Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ (điểm cao)
Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ (mẫu 1)
- Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ (mẫu 2)
- Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ (mẫu 3)
- Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ (mẫu 4)
- Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ (mẫu 5)
- Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ (mẫu 6)
- Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ (mẫu 7)
Đề bài: Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ của đất nước.
Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ - mẫu 1
Thành phố Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận, miền cực nam Trung Bộ nước Việt Nam thân yêu của chúng ta.
Phan Thiết nổi tiếng với những ngôi chùa cổ rất quy mô và cổ kính như chùa Liên Trì, chùa Bà Đức sanh, chùa Phật Quang... Chùa Phật Quang còn gọi là Chùa Cát được xây dựng vào nửa đầu thế kỉ XVIII. Chiếc chuông đồng rất lớn được đức năm 1750, bộ kinh Pháp Hoa với 118 bản khắc gỗ hoàn thành năm 1734. Chùa Ông uy nghi tráng lệ được xây dựng năm 1770 với hàng dãy cột chạm khắc tinh xảo treo hàng trăm câu đối sơn son thếp vàng cực kì lộng lẫy.
Phan Thiết còn rất nổi tiếng với những tháp Chàm cổ kính, kì vĩ, độc đáo. Cách thành phố Phan Thiết gần 7km về phía Đông Bắc là nhóm tháp Chàm Pôshanư có niên đại trên 1200 năm của dân tộc Chăm, nằm trên đỉnh đồi Ngọc Lâm. Nhóm tháp này được tạo tác từ cuối thế kỉ thứ VIII, là nơi thờ Pôshanư, vị nữ vương Chiêm Thành. Cách đây trên 300 năm, nhiều tháp Chàm đã bị vùi lấp, tới nay chỉ còn một tháp chính lớn nhất, một tháp nhỏ ở sát chùa, và một tháp nhỏ ở gần một tháp chính.
Trong tháp chính có bệ thờ Linga – Yoni, biểu tượng của thần Shiva bằng đá xanh đen còn nguyên vẹn với những thớt đá đồ sộ được chạm khắc các biểu tượng thể hiện sự sinh tồn của dân tộc Chăm. Cuối thế kỉ XIX, trong tháp nhỡ vẫn còn con bò bằng đá rất lớn nhưng sau đó thì không thấy nữa. Có lẽ đó là thân Nadin như ta vẫn thấy thờ trong các tháp Chàm ở Phan Rang.
Ba, bốn thế kỉ trước, quanh tháp Pôshanư là các làng mạc trù phú của người Chăm. Do chiến tranh, do biến động của thiên nhiên và lịch sử nên phần nhiều người Chăm đã dời đi lập nghiệp ở những nơi khác. Nhưng hàng năm, người Chăm ỏ mọi nơi vẫn trở về thấp Pôshanư để thực hiện các nghi lễ tôn giáo truyền thống linh thiêng.
Tháp Chăm Pôshanư được xếp hạng di tích quốc gia với chế đội trùng tu, bảo vệ đặc biệt. Nó là di sản văn hóa vô giá của đất nước ta. Du khách gần xa đến với Phan thiết không thể không đến chiêm ngưỡng những tháp Chăm, dấu tích một nền văn minh từ nghìn xưa đang trầm mặc cùng tuế nguyệt.
Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ - mẫu 2
Sau 175 năm tồn tại, nhà Trần đã chịu cảnh diệt vong do vua quan thất đức, bất tài. Trước tình cảnh đó, Hồ Quý Ly nắm giữ hoàn toàn triều chính và lập nước Đại Ngu. Mặc dù chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn ngủi từ năm 1401 - 1407, thế nhưng bản thân Hồ Quý Ly, cũng như nhà Hồ đã để lại cho lịch sử một công trình kiến trúc vô cùng có giá trị - thành nhà Hồ.
Di tích thành nhà Hồ đã được UNESCO công nhận là di tích văn hóa thế giới vào năm 2011, đồng thời được xem xét là 1 trong 62 di tích đặc biệt cấp quốc gia, cần phải bảo tồn chặt chẽ.
