Sơ đồ tư duy Những đứa trẻ (dễ nhớ, ngắn gọn)

Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 9, chúng tôi biên soạn bài viết Sơ đồ tư duy Những đứa trẻ dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích, .... Hi vọng qua Sơ đồ tư duy Những đứa trẻ sẽ giúp học sinh nắm được nội dung cơ bản của Những đứa trẻ.

1

I. Tác giả

- Mác-xim Go-rơ-ki (1868-1936) là một nhà văn người Nga của thế kỉ 20, ông tên thật là A-lếch-xây Pê-scop.

- Quê quán: Ông sinh tại thành phố công nghiệp Nizhni Novgorod trên bờ sông Vôn-ga trong một gia đình lao động.

- Ông mồ côi cha từ khi 13 tuổi.

- Ngay từ thời thơ ấu, Go-rơ-ki đã phải chịu một sự giáo dục nghiệt ngã, hà khắc của ông ngoại.

- Khi lên 10 tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ, ông đã phải lăn vào đời để kiếm sống, ông làm đủ nghề, có lúc ông phải đi ăn xin.

- Ông rất ham đọc sách và chính niềm đam mê này cùng những bươn trải đã giúp ông nảy sinh cảm hứng và năng lực áng tác văn chương.

- Những tác phẩm tiêu biểu của ông: Bộ ba tiểu thuyết tự thuật: Thời thơ ấu (1913-1914), Kiếm sống (1916), Những trường đại học của tôi (1923) và Người mẹ (1906-1907).

II. Tìm hiểu chung tác phẩm

1. Thể loại: tiểu thuyết

2. Xuất xứ:

Những đứa trẻ là một đoạn trích trong chương IX của tiểu thuyết Thời thơ ấu của nhà văn Nga Mác-xim Go-rơ-ki (1868-1936).

3. Tóm tắt

Gần một tuần trôi qua ba đứa trẻ hàng xóm lại ra sân chơi và rủ A-li-ô-sa chơi cùng. Trong cuộc trò chuyện với ba anh em con nhà ông đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp, A-li-ô-sa có hỏi mẹ chúng, chúng buồn vì mẹ của chúng đã mất còn bố chúng lấy một người mẹ khác. Để an ủi ba đứa trẻ, A-li-ô-sa đã kể cho chúng nghe những câu chuyện cổ tích mà bà câu hay kể. Tuy nhiên bố của ba đứa trẻ xuất hiện và cấm đoán A-li-ô-sa không được chơi với ba đứa trẻ nữa. Bất chấp sự ngăn cấm, những đứa trẻ vẫn tìm cách chơi với nhau, an ủi nhau bằng cách kể cho nhau nghe những câu chuyện vui buồn.

4. Bố cục: 3 phần

- Phần 1: (Từ đầu đến… ấn em nó cúi xuống): Điều tạo nên tình bạn giữa bốn đứa trẻ đó chính là qua những câu chuyện mà chúng chia sẻ với nhau.

- Phần 2: (Tiếp theo đến… cấm không được đến nhà tao): Những rào cản xuất hiện khi ông của ba đứa trẻ nhà giàu ngăn cấm chúng không được chơi với A-li-ô-sa.

- Phần 3: (Còn lại): Tình bạn của những đứa trẻ không kết thúc bởi rào cản xã hội mà chúng vẫn duy trì và gìn giữ tình bạn đó.

5. Giá trị nội dung

Đoạn trích kể lại tình bạn thân thiết giữa A-li-ô-sa và ba đứa trẻ hàng xóm con ông đại tá sống thiếu tình thương, bất chấp sự cách biệt và cản trở của địa vị xã hội.

6. Giá trị nghệ thuật

Đoạn trích thành công bởi cách kể chuyện nhẹ nhàng giàu hình ảnh, có sự đan xen giữa chuyện đời thường và truyện cổ tích. Việc không gắn danh xưng cho bọn trẻ khiến câu chuyện mang ý nghĩa khái quát và đậm màu sắc cổ tích.

III. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Hoàn cảnh đáng thương của những đứa trẻ

- Ba anh em con nhà ông đại tá và A-li-ô-sa là những đứa trẻ thuộc những gia đình có địa vị xã hội khác nhau:

+ A-li-ô-sa ở với ông bà, cậu thường hay bị ông đánh, niềm an ủi duy nhất là người bà luôn yêu thương cậu.

+ Ba đứa trẻ con ông đại tá tuy sống trong gia đình giàu có nhưng lại thiếu tình yêu thương khi mẹ chúng mất, bố chúng đi lấy một người khác.

⇒ Những đứa trẻ có hoàn cảnh đáng thương.

2. Tình bạn tuổi thơ trong sáng của những đứa trẻ

- Tình bạn nảy nở giữa A-li-ô-sa và ba đứa trẻ hàng xóm, bất chấp cách biệt về địa vị xã hội:

+ Chúng cùng nhau trò chuyện, đối thoại với những chú chim ⇒ Sự ngây thơ trong sáng.

+ Ba đứa trẻ hàng xóm chia sẻ với A-li-ô-sa về người mẹ của chúng.

+ A-li-ô-sa lại chia sẻ với chúng về những câu chuyện cổ tích mà bà cậu bé thường hay kể cho cậu bé nghe.

⇒ Với tâm hồn trong sáng nhạy cảm, bốn đứa trẻ ríu rít chơi với nhau, sự đồng cảm về cảnh ngộ đã gắn bó những tâm hồn tuổi thơ như chúng.

3. Tình bạn trong sáng bị ngăn cấm

- Tình bạn trong sáng của bốn đứa trẻ bị ngăn cấm bởi người bố đại tá của ba đứa hàng xóm:

+ Lão đại tá già xuất hiện với bộ ria trắng, đầu đội chiếc mũ xù lông đã thô bạo “nắm lấy vai đuổi A-li-ô-sa ra khỏi cổng”

+ Trận đòn của ông ngoại cùng sự đặt điều mách lẻo của bác Pi-ốt đã khiến A-li-ô-sa bị ngăn cấm không được chơi với mấy đưa con của lão đại tá.

⇒ Chính người lớn với sự thờ ơ, không quan tâm tới cảm xúc của những đứa trẻ đã khiến tình bạn đẹp đẽ của chúng bị ngăn cấm.

4. Mặc dù bị ngăn cấm, tình bạn ấy vẫn tiếp diễn

- Mặc cho vấp phải những sự ngăn cấm từ hai bên thì tình bạn trong sáng của tuổi thơ vẫn tiếp tục:

+ A-li-ô-sa vẫn tiếp tục chơi với ba đứa bé kia và quan hệ giữa chúng nó “càng ngày càng trở nên thích thú”.

+ Chúng đã bí mật khoét ra “một lỗ hổng hình bán nguyệt”, núp dưới bụi hương mộc rậm rạp “nói chuyện khe khẽ với nhau”, chúng nó chuyện về cuộc sống, về những con chim, về nhiều chuyện trẻ con khác.

⇒ Một tình bạn trong sáng hồn nhiên mà không gì có thể phá vỡ được.

IV. Bài phân tích

Đề tài về trẻ thơ luôn luôn có sức hấp dẫn đối với bạn đọc ở mọi lứa tuổi. Người lớn thì muốn đọc để được sống lại giây phút tuổi thơ của mình. Trẻ thơ thì muốn đọc để xem người ta nói gì về thế hệ của mình, để biết những bạn nhỏ khác sống như thế nào, có giống mình hay không,… Mác-xim Go-rơ-ki, một nhà văn đại tài đã viết một tác phẩm kinh điển mang tên Thời thơ ấu. Đoạn trích “Những đứa trẻ” chính là trích ra từ tác phẩm này. Nội dung của nó mang đầy chất thơ và thể hiện được tài năng của người kể chuyện.

