Top 5 Tâm trạng Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (điểm cao)



Phân tích tâm trạng Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích hay nhất, ngắn gọn. Mời các bạn đón đọc:

Bài giảng: Kiều ở lầu Ngưng Bích - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Dàn ý Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều, đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

- Nêu vấn đề cần cảm nhận tâm trạng: tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích

II. Thân bài

1. Cảm nhận tâm trạng nhân vật Thúy Kiều

- Tâm trạng Kiều trong 6 câu thơ đầu

    + Hoàn cảnh Thúy Kiều: bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, trơ trọi giữa không gian vắng lặng, hoang vu, lạnh lẽo ( khóa xuân, xa gần, cồn nọ, dặm kia...)

    + Thời gian tuần hoàn, khép kín sớm khuya vây hãm lấy con người

- Hình ảnh Kiều đơn độc, trơ trọi giữa nơi mênh mông non nước, không một người bầu bạn

    + Cát vàng, bụi hồng vừa là cảnh thật, vừa là cảnh ước lệ gợi sự mênh mông choáng ngợp của không gian, tâm trạng cô đơn, bẽ bàng của Kiều

- Tâm trạng nhớ thương người yêu và gia đình ( 8 câu thơ tiếp)

    + Kiều nhớ Kim Trọng – mối tình đầu trong đêm trăng thề nguyền, giờ phải chia xa, li biệt

    + Trình tự nỗi nhớ có vẻ như không hợp lý nhưng thực chất rất hợp lý, Kiều đã bán mình cứu cha mẹ và em nhưng không thể đền đáp mối chân tình của Kim vì vậy nàng khôn nguôi day dứt

    + Kiều nhớ lại đêm trăng thề nguyền rồi lại tự xót xa vì “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Tấm son ấy là tấm lòng Kiều son sắc đã bị hoen ố, vùi dập khiến nàng đau đớn tới tâm can

- Nỗi nhớ cha mẹ: thương cha mẹ già yếu không ai chăm sóc ( dẫn điển tích “ sân Lai, gốc tử, quạt nồng ấp lạnh)

- Nỗi nhớ của Kiều thể hiện nhân cách đáng trọng của nàng, Hoàn cảnh của nàng thật đau đớn. Nàng quên đi nỗi khổ của mình để thương nhớ, lo lắng cho người thân. Nàng là người chung thủy, hiếu thảo, có tấm lòng đáng trọng

2. Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu thơ cuối

- Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là hình ảnh rất đắt thể hiện tâm trạng Kiều, hình ảnh đó giống như cuộc đời Kiều lênh đênh, lận đận giữa dòng đời không biết ngày đoàn tụ cùng gia đình

- Những cánh hoa lụi tàn trôi trên mặt nước cũng giống thân phận hoa tàn của nàng khi vô định, ba chìm bảy nổi, số mệnh đầy bạc bẽo của nàng

- Màu nội cỏ rầu rầu gợi lên cho Kiều nỗi chán ngán, vô vọng, bế tắc vì cuộc sống xung quanh

- Nỗi buồn dồn dập tăng lên và đỉnh điểm là nàng tưởng tượng sóng gió cuộc đời đang mỗi lúc một dâng để nhấn chìm nàng

- Điệp từ “buồn trông” kết hợp với những hình ảnh phía sau diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau, cộng với các từ láy tượng hình, tượng thanh tạo nhịp điệu dồn dập tăng lên của sự vô vọng trong tâm trạng Kiều

- Bút pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa kết hợp với nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật thông qua ngôn ngữ độc thoại, phép kết hợp với câu hỏi tu từ

III. Kết bài

Với bút pháp miêu tả nhân vật đặc sắc, đoạn trích thể hiện thành công tâm trạng của Thúy Kiều trong cô đơn, buồn tủi, bế tắc nhưng tấm lòng nhân hậu thương nhớ về người yêu, hiếu thảo với cha mẹ của Kiều vẫn ngời sáng

Đoạn trích thể hiện tài năng miêu tả nội tâm nhân vật đặc sắc và cảm hứng nhân đạo sâu sắc của nhà thơ

Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 1

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (trích Truyện Kiều) thể hiện rõ nét tài năng miêu tả tâm lí nhân vật bậc thầy của thiên tài Nguyễn Du. Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích được nhà thơ lột tả từng lớp, từng lớp, cho người đọc một cái nhìn chi tiết về nỗi đớn đau, dằn vặt của Thúy Kiều trước ngưỡng cửa cuộc đời.