Thành nhà Hồ có kiến trúc độc đáo với đá tảng và được UNESCO đánh giá cao về giá trị lịch sử và kiến trúc. Mặc dù không có vị trí địa lý thuận lợi nhưng về mặt chính trị và quân sự, nó đã đóng vai trò quan trọng. Thành có phần ngoại và nội, với hệ thống hào và cổng được xây dựng tỉ mỉ, chắc chắn. Công trình này vẫn tồn tại qua hàng thế kỷ, với kiến trúc độc đáo và kỹ thuật xây dựng tiên tiến.
Thành nhà Hồ là di tích lịch sử quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử dân tộc. Mặc dù tồn tại ngắn ngủi, nhưng vương triều này đã để lại nhiều dấu ấn và bài học cho lịch sử Việt Nam. Việc bảo tồn và giữ gìn thành nhà Hồ là cần thiết để hiểu thêm về quá trình phát triển của dân tộc.
Thành nhà Hồ là một công trình kiến trúc độc đáo, cần được bảo tồn và tôn trọng. Nếu có cơ hội, hãy đến thăm và khám phá công trình này để hiểu rõ hơn về lịch sử và văn hóa của Việt Nam.
Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ - mẫu 3
Trong số hàng nghìn di tích lịch sử tại Hà Nội, có hơn 500 di tích đã được xếp hạng, và trong số này, Văn Miếu - Quốc Tử Giám nổi bật lên như một biểu tượng không thể tách rời với sự hình thành của kinh đô Thăng Long dưới triều đại Lý. Đây là một di tích có lịch sử gần nghìn năm, mang quy mô tinh tế và uy nghi, tượng trưng cho Hà Nội và là biểu tượng văn hóa và lịch sử của Việt Nam.
Theo sử sách Đại Việt, vào mùa thu năm Canh Tuất - 1070, Vua Lý Thánh Tông đã quyết định khởi công xây dựng Văn Miếu để tôn vinh các tiền nhân, các học giả và những người đã có đóng góp to lớn cho đất nước. Trong danh sách những người được tôn thờ tại đây, không thể không nhắc đến Khổng Tử - người sáng lập nho giáo phương Đông và Chu Văn An - một trong những thầy giáo nổi tiếng, đạo đức và tri thức của nền giáo dục Việt Nam. Chỉ sau sáu năm, năm 1076, Vua Lý Nhân Tông đã quyết định xây dựng Quốc Tử Giám - một trường đại học Nho học hàng đầu thời bấy giờ, với mục tiêu đào tạo nhân tài cho đất nước. Đây là một sự kiện quan trọng đánh dấu sự lựa chọn đầu tiên của triều đình phong kiến Việt Nam trong việc đầu tư và quản lý giáo dục theo mô hình Nho học châu Á.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám hiện nay vẫn lưu giữ 82 tấm bia đá, trên đó ghi tên của 1306 người đã đỗ tiến sĩ trong 82 kỳ thi từ năm 1484 đến năm 1780. Trong số những người này, người đỗ tiến sĩ ở tuổi cao nhất trong lịch sử là ông Bàn Tử Quang, khi đó đã 82 tuổi. Ngược lại, người trẻ nhất là Nguyễn Hiền, quê ở Nam Trực (Nam Định), đỗ trạng nguyên năm Đinh Mùi, tức là năm 1247, khi chỉ mới 13 tuổi. Từ đó, Văn Miếu và Quốc Tử Giám - được xem như trường đại học đầu tiên của Việt Nam đã tồn tại suốt đến thế kỷ 19.
