Thuyết minh về một loại hoa, quả (siêu hay)
Thuyết minh về một loại hoa, quả hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Thuyết minh về một loại hoa, quả (mẫu 1)
- Thuyết minh về một loại hoa, quả (mẫu 2)
- Thuyết minh về một loại hoa, quả (mẫu 3)
- Thuyết minh về một loại hoa, quả (mẫu 4)
- Thuyết minh về một loại hoa, quả (mẫu 5)
- Thuyết minh về một loại hoa, quả (mẫu 6)
- Thuyết minh về một loại hoa, quả (mẫu 7)
- Thuyết minh về một loại hoa, quả (mẫu 8)
- Thuyết minh về một loại hoa, quả (mẫu 9)
- Thuyết minh về một loại hoa, quả (các mẫu khác)
Đề bài: Thuyết minh về một loại hoa, quả
Thuyết minh về một loại hoa, quả - mẫu 1
Quả phật thủ rất được mọi người ưa chuộng dùng để thờ cúng hoặc sắp vào mâm ngũ quà vì loại quả này trong đời sống tâm linh mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp.
Phật thủ là một loại quả thuộc chi cam chanh. Cây phật thủ được trồng ở vùng có khí hậu ấm, nhất là khu vực miền Nam nước ta. Phật thủ là loại cây thân gỗ nhỏ, cao từ 2 đến 2,5 m, quanh năm xanh tốt. Quả phật thủ cho ra hoa kết quả quanh năm nhưng quả chín vào mua thu hoặc mùa đông sẽ được giá tốt hơn vì chín vào mùa thu đúng dịp Tết Trung Thu loại quả này thường được bày cùng trong mâm ngũ quả còn chín vào mùa đông đúng dịp lễ Tết loại quả này thường sẽ xuất hiện ở vị trí trung tâm trên bàn thờ gia tiên với ý nghĩa mang đến bình an, phước lành, tài vận lẫn sức khỏe cho gia chủ.
Nhìn bề ngoài, quả phật thủ căng, mọng. Quả chia nhánh có hình dáng như nhiều ngón tay chụm lại một cách kỳ lạ, vỏ ngoài nổi lên các núm vú sần sùi trông giống “Phật thủ”(ngón tay của Phật),vì sự kỳ lạ ấy mà mỗi một quả phật thủ lại mang một dáng vẻ khác nhau, không quả nào trông giống quả nào.
Lá cây phật thủ mọc so le, mép lá có răng cưa nhỏ nhìn hơi giống lá của cây mít. Cây cho ra hoa thành từng chùm, bông hoa có 5 cánh màu trắng giống hoa của cây cam hoặc bưởi. Điều này cũng dễ lí giải vì cây phật thủ thuộc chi cam chanh.
Quả phật thủ khi còn non có màu xanh, khi chín quả ngả sang màu vàng tươi bắt mắt. Quả mang theo mùi hương dịu nhẹ mà theo quan niệm xưa hương thơm này để lưu giữ thần, Phật chính vì điều đó mà loại quả này rất được mọi người ưa chuộng .
Bên trong quả phật thủ không có nước, ruột xốp đặc không có múi và hạt nên loại quả này không thể ăn được trực tiếp. Tuy nhiên, người ta đã nghĩ ra cách đem sấy hoặc phơi khô để tạo ra các vị thuốc dân gian chữa ho, đờm,… hoặc trực tiếp dùng phật thủ ngâm với rượu, nấu cháo hoặc làm mứt, chè. Sau khi được xơ chế quả phật thủ còn có thể dùng làm nguyên liệu cho các món ăn bổ dưỡng, hấp dẫn như: gà hấp lá sen cùng nấm và phật thủ mang hương vị đậm đà hay một chén trà phật thủ thơm, mát,…
Tuy không thể ăn trực tiếp nhưng quả phật thủ mang ý nghĩa may mắn, hoặc có thể sơ chế làm thuốc, thức ăn rất được người dân Việt Nam chúng ta ưa chuộng. Vào những ngày lễ tết, trên bàn thờ gia tiên của mỗi gia đình Việt không thể thiếu loại quả có hình dáng đặc biệt này.
Thuyết minh về một loại hoa, quả - mẫu 2
Mỗi chúng ta khi trưởng thành đều mang theo bên mình hành trang từ quê hương thân yêu. Đó là gia đình, là những kỉ niệm ấu thơ, là những hình ảnh in sâu trong tâm trí. Và còn là hương vị của quê hương, hương vị thuộc về loại quả đặc trưng quê mình. Loại quả đặc trưng của quê hương tôi là quả vải.
Dù không phải những địa danh nổi tiếng như Thanh Hà (Hải Dương), Hưng Yên, Lục Ngạn (Bắc Giang) nhưng quả vải ở quê hương tôi lại khiến mỗi người con xa quê luôn da diết nhớ về.
Vải là loại cây ăn quả thân gỗ vùng nhiệt đới, có nguồn gốc từ miền nam đất nước Trung Quốc. Quả vải xuất hiện ở Việt Nam vào khoàng thế kỉ thứ 8 tại Hồng Châu (Hải Dương). Sau này Hải Dương đã trở thành xứ sở của quả vải. Giống vải được ưa chuộng nhất ở Việt Nam cũng là vải thiều Thanh Hà – Hải Dương. Tuy nhiên, vải được trồng nhiều nhất say này lại ở huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Có một giống vải khác chín sớm hơn, có tên gọi dân gian là "vải tu hú” nguyên nhân có lẽ là do trùng thời gian chim tu hú di cư về.
Quả vải có nhiều loại khác nhau nhưng nổi tiếng nhất là vải Thiều. Quả vải mọc ra từ những cành của cây thân gỗ cao hàng chục mét, gốc cây to, màu nâu, da sần sùi. Thân cây vải to khoảng một vòng tay ôm. Lá cây gần như hình thoi, màu xanh đậm. Hoa ra từng chùm màu trắng, cơn mưa xuân qua đi hoa vải đã bắt đầu kết trái. Từ mỗi chùm hoa trắng mọc ra những chùm quả be bé. Quả vải hình cầu hoặc hình trứng, vỏ sần sùi như có gai trên bề mặt, sờ tay vào có cảm giác thô ráp. Ban đầu, quả vải màu xanh non, lớn hơn màu xanh sẫm. Rồi một ngày tháng 6, tháng 7, tu hú kêu tha thiết bồi hồi trên đồng quê, quả vải rủ nhau cùng chín rộ. Khi vải chín, những cái gai đỡ nhọn hơn, và màu cũng đỏ sậm hơn. Lúc ấy, nhìn từ xa, cây vải như một mâm xôi gấc đầy. Bóc lớp vỏ ra, bên trong quả vải là lớp cùi màu trắng đục, mọng nước bao bọc lấy hạt vải nhỏ màu đen hoặc ánh nâu. Hương vị quả vải ngọt lijmhoajwc cũng có loại ngọt ngọt, chua chua, mùi thơm rất quyến rũ.