Đoạn trích thuộc phần đầu tác phẩm. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa gạt, làm nhục, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều nhất quyết không chịu tiếp khách làng chơi, không chịu chấp nhận cuộc sống lầu xanh. Đau đớn, tủi nhục, phẫn uất, nàng định tự vẫn. Tú Bà sợ mất vốn bèn lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ vờ chăm sóc thuốc thang, hứa hẹn khi nàng bình phục sẽ gả nàng cho người tử tế. Tú Bà đưa Kiều ra sống riêng ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam lỏng nàng để thực hiện âm mưu mới đê tiện hơn, tàn bạo hơn.

Thứ tự miêu tả đi từ hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Kiều đến thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ và kết thúc trong nỗi hoang mang, hãi hùng của tâm trạng. Sự chuyển tiếp tâm trạng của Thúy Kiều khi ở làu Ngưng Bích có thể là quá nhanh nhưng hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh và tính cách của nàng, một người con hiếu thảo, sống có trách nhiệm, một thiếu nữ với trái tim rạo rực, đắm say, thủy chung son sắt trong tình yêu.

Lầu Ngưng Bích ở chênh vênh trên một sườn núi. Nơi ấy cảnh quan hùng vĩ, thơ mộng, là địa điểm lí tưởng để tao nhân mặc khách du sơn thưởng ngoạn cảnh đẹp. Đất trời quyến luyến khói sương, non cao vọng về biển cả, thiên nhiên vũ trụ hòa hợp nhất thể khiến cho lòng người được an nhiên, tĩnh lặng. Đáng tiếc thay, ngay lúc này, Thúy Kiều không cần đến điều đó. Nàng đang ở trong nghịch cảnh đầy mâu thuẫn và lo toan, dù cảnh đẹp đến mấy cũng không thể khiến nàng khuây khỏa, nguôi ngoai được. Thế nên, Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích thấm đẫm một nỗi buồn ly tan.

Ngưng Bích nghĩa nơi ngưng đọng lại ánh trời xanh. Khóa xuân là khóa kín tuổi xuân, ý nói cấm cung (con gái nhà quyền quý thời xưa không được ra khỏi phòng ở). Nguyễn Du sử dụng từ khóa xuân với ngụ ý mỉa mai, nói lên cảnh ngộ trớ trêu của Kiều như tù nhân bị giam lỏng. Nàng trơ trọi giữa một không gian mênh mông, hoang vắng: “bốn bề bát ngát xa trông”:

“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.

Cảnh “non xa”, “trăng gần” gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích đơn độc, chơi vơi giữa mênh mông trời nước. Từ trên lầu cao nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Cái lầu trơ trọi ấy giam một thân phận trơ trọi, không một bóng hình thân thuộc bầu bạn, không cả bóng người. Hình ảnh “non xa” “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là cảnh thực mà cũng có thể là hình ảnh mang tính ước lệ để gợi sự mênh mông, rợn ngợp của không gian, qua đó diễn tả tâm trạng cô đơn của Kiều.

Nơi lầu cao, đẹp mà vô tình, Thúy Kiều ngày đêm đối diện với hoàn cảnh của chính mình, chẳng lúc nào nàng thôi nghĩ ngợi:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh, như chia tấm lòng”.

Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi thời gian tuần hoàn, khép kín. Tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi cô đơn khiến Kiều bẽ bàng, chán ngán, buồn tủi sớm và khuya, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một thân” và dồn tới lớp những nỗi niềm chua xót đau thương khiến tấm lòng Kiều như bị chia xẻ “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Vì vậy, dù cảnh có đẹp đến mấy, tâm trạng Kiều cũng không thể vui được. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của nguyễn Du đã đi vào chỗ vi diệu. Cảnh làm nền cho tình, tả cảnh để tả tình. Cảnh đẹp và tình cũng rất đẹp. Hai yếu tố vừa song song lại vừa hòa cuộn vào nhau khiến cho bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích rối bời, tê tái.

Tám câu thơ tiếp theo diễn tả tâm trạng thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều. Đó là nỗi nhớ chủ đạo và thường trực nhất trong tâm trí Thúy Kiều lúc này:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”

Mối tình Kim – Kiều là nghìn năm có một. Người quốc sắc, kẻ thiên tài lưu luyến nhau thuở ấy đã trở thành kinh điển, mẫu mực cho tình yêu lứa đôi. Kiều “tưởng” như thấy lại kỉ niệm thiêng liêng đêm thề nguyền đính ước “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Cái đêm ấy hình như vừa mới ngày hôm qua. Một lần khác nàng nhớ về Kim Trọng cũng là “Nhớ lời nguyện ước ba sinh”. Kiều xót xa hình dung người yêu vẫn chưa biết tin nàng bán mình, vẫn ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi.