Vị trí của Văn Miếu - Quốc Tử Giám tọa lạc trên một khuôn viên rộng hơn 54.000m2, nằm giữa bốn con đường: cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc tiếp giáp đường Nguyễn Thái Học, phía Đông giáp phố Tôn Đức Thắng, và phía Tây là phố Văn Miếu. Khu di tích này được chia thành 5 khu vực. Khu vực 1 bao gồm Văn hồ, cổng tam quan ngoại cùng (cổng lớn) và Văn Miếu môn, với cổng lớn có ba cửa và hai tầng, tầng trên với ba chữ Văn Miếu môn. Khu vực thứ hai bao gồm Đại Trung môn, Thánh Dực môn bên trái và Đạt Tài môn bên phải. Khu vực 3 chứa giếng Thiên Quang (tên có nghĩa là giếng trời trong sáng), với 82 bia Tiến sĩ nằm ở hai hàng, mặt bia hướng về giếng, là một di tích có giá trị đặc biệt. Vượt qua cửa Đại Thành, bạn sẽ vào khu vực thứ 4, nơi có dãy Tả Vu và Hữu Vu, với một dãy đặc biệt giữa là Toà Đại Bái đường, tạo thành một kiến trúc hình chữ U truyền thống. Khu vực cuối cùng là nơi dùng để giảng dạy trong trường Quốc Tử Giám thời Lê, nơi đào tạo nhiều thế hệ người tài "nguyên khí của nước nhà."
Mặc dù đã trải qua nhiều biến động và biến cố trong lịch sử, Văn Miếu - Quốc Tử Giám không còn nguyên vẹn như xưa. Các công trình từ thời kỳ Lý và Lê hầu như không còn tồn tại. Tuy nhiên, nó vẫn tồn tại với sự trang nghiêm và tôn kính của một trường đại học có gần 1000 năm lịch sử của Hà Nội. Đây chính là khu di tích văn hóa hàng đầu và nguồn tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống văn hiến hàng nghìn năm của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ - mẫu 4
Khi bạn đặt chân đến xứ Huế, một trong những điểm đến mơ màng, có ai có thể không ghé thăm quần thể di tích Cố đô Huế ít nhất một lần? Đây chính là chứng tích rạng ngời và thịnh vượng của triều đại Nguyễn, khi đây từng là trung tâm thủ đô của nước Việt Nam trong vòng 143 năm dài đẹp.
Nhìn lại lịch sử xa xưa, Huế đã từng được vị vua tài ba Nguyễn Huệ coi trọng vì tính chiến lược của vị trí địa lý và ông đã quyết định chọn nơi này để đặt đại bản doanh quan trọng. Vào năm 1802, vị vua Nguyễn Ánh, sau này là vua Gia Long, một lần nữa chọn Cố đô Huế làm thủ đô mới cho triều đại Nguyễn. Dự án xây dựng Kinh đô Huế kéo dài từ năm 1802 cho đến năm 1917 trước khi hoàn thành.
Kinh thành Huế nằm bên bờ hai nhánh của dòng sông Hương là Kim Long và Bạch Y, bao gồm 8 làng cổ đại, bao gồm Phú Xuân, Vạn Xuân, Diễn Phát, An Vân, An Hòa, An Mỹ, An Bảo và Thế Lại. Các công trình kiến trúc đồ sộ này được xây dựng theo phong cách truyền thống của Huế, đồng thời thể hiện sự tham khảo của nhiều mẫu kiến trúc Trung Quốc và một số yếu tố phương Tây. Tuy nhiên, vẫn tuân thủ theo nguyên tắc kiến trúc dân tộc Việt Nam theo triết lý Dịch Lý và thuật Phong Thủy để tạo ra sự hài hòa và cân đối với tự nhiên. Tất cả những công trình này tạo nên một quần thể kiến trúc độc đáo và tinh tế, kết hợp tinh hoa của văn hóa xây dựng Đông và Tây. Xung quanh kinh thành là một vòng tường dài 10.571 mét, bao gồm 24 pháo đài, 10 cửa chính cùng với 1 cửa phụ, và còn có một hệ thống kênh rạch phức tạp bao quanh để tăng độ phòng thủ của kinh thành.