Để có được những quả vải ngọt thơm, mát lành, người ta phải bỏ công chăm sóc, vun trồng rất vất vả. Cây vải trồng xuống đất khoảng hơn một năm trở nên mới ra quả. Lúc đầu sẽ ít và không đều, cây vải trên 10 tuổi ra quả đều hơn. Quả vải không ưa thời tiết nóng ẩm nên khi hái về phải bảo quản hoặc dùng luôn, chế biến thành dạng có thể giữ lâu.
Quả vải có vai trò và giá trị rất lớn. Quả vải là một trong những loại hoa quả của nước ta được xuất khẩu nhiều ra nước ngoài và được bạn bè quốc tế yêu thích. Đó là nguồn thu nhập chính của rất nhiều gia đình ở Hải Dương, Bắc Giang. Trong quả vải chứa rất nhiều chất dinh dưỡng, vitamin có lới cho sức khỏe con người. Quả vải cũng được dùng chữa các bệnh đau răng, đau bụng. Mỗi mùa hè, trong tiết trời nóng nực, những thịt quả vải mát lạnh, ngọt lịm chính là thứ nước giải khát ngon nhất. Không những thế, ngày nay người ta còn chế biến vải để làm kẹo, làm kem, hay sấy khô làm vải hộp vừa ngon lại có giá trị kinh tế cao. Đó là món quà mà rất nhiều người lựa chọn để gửi tặng người thân, bạn bè. Thời xa xưa, vải là loại quả quý được đem tiến vua. Quả vải đi vào trong cả thi ca như tác phẩm “Thương nhớ mười hai” của Vũ Bằng, tượng trung cho hương vị của dân tộc Việt.
Quả vải chỉ là một trong số rất nhiều loại quả của quê hương Việt Nam. Nhưng nó mang một hương vị riêng, đó là hương vị thân thương của quê nhà – nơi tôi sinh ra và lớn lên. Mai sau, khi xa quê, hương vải chín mỗi mùa tu hú gọi bầy có lẽ chính là hương vị tôi lưu luyến nhất.
Thuyết minh về một loại hoa, quả - mẫu 3
Dưa hấu, không gì sánh kịp với hương vị tuyệt vời của loại trái cây này trong những ngày nắng nóng của mùa hè. Quả dưa hấu không chỉ là nguồn nước giải khát lý tưởng mà còn là một bảo vệ tuyệt vời cho sức khỏe của mọi thành viên trong gia đình.
Truyền thuyết về Mai An Tiêm, người với đôi bàn tay phù hợp đã tạo ra những quả dưa hấu ngon lành, là một câu chuyện đã trở thành huyền thoại trong thế giới cây trồng. Nhưng ngày nay, dưa hấu đã trở thành một phần không thể thiếu của mùa hè, là lựa chọn hàng đầu để giải quyết khát khao cho mọi gia đình.
Khác biệt giữa vỏ ngoài xanh mát, có đôi khi là những sọc trắng đen tinh tế và bên trong màu đỏ tươi, với những hạt dưa đen bí ẩn, tạo nên một hình ảnh tuyệt vời của quả dưa hấu. Trọng lượng của chúng dao động từ 2-3 kg, và những quả dưa hấu ngon nhất là những quả cảm giác chắc chắn trong bàn tay, với vỏ láng căng, phát ra âm thanh trong trẻo khi gõ nhẹ.
Mùa hè là khoảnh khắc chờ đợi để thu hoạch những trái dưa hấu tuyệt vời từ những cánh đồng. Chúng được chuyển đi khắp nơi để mang lại niềm vui và sự hài lòng cho những người yêu thích hương vị ngọt lịm và tươi mát. Gia đình của chúng tôi thường xuyên đưa về những quả dưa hấu đầy nước để thưởng thức, không chỉ làm món ăn tráng miệng mà còn biến chúng thành những ly sinh tố ngon lành, thêm phần phong phú và dinh dưỡng cho chế độ ăn uống trong mùa hè.
Dưa hấu không chỉ ngon miệng mà còn mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe. Đây chính là loại trái cây mà tôi thực sự say mê, không chỉ vì hương vị tuyệt vời mà còn vì những đóng góp to lớn của nó vào sức khỏe trong những ngày nắng oi bức của mùa hè.
Thuyết minh về một loại hoa, quả - mẫu 4
Cây ăn quả là một trong những nguồn thu nhập rất lớn trong nền nông nghiệp nước ta. Nhắc tới cây ăn quả, một trong số những loại cây mà được ưa chuộng là cây xoài. Chúng ta cùng tìm hiểu về loài cây này nhé.
Cây xoài là một giống cây có từ rất lâu rồi. Xoài có nguồn gốc từ các nước vùng Đông Nam Á như Myanmar, Thái Lan... Dần dần được phổ biến ra các nước trên toàn vùng khí hậu nhiệt đới. Và đến Việt Nam, xoài rất được ưa chuộng, lai tạo ra rất nhiều loại giống khác nhau, mang hương vị, đặc điểm riêng. Xoài có rất nhiều loại, xoài Bắc Úc, xoài Thái Lan, xoài tím lại Đài Loan... Trong nước ta, xoài cũng được chia làm rất nhiều loại: xoài cát Chu, xoài cát Hòa Lộc, xoài tứ quý, xoài Thanh Ca, xoài Tượng, xoài Xiêm... Mỗi loại đôi khi còn có nhiều tên gọi khác nhau theo từng địa phương. Nhưng nhìn chung chúng đều là cây ăn quả, thuộc chi Xoài, có đặc tính, quá trình sinh trưởng và phát triển khá giống nhau.