Nàng nhớ người yêu với tâm trạng đau đớn: “Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thủy chung, không nguôi thương nhớ Kim Trọng. Cũng có thể là Kiều đang tủi nhục khi tấm lòng son sắt đã bị dập vùi, hoen ố, không biết bao giờ mới gột rửa cho được. Trong nỗi nhớ chàng Kim có cả nỗi đau đớn vò xé tâm can.

Có thể thấy, mối tình Kim – Kiều không gặp phải sự ngăn trở của gia đình. Tuy không lên tiếng ủng hộ nhưng gia đình không gây những trở lực có thẻ khiến cho hai kẻ yêu nhau phải bận tâm. Thế nên, sau nỗi nhớ Kim trọng, Thúy kiều nhớ về cha mẹ và bổn phận làm con của mình:

“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa?
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Nàng xót xa khi tưởng tượng cha mẹ khi sáng, lúc chiều tựa cửa mong ngóng tin con. Nàng xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể “Quạt nồng ấp lạnh” phụng dưỡng song thân, băn khoăn không biết hai em có chăm sóc cha mẹ chu đáo hay không. Nàng còn tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay, gốc tử đã vừa người ôm, cha mẹ ngày thêm già yếu.

Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách bao mùa mưa nắng, vừa nói lên sức mạnh tàn phá của tự nhiên đối với cảnh vật, con người. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ. Kiều đã quên mất cảnh ngộ của bản thân, chỉ một lòng nghĩ và hướng về Kim Trọng, về cha mẹ. Tấm lòng ấy khẳng định Kiều là người tình chung thủy, người con hiếu thảo, người luôn nghĩ và sống cho người khác, người có tấm lòng vị tha đáng trân trọng.

Theo sự miêu tả, Kiều nhớ Kim Trọng trước, sau đó mới nhớ đến song thân. Nhiều hủ nho cho rằng như vậy là không đúng với truyền thống dân tộc, đi ngược lại lễ giáo, thuần phong mĩ tục. Thế nhưng, nhìn kỹ, thật ra lại là rất hợp lí. Kiều đã bán mình cứu cha và em, nghĩa là đã đền đáp được một phần công lao cha mẹ, nên nàng đỡ bứt rứt. Còn với Kim Trọng, vì chữ hiếu mà nàng đã bội bạc lời thề kết tóc se duyên, trăm năm đầu bạc với chàng. Kiều thấy mình như một kẻ phụ tình, phụ tấm lòng người yêu, nên nàng cắn rứt khôn nguôi. Đây là một nét bút đặc sắc, hết sức độc đáo của Nguyễn Du, phù hợp với quy luật và chiều sâu tâm lý con người.

Nhớ đến người rồi nàng lại nghĩ về mình. Phận nàng nhỏ bé, còn không gian thì rộng lớn quá, mênh mông quá. Cảnh vật ở lầu ngưng Bích tuyệt đẹp nhưng dưới cái nhìn của tâm trạng đau thương, buồn nhớ của người thiếu nữ, nó đã trở nên hoang vắng, tiêu điều:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”.

Đây là 8 câu thơ thực cảnh mà cũng là tâm cảnh. Mỗi biểu hiện của cảnh đồng thời là một ẩn dụ về tâm trạng con người – mỗi một cảnh lại khơi gợi ở Kiều những nỗi buồn khác nhau, với những lí do buồn khác nhau trong khi nỗi buồn đã đầy ắp tâm trạng để rồi tình buồn lại tác động vào cảnh, khiến cảnh mỗi lúc lại buồn hơn, nỗi buồn ấy mỗi lúc một ghê gớm, mãnh liệt.

Cách sử dụng ngôn ngữ độc thoại, điệp ngữ. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn đều được tác giả khắc họa qua điệp từ “buồn trông” đứng đầu mỗi câu có nghĩa là buồn mà trông ra bốn phía, trông nóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm thay đổi hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. “Buồn trông” có cái thoảng thốt lo âu, có cái xa lạ hút tầm nhìn, có cả dự cảm hãi hùng của người con gái ngây thơ lần đầu lạc bước giữa cuộc đời ngang ngược. Điệp từ “buồn trông” kết hợp với các hình ảnh đứng sau đã diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau. Điệp ngữ lại được kết hợp với các từ láy chủ yếu là những từ láy tượng hình, dồn dập, chỉ có một từ láy tượng thanh ở cuối câu tạo nên nhịp điệu, diễn tả nỗi buồn ngày một tăng, dâng lên lớp lớp, nỗi buồn vô vọng, vô tận. Điệp ngữ tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc của đoạn thơ cũng là điệp khúc của tâm trạng.