Chức năng chính của Hoàng thành là bảo vệ và phục vụ cho cuộc sống của hoàng gia và triều đình. Khu vực Đại Nội bao gồm hệ thống Tử Cấm thành nằm bên trong Hoàng thành và có sự liên kết mật thiết với nhau. Vào năm 1804, vua Gia Long đã chỉ định người chịu trách nhiệm xây dựng Đại Nội. Cơ bản, dưới thời vua Gia Long, Đại Nội đã hoàn thành hầu hết. Khu vực này bao gồm các miếu, điện như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân, điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa, Vạc đồng, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường và nhiều công trình khác. Tất cả đã được sắp xếp hài hòa với thiên nhiên, bao gồm vườn hoa, cây cầu đá, hồ sen và cây cối xanh mát. Tử Cấm thành nằm bên trong Đại Nội, nơi diễn ra cuộc sống hàng ngày của vua và hoàng tộc. Vùng này bao gồm nhiều công trình như điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, điện Thái Hòa, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, và Điện Trung Hòa. Còn lại của khu vực này được xây dựng dưới triều đại của vua Minh Mạng, mang lại diện mạo kiến trúc đáng kinh ngạc cho Hoàng thành và Tử Cấm thành.
Kinh thành Huế có hình vuông, mỗi cạnh dài khoảng 600 mét, được xây dựng hoàn toàn bằng gạch, cao 4 mét và dày 1 mét. Nó được bảo vệ bởi các hào đào và có 4 cửa ra vào theo bốn hướng: Hiển Nhơn, Chương Đức, Ngọ Môn (cửa chính) và Hòa Bình. Bên trong, hệ thống được sắp xếp theo một trục đối xứng, với các công trình dành riêng cho vua nằm ở trục chính giữa. Tất cả đều được sắp xếp hài hòa với thiên nhiên, bao gồm vườn hoa, cầu đá, hồ sen và các cây cối xanh mát. Tử Cấm thành nằm bên trong Đại Nội, ngay sau điện Thái Hòa. Nơi này là nơi sinh hoạt hàng ngày của vua và hoàng tộc và bao gồm các công trình như điện Cần Chánh, nhà Tả Vu và Hữu Vu, điện Kiến Trung, Vạc đồng, Thái Bình Lâu, Duyệt Thị Đường và nhiều công trình khác.
Nhiều công trình khác như Văn miếu Quốc Tử Giam, Thượng Bạc Viện, và Trấn Hải Thành cũng được xây dựng để phục vụ mục đích học tập, ngoại giao và quân sự.
Vào ngày 2 tháng 8 năm 1994, Cố đô Huế đã được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Điều này là một niềm tự hào lớn của dân tộc Việt Nam, khi nền văn hóa của họ được thế giới công nhận và bảo vệ. Daniel Janicot, Phó Tổng Giám đốc UNESCO, đã đến Huế để trao tấm bằng chứng nhận này, có chữ ký của Tổng Giám đốc UNESCO, Fédérico Mayor Zaragoza, cùng dòng chữ: "Ghi tên vào danh mục công nhận giá trị toàn cầu đặc biệt của một tài sản văn hóa hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích nhân loại".
Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ - mẫu 5
Hồ Gươm không chỉ là một di tích lịch sử của đất nước mà còn là một danh lam thắng cảnh của nước ta. Nơi đây mỗi ngày đều có rất nhiều du khách ghé thăm và cả những người dân sống quanh đây ra Hồ Gươm hóng gió nữa.
Nhắc đến Hồ Gươm, chúng ta nhớ ngay đến sự tích Hồ Gươm đã được học trong chương trình Ngữ Văn lớp 6. Sự tích kể rằng vào thời Lê Lợi giặc Minh đã sang đô hộ và chiếm đánh nước ta. Người dân cả nước sống trong cảnh lầm than. Nghĩa quân Lam Sơn nhiều lần đứng lên chống giặc nhưng đều thất bại. May sao có đức Long vương cho mượn kiếm thần, nghĩ quân Lam Sơn mới đánh đuổi được giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Một năm sau, khi thuyền của Lê Lợi dạo trên hồ, gặp thần Kim Quy, Lê Lợi mới trả lại gươm báu cho thần Kim Quy. Từ đó, hồ mới có tên gọi là hồ Gươm.