Những chuyện được kể trong “Những đứa trẻ” là những chuyện có thật xảy ra vào lúc A-li-ô-sa (tên thân mật hồi nhỏ của tác giả) được chín, mười tuổi. Mặc dù sau đó nhiều năm ông mới viết tác phẩm nhưng người đọc vẫn thấy rung động sâu sắc trước những đứa trẻ ngây thơ thiếu thốn tình thương nhờ tài kể chuyện của một tâm hồn đa cảm như ông. Những nhân vật chính trong đoạn trích đó là cậu bé A-li-ô-sa mồ côi cha lại không có mẹ, thường bị ông ngoại đánh đòn. Ba cậu con trai lão đại úy sống trong cảnh giàu sang nhưng sớm mồ côi mẹ và phải sống dưới sự khắt khe của bố và dì ghẻ. Tuy thuộc những tầng lớp khác nhau nhưng hoàn cảnh thiếu tình thương giống nhau nên chúng dễ thân thiết, đồng cảm, tuy bị ông đại úy cấm đoán nhưng tình bạn của chúng vẫn cứ tiếp diễn. Và tình cảm ấy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng M. Go-rơ-ki sau này để cho đến ngày trưởng thành, những chuyện mà ông đã cùng trải qua với những đưa trẻ hàng xóm vẫn còn in đậm.

Tình bạn chân chính sẽ không vì bất cứ lí do gì mà tan vỡ. Dù bị cấm đoán nhưng chúng vẫn tìm mọi cách để duy trì tình bạn. Phải là một tình bạn thắm thiết thì chúng mới vượt qua rào cản, sự ngăn cấm để tiếp tục chơi với nhau như vậy. Chúng trèo lên cái xe trượt tuyết cũ ở dưới mái hiên nhà kho để “ngắm nghía” và trò chuyện cùng nhau. Đó cũng là nơi ba đứa trẻ nhà đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp tâm sự về cuộc sống của mình, về người mẹ đẻ đã mất, về người mẹ mới mà trong các câu chuyện cổ tích thường gọi là dì ghẻ. Với suy nghĩ của một cậu bé, A-li-ô-sa tin rằng mẹ của ba đứa trẻ kia sẽ trở về, sẽ sống lại nhờ nước phép. Cậu kể cho những đứa trẻ về các câu chuyện cổ tích của bà ngoại khiến chúng lặng yên, chăm chú nghe. Bỗng “một ông già với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo dài lùng thùng màu nâu nhạt như của thầy tu, đầu đội chiếc mũ xù lông” đến và dọa A-li-ô-sa: “Cấm không được đế nhà tao”. Đó là đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp. Ông nắm chặt vai cậu bé A-li-ô-sa khiến cậu “sợ đến phát khóc” nhưng chưa kịp khóc òa lên thì cậu “đã ở ngoài đường rồi”. Go-rơ-ki đã kể lại một cách tỉ mỉ kỉ niệm xa xưa ấy, đã làm cho mỗi chúng ta cảm động nhớ lại những chuyện vui buồn thời bé thơ, nhớ lại những kỉ niệm ấm áp về tình bạn dưới mái trường tiểu học ngày nào… Một cơ hội đã đến để 3 anh em nhà kia mời A-li-ô-sa cùng sang chơi. Một lần chơi trò ú tim, đứa em út non nót ngây thơ và khờ dại đã ngồi vào gầu và rơi xuống giếng. A-li-ô-sa chợt nhìn thấy, nhảy phắt xuống sân và kêu to: “Ngã xuống giếng rồi!”. Chú đã đến kịp thời để cùng hai đứa anh kéo thằng em út lên, thoát hiểm. Thằng bé ướt sũng, bàn tay rớm máu, “mặt tái xanh nhưng vẫn mỉm cười”. Chúng bàn nhau cách nói dối “em ngã vào vũng nước”. Trước lúc đưa em về nhà, thằng anh lớn đã “gật đầu” và “chìa tay” cho A-li-ô-sa và nói: “Cậu chạy đến nhanh lắm!”. Sự việc diễn ra quá nhanh, đến nỗi A-li-ô-sa lúc nhìn lại cành cây mà từ đó, chú nhảy xuống cứu bạn “vẫn còn rung rung và một chiếc lá vàng rụng xuống”. Có thể nói, sự nhanh nhẹn và tấm lòng của A-li-ô-sa trong việc ứng cứu đứa bé là một “chiến công”, một thử thách cho tình bạn của chú với anh em nhà nọ một tuần sau đó. Hàng rào ngăn cách vô hình đã bị lũ trẻ phá tung. Và chỉ mấy ngày sau, ba anh em lại kéo nhau ra sân chơi, thằng anh lớn nhìn thấy A-li-ô-sa trên cây đã thân mật gọi: “Xuống đây chơi với chúng tớ”. Đó là tiếng gọi của bạn bè. Là niềm thương yêu tin cậy. Là phần thưởng, là giây phút hạnh phúc nhất đối với A-li-ô-sa mà chú mong đợi bấy nay. Với tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, bốn đứa bé như bốn con chim non ríu rít chơi với nhau. A-li-ô-sa hỏi chúng nó có bị đánh không. Chúng trao đổi với nhau về chuyện bắt chim nuôi chim, về chim bạch yến… Cả bốn đứa bé đều cùng cảnh ngộ “mồ côi mẹ”, sự đồng cảm về cảnh ngộ đã gắn bó tâm hồn tuổi thơ. A-li-ô-sa kể cho chúng nghe chuyện mụ dì ghẻ phù thủy… Bốn đứa bé “ngồi sát vào nhau như những chú gà con”. Đây là những khoảnh khắc thần tiên của chúng. Thằng bé nhất thì “mím chặt môi và phồng má lên”. Một đứa thì “chống khuỷu tay lên đầu gối…” và quàng lên vai em nó. 

Bốn đứa trẻ này đang chơi thân với nhau, bỗng người lớn đã xông vào “phá đám”. Lão đại tá già xuất hiện với bộ ria trắng, đầu đội chiếc mũ xù lông đã thô bạo “nắm lấy vai” và đuổi A-li-ô-sa ra khỏi cổng với lời đe dọa: “Cấm không được đến chỗ tao!”. Rồi trận đòn của ông ngoại. Sự đặt điều mách lẻo, sự để ý “theo dõi” của bác Piốt. Ông ngoại đã nghiêm cấm cháu không được chơi với mấy đứa con lão đại tá, v.v… nhưng tuổi thơ và tình bạn trong sáng của tuổi thơ, ai có thể ngăn cấm và li gián được? Vì thế A-li-ô-sa vẫn tiếp tục chơi với 3 đứa bé kia và quan hệ giữa chúng nó “càng ngày càng trờ nên thích thú”. Chẳng có “ải quan”, “bức tường thành” nào ngăn cách được bốn đứa trẻ! Mọi định kiến giai cấp, mọi sự ngăn cấm và đòn roi đối với chúng nó chẳng có nghĩa lý gì. Giữa bức tường và hàng rào nhà ông đại tá, có một cây du, một cây bồ đề và một bụi hương mộc rậm rạp, “một lỗ hổng hình bán nguyệt” đã được bí mật khoét ra. Chính tại đây ba đứa con trai đại tá, một đứa đứng canh, hai đứa “ngồi xổm hoặc quỳ nói chuyện khe khẽ với nhau”. Chúng nói về cuộc sống buồn, về những con chim, nhiều chuyện trẻ con khác,… Chúng nghe A-li-ô-sa kể chuyện cổ tích. Có một chi tiết rất thú vị là mỗi lần kể chuyện, nửa chừng quên mất chỗ nào, A-li-ô-sa lại chạy về hỏi bà… Chúng vẫn chơi vui, vẫn tâm tình, vẫn chan hòa trong niềm thơ ấu cổ tích. Một tình bạn trong sáng, hồn nhiên.