Mở ra nỗi buồn là cảnh biển mênh mang. Chiều hôm buông xuống. thời gian gợi nghĩ đến sự trở về đoàn tụ. Có cánh buồm xa xa, tín vật của sự gắn kết nhưng sao xa quá là xa:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.

Một cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là một hình ảnh rất đắt để thể hiện nội tâm nàng Kiều. Một cánh buồm nhỏ nhoi, đơn độc giữa biển nước mênh mông trong ánh sáng le lói cuối cùng của mặt trời sắp tắt; cũng như Kiều trong không gian vắng lặng của hiện tại nhìn về phương xa với nỗi buồn nhớ da diết về gia đình, quê hương. Con thuyền gần như mất hút, vẫn còn lênh đênh trên mặt biển khi mà những con thuyền khác đều đã cập bến, biết bao giờ mới tìm được bến bờ neo đậu; cũng như Kiều còn lênh đênh giữa dòng đời, biết bao giờ mới được trở về sum họp, đoàn tụ với những người thân yêu.

Đến bức tranh thứ 2, tầm nhìn tuy có gần lại hơn nhưng vẫn còn rộng quá:

“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Từ “Buồn trông” tiếp tục gợi âm điệu buồn mênh mang, nỗi buồn nhân lên khi nàng nhìn thấy cánh hoa trôi lênh đênh vô định. Từ “trôi” chỉ sự vận động nhưng ở thế bị động, những cánh hoa trôi mặc sóng nước vùi dập như số phận Kiều cũng thế. Những cánh hoa tàn lụi trôi man mác trên ngọn nước mới xa khi Kiều càng buồn hơn bởi như nàng như nhìn thấy trong đó thân phận mình lênh đênh, vô định, ba chìm bảy nổi giữa sóng nước. Cánh hoa mỏng manh, vô định gợi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, lênh đênh trôi dạt trên dòng đời vô định không biết đi đâu về đâu.

Không thể tìm thấy nơi để tâm hồn nương trú, nàng thoái tầm nhìn về với cảnh vườn mong tìm chút ấm áp. Thế nhưng, càng ngóng tìm càng thấy chơi vơi:

“Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”.

Nội cỏ “rầu rầu”, “xanh xanh”, hai sắc xanh héo úa, mù mịt, nhạt nhòa trải dài từ chân mây đến mặt đất. Có còn đâu cái “xanh tận chân trời” như sắc cỏ trong tiết Thanh minh khi Kiều còn trong cảnh đầm ấm. Màu xanh này gợi cho Kiều một nỗi chán ngán, vô vọng vì cuộc sống cô quạnh và những chuỗi ngày vô vị, tẻ nhạt không biết kéo dài đến bao giờ. Màu xanh nhợt nhạt héo hắt của cảnh vật chính là ẩn dụ cho tương lai mờ mịt vô vọng của Kiều. Kiều tuyệt vọng, mất phương hướng hoàn toàn. Đây vừa là tâm trạng vừa là cảnh ngộ đáng thương của Thúy Kiều

Cuối cùng, ngoại cảnh không còn niềm tin nào nữa, nàng trở về với chính mình trong nỗi hoang mang cùng cực:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Dường như nỗi buồn càng lúc càng tăng, càng dồn dập. Một cơn “gió cuốn mặt duềnh” làm cho tiếng sóng bỗng nổi lên ầm ầm như vây quanh ghế Kiều ngồi. Cái âm thanh “ ầm ầm tiếng sóng” ấy chính là âm thanh dữ dội của cuộc đời phong ba bão táp đã, đang ập đổ xuống đời nàng và còn tiếp tục đè nặng lên kiếp người nhỏ bé ấy trong xã hội phong kiến cổ hủ, bất công. Tất cả là đợt sóng đang gầm thét, rút gào trong lòng nàng. Lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi dần vào vực thẳm một cách bất lực. Nỗi buồn ấy đã dâng đến tột đỉnh, khiến Kiều thực sự tuyệt vọng. Thiên nhiên chân thực, sinh động nhưng cũng rất ảo. Đó là cảnh được nhìn qua tâm trạng theo quy luật “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để diễn tả nỗi buồn man mác, mông lung đến lo âu, kinh sợ, dồn đến bão táp nội tâm cực điểm của cảm xúc trong lòng Kiều. Tất cả là hình ảnh về sự vô định, mong manh, sự dạt trôi bế tắc, sự chao đảo, nghiêng đổ dữ dội. Lúc này Kiều trở nên tuyệt vọng, yếu đuối nhất. Cũng vì thế mà nàng đã mắc lừa Sở Khanh để rồi dấn thân vào cuộc đời “thanh lâu hai lần, thanh y hai lượt”.