Hồ Gươm giờ đây vẫn được ví như lá phổi xanh của Hà Nội. Trên hồ có hai hòn đảo nhỏ đó là đảo Rùa và đảo Ngọc. Đảo Rùa là nơi có tháp Rùa, một biểu tượng của thủ đô nghìn năm văn hiến. Đảo Ngọc là nơi dựng đền Ngọc Sơn. Ngôi đền này mọi người vẫn thường đến để vãn cảnh hoặc cầu khấn. Vì được xây dựng trên đảo nên xung quanh đền Ngọc Sơn bốn bể đều là nước. Để đi được tới đền, người ta phải đi qua một cây cầu gọi là cầu Thê Húc. Cầu được làm bằng gỗ sơn màu đỏ rất nổi bật trên nền nước xanh. Cầu Thê Húc được xây dựng vào năm 1865 gồm 15 nhịp và 32 chân cột gỗ tròn. Du khách thường rất thích đứng trên cầu Thê Húc để nhìn về phía tháp Rùa.
Thế nhưng đó vẫn chưa phải là tất cả những gì đặc sắc của Hồ Gươm. Chúng ta còn biết đến Hồ Gươm với quần thể di tích Tháp Bút – Đài Nghiên. Tháp Bút được làm hoàn toàn bằng đá, cao năm tầng và được xây dựng trên một ngọn núi đá xếp. Bên cạnh Tháp Bút là Đài Nghiên được xây theo hình dáng của cái nghiên đựng mực trước đây. Bên dưới nghiên là 3 con thiềm thừ (con cóc). Tháp Bút và Đài Nghiên chính là biểu trưng cho văn chương, cho tinh thần hiếu học của con người. Chính vì vậy mà đời sau này, các bạn học sinh, sinh viên vẫn thường ghé qua Hồ Gươm, cố gắng chạm tay vào Tháp Bút để cầu may cho con đường học vấn.
Trước đây, dưới Hồ Gươm vẫn còn có một vài cụ Rùa sinh sống. Người dân ở xung quanh đôi lúc vẫn trông thấy cụ Rùa nổi lên mặt nước. Khi thì cụ lại nằm ở trên Tháp Rùa. Tuy nhiên, theo thời gian, các cụ Rùa đã không còn nữa. Để tìm một cụ Rùa khác để thay thế không phải là điều đơn giản. Sự ra đi của các cụ Rùa là một sự mất mát lớn của Hồ Gươm. Tuy nhiên, hồ vẫn giữ được những nét đẹp và sự tích về hồ vẫn mãi được người đời sau lưu truyền.
Bên cạnh các di tích lịch sử, giờ đây xung quanh Hồ Gươm được trồng rất nhiều cây xanh tỏa bóng mát. Chúng không chỉ tạo cho không khí sự trong lành mà còn giúp cảnh vật non nước thêm hữu tình. Ngoài ra, người ta cũng đặt những chiếc ghế đá để người đi dạo bộ vãn cảnh hồ có thể dừng chân nghỉ ngơi.
Một người Hy Lạp đã ví Hồ Gươm giống như một bông hoa. Quả thực, bông hoa ấy mang một vẻ đẹp mà khó nơi nào có được. Tuy nhiên, nếu chúng ta không gìn giữ thì một ngày nào đó bông hoa sẽ trở nên tàn lụi. Chính vì vậy mà tôi, các bạn, chúng ta hãy cùng nhau chung tay bảo vệ cho Hồ Gươm của chúng ta mãi mãi giữ được vẻ đẹp như vậy.
Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ - mẫu 6
Mảnh đất cố đô Huế thâm trầm, sâu lắng ghi dấu về triều đại phong kiến cuối cùng của nước ta với những công trình lăng tẩm, đền đài và nền nhã nhạc cung đình Huế. Khi nhắc đến thời kì hưng thịnh của Phật giáo Đàng trong, người ta thường gợi nhớ đến ngôi chùa Thiên Mụ - một vẻ đẹp thanh tịnh bên dòng sông Hương thơ mộng.
