Top 10 Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân (hay, ngắn gọn)
Phân tích nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân hay, chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh lớp 9 trên cả nước giúp học sinh lớp 9 có thêm tài liệu tham khảo từ đó biết cách viết văn dễ dàng hơn.
- Dàn ý Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên
- Phân tích nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 1
- Phân tích nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 2
- Phân tích nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 3
- Phân tích nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 4
- Phân tích nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 5
- Phân tích nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 6
- Phân tích nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 7
- Phân tích nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 8
- Phân tích nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 9
- Phân tích nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - các mẫu khác
Bài giảng: Cảnh ngày xuân - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Dàn ý Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều và đoạn trích Cảnh ngày xuân
- Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn trích Cảnh ngày xuân cho thấy tình cảm nhân văn cao đẹp của tác giả trước thiên nhiên và con người.
II. Thân bài
- Nghệ thuật ước lệ cổ điển sử dụng hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thơ cổ, mượn thơ cổ một cách sáng tạo, bút pháp chấm phá, điểm xuyết.
1. Bốn câu thơ đầu: Miêu tả khung cảnh ngày xuân
- Miêu tả khái quát vẻ đẹp mùa xuân tươi đẹp với hình ảnh én chao liệng trên bầu trời thanh bình tràn ngập ánh sáng xuân tươi tắn trong sáng (hai câu đầu)
- Tác giả thể hiện niềm tiếc nuối khi thời gian trôi chảy nhanh chóng
- Bức tranh tuyệt mĩ hiện lên qua hai câu thơ:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
+ Cảnh vật đơn giản với cỏ xanh, hoa trắng nhưng hiện lên không gian khoáng đạt, rộng lớn, tươi đẹp
+ Nếu hai câu thơ cổ “Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa” của Trung Quốc dùng hình ảnh cỏ thơm thì Nguyễn Du lại chọn hình ảnh cỏ xanh để nhấn mạnh vẻ đẹp giàu sức sống của mùa xuân
+ Hình ảnh hoa lê gợi lên sự mới mẻ, tinh khôi, thanh khiết kết tinh của đất trời được điểm xuyết trong không gian
→ Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên tuyệt bút của Nguyễn Du giàu chất tạo hình, ngôn ngữ biểu cảm. Từ đó thấy tâm hồn con người tươi mới, phấn chấn qua cái nhìn về thiên nhiên trong trẻo tươi vui.
2. Sáu câu thơ cuối: Bức tranh thiên nhiên mang tâm hồn con người
- Cảnh mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng hoàng hôn, dòng suối nhỏ, dịp cầu bắc ngang dường như nhuốm màu tâm trạng của con người
+ Không gian buổi chiều tà quen thuộc trong văn học khiến con người chìm trong cảm xúc bâng khuâng khó tả.
+ Cảnh vật như chậm dần, lắng dần, mọi chuyển động đều đi vào tĩnh lặng
+ Không gian dần thu hẹp, mang dáng dấp nhỏ nhoi, phảng phất nỗi buồn của con người
- Các từ láy thanh thanh, tà tà, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn thể hiện tâm trạng con người
+ Từ nao nao gợi lên nét buồn khó