Đoạn thơ đã khắc họa thành công tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Có thể xem đây là kiểu mẫu của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển. Để diễn tả tâm trạng Kiều Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” để khắc họa tâm trạng của Kiều lúc bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.

Những chặng đường đầy cạm bẫy, nhiều máu và nước mắt có “ma đưa lối, quỷ đem đường”, đối với Kiều đang ở phía trước. Đoạn thơ “Kiều ở lầu Ngưng Bích” như chứa đầy lệ. Lệ của người con gái lưu lạc, đau khổ vì cô đơn lẻ loi. buồn thương chua xót vì mối tình đầu tan vỡ, xót xa vì thương nhớ mẹ cha, lo sợ cho thân phận, số phận mình. Lệ của nhà thơ, một trái tim nhân đạo bao la đồng cảm, xót thương cho người thiếu nữ tài sắc, hiếu thảo mà bạc mệnh.

Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 2

Truyện Kiều là một tác phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ Nguyễn Du. Ông đã góp vào văn học Việt Nam và thế giới một thi phẩm bất hủ. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã thể hiện bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật điêu luyện, tài tình của ông. Qua những dòng thơ, người đọc cảm thấu được sâu sắc nỗi cô đơn, khắc khoải, tuyệt vọng của Thúy Kiều.

Thúy Kiều sau khi bán mình chuộc cha, bị Mã Giám Sinh hạ nhục, rồi bán vào lầu xanh. Kiều định tự kết liễu đời mình, nhưng không thành công. Tú Bà giam lỏng nàng ở lầu Ngưng Bích và hứa sau khi nàng khỏi bệnh sẽ gả nàng vào một gia đình tốt. Kiều ở lầu Ngưng Bích sống trong nỗi cô đơn, buồn bã, nhớ thương quá khứ và lo lắng, sợ hãi cho tương lai chính mình. Bức tranh tâm trạng nàng được miêu tả vô cùng rõ nét.

Trước hết, ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều mang trong mình nỗi cô đơn, chán nản, đau xót cho số phận chính mình: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân/ Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung/ Bốn bề bát ngát xa trông/ Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”. Hai chữ “khóa xuân” nghe sao thật chua xót, tàn nhẫn. Nàng – một người con gái đang ở độ tuổi đẹp nhất, lại bị giam hãm, cầm tù, cảnh ngộ của nàng thật cô đơn tội nghiệp. Sự cô đơn đó còn được tuyệt đối hóa qua các hình ảnh chỉ không gian, thời gian, các sự vật tồn tại xung quanh: “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” “bát ngát” “non xa” “trăng gần” “mây sớm đèn khuya”. Hàng loạt các hình ảnh, từ ngữ chỉ không gian cô quạnh đã một lần nữa tô đậm, làm nổi bật sự cô đơn tuyệt đối của Thúy Kiều. Không chỉ vậy cụm từ “mây sớm đèn khuya” còn gợi nên thời gian tuần hoàn, khép kín giam hãm cuộc đời nàng, đẩy Kiều vào nỗi cô đơn, tuyệt vọng, không có lối ra.