Rễ của xoài là loại rễ cọc, có một cái rễ chính và hàng trăm chiếc rễ nhánh khác nữa. Rễ chính thường to bằng cổ tay người lớn, dài khoảng 50cm đến 1 mét. Rễ chính có màu trắng ngà, nhọn, cắm sâu vào lòng đất giữ cho cây đứng vững trước giông gió. Từ rễ chính tỏa ra các rễ con nhỏ hơn, chúng nhỏ nhưng lại có thể dài tới 2 mét, len lỏi trong từng thớ đất, chắt chiu chất dinh dưỡng để nuôi cây. Ngày qua tháng lại, những chiếc rễ nhỏ bé ấy vẫn luôn giữ vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của cây. Nếu không có chúng, cây xoài không thể lớn lên, cho ra các trái ngọt được. Thân của cây to, hình trụ tròn và là loại thân gỗ. Phía sát đất thường được gọi là gốc cây, mang màu xanh của rêu, cây càng già vùng gốc mang màu xanh của rêu càng nhiều. Phía trên là thân cây, có thể cao từ mười đến hai mươi mét. Vỏ của thân cây là lớp vỏ hơi sần sùi màu bàng bạc. Ẩn sau lớp vỏ ấy là những thớ thân cây màu xanh tràn trề nhựa sống, chất dinh dưỡng mà rễ cây hút được phải nhờ có thân cây và các mạch trong thân cây mới chuyển được đến lá. Lên gần đến ngọn, từ thân cây bắt đầu tủa ra các cành cây to khỏe. Tán cây xoài rộng, cành cây không khẳng khiu mà rất to, chắc. Chúng thường to bằng bắp tay người lớn, có màu của thân cây nhưng nhạt hơn. Từ các cành cây ấy lại trổ ra các nhánh nhỏ hơn mang theo các tán lá cây xanh mơn mởn. Lá của cây xoài lá loại lá đơn, mọc so le nhau. Lá khi trưởng thành có màu xanh thẫm, mặt trên trơn láng, mặt dưới hơi ram ráp bởi các đường gân màu tim tím và có màu nhạt hơn. Lá cây xoài có mùi thơm giống như mùi hương của quả xoài vậy. Khi lá còn non, chúng con màu xanh nõn óng ánh trong nắng. Khi lá già, sắc tố xanh biến mất, thay vào đó là màu vàng cam, mỗi khi thu đến, cây xoài cứ như một nàng thơ mộng mơ, khoác trên mình tấm áo lụa thướt tha. Mùa đông, lá đã rụng hết, chỉ còn trơ ra các cành cây nhưng nhìn cây vẫn không khẳng khiu như các loài cây khác. Hoa của xoài thường nở vào thời gian cuối xuân, chúng nở thành chùm và có màu hơi vàng, cuống hoa màu tim tím. Mỗi một làn gió thoảng qua, đưa hương hoa bay đi, mời gọi ong bướm đến cần mẫn thụ phấn cho hoa. Trong giai đoạn này nếu mưa nhiều, cây sẽ không thể đậu nhiều quả, đây cũng là lúc mà người trồng cần quan sát cẩn thận nhất nếu muốn có một mùa bội thu. Khi quả xoài nhú ra, nó nhỏ li ti màu xanh thẫm. Sau vài tuần, quả đã to lên trông thấy, lớp vỏ cũng nhạt hơn và căng hơn. Khi chín, quả có màu vàng óng, lớp vỏ căng bóng. Từng chùm xoài sẽ rủ xuống trông rất đẹp mắt.
Xoài có rất nhiều giá trị, không chỉ là nguồn thu nhập đáng kể mà còn là là loại trái cây bổ dưỡng. Các vitamin trong quả xoài giúp làn đẹp da, sáng mắt, bổ sung đường huyết... Rất tốt đối với người làm việc nhiều, suy giảm thần kinh. Xoài còn giúp bổ sung sức đề kháng, cải thiện hệ tiêu hóa, chống viêm, chống ung thư... Xoài rất tốt cho sức khỏe của con người. Cây xoài còn cho ta bóng mát trong những ngày hè nóng nực, là nơi tuổi thơ gắn bó những chiều rủ bạn chơi trốn tìm, bắt ve, chơi bi... Lá xoài có thể chữa viêm ngứa, nấu để tắm hoặc xông. Vỏ thân cây xoài còn có vitamin, giúp chữa ho hiệu quả....
Cây xoài không chỉ mang lại giá trị vật chất mà còn mang lại giá trị tinh thần, mang lại sức khỏe cho con người. Trong tương lai, khi khoa học phát triển, cây xoài sẽ ngày càng có nhiều lợi ích hơn.
Thuyết minh về một loại hoa, quả - mẫu 5
Hoa Ly là một loài hoa rất được ưa chuộng trên toàn thế giới bởi mùi hương và những ý nghĩa mà chúng mang lại. Nhưng không phải ai cũng hiểu được cặn kẽ về loài hoa này về ý nghĩa và lịch sử phát triển lâu dài của chúng. Vì vậy, chúng ta hãy cùng tìm hiểu rõ hơn về hoa Ly nhé! Vậy hoa Ly có nguồn gốc từ đâu?
Trung Quốc là nước trồng hoa Lily sớm nhất từ hàng trăm năm trước. Trong tài liệu cổ “Thần nông bản thảo” thì củ Lily có tác dụng thanh phế, nhuận táo, tư âm, thanh nhiệt. Vì vậy, từ lâu củ Lily ngoài tác dụng làm giống còn được dùng để ăn, làm thuốc chữa bệnh… Ban đầu, hoa Ly được trồng để lấy củ ăn, bắt đầu từ đời nhà Đường (Trung Quốc), nhưng vẻ đẹp và mùi hương quyến rũ của chúng đã được khẳng định qua những bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của Lily thời nhà Đường, nhà Tống qua các nhà thơ nổi tiếng. Vì thế, hoa Ly không chỉ được mọi người ưa chuộng về củ của chúng mà người ta còn thích thưởng thức vẻ đẹp của Lily.
Mặt khác, quá trình phát triển của hoa Ly cũng hết sức lâu dài. Cuối thế kỉ 16, các nhà thực vật học Anh đã phát hiện và đặt tên cho các giống Lily. Đầu thế kỉ 17 Lily được mang từ châu Âu đến châu Mỹ. Tiếp đến, sang thế kỉ 18 các giống Lily của Trung Quốc được mang sang châu Âu, do vẻ đẹp và mùi thơm hấp dẫn nên cây Lily đã nhanh chóng phát triển và được coi là cây hoa quan trọng của châu Âu, châu Mỹ. Đây là bước đầu cho thời kì hoa Ly được biết đến rộng rãi và được ưa chuộng trên toàn Thế Giới.
Vào cuối thế kỉ 19, bệnh Virut ở Lily lây lan mạnh, tưởng chừng cây Lily sẽ bị huỷ diệt. Đến đầu thế kỉ 20, khi người ta phát hiện ra giống Lily thơm ở Trung Quốc (L. regane) có khả năng chống chịu tốt với bệnh virut, giống này được nhập vào châu Âu và chúng đã được dùng vào việc lai tạo giống mới để tạo ra rất nhiều giống có tính thích ứng rộng, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt, cây Lily lại được phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, các giống hoa Ly rất đa dạng và phân bố khắp nơi trên Thế Giới.
Hiện nay, các giống hoa Ly rất đa dạng và phân bố khắp nơi trên Thế Giới. Một một hoa Ly trưởng thành có bảy bộ phận chính là rễ, thân, lá, hoa, củ, quả và hạt. Về phần rễ, hoa Ly có hai loại: rễ củ để hút nước và chất dinh dưỡng cho củ và rễ thân để nâng đỡ, hút nước và chất dinh dưỡng cho cây sinh sống. Củ của hoa ly nằm dưới mặt đất, nhiều lớp vải bên ngoài củ bọc lại thành lớp thân vảy. Ở thân chính của cây, thân trên mặt đất mang lá và hoa, phần dưới mặt đất mang rễ thân và củ con. Chiều cao thân chủ yếu quyết định bởi chiều dài đốt.