Chùa Thiên Mụ nằm trên một ngọn đồi (đồi Hà Khê) bên phía tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km. Theo truyền thuyết khi chúa Nguyễn Hoàng đi dọc bờ sông Hương xem xét địa thế nơi đây để chuẩn bị cơ đồ nghiệp lớn, xây dựng giang sơn đã nhìn ra ngọn đồi Hà Khê với thế đất hình con rồng quay đầu nhìn lại, Chúa đã cho xây dựng một ngôi chùa trên đồi, hướng về phía sông Hương đặt tên là "Thiên Mụ". Năm Tân Sửu 1601 chùa Thiên Mụ chính thức được khởi công xây dựng dưới thời chúa Tiên - Nguyễn Hoàng, giai đoạn 1691 - 1725 chùa được xây dựng quy mô hơn và trùng tu với nhiều công trình kiến trúc đồ sộ như: Điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh,... còn rất nhiều công trình không giữ được đến ngày nay. Đến năm 1844 chùa lại được kiến trúc lại với ngôi tháp bát giác Phước Duyên, đình Hương Nguyện. Trận bão lịch sử năm 1904 quét qua đã tàn phá chùa với nhiều công trình hư hỏng mãi đến năm 1907 mới được xây dựng lại nhưng không được như trước. Qua nhiều đợt kiến trúc, trùng tu, ngày nay chùa vẫn giữ được nhiều những công trình quy mô, đồ sộ và nhiều những cổ vật quý giá như tượng phật, những bức hoành phi câu đối. Tháp Phước Duyên trở thành biểu tượng của chùa Thiên Mụ, tháp cao 21m gồm 7 tầng, mỗi tầng đều có tượng Phật. Lầu Tàng Kinh là nơi chứa 1000 bộ kinh Phật mà chúa Quốc đã cho người sang Trung Quốc để mua. Khuôn viên chùa khá rộng, quang đãng và thoáng mát với những vườn hoa cỏ, hòn non bộ, hàng loạt những bia đá ghi lịch sử xây dựng chùa và các bài thơ văn của nhà vua, đặc biệt là bài thơ "Thiên Mụ chung thanh" do vua Thiệu Trị sáng tác được đặt ở cổng chùa. Không có gì bàn cãi khi chùa Thiên Mụ được coi là ngôi chùa đẹp nhất xứ Huế nói riêng và đàng trong nói chung, nơi đây không chỉ mang ý nghĩa tâm linh thờ Phật mà đã từng trở thành nơi lập đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn. Tại chùa Thiên Mụ còn lưu giữ di vật chiếc ô tô của cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức để lại sau khi châm lửa tự thiêu trên đường phản đối chính sách đàn áp Phật giáo.
Là ngôi chùa thu hút nhiều khách du lịch nhất ở Huế, chùa Thiên Mụ mang trong mình những dấu ấn lịch sử, vẻ đẹp thanh tịnh, trầm mặc. Đến với xứ Huế ta cảm nhận được nét mộng mơ, trữ tình, và đến thăm chùa Thiên Mụ ta sẽ được lắng đọng tâm hồn, tìm lại bình yên giữa cuộc sống xô bồ nhộn nhịp.
Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ - mẫu 7
Trong chuyến hành trình về với miền núi rừng thiên nhiên hoang dã chúng tôi đã đặt chân đến mảnh đất Kon Tum, nơi đây có bề dày truyền thống lịch sử hào hùng với những trận đánh lịch sử và không ít những sự kiện cách mạng. Đặc biệt là di tích lịch sử ngục Kon Tum - một dấu ấn hào hùng của dân tộc, sự hiện diện của di tích lịch sử ngục Kon Tum là chứng nhân cho những gian khổ, sự hy sinh anh dũng của người dân Tây Nguyên nói riêng và người dân miền Nam nói chung trong quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc.