Tâm trạng ngổn ngang “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”, Kiều nhớ về Kim Trọng – người nàng yêu thương, nhưng lại phải phụ bạc, nhớ về song thân ở nhà mong ngóng tin con. Nguyễn Du đã thật tinh tế khi để nàng nhớ về Kim Trọng trước rồi mới nhớ đến cha mẹ. Trật tự nỗi nhớ vừa thể hiện đúng quy luật tâm lí, vừa hợp tình vừa hợp lí. Kiều nhớ về đêm thề nguyền với Kim Trọng: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng/ Tin sương luống những rày trông mai chờ”. Câu thơ vang lên như tiếng lòng thổn thức, như tiếng khóc nấc lên theo nhịp của Thúy Kiều khi mường tượng lại những kỉ niệm đẹp đẽ. Nhớ về người thương, nàng lại càng đau đớn, xót xa hơn khi nghĩ đến cảnh Kim Trọng ngày ngày mong tin mình trong vô vọng, giờ đây mỗi người đôi ngả, biết ngày nào mới có thể gặp lại. Nhưng đau xót nhất có lẽ là hai câu thơ sau: “Chân trời góc bể bơ vơ/ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Nói lên thân phận, hoàn cảnh “bơ vơ”, trơ trọi nơi đất khách quê người. Hình ảnh ẩn dụ “tấm son” cho thấy tấm lòng thủy chung son sắt, tình yêu sâu đậm Thúy Kiều dành cho Kim Trọng.

Về phía cha mẹ, nỗi nhớ của nàng với song thân cho thấy nàng là một người con hết sức hiếu thảo, luôn yêu thương và nghĩ về cha mẹ. Nàng thương cha mẹ đã lớn tuổi lại không có ai ở bên chăm sóc, nàng day dứt trong những ngày hè nóng bức, ngày đông giá lạnh ai sẽ là người lo lắng cho cha mẹ. Nguyễn Du đã sử dụng linh hoạt thành ngữ và điển cố để nói về tấm lòng hiếu thảo của nàng: “Sân Lai cách mấy nắng mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.

Trong hoàn cảnh phải bán mình chuộc cha, lại bị lừa gạt, Kiều là người đáng thương nhất, nhưng nàng đã vượt lên những đau thương của mình nhớ về cha mẹ, người yêu. Điều đó cho thấy nàng là một người thủy chung, sống có tình nghĩa, mang trong mình tấm lòng vị tha, nhân hậu, bao dung.

Tám câu thơ cuối cùng không chỉ cho thấy tâm trạng cô đơn, buồn rầu của Thúy Kiều mà còn cho thấy những dự cảm về tương lai đầy tai ương, sóng gió, câu thơ bật lên nỗi kinh hoàng, lo sợ. Kiều nhớ về cha mẹ, gia đình, quê hương nên nàng thấm thía sâu sắc tình cảm cô đơn, trống vắng của mình: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”. Cánh buồm thấp thoáng trong không gian chiều ảm đạm thể hiện khao khát được đoàn tụ, được trở về với gia đình của nàng. Không gian dịch chuyển gần hơn về phía nàng, hình ảnh những cánh hoa trôi man mác, vô định khiến Kiều nghĩ về số phận chìm nổi, mỏng manh của chính mình. Bản thân Kiều từ lúc bị bán đi, đã là bắt đầu những chuỗi ngày nổi vô định, tương lai mù mịt đang đổ ập xuống trước mắt Kiều. Câu hỏi tu từ như một lời tự hỏi về tương lai mù mịt của chính bản thân mình. Cặp lục bát tiếp theo, không gian lại được mở rộng: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu,/Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Sắc xanh trong câu thơ này không còn là màu cỏ non như trong cảnh ngày xuân mà là sắc xanh tàn tạ, héo úa, lụi tàn. Màu xanh ấy còn gợi lên sự nhạt nhòa, đơn điệu như chính cuộc sống tẻ nhạt, hiu quạnh, đầy ngao ngán của Thúy Kiều. Câu thơ cuối cùng là lo âu, dự cảm về những tai ương, hiểm nguy đang đón đợi nàng, cảnh hiện ra vô cùng hãi hùng: Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Ngọn gió cuốn mặt duềnh cùng với tiếng sóng ầm ầm hung dữ như báo trước, chỉ ngày sau đây thôi, bao nhiêu giông bão trong cuộc đời sẽ nổi lên xô đẩy, vùi dập đời nàng.

Với bút pháp tả cảnh ngụ tình tài ba, cảnh trong tác phẩm của Nguyễn Du vừa thể hiện ngoại cảnh vừa thể hiện tâm cảnh. Đoạn trích đã khắc họa thành công bức tranh tâm trạng Thúy Kiều trong những ngày nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Qua đó còn thể hiện sự cảm thương của Nguyễn Du cho số phận, cho cuộc đời đầy bất hạnh của nàng.

Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 3

Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tác phẩm để lại nhiều tiếng vang trong nền thi ca Việt Nam Trích đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là giai đoạn sau khi Thúy Kiều bán mình chuộc cha và em trai, Nàng bị Mã Giám Sinh và Tú Bà kết hợp với nhau đẩy nàng vào lầu xanh.