Không chỉ làm nổi bật tình bạn của những đứa trẻ, đoạn trích này còn khắc họa hình ảnh người bà ngoại hiền từ của A-li-ô-sa. Những truyện cổ tích bà kể là nền tảng vững chắc để M.Go-rơ-ki có được sự nghiệp văn học đồ sộ, trở thành nhà văn nổi tiếng được nhiều thế hệ bạn đọc thế giới biết đến. Tuy không được nhà văn miêu tả chi tiết nhưng chúng ta có thể cảm nhận được bà là một người nhân hậu và rất yêu thương cháu. Câu nói của thằng lớn nhà đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp nói cũng là lời khẳng định của tác giả: “Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt”. Bà luôn là người yêu thương, gần gũi, chăm sóc các cháu một cách chu đáo nhất. Chính bà cũng là người đưa cháu đến với thế giới cổ tích, những câu chuyện thấm đượm tính nhân văn và tình người cao đẹp. Câu nói của thằng lớn khiến A-li-ô-sa thấy “dường như nó đã sống trên trái đất này một trăm năm chứ không phải mười một năm”.

Có thể nói tình bạn và tình yêu thương bà là những tình cảm đậm đà, trong sáng thiêng liêng của tuổi thơ. Đọc những dòng tự thuật trên đây, ta thấy chất thơ dào dạt trên trang văn của M.Go-rơ-ki. Qua đoạn trích, chúng ta thấy A-li-ô-sa tuy còn nhỏ nhưng đã biết thương người, biết an ủi, san sẻ nỗi bất hạnh của các bạn gần như cùng cảnh ngộ. Rõ ràng, sự phân biệt giai cấp, giàu nghèo trong xã hội không thể nào ngăn cản được tình bạn trong sáng của tuổi thơ. Tình bạn ấy là của cải tinh thần vô giá trong cuộc sống tinh thần của mỗi con người.

V. Một số lời bình về tác phẩm

1. 

Mác-xim Go-rơ-ki thuộc trong số những nhà văn Xô viết tài năng nảy sinh từ nhân dân. Từ một cậu bé mồ côi nghèo khổ nhưng với ý chí, nghị lực phi thường, lòng khát khao hiểu biết, niềm say mê học hỏi, ông đã vượt lên số phận, vươn tới ánh sáng văn hóa trở thành một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỉ XX.

          Thực ra họ và tên thật của ông là A-lếch-xây Mac-xi-mô-vích Pê-scốp. Go-rơ-ki là bút danh của ông khi bước chân vào làng văn. Trong tiếng Nga, Go-rơ-ki có nghĩa là “cay đắng”. Go-rơ-ki tự nhận mình là nhà văn của sự cay đắng. Đó là sự cay đắng của số đông người lao động mà Go-rơ-ki cảm thông, thấu hiểu và đã viết lên trên những trang sách của mình. Đó cũng chính là sự cay đắng mà bản thân ông đã từng nếm tari, lớn lên và trưởng thành từ đó.

Để kiếm sống, cậu bé A-lếch-xây đã phải trải qua khá nhiều nghê. Có những việc rất vất vả, lam lũ như bới rác. Có những việc phải đòi hỏi kiên trì, khéo tay như vẽ tượng thánh. Đi ở - tuy không lam lũ, bẩn thỉu như bới rác nhưng lại phải nhanh chân, nhanh mắt, nhanh tay, không biết đến nghỉ ngơi để tuân theo ý chủ nhà. Đi bẫy chim – sướng hơn cả - nhưng đâu phải để bẫy chơi mà là để kiếm tiền; cho nên những lúc không bẫy được coi như nhịn đói. A-lếch-xây còn phải làm công việc nặng nhọc như của người lớn nữa: bốc vác, phụ bếp trên tàu thủy. Cậu chẳng nề hà bất cứ việc gì, miễn là có thể kiếm được tiên nuôi bản thân và một phần nào đó giúp nuôi bà. Nhưng có việc cho đã là may. Đã có lúc vì không kiếm được việc, hai bà cháu phải đi ăn xin để tạm qua ngày. Những lúc ấy thật cực hết chỗ nói. Nhưng chính từ những ngày cay cực ấy, A-lếch-xây thấm thía nhiều điều, nhiều bài học quý giá.

(Hà Thị Hòa, Chân dung các nhà văn thế giới)

Xem thêm sơ đồ tư duy của các tác phẩm, văn bản lớp 9 hay, chi tiết khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:


Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học