Trong điều kiện ánh sáng yếu, ngày dài, nhiệt độ thấp và xử lý trước khi bảo quản lâu đều có tác dụng kéo dài đốt thân. Ngược lại ánh sáng mạnh, ngày ngắn, nhiệt độ cao lại ức chế đốt kéo dài. Về phần lá, hoa ly có nhiều hình dạng lá khác nhau như hình mũi mác, hình oval, hình elip, hình trứng hoặc thuôn dài hoặc tròn dài… lá không có cuống hoặc cuống ngắn tùy thuộc vào từng giống, nhóm giống. Phần hoa, phần quan trọng nhất làm nên vẻ đẹp quyến rũ của chúng có màu sắc đa dạng, phong phú, có loại có hương thơm, loại không có hương thơm.
Hoa của hoa ly cũng có nhiều dạng khác nhau, chủ yếu là 3 dạng chính: Hoa hướng trên, hoa quay ngang và hoa rủ xuống. Hoa có 6 nhị dài, một nhụy chia làm 3 thuỳ, bầu hoa hình trụ. Quả ly có chiều dài từ 5 – 7m, bên trong có 3 ngăn, mỗi quả có vài trăm hạt. Khi chín, quả tự nứt ra thành 3 khía dọc theo quả và phóng thích hạt ra ngoài. Hạt dẹt, xung quanh có cánh mỏng, hình bán cầu hoặc 3 góc, bên trong hạt có chứa phôi. Khi gieo sẽ nảy mầm thành cây mới. Tất cả những thành phần này đã góp phần tạo nên một cây hoa Ly tuyệt đẹp, làm cho bất cứ ai cũng phải trầm trồ khen ngợi.
Hoa Ly phát triển mạnh mẽ trên đất thoát nước tốt, đất ẩm có axit nhẹ như đất hữu cơ làm từ mùn, đất tự nhiên. Nhiệt độ thích hợp để cây phát triển ban ngày là 20 – 25 độ C, ban đêm là 12 – 15 độ C. Ngoài ra, các giống lai phương Đông thời kỳ đầu thích hợp với nhiệt độ ban ngày 25 – 28 độ C, ban đêm 18 – 20 độ C. Dưới 18 độ C cây sinh trưởng kém, hoa dễ bị mù. Lily ưa cường độ ánh sáng ở mức trung bình, từ 12 – 15 nghìn lux. Vào mùa hè, nhóm lily châu Á và lily thơm cần che bớt 50% ánh sáng, nhóm phương Đông thì 70% ánh sáng.
Lily thích không khí ẩm ướt, độ ẩm thích hợp nhất là 80 – 85%, vào thời kì đầu nên tưới nhiều nước, đến thời kì ra hoa cần giảm lại. Khi trồng cần nhớ phải luôn giữ ẩm cho đất. Khi chăm cây,cần tưới ở phần gốc, tránh làm lá và nụ bị ướt. Ngoài ra cần sử dụng hệ thống tưới nhỏ giọt cho ly với chế độ tưới 30 phút/ngày. Việc bón phân cho hoa cũng cần tiến thành kịp thời, bạn dùng phân hữu cơ (NPK, lân) để bón từ khi cây được 20 ngày đến khi cây nở hoa với tần suất 10 ngày/lần. Hỗn hợp phân hòa với nước đem tưới đều lên cây, sau đó đem tưới lại bằng nước để rửa phần còn bám trên lá.
Bông hoa ly vừa có hương thơm, vừa có vẻ đẹp quyến rũ , có thể tận dụng trong trang trí, làm quà tặng lại có lịch sử lâu đời. Vì vậy, chúng trở thành một phần quan trọng trong đời sống của người Việt nói chung và toàn Thế Giới nói riêng bởi những câu chuyện, những biểu tượng đằng sau những bông hoa Ly.
Thuyết minh về một loại hoa, quả - mẫu 6
Trong thế giới của những loài thực vật, mỗi loại hoa, mỗi cành cây, nhánh cỏ lại mang những vẻ đẹp riêng, những ý nghĩa riêng mà chúng ta không phải ai cũng biết điều đó. Những loài hoa mỗi loại cây lại thể hiện những ý nghĩa riêng. Có những khi, chúng ta tặng cho nhau những bó hoa để thay cho những lời mình muốn nói, thay cho tấm lòng của chúng ta về những điều quan trọng mà chúng ta dành cho người con người thân yêu bên cạnh mình hay chỉ đơn giản là thay cho chúng ta nói lên những lời chúc tốt đẹp nhất dành cho đối phương. Và đối với em, em yêu nhất là những bông hoa cúc- loài hoa tượng trưng cho sự cao thượng và hoa cúc cũng được coi là hình ảnh đại diện mỗi khi chúng ta nhắc tới mùa thu.
Mùa thu tới mang theo những cơn gió heo may, cái lành lạnh của mùa thu mang tới bên khung cửa cũng là lúc chúng ta lại tìm những cánh hoa cúc nhỏ xinh về bên mình như một nét đẹp mà chỉ mùa thu mới có. Cúc được coi là một trong từ bình:mai- trúc- cúc- tùng. Đây là không chỉ là những hình ảnh đại diện cho bốn mùa còn là những hình ảnh tượng trưng cho cốt khi của những con người có cốt cách thanh tao. Hoa cúc tại sao lại nằm trong tứ bình? Đó là bởi vì hoa cúc không chỉ là loài hoa tượng trưng cho mùa thu mà hoa cúc còn tượng trưng cho sự vĩnh cửu, sự trường thọ mà biểu đạt cho ý nghĩa trên chính là những bông cúc trường thọ. Theo quan điểm của nhân dân, những bông hoa cúc khi bị khô héo đi, chúng chỉ bị lụi tàn ở trên cây chứ không bao giờ rụng xuống dưới mặt đất, cũng giống như hình ảnh của những người chính nhân quân tử chỉ có thể chết đứng trong sự ngay thẳng chứ không bao giờ chịu sự chèn ép, chết không được trong sạch. Bởi vậy nên cúc đã là hiện thân của người quân tử trong lòng những người yêu thiên nhiên và muốn tìm cho mình những ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Còn theo quan niệm của những dân gian, chắc hẳn chúng ta cũng đã từng nghe sự tích về cây hoa cúc. Cây hoa cúc cũng thể hiện sự hiểu thảo, báo đáp công ơn của cha mẹ, mỗi cánh hoa là mỗi ngày người mẹ được sống. Với những bông cúc có vô vàn những cánh hoa nhỏ xinh như vậy thì điều đó cũng có nghĩa là cha mẹ của chúng ta cũng sẽ luôn được hạnh phúc, trường thọ.
Những bông hoa cúc tuy được coi là đại diện, là hình ảnh của mùa thu, thế nhưng, chúng vẫn có thể nở quanh năm. Có rất nhiều những loại hoa cúc trong thế giới của chúng hiện nay. Nào là hoa cúc vàng, hoa cúc trắng, cúc vạn thọ, cúc tím. Với những người yêu hoa thì mỗi loại hoa cúc lại mang những ý nghĩa riêng biệt không giống nhau. Có lẽ chúng ta sử dụng những bông cúc có màu vàng nhiều nhất bởi màu sắc rực rỡ của nó. Màu vàng là màu tượng trưng cho tuổi trẻ, cho những khát vọng mãnh liệt của mỗi chúng ta. Cũng gần giống như những bông hoa cúc vàng, những bông hoa cúc trắng cũng mang trong mình vẻ đẹp riêng. Phía trên cùng là những cánh hoa nhỏ li ti xếp chồng lên nhau, mang trong mình mùi thơm thoang thoảng, đầy ý nhị. Không phô trương như những bông hoa hồng rực lửa, cúc chỉ có sự nhẹ nhàng, đằm thắm như hình ảnh của những người phụ nữ dịu dàng. Phía dưới là những đài hoa xanh biếc nâng đỡ những cánh hoa bên trên, . Chúng như bàn tay nhỏ bé, nâng niu từng cánh hoa giúp cho chúng có thể bám vào nhau, tạo nên vẻ đẹp của những bông cúc trong nắng nhẹ của những ngày thu- nhất là những ngày thu của tiết trời hà nội. cúc thường mọc thành từng cụm, những bông cúc thường có thể tươi trong nửa tháng mới tàn, thế nhưng chỉ vài ngày sau, những nụ hoa cúc đã bắt đầu nở rộ ở những nhánh bên cạnh. Vào những lúc như thế này, sức sống của những bông cúc mới mãnh liệt hơn bao giờ hết. hay như những bông cúc trường thọ, chúng gây nổi bật bởi hình dáng của mình. Chúng là những bông hoa to bằng cái bát ăn cơm, bông hoa nở rộ lên, mang ý nghĩa của sự vĩnh cửu. Có lẽ vì vậy mà những bông cúc trường thọ cũng được nhiều người ưu ái hơn so với những bông cúc khác. Chúng rất hay được mua trong những ngày lễ quan trọng như ngày cha mẹ hay ông bà trong những ngày mừng thọ.
Chính bởi những ý nghĩa như trên mà những bông hoa cúc được coi là một trong những hình ảnh được nhiều thi sĩ lấy đó làm chủ đề cho những sáng tác của mình. Những bài thơ về hoa cúc có lẽ chỉ đứng sau hoa hồng mà thôi.
Thuyết minh về một loại hoa, quả - mẫu 7
Mỗi dịp xuân về, ngàn hoa lại khoe sắc. Trong muôn ngàn loài hoa rực rỡ sắc hương ấy có một loài hoa rất đỗi quen thuộc với người Việt Nam: hoa mai vàng.
Mai vàng thuộc họ hàng mai, vốn là một loài cây hoang dã, mọc nơi núi rừng với dáng vẻ tự nhiên mà quyến rũ. Trải qua thời gian cùng với nhu cầu thưởng ngoạn, trao gửi tâm linh, con người đã phát hiện, thuần dưỡng và xem mai như một người bạn thân thiết, tao nhã.
Mai có dáng vẻ thanh cao. Thân cây mềm mại, lá xanh biếc, dịu dàng, hoa tươi, rực rỡ. Mai thường trút lá vào mùa đông và ra hoa vào mùa xuân. Hoa nở thành từng chùm, có cuốn dài treo lơ lửng trên cành, thoảng mùi thơm e ấp, kín đáo. Mỗi nụ hoa thường có năm cánh. Cá biệt có hoa tới những chín, mười cánh. Dân gian vẫn tin rằng năm mới nhà nào có cành mai như vậy là dấu hiệu của điềm lành, của một năm thịnh vượng, an khang.
Mai thuộc loại dễ trồng và cũng dễ chăm sóc. Người ta thường trồng mai bằng cách chọn những hạt mai nhín mẩy, phơi khô rồi đem gieo vào đất ẩm, có thể gieo trong chậu hoặc ngoài vườn. Nó ưa đất ẩm và ánh sáng nhưng không chịu được úng. Vì vậy cần trồng cây mai nơi cao ráo và phải thường xuyên tưới nước cho cây. Nếu trồng trong chậu thì cần chú ý bón phân và thay đất hàng năm. Nếu chăm sóc tốt thì khoảng 5 - 7 năm mai có thể cho hoa. Để có một chậu hoa đẹp thường chú ý cắt nhánh, uốn cành, tạo thế để có được những chậu mai có hình dạng độc đáo, mang ý nghĩa sâu sắc, đậm chất triết lí Á Đông. Để mai ra hoa đúng vào ba ngày Tết, người trồng mai thường phải chú ý trút lá và canh thời tiết. Năm nào thời tiết nắng ấm thì trút lá trước Tết khoảng hai mươi lăm ngày. Năm nào rét đậm thì phải trút lá sớm hơn.
Từ lâu cây mai đã đi vào đời sống tinh thần của người Việt Nam. Tương truyền rằng chúa Nguyễn Hoàng lúc di dân vào miền Nam lòng vẫn không nguôi nỗi nhớ thương cành đào xứ Bắc nên mỗi độ xuân về lại dùng cành mai thay thế. Có lẽ thú chơi mai ngày Tết của người Việt ra đời từ đó.Đối với người Việt Nam, nhất là người miền Trung và miền Nam, mai thường là một thứ hoa thường không thể thiếu trong ngày Tết. Ba ngày xuân, ai cũng muốn có một cành mai đẹp trong nhà, vừa để tô điểm sắc xuân, vừa để cầu mong những điều tốt đẹp. Cùng với hoa đào miền Bắc, hoa mai trở thành hiện thân của mùa xuân phương Nam. mai, trúc, cúc, tùng là biểu tượng của bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du đã viết: “Nghêu ngao vui thú yên hà. Mai là bạn cũ, hạc là người quen”. Mai là biểu tượng của người quân tử, là bạn tâm giao của những người thanh lịch, tao nhã.
Mai là một cây quý của người Việt Nam. Hiểu biết về cây mai sẽ giúp chúng ta khám phá ra bao điều thú vị để từ đó càng thêm yêu quý, nâng niu trân trọng và biết cách làm tôn vinh giá trị của mai, góp phần làm cho ngàn hoa của xứ sở luôn rực rỡ sắc hương.
Thuyết minh về một loại hoa, quả - mẫu 8
“Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”
Bài ca dao về hoa sen gợi biết bao niềm yêu mến và tự hào về loài hoa hương đồng gió nội. Nhắc đến hoa sen là nhắc đến một loài hoa đẹp đẽ, thánh thiện, hoàn toàn thoát tục; một loài hoa trở thành biểu tượng cho tâm hồn và nhân phẩm Việt Nam.
Hoa sen là một trong những loài hoa truyền thống lâu đời nhất ở phương Đông. Đây là loài thực vật sống dưới nước có nguồn gốc Á châu và chiếm giữ một vị trí cổ xưa trong tất cả nền văn hóa, đặc biệt là của Phật giáo. Khi nhắc đến Phật giáo là nhắc đến hình ảnh Phật ngồi trên đài sen thơm ngát. Phật giáo đã có hơn hai nghìn năm trăm năm, vậy ắt hẳn tuổi của loài sen còn nhiều hơn thế.
Một bông hoa sen ngắm lần lượt từ ngoài vào trong ta sẽ thấy “bông trắng, nhị vàng”. Cánh hoa sen rất giống với hình trái tim, đáy tim hướng lên trên. Một bông sen có nhiều lớp cánh xếp lớp vào nhau; đến khi nở cũng ngần ấy cánh hoa xoè ra khoe sắc. Cánh hoa sen có thể có màu hồng hoặc trắng. Bên trong cánh sen là nhị sen màu vàng tươi rất nổi bật. Khi sen đã già, nhị đã tàn có thể thấy rõ bát sen với những hạt sen lớn bằng đầu ngón tay. Toàn bộ bông sen được đỡ bằng một cuống hoa dài và đưa sen mọc khỏi trên mặt nước. Thân sen được cấu tạo rất đặc biệt. Bẻ đôi thân sen sẽ thấy hai nửa thân còn được nối với nhau bằng những sợi tơ dài. Chính đặc điểm đó của sen đã gợi hứng để đại thi hào Nguyễn Du viết nên câu thơ tuyệt bút: “Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”. Bởi vậy, sen còn là biểu tượng của lòng thuỷ chung son sắt. Lá sen có hình tròn, rất rộng và có màu xanh. Mặt lá có một lớp nhung trắng, khi ánh nắng chiếu vào, lớp nhung trắng ấy óng ánh li ti mờ ảo rất đẹp. Hoa sen, lá sen, thân sen được nuôi sống bởi củ sen nằm sâu dưới lòng bùn. Hoa sen mọc trong bùn, sống trong bùn nhưng vượt lên khỏi nó để hướng đến mặt trời mà không hề bị bùn làm ô nhiễm, vấy bẩn. Thật đúng như lời ca dao: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Trong bức tranh làng quê Việt Nam, sẽ thật thiếu sót nếu thiếu đi hình ảnh đầm sen bát ngát, mênh mông. Có điều ấy bởi từ Bắc vào Nam, sen có mặt khắp mọi nơi, gắn bó rất mật thiết với đời sống con người Việt Nam như cây tre, cây đa... vậy. Mùa hạ đến giữa cái nóng như thiêu như đốt, đi làm đồng hay đang trên đường đi xa, người ta chỉ ao ước đến gần một đầm sen. Hương sen thơm ngát, mát lành thoảng qua làm dịu đi cái nóng nực, oi nồng. Thêm nữa, nhìn hình ảnh đầm sen rờn sóng, lá sen lấp loáng, hoa sen lung linh, chỉ vậy thôi đã như cảnh tiên khiến người ta quên cả mệt mỏi. Vài cậu bé con tinh nghịch ngắt chiếc lá sen che lên đầu làm nón, ngất ngưởng ngồi lên lưng trâu đi về đường làng, hình ảnh ấy cũng thật nên thơ nên hoạ. Không chỉ vậy, nhắc đến hoa sen còn là nhắc đến một loài hoa quý. Hoa sen được dùng để làm đẹp cho những ngôi nhà đơn sơ, giản dị của người nông dân Việt Nam đồng thời làm sang cho những khu vườn kim chi ngọc diệp. Bên cạnh đó, sen còn là một món ăn rất ngon và bổ. Củ và ngó sen sau khi rửa sạch liền trở thành món ăn mát lành, một món đặc sản chốn đồng quê. Hạt sen cũng được dùng làm món ăn, vị thuốc công hiệu. Đặc biệt, nhị sen còn được dùng để ướp trà tạo nên thức trà sen nức tiếng. Sáng sớm, khi trời còn tinh sương, người ướp trà phải chèo thuyền ra hồ thả từng lá trà vào giữa bông sen rồi buộc nhẹ bông sen lại để chè được ngấm cái hương vị thơm lành của sen. Cầu kỳ hơn, có người còn đi thâu từng hạt sương đọng trên cánh hoa sen, lá sen đề làm nước hãm trà... Vậy mới biết, sen được con người yêu thích đến nhường nào.
Khi mùa hạ qua đi, sen dần tàn lụi. Sen chỉ thích hợp với môi trường có khí hậu ấm nóng bởi vậy khi thu đến đông về, sen tạm thu mình xuống lớp bùn lạnh để chờ xuân sang vươn chồi non biếc và mùa hè đến thì xoè hoa, khoe lá. Nếu ở miền Bắc, hoa sen chỉ nở vào mùa hè, thì ở hầu khắp miền Nam quanh năm đâu đâu cũng thấy sen khoe sắc thắm. Quê hương của Bác có tên là “Làng Sen” và có lẽ hoa sen đẹp nhất khi được ví với hình tượng Bác Hồ, người cha già dân tộc, vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta:
“Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Không chỉ có những giá trị thực dụng, sen còn thể hiện những ý nghĩa sâu sắc giàu tính triết lí. Sen sống trong bùn nhưng vẫn vươn lên trên lầy, toả hương thơm ngát. Sen có một sức sống mạnh mẽ đến kỳ lạ và tự tính của sen là tinh khiết, thanh thoát. Nó tượng trưng cho bản tính thân thiện, phong thái tao nhã, tinh thần “vươn dậy” trong mọi nghịch cảnh của con người Việt Nam. Đặc biệt trong tư tưởng Phật giáo, hoa sen được tôn quý và chiếm vị trí rất quan trọng bởi tôn giáo này quan niệm rằng bản thân bông sen đã thể hiện tinh thần “cư trần bất nhiễm trần” - ý nghĩa ấy biểu trưng cho những giá trị đạo đức, sự thuần khiết và thánh thiện... Trong Phật giáo, phật tổ Thích Ca được sinh ra từ đóa sen vàng. Trong các công trình kiến trúc Phật giáo ở Việt Nam, sen luôn trở thành hình tượng nghệ thuật. Một trong những công trình kiến trúc tiêu biểu lấy cảm hứng từ hoa sen là chùa Một Cột. Theo truyền thuyết, ngôi chùa này được hình thành từ một giấc mộng đài sen của một vị vua triều Lý. Chùa có hình dáng hoa sen, mọc lên từ hồ nước, chỉ với “một cột” như một cọng sen. Tại đất nước Ai Cập, bông sen cũng được tôn thờ vì sự thanh khiết và thánh thiện. Đây là loài hoa duy nhất nở được trên dòng sông Nin huyền thoại bởi dòng chảy ở đây rất mạnh, các loài hoa khác đều bị vùi dập bởi sông nước nhưng riêng hoa sen thì khác, hoa sen có thể đâm chồi, nảy lộc và đem lại vẻ đẹp không gì sánh bằng cho con sông giàu màu sắc thần bí này.
Hãng hàng không quốc gia của Việt Nam, Vietnam Airlines đã chọn hình ảnh bông sen sáu cánh làm biểu tượng của mình sau bao thời gian chắt lọc, suy nghĩ. Đó cũng là biểu tượng mà người Việt Nam muốn cho bạn bè quốc tế trên khắp năm châu được biết đến. Đóa sen hồng giờ đã được nâng lên không trung, bay đến với khắp mọi nơi trên thế giới, mang niềm vui đoàn tụ, hạnh phúc, hòa bình và đã giúp khoảng cách giữa người và người, giữa các cộng đồng trên thế giới được xích lại gần nhau. Trong mắt của bạn bè thế giới, hình ảnh của bông sen sẽ in đậm và đọng lại trong tư tưởng của mọi người về một đất nước anh hùng, bất khuất dù phải trải qua bao cuộc bể dâu, bao trận chiến tang thương, khốc liệt nhưng giờ đây vẫn vững bước đi lên hội nhập với thế giới.
Thuyết minh về một loại hoa, quả - mẫu 9
Ở Phương Tây, người ta đặt cho mỗi màu hoa, mỗi thứ hoa một ý nghĩa nhất định. Màu trắng biểu thị sự trong sạch, màu xanh nhạt chỉ sự xoa dịu đam mê, màu hoàng yến đường hoàng kiêu hãnh, màu phấn hồng êm ái ôn nhu. Còn ở Phương Đông, hoa hồng tượng trưng cho tình yêu, hoa thủy tiên tượng trưng cho sắc đẹp kiều diễm, trong trắng, hoa cúc tượng trưng cho người ẩn dật, hoa phù dung sớm nở tối tàn thường được ví với những người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng bạc mệnh; hoa lan là thứ hoa vương giả; hoa mẫu đơn là thứ hoa phú quý; hoa nhài là thứ hoa lãng mạn, chỉ nở về đêm. Còn đồng tiền, thứ hoa gắn liền với cho sự may mắn,tài lộc, luôn cố gắng vươn lên để đến được nơi tươi sáng nhất giống như con người Việt Nam.
Đồng tiền hay cúc đồng tiền (Gerbera), có tên khoa học là Gerbera jamesonii, là một chi của một số loài cây cảnh trong họ Cúc (Asteraceae). Tên gọi Gerbera được đặt theo tên nhà tự nhiên học người Đức Traugott Gerber, một người bạn của Carolus Linnaeus. Đây là một trong 10 loại hoa thương mại quan trọng nhất được trồng trên thế giới, có nguồn gốc từ Châu Á, Nam Phi và Tasmania. Đồng tiền thích hợp với khí hậu ôn đới hoặc cận nhiệt đới. Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng hơn 30 giống hoa đồng tiền đang được trồng ngoài sản xuất, các giống này có nguồn gốc từ Hà Lan, Trung Quốc, màu sắc phong phú, đa dạng. Hoa được trồng chủ yếu ở Đà Lạt và các nơi có khí hậu mát mẻ.Cây hoa Đồng tiền thuộc loại thân thảo. Thân ngầm, không phân cành chỉ đẻ nhánh, lá và hoa phát triển từ thân, lá mọc chếch so với mặt đất một góc 15 - 45 độ, hình dáng lá thay đổi theo sinh trưởng của cây (từ hình trứng thuôn đến thuôn dài); lá dài 15 - 25cm, rộng 5 - 8cm, có hình lông chim, xẻ thuỳ nông hoặc sâu (tùy thuộc vào từng loại giống), mặt lưng lá có lớp lông nhung.
Hoa có cuống dài, là loại hoa tự đơn hình đầu và bông hoa được tạo bởi hai loại cánh hoa hình lưỡi và hình ống. Cánh hình lưỡi lớn hơn, xếp thành một vòng hoặc vài vòng phía ngoài; cánh hình ống nhỏ hơn, do sự thay đổi hình thái và màu sắc nên được gọi là mắt hoa hoặc tâm hoa. Trong quá trình hoa nở, cánh hoa hình lưỡi nở trước, cánh hoa hình ống nở sau theo thứ tự từ ngoài vào trong theo từng vòng một. Đồng tiền là cây thân thảo, dạng thân ngầm, không phân cành chỉ đẻ nhánh. Lá và hoa phát triển từ thân, lá mọc chếch so với mặt đất một góc 15 - 45 độ, hình dáng lá thay đổi theo sinh trưởng của cây (từ hình trứng thuôn đến thuôn dài); lá dài 15 - 25cm, rộng 5 - 8cm, có hình lông chim, xẻ thuỳ nông hoặc sâu (tuỳ thuộc vào từng loại giống), mặt lưng lá có lớp lông nhung. Thuộc dạng rễ chùm, hình ống, phát triển khỏe, ăn ngang và nổi một phần trên mặt đất, vươn dài tương ứng với diện tích lá tỏa ra. Hoa là dạng hoa tự đơn hình đầu và bông hoa được tạo bởi hai loại cánh hoa hình lưỡi và hình ống. Cánh hình lưỡi lớn hơn, xếp thành một vòng hoặc vài vòng phía ngoài; cánh hình ống nhỏ hơn, do sự thay đổi hình thái và màu sắc nên được gọi là mắt hoa hoặc tâm hoa. Trong quá trình hoa nở, cánh hoa hình lưỡi nở trước, cánh hoa hình ống nở sau theo thứ tự từ ngoài vào trong theo từng vòng một.
Hoa đồng tiền có rất nhiều màu: trắng, vàng, hồng, đỏ, cam… và mỗi màu lại có một ý nghĩa đặc biệt riêng. Nhưng dù là màu gì đi nữa thì loài hoa này đều tượng trưng cho sự hạnh phúc. Nó còn mang ý nghĩa về vẻ đẹp và điều kỳ diệu. Nó mang đến cho chúng ta sự tươi sáng và vui vẻ. Không những thế, nó còn thể hiện sự ngây thơ, tình yêu và lòng ca ngợi.
Đồng tiền là loại hoa có sản lượng và giá trị kinh tế cao. Ở điều kiện thích hợp có thể ra hoa quanh năm; trồng trọt và chăm sóc đơn giản, ít tốn công, đầu tư một lần có thể thu hoa từ 4 - 5 năm. Đồng tiền có hình dáng cân đối hài hòa, hoa, tươi lâu, giá trị thẩm mỹ cao, nên là loại hoa lý tưởng trong cắm hoa nghệ thuật cũng như trang trí khuôn viên, nhà cửa…
Trong giáo dục và nghiên cứu khoa học, đây cũng là một loài hoa điển hình, nó được dùng như một mô hình sinh học giúp nghiên cứu về sự hình thành của hoa. Trong y học, hoa đồng tiền cũng được coi là một bài thuốc quý. Trong Đông y Trung Quốc gọi là Nhật Quế hoa. Hoa đồng tiền có tác dụng thanh nhiệt, tiêu đờm, làm ngừng cơn ho (bằng cách: phơi khô cánh hoa trong mát, rồi nấu nước uống); dùng chữa trị rắn cắn hay bị thương, sưng đau (cánh hoa đâm nhuyễn, pha với nước chín, lấy nước uống, còn xác thì đắp lên vết cắn, chỗ sưng)... Ngoài ra, trong cây hoa đồng tiền có chứa các dẫn xuất của coumarin (thành phần của thuốc chống đông máu) nguồn gốc tự nhiên.
Ngoài giờ đi làm, ba em lúi húi chăm sóc mấy cây hoa. Em cũng lăng xăng giúp ba tưới nước hoặc lấy dụng cụ cho ba. Có mấy cây đồng tiền, góc cây cảnh của ba tươi hẳn lên. Ngắm hoa em thấy sảng khoái và thư thái vô cùng. Đồng tiền làm tươi thêm cảnh sắc sân nhà. Không gian thoang thoảng hương thơm của hoa làm dịu bớt không khí bụi bặm, tù túng của phố thị. Hoa đồng tiền tươi rất lâu, em rất thích hoa đồng tiền là vậy.
Thuyết minh về một loại hoa, quả - mẫu 10
Không biết tự bao giờ, cây hoa hồng đã trở thành một loài hoa tôn quý, vẻ đẹp của nó không thanh cao như hoa mai, không sặc sỡ như hoa ngũ sắc. Nhưng nó mang một vẻ đẹp mềm mại mà nhẹ nhàng, êm đềm như tình cảm của con người.
Cây hoa hồng có tên khoa học là Rosa, thuộc họ hoa hồng, có xuất xứ ôn đới và á nhiệt đới, vùng bắc bán cầu. Theo các nhà khoa học, thực vật học thì hoa hồng đã xuất hiện trên trái đất khoảng vài chục triệu năm, còn cây hoa hồng được con người thuần chủng đưa vào trồng trọt cũng đã cách nay khoảng vài ngàn năm. Người ta khẳng định hoa hồng đầu tiên ở Trung Quốc và Tiểu Á, sau đó mới du nhập vào châu Âu, nhưng người châu Âu lại có công lai tạo ra giống hoa hồng hiện đại ngày nay. Trên thế giới, mỗi khi nhắc đến đất nước Bungari, người ta lại nhắc đến cây hoa hồng. Nếu như nói Nhật Bản là xứ sở của hoa anh đào thì Bungari lại là xứ sở của hoa hồng. Cây hoa hồng được trồng ở hầu khắp cả nước ta, đặc biệt là Đà Lạt.
Hoa Hồng thuộc họ rễ chùm, là loại cây thân gỗ bụi, thân và cành có gai nhọn, đó là một trong những nét đặc trưng của cây hoa hồng. Lá hoa hình bầu dục, rìa lá có răng cưa, gân lá hình mạng. Cánh hoa còn tùy thuộc vào từng loại hoa hồng. Hồng nhung Đà Lạt có thể xem là loại hồng đẹp nhất nước ta, cánh hoa mềm mại, xếp chồng xen kẽ lên nhau, gần như hình trái tim mang một màu đỏ tươi thắm, nó như hội tụ tất cả những tinh túy của đất trời, của cuộc sống, của thế giới các loài hoa. Hoa hồng có ba loại chính, đó là: hoa hồng dại, hoa hồng cổ điển và hoa hồng hiện đại.
Hồng dại thường được thấy ở những nơi hoang dã, mọc ngoằn nghèo nên còn gọi là hồng leo. Hồng cổ điển là những giống hồng được thuần chủng, lai tạo từ trước năm 1867. Còn hồng hiện đại là những giống hồng được lai tạo từ sau năm 1867. Ở nước ta, hoa hồng còn được phân loại theo đặc tính của cây như: hồng cứng, hồng thạch, hồng quế, hồng cánh sen, hồng vàng…
Cây hoa hồng như một món quà thiên nhiên đã ban tặng cho con người chúng ta, nó làm phong phú thêm đời sống vật chất và tinh thần của con người. Người ta nói, hoa hồng tượng trưng cho tình yêu: tình yêu gia đình, tình mẫu tử, tình thầy trò, tình yêu đôi lứa... Cây hoa hồng như mang trong nó tâm linh của loài người, mỗi cánh hoa như ấp ủ một nỗi niềm, một tình cảm sâu lắng nào đó của con người. Trong ngày lễ "vu lan", vào chùa chúng ta thường thấy những bông hồng cài trên ngực áo thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng, rồi đến ngày Nhà giáo Việt Nam, từng lớp học trò lần lượt mang những cánh hồng đỏ thắm dâng tặng lên thầy, cô kính yêu như thể hiện lòng biết ơn. Ngày lễ Valentine, ngày 8/3... chúng ta cũng không quên những bông hồng xinh xắn tặng cho các mẹ, các chị và đặc biệt là người yêu mình. Cứ như thế, cây hoa hồng đi vào thơ ca một cách tự nhiên không biết từ lúc nào, chúng ta thường nghe câu nói dân gian Hoa đẹp là hoa có gai, câu nói đó ám chỉ cây hoa hồng, rồi ta cũng thường nghe bài hát Bông hồng cài áo, đọc tác phẩm Hoa hồng Bungari...
Không những phục vụ cho đời sống tinh thần, hoa hồng được phục vụ cho đời sống vật chất của con người. Một phòng họp, một phòng khách, một quán trà... có thêm một cành hồng trên bàn cùng đủ làm cho không gian thêm trang trọng và lãng mạn. Có thể nói rằng hoa hồng có tính trang trí cao. Hương hoa hồng không thơm ngát như hoa lài mà ngược lại rất nhẹ nhàng, dễ chịu. Vì vậy, hoa hồng được nhiều nước chọn nguyên liệu để làm nước hoa, mỹ phẩm, góp phần tôn lên vẻ đẹp của con người. Hoa hồng cũng được trồng để kinh doanh, thu lợi nhuận.
Nhìn chung, hoa hồng ở Việt Nam thích nghi nhiệt độ trung bình từ 18 - 25 độ ẩm tối đa 85%, lượng mưa trung bình hàng năm từ 1000 - 2000mm, độ pH từ 5,6 - 6,5. Trong mùa hè, do nhiệt độ lên cao, độ ẩm lớn cây hoa hồng có nguy cơ xuất hiện các loại bệnh như gỉ sắt, phấn trắng, rệp. Nếu cây bị nấm phấn trắng trong vụ xuân thì dùng đồng 1% để tưới, đồng thời phải cắt bỏ những cành bị bệnh nặng và đốt đi. Đất dùng để trồng hoa hồng phải bằng phẳng, tơi xốp. Hoa hồng thường được nhân giống theo ba cách: giâm cành, chiết cành hoặc ghép cành.
Như thế, cây hoa hồng là loài hoa tượng trưng cho sắc đẹp và tâm tình, nó không thể thiếu trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của con người. Vì vậy, bảo vệ và phát triển giống hoa hồng là điều cần thiết mà con người cần làm hiện nay.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:
- Thuyết minh về một loại hoa ở địa phương em
- Thuyết minh về một loại quả ở địa phương em
- Thuyết minh về loài hoa em yêu thích nhất
- Thuyết minh (Giới thiệu) về chợ nổi miền Tây
- Thuyết minh về cây chuối
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều