SBT Ngữ văn 12 Cánh diều Bài tập viết và nói - nghe trang 15, 16, 19

Với giải sách bài tập Văn 12 Bài tập viết và nói - nghe trang 15, 16, 19 sách Cánh diều hay nhất, ngắn gọn sẽ giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 12.

Câu 1 trang 15 SBT Ngữ Văn 12 Tập 2: Nhận định sau đây đúng hay sai? Lí giải vì sao?

“Bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ không thực hiện việc so sánh, đánh giá một phương diện nội dung hoặc hình thức nghệ thuật của hai tác phẩm thơ mà phải so sánh hai tác phẩm thơ trọn vẹn, gồm cả nội dung và hình thức nghệ thuật.”.

Trả lời:

Nhận định đó không đúng vì bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ có thể được hình thành từ nhiều yêu cầu khác nhau: so sánh cả tác phẩm, so sánh một yếu tố nội dung hoặc hình thức, hoặc so sánh một khổ, một câu, đoạn hoặc một chi tiết, hình ảnh cụ thể nào đó... trong hai văn bản thơ.

Câu 2 trang 15 SBT Ngữ Văn 12 Tập 2: Những ý nào sau đây nêu đúng những điểm cần lưu ý khi viết bài nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ:

a) Xác định mục đích so sánh, đánh giá.

b) Xác định tác giả và khuynh hướng thơ ca cần so sánh.

c) Lựa chọn một số tiêu chí và phương diện cụ thể cần so sánh của hai văn bản thơ.

d) Lí giải về nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của từng bài thơ.

e) Đưa ra các nhận xét về sự hơn, kém giữa hai văn bản thơ.

g) Nêu nhận xét thể hiện quan điểm, thái độ đánh giá về tính độc đáo, sự đặc sắc riêng của mỗi tác phẩm.

h) Đảm bảo tính chính xác của các số liệu, tính trừu tượng của các lập luận lô gích.

Trả lời:

Các ý đúng: a, c, g.

Câu 3 trang 15 SBT Ngữ Văn 12 Tập 2: Điểm giống và khác nhau trong hai khổ thơ sau của bài Tháng Tư (Nguyễn Linh Khiếu) là gì?

đến tháng Tư mọi chuyện xong rồi

cây đủ lá cánh hoa rơi vào đất

ông Mặt Trời đủ đầy đến gay gắt

đất mỡ màu ngủ lịm dưới bóng râm

và:

đến tháng Tư mọi chuyện tưởng xong rồi

chớm chút trời xanh thoáng hè non nớt

chiều nay ngọn gió bất ngờ cơn mưa bất chợt

nắng sau mưa óng ánh đến nghi ngờ.

Trả lời:

Hai khổ thơ trong bài Tháng Tư (Nguyễn Linh Khiếu) đều là những cảm nhận của nhân vật trữ tình về tháng Tư cùng những biến đổi của thiên nhiên, đất trời, đều thể hiện bằng những câu thơ không tuân theo các quy tắc ngữ pháp (không viết hoa đầu dòng, không có dấu), nhưng nếu đoạn thứ nhất là những hình ảnh thiên nhiên thông thường theo chu kì, quy luật thì đoạn thứ hai lại là những biến động bất ngờ, bất chợt của tạo vật, khiến thi nhân ngỡ ngàng, thảng thốt.

Câu 4 trang 16 SBT Ngữ Văn 12 Tập 2: Đọc và tìm hiểu văn bản sau theo các hướng dẫn ở bên phải:

(1) Huy Cận và Hồ Chí Minh là hai trong số những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Nếu nhắc đến Huy Cận, độc giả yêu thơ thường nghĩ tới Lửa thiêng - tập thơ đã làm nên tên tuổi và vị thế của ông trong phong trào Thơ mới, thì mỗi khi nghĩ về Bác trong tư cách của một thi sĩ, người đọc lại không thể quên Nhật kí trong tù tập thơ của một bậc “đại trí, đại nhân, đại dũng” (Viên Ưng). Trong hai tập thơ trên, Tràng Giang và Chiều tối được đánh giá là những thi phẩm tiêu biểu, kết tinh cả tư tưởng, phong cách và tài nghệ của hai tác giả. Những câu thơ sau đây có thể xem là điển hình, có nhiều điểm tương đồng và khác biệt thú vị:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

(Huy Cận, Tràng giang)

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không

Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng.

(Hồ Chí Minh, Chiều tối)

Phần (1) trình bày nội dung gì và có điểm nào khác so với những đoạn mở bài thông thường của bài văn nghị luận về một tác phẩm thơ?

 

(2) [...] Thật vậy, câu thơ đầu của khổ thơ dựng lên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ. Hết lớp máy này đến lớp máy khác xếp chồng lên nhau dựng thành một quả núi mây. Câu thơ gợi nhớ một tử thơ của Đỗ Phủ: “Mặt đất máy đùn cửa ải xá Chẳng biết Huy Cận có học Đỗ Phủ chữ “dùn” này không hay tài năng của người nghệ sĩ lớn đã đem đến cho bài thơ con chứ đắc địa ấy, chỉ biết rằng với chữ “đùn” khung cảnh thiên nhiên càng lúc càng được nới rộng ra, được nhân lên về tầm vóc lớn lao, về sự đồ sộ, hùng vĩ. Và cảnh tượng ấy càng làm tăng lên sự đối lập với hình ảnh một cánh chim chiều mong manh, yếu ớt “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” Chữ “nghiêng” ở đây tương tác với ý thơ trước đó: “đùn núi bạc” để tạo ra lớp nghĩa bóng chiều đang đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch đi, đồng thời “vẽ” lên sự tương phản, đối lập giữa núi mây tầng tầng, lớp lớp với một cánh chim chiều nhỏ nhoi, đơn côi, lạc lõng. Giống như hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng”, “Sông dài trời rộng bến cô liêu”, thi ảnh “Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa” ẩn chứa nỗi buồn cô đơn, lẻ loi của cái “tôi” trữ tình thơ mới khi đứng trước thiên nhiên, đất trời rộng lớn. Đó là tâm trạng và cũng là mặc cảm thường thấy, có tính phổ quát của nhân loại từ xưa đến nay khi phải đối diện với cái vô thuỷ, vô chung của vũ trụ.

[...]“Dợn dợn” là một từ láy nguyên giàu sức sáng tạo, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hỗ ứng cùng cụm từ “vời con nước” cho thấy một nỗi niềm bâng khuâng của nhân vật trữ tình. Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Câu thơ này có sự vận dụng sáng tạo một ý thơ trong bài thơ Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu:“Nhật mộ hương quan hà xứ thị / Yên ba giang thượng xử nhân sầu” (Quê hương khuất bóng hoàng hôn / Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai). Khác với Thôi Hiệu, nhìn khói sóng trên sông mà nhớ quê, Huy Cận không nhìn khói sóng trên sông mà vẫn nhớ quê da diết. Như chính nhà thơ đã từng thổ lộ: “lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu vì thi nhân xưa chỉ nhớ quê còn tôi thì nhớ quê và nhớ nước”. Nỗi buồn này dù có phần “ảo não” (Hoài Thanh) nhưng trong sáng và tích cực, nó phản ánh một cái “tôi” khát khao được hoà nhập và yêu quê hương, đất nước. Khổ thơ vừa mang ý vị cổ điển vừa phập phồng hơi thở của cuộc sống hiện đại.

Phần (2) tập trung phân tích sâu đoạn thơ nào? Với những phương diện nào?

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Người viết đã chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt nào giữa thơ Huy Cận và Thôi Hiệu? Từ đó đưa ra nhận định gì?

 

(3) [...] Qua những vần thơ nêu trên trong Tràng giang và Chiều tối, ta có thể thấy những điểm gặp gỡ ngẫu nhiên thú vị giữa hai nhà thơ ở hai xu hướng văn học khác nhau: lãng mạn và cách mạng. Những vần thơ không hẹn mà gặp đã cùng cất lên những giai điệu cổ điển của một tâm hồn lữ khách tha hương. Thể thơ – thất ngôn tứ tuyệt; bức tranh thơ – những hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng; bút pháp thơ – nghệ thuật chấm phá, tả cảnh ngụ tình; chủ thể trữ tình trong thơ – kẻ xa quê với bao nhung nhớ hướng về quê nhà;... là những hoà điệu thú vị trong một niềm cảm hứng chung của hai nhà thơ. Tuy nhiên, ngay trong những điểm tương đồng trên đã có những khác biệt. Cùng là nỗi niềm của người xa quê nhưng nếu Tràng giang là tình cảm nhớ quê, nhớ nước ngay trên đất nước mình của một cái “tôi” lãng mạn, bế tắc thì Chiều tối là nỗi buồn cô đơn, lẻ loi, nhớ về Tổ quốc, về cách mạng của người tù nơi đất khách quê người. Trong khi Tràng giang kiên định một nỗi buồn, nỗi sầu của “cái tôi” cô đơn trước vũ trụ rộng lớn thì Chiều tối là một tình yêu đối với thiên nhiên và sự sống con người dựa trên chất “thép” phi thường và một tâm hồn lúc nào cũng “nâng niu tất cả chỉ quên mình”... Những sự khác nhau nêu trên đều bắt nguồn từ phong cách, cảm hứng nghệ thuật, vị trí, điều kiện hoàn cảnh riêng,... của mỗi thi sĩ. Tràng giang dẫu sao cũng là một sáng tác của phong trào thơ mới lãng mạn. Còn Chiều tối là tác phẩm của một thi sĩ – chiến sĩ

Phần (3) trình bày những nội dung đánh giá nào của người viết? So với những đánh giá ở các phần trước, nội dung đánh giá ở đây có đặc điểm gì?

 

(4) Trong truyện ngắn Đời thừa, nhà văn Nam Cao đã từng viết: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa ai có”. Nền văn học của một dân tộc có phong phú hay không chủ yếu dựa vào sức sáng tạo và những sản phẩm nghệ thuật riêng có của các nhà văn. Sự khác biệt của các tác phẩm cho thấy bản sắc, phong cách sáng tạo của mỗi tác giả. Đây chính là yếu tố góp phần làm nên diện mạo riêng của mỗi người nghệ sĩ, là minh chứng sống động cho một nền văn học phát triển. Tràng giang và Chiều tối là những ví dụ điển hình cho chân lí đó dù vẫn có những điểm tương đồng nhất định và thú vị.

Người viết đã kết thúc bài nghị luận thế nào?

 

Trả lời:

1. Phần (1) trình bày nội dung: Giới thiệu tác giả Hồ Chí Minh và tác giả Huy Cận cùng hai tác phẩm Tràng Giang và Chiều tối.

Điểm khác với các mở bài khác: Mở bài này giới thiệu 2 tác giả và 2 tác phẩm.

2. Phần (2) tập trung phân tích khổ thơ của Huy Cận trên các phương diện: bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của thi nhân.

3. Điểm tương đồng: Nỗi nhớ quê hương. Từ đó đưa ra nhận định: Khác với Thôi Hiệu, nhìn khói sóng mà nhớ quê, Huy Cận không nhìn khói sóng trên sông mà vẫn nhớ quê da diết.

4. Phần (3) trình bày những điểm gặp gỡ ngẫu nhiên thú vị giữa hai nhà thơ ở hai xu hướng văn học khác nhau: lãng mạn và cách mạng.

5. Người viết đã kết thúc bài nghị luận bằng một nhận định của Nam Cao

Câu 5 trang 19 SBT Ngữ Văn 12 Tập 2: Viết bài văn trình bày cảm nhận của em về phong vị dân gian trong bài Việt Bắc (Tố Hữu) và bài Mưa xuân (Nguyễn Bính)

Trả lời:

Tố Hữu và Nguyễn Bính là hai nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm hay và độc đáo. Nếu thơ của Tố Hữu luôn đậm đà tính dân tộc thì Nguyễn Bính lại được xem là nhà thơ của đồng nội. Các tác phẩm Việt Bắc và Mưa Xuân là tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Tố Hữu và Nguyễn Bính, hai tác phẩm này mang phong vị dân gian đặc sắc.

Bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang đậm phong vị dân gian qua nhiều yếu tố nghệ thuật và nội dung. Trước hết, bài thơ sử dụng thể thơ lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, với nhịp điệu nhẹ nhàng, uyển chuyển, dễ đi vào lòng người. Những câu thơ như:

“Mình về mình có nhớ ta

Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.”

không chỉ gợi lên hình ảnh quê hương mà còn thể hiện tình cảm gắn bó, thủy chung giữa người ở lại và người ra đi. Tố Hữu cũng sử dụng nhiều hình ảnh quen thuộc trong đời sống dân gian như “áo chàm”, “bếp lửa”, “rừng núi”, “suối lũ”, tạo nên một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống đậm chất Việt Bắc.

Ngoài ra, ngôn ngữ trong bài thơ rất gần gũi, mộc mạc, mang đậm chất dân gian. Những từ ngữ như “mình”, “ta” được sử dụng một cách tự nhiên, thân mật, tạo nên sự gần gũi, gắn bó giữa người đọc và tác phẩm. Giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, tha thiết, như lời thủ thỉ của người bạn tri kỷ, làm cho bài thơ trở nên sống động và dễ đi vào lòng người.

Bài thơ “Mưa xuân” của Nguyễn Bính cũng mang đậm phong vị dân gian qua cách sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh. Nguyễn Bính được mệnh danh là “thi sĩ của đồng quê” bởi thơ ông luôn gắn liền với những hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam. Trong “Mưa xuân”, những hình ảnh như “cô gái”, “mưa xuân”, “đường làng” đều rất gần gũi, mộc mạc:

“Em là con gái trong khung cửi

Dệt lụa quanh năm với mẹ già.”

Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Bính giản dị, mộc mạc nhưng đầy chất trữ tình, gợi lên một không gian làng quê yên bình, ấm áp. Những hình ảnh như “mưa xuân”, “đường làng”, “cô gái” đều rất quen thuộc, gần gũi, tạo nên một bức tranh làng quê Việt Nam đầy màu sắc và sống động.

Cả hai bài thơ đều thể hiện phong vị dân gian qua việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh và thể thơ truyền thống. Nếu như “Việt Bắc” của Tố Hữu mang đến một bức tranh thiên nhiên và cuộc sống đậm chất cách mạng, thì “Mưa xuân” của Nguyễn Bính lại gợi lên một không gian làng quê yên bình, trữ tình. Cả hai đều thể hiện tình yêu quê hương, đất nước và con người Việt Nam một cách sâu sắc và chân thành.

Phong vị dân gian trong thơ của Tố Hữu và Nguyễn Bính không chỉ làm cho tác phẩm của họ trở nên gần gũi, thân thuộc với người đọc mà còn góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Qua đó, người đọc không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp của ngôn từ mà còn thấy được tình yêu quê hương, đất nước và con người Việt Nam trong từng câu thơ.

Câu 6 trang 19 SBT Ngữ Văn 12 Tập 2: Hãy chỉnh sửa lại định nghĩa sau cho phù hợp

“Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ là nêu, diễn giải, trao đổi những điểm khác biệt của hai văn bản thơ về khía cạnh nội dung, từ đó đưa ra những nhận xét, bình luận thể hiện quan điểm, thái độ đánh giá của người nói về giá trị độc đáo của mỗi tác phẩm.”

Trả lời:

Sửa lại định nghĩa cho phù hợp: Trình bày về so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ là nêu, diễn giải, trao đổi những điểm tương đồng, khác biệt của hai văn bản thơ về các khía cạnh nội dung, nghệ thuật, từ đó đưa ra những nhận xét, bình luận thể hiện quan điểm, thái độ đánh giá của người nói, về giá trị độc đáo của mỗi tác phẩm, hoặc quy luật chung của sáng tạo thi ca,…

Câu 7 trang 19 SBT Ngữ Văn 12 Tập 2: Phương án nào nếu không đúng yêu cầu trình bày về việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ? (Chọn một phương án đúng nhất)

A. Xác định được hai văn bản thơ chứa đựng những phương diện về nội dung và hình thức nghệ thuật có thể tiến hành việc so sánh và đánh giá

B. Khi trình bày, ngôn ngữ, giọng điệu,... phải bám sát mục đích, nội dung so sánh, phải thể hiện rõ quan điểm, thái độ đánh giá của người nói

C. Không cần tập trung vào điểm tương đồng, khác biệt giữa hai văn bản thơ mà chỉ cần đưa ra những nhận định, đánh giá về các tác phẩm được so sánh

D. Khi trao đổi, thảo luận, cần bảo vệ quan điểm riêng của bản thân nhưng cũng phải thể hiện thái độ tôn trọng sự lựa chọn và ý kiến của người khác

Trả lời:

Chọn đáp án: C. Không cần tập trung vào điểm tương đồng, khác biệt giữa hai văn bản thơ mà chỉ cần đưa ra những nhận định, đánh giá về các tác phẩm được so sánh

Câu 8 trang 19 SBT Ngữ Văn 12 Tập 2: Hãy chuyển bài viết về phong vị dân gian trong bài Việt Bắc (Tố Hữu) và bài Mưa xuân (Nguyễn Bính) thành bài trình chiếu PowerPoint và trình bày trước lớp hoặc trong tổ / nhóm.

Trả lời:

HS trình bày trước lớp về PowerPoint đã chuẩn bị.

Hãy chuyển bài viết về phong vị dân gian trong bài Việt Bắc (Tố Hữu) và bài Mưa xuân (Nguyễn Bính)

Hãy chuyển bài viết về phong vị dân gian trong bài Việt Bắc (Tố Hữu) và bài Mưa xuân (Nguyễn Bính)

Lời giải sách bài tập Ngữ Văn 12 Bài 8: Thơ hiện đại hay khác:

Xem thêm giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 12 Cánh diều hay, chi tiết khác:


Giải bài tập lớp 12 Cánh diều khác