Trải qua thăng trầm lịch sử, mảnh đất Kon Tum cằn cỗi nắng gió ngày nay đã phát triển không ngừng, trở thành một trong những thành phố núi phát triển của vùng Tây Nguyên. Di tích lịch sử ngục Kon Tum nằm trên đường Trương Quang Trọng, phường Quyết Thắng, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum, nằm ở phía bắc hạ lưu của dòng sông Đắk Bla nơi có những hàng cây xà cừ vươn cao bóng cả. Trong chiến tranh kháng chiến chống Pháp những năm 1930, thực dân Pháp đã cho xây dựng nhà ngục Kon Tum làm nơi giam giữ các tù binh chính trị, các chiến sĩ cách mạng yêu nước của ta bị bắt từ Nghệ An, Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế trong giai đoạn phong trào Xô Viết- Nghệ Tĩnh 1930-1931. Ngục Kon Tum còn là nơi cung cấp công nhân đi khai phá cao nguyên, đi làm đường, chính vì bị bắt đi khai phá và làm đường nên các tù binh của ngục tù Kon Tum đã nhiều lần phát động các cuộc biểu tình, đã có những cuộc biểu tình khiến nhiều người chết và bị thương thế nhưng phải đến tháng 12 năm 1935 nhà ngục Kon Tum mới đóng cửa. Sau năm 1975 khi đất nước đã hoàn toàn thống nhất, hòa bình lặp lại trên cả 2 miền Nam - Bắc, nơi đây đã trở thành một di tích sót lại của chiến tranh, ngày 16/11/1988 nhà tù Kon Tum chính thức được công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Khu di tích có khuôn viên rộng, nhiều cây xanh và đã được tu sửa lại nhiều hạng mục, tổng thể gồm 4 khu vực chính là Nhà tưởng niệm, Nhà truyền thống, Cụm tượng đài "Bất khuất" và Hai ngôi mộ tập thể. Ngục Kon Tum từng được gọi là "địa ngục trần gian" bởi ở nơi đây có hơn 500 chiến sĩ cách mạng của ta bị giam giữ, đọa đày đến cùng cực, thực dân Pháp hành hạ tù binh bằng lao động khổ sai, làm thì khổ cực mà không làm thị bị giết một cách man rợ hoặc là thiêu sống hoặc là chôn sống. Chỉ tính đến tháng 6 của năm 1930 đã có 170 chiến sĩ của ta bị giết tại ngục Kon Tum, sự hy sinh của các anh đã trở thành động lực cho phong trào đấu tranh chống Pháp lan rộng ra khắp các tỉnh Tây Nguyên. Có thể nói, di tích lịch sử ngục Kon Tum có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với người dân Kon Tum, Tây Nguyên nói riêng và người dân Việt Nam nói chung. Là nơi để chúng ta ghi nhớ về tinh thần chiến đấu bất khuất, sự hy sinh quả cảm, anh dũng của những chiến sĩ cách mạng. Rất nhiều những nhà lãnh đạo đã đến viếng thăm nhà ngục như Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan, Phó Chủ tịch Quốc hội Tòng Thị Phóng,... Bên cạnh đó mỗi năm có đến 10 nghìn lượt khách du lịch trong nước và quốc tế đến đây tham quan, dâng hương kính viếng. Các trường học cũng lựa chọn đây là điểm đến tham quan, tìm hiểu lịch sử dân tộc, tinh thần cách mạng Việt Nam.
Chúng tôi cùng nhau thắp những nén hương, đặt những bông hoa tươi thắm nhất gửi đến các chiến sĩ với lòng tưởng nhớ và biết ơn sâu sắc. Các anh đã hy sinh nhưng tên tuổi của các anh đã gắn liền với dân tộc, người dân Việt Nam đời đời nhớ đến những chiến sĩ cách mạng tại ngục tù Kon Tum.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:
- Thuyết minh về một cảnh đẹp
- Thuyết minh về một cảnh đẹp quê hương em
- Thuyết minh về một vùng đất giàu tiềm năng
- Thuyết minh về một di tích văn hóa cổ
- Thuyết minh về một vùng quê đẹp
- Thuyết minh về một giống vật nuôi
- Thuyết minh về Rừng Sác - Cần Giờ
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều