếu tố hình thức thơ không tồn tại biệt lập mà luôn tương tác, gắn bó với nhau để làm thành một chỉnh thể. Vì thế, khi phân tích, cần chú ý sự hô ứng, thống nhất của các yếu tố hình thức trong việc biểu đạt ý nghĩa, chủ đề của tác phẩm.

- Để viết được bài văn (hoặc đoạn văn) phân tích tác dụng của hình thức thơ, các em cần xác định rõ: Yếu tố hình thức đó là gì? Biểu hiện như thế nào? Yếu tố đó có mối hệ gì với các yếu tố hình thức khác? Yếu tố có vai trò như thế nào trong quan việc thể hiện chủ đề, ý nghĩa của bài thơ? Yếu tố đó đem lại ấn tượng gì, gợi ra những liên tưởng và so sánh gì cho người đọc? Một điều đặc biệt quan trọng là phải chọn đúng được yếu tố hình thức độc đáo, có giá trị thẩm mĩ.

b) Bài tập: (trang 48 sgk Ngữ văn 11 Tập 2):  Trong các đoạn văn sau, người viết đã tập trung phân tích yếu tố hình thức nào trong bài "Vội vàng" của Xuân Diệu (Trích theo Chu Văn Sơn, “Thơ, điệu hẩu và cấu trúc". NXB Giáo dục, 2007),

- Đoạn 1: Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái Xuân Diệu có lẽ là Vội vàng. Ngay từ hồi viết Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã thấy Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt. Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tựa để Vội vàng, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự hoạ của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình.".

- Đoạn 2:

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây và cỏ rạng

Có thể nói, câu thơ Và non nước, và cây, và cỏ rạng là không thể có đối với thi pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đối với người xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ và đến thế? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ và hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sống cái cảm xúc ham hố, tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi sĩ!”

- Đoạn 3: Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép tương giao (correspondence) của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới (...). Có những câu thơ mà cảm giác được liên tục chuyển qua các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác. Mùi tháng năm — thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương - chẳng thế mà thi sĩ cứ muốn buộc gió lại ư- thương bay đi là thời gian trôi mất, là phải nhạt phôi pha! Một chữ rớm cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ vị liền đó lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ vị hoàn toàn phi vật chất: vị chia phôi!. Thì ra chữ rớm và chữ vị đều từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó.".

Trả lời:

Trong các đoạn văn, người viết đã tập trung phân tích yếu tố hình thức trong bài:

- Đoạn 1: Người viết tập trung phân tích yếu tố hình thức về nhan đề trong bài "Vội vàng" của Xuân Diệu.

- Đoạn 2: Người viết tập trung phân tích yếu tố hình thức về bút pháp trong bài "Vội vàng" của Xuân Diệu.

- Đoạn 3: Người viết tập trung phân tích yếu tố hình thức về bút pháp trong bài "Vội vàng" của Xuân Diệu.

Bài giảng: Viết bài văn nghị luận về một tác phẩm thơ - Cô Hoàng Hồng (Giáo viên VietJack)

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 11 Cánh diều hay nhất, ngắn gọn khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 11 hay khác:


Giải bài tập lớp 11 Cánh diều khác