Thúy Kiều tìm cách tự tử nhưng được Tú Bà cứu sống sợ nàng chết thì bà ta lỗ vốn nên bà ta buông lời dụ dỗ Kiều tiếp khách. Nàng bị khóa giam lỏng ở lầu Ngưng Bích ngày ngày có người mang cơm cho ăn nhưng khó lòng mà trốn thoát khỏi nơi đây. Tâm trạng Thúy Kiều khi sống ở lầu Ngưng Bích là một tâm trạng ê chề, chán chường, muốn chết mà không cho chết, muốn sống mà sống không yên. Nỗi nhớ nhà, nhớ người yêu, gia phụ khiến nàng càng thêm chua xót, tủi hổ cho thân phận mình.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Hai từ “khóa xuân” thể hiện sự giam cầm tâm hồn và thể xác của Thúy Kiều tại nơi này. Nàng đang trong thời kỳ xuân sắc, có vẻ đẹp tuyệt trần tài năng vẹn toàn đáng lẽ nàng phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc, êm ấm bên người thân hoặc bên người đàn ông tốt yêu nàng thật lòng. Nhưng Thúy Kiều phải sống ở một nơi nhơ nhuốc, trở thành kẻ mua vui cho người khác.

Kiều ở lầu ngưng bích Thông qua những từ ngữ miêu tả của tác giả Nguyễn Du ta thấy thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích vô cùng mênh mông rộng lớn. Chính sự bao la, bát ngát đó càng làm cho Thúy Kiều cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn lẻ loi giữa mênh mông trời biển. Xung quanh chỗ nàng ở có những bụi hồng gai, những cồn cát nhỏ bụi tung mịt mờ trắng xóa, thể hiện cho sự mờ mịt của đời nàng khi nhìn về tương lai. Thúy Kiều cảm thấy tâm trạng càng ngày càng buồn chán, u ám hơn khi nhìn cảnh vật nơi đây.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Hai từ bẽ bàng thể hiện sự tủi thân, ê chề của Thúy Kiều nàng cảm thấy tấm thân mình giờ này nhơ nhuốc, nhục nhã ê chề, không còn xứng đáng được hưởng hạnh phúc nữa. Trong cảnh trời đất mênh mang, bao la cỏ cây cát bụi xa mờ này làm cho Thúy Kiều trào dâng tình cảm nhớ tới những người thân thương nhớ người yêu thề non hẹn biển của mình đó là Kim Trọng.

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Trong những câu thơ này Thúy Kiều nhớ lại những lời thề non hẹn biển của nàng với Kim Trọng. Nhớ lại giây phút bên nhau rồi nàng lại lo lắng khi tưởng tượng ra cảnh Kim Trọng đang đi tìm mình ở khắp nơi. Nhưng tìm làm gì khi thân nàng giờ này đã nhuốm hồng trần, nhơ bẩn không còn trắng trong nữa. Tấm thân này gột rửa bao giờ cho phai, bao giờ mới có thể trở về là một người con gái trinh nguyên, thanh khiết, có lẽ là không thể nào được nữa.

Trong những câu thơ thể hiện sự đau xót, bẽ bàng, cô đơn của Thúy Kiều. Thông qua câu thơ cho chúng ta thấy Thúy Kiều là người chung thủy, sắc son, trong hoàn cảnh bi ai nhưng nàng vẫn luôn lo lắng cho người yêu và người thân của mình.

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Người thứ hai Thúy Kiều nhớ tới đó chính là cha mẹ nàng, nàng lo lắng cho phụ mẫu không có ai chăm sóc sớm khuya. Điều này thể hiện Thúy Kiều là người con vô cùng hiếu thảo luôn nghĩ tới cha mẹ già yếu. Luôn muốn được ở gần phụng dưỡng chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già, đó là tấm lòng đáng quý đáng trân trọng của một người con dành cho đấng sinh thành của mình.

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa….
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Điệp từ “buồn trông” thể hiện tâm trạng , chán chường, của Thúy Kiều. Nàng buồn nên nhìn cảnh vật xung quanh cũng thê lương, u ám, héo hắt như nàng vậy.

Trong trích đoạn này tác giả Nguyễn Du đã vô cùng thành công với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình mượn cảnh vật xung quanh để nói lên tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều. Nỗi cô đơn tuyệt vọng của nàng đã được đẩy lên cao độ trong không gian im lặng, bát ngát mênh mông, không hề có sự xuất hiện của con người ngoài Thúy Kiều càng làm cho nàng cảm thấy mình lẻ loi, cô độc.

Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 4

Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. phổ quát câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ chuyên nghiệp về tả cảnh mà còn nhiều năm kinh nghiệm về tả tình cảm, tả tâm cảnh. Trong quan điểm của ông, 2 nguyên tố tình và cảnh ko tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là 1 bức tranh tâm tư đầy xúc động. Bằng văn pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã diễn tả tâm cảnh nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. đấy là nỗi đơn chiếc, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và bác mẹ.

Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất có lí. Phần đầu tác nhái giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về các bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.

Khi không trong sáu câu thơ đầu được biểu đạt hoang vắng, mênh mông đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng trùng, ngửng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, thưa thớt như bụi trần nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, trơ thổ địa của nàng khi này:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Có thể hình dung rất rõ 1 ko gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. ko gian đấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

1 chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều khi bấy giờ: vừa chán chường, buồn tủi cho thân phận mình, vừa hổ hang, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng san sẻ, đồng cảm có nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh bỗng dưng ko khách quan, mà sở hữu hồn, đấy chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều các ngày đơn chiếc ở lầu Ngưng Bích.

Trong tâm cảnh đơn chiếc, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều sắm về mang các người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguyễn Du diễn tả rất xúc động trong các lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi thương nhớ được chia đều: bốn câu đầu dành cho tình nhân, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được kể đến trước vì đây là nồi nhớ nồng thắm và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên trong khoảng đó:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.

Lời thơ như đựng đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật thiết tha, mãnh liệt! Kiều mường tượng ra cảnh chàng Kim đang đêm ngày mong chờ tin mình một cách thức đau khổ và vô vọng. Mới ngày nào nàng cùng mang chàng Kim nặng lời ước hứa trăm năm mà bỗng dưng, nay trở nên kẻ phụ bạc, lỗi hứa với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, thế mà hiện tại mỗi người mỗi ngả. Rồi tự nhiên Kiều liên tưởng đến thân phận: Bên trời góc bể trơ khấc của mình và tự dằn vặt: Tấm son tẩy rửa bao giờ cho phai. Kiều nhớ tiếc mối ngọn nguồn trong trắng của mình, nàng nhằm nhè tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ với thể tẩy rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình có chàng Kim. Và đích thực, bóng chàng Kim cũng sẽ ko bao giờ nhạt phai trong tâm khảm Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.

Nhớ bồ, Kiều càng xót xa mường tưởng ba má. mặc dù nàng đã liều đem tấc với, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù đày, nhưng nghĩ về bố mẹ, bao trùm trong nàng là 1 nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng lúc nghĩ đến cảnh bác mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết lúc thời tiết thay đổi người nào là người chăm sóc bố mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công lúc tiêu dùng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều lúc mường tượng ba má, mường tượng nghĩa vụ khiến con của mình. Trong tình cảnh của Kiều, những nghĩ suy, tâm cảnh ấy càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu hạnh.

Nhớ ý trung nhân, nhớ cha mẹ, nhưng rồi rốt cuộc nàng Kiều lại quay về với hoàn cảnh của mình, sống với tâm trạng và thân phận bây giờ của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, dòng nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm tưởng nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi khi càng tô đậm thêm bằng bí quyết dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
............
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu… Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra 1 nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà ngóng chờ một chiếc gì đó mơ hồ sẽ đến khiến đổi thay trạng thái hiện giờ. dường như Kiều mong cánh buồm, những cánh buồm chỉ thập thò, xa xa không rõ, như một hoài vọng mơ hồ, mỗi khi mỗi xa.

Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa xiêu dạt, ko biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh vô tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh sở hữu trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn ấy bỗng dội lên thành 1 nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh quéo ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.

Tám câu thơ tuyệt tác với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình hài hòa mang nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ biểu tượng cùng với việc dùng phổ biến từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nài, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều lúc ở lầu Ngưng Bích.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là 1 bức tranh tự nhiên đồng thời cũng là 1 bức tranh tâm cảnh mang bố cục chặt chẽ và khéo léo. tự dưng ở đây liên tiếp thay đổi theo diễn biến tâm cảnh của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh 1 chừng độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực thụ hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca tụng tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của các người đàn bà tài sắc mà bạc phận.

Bài giảng: Kiều ở lầu Ngưng Bích - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:


kieu-o-lau-ngung-bich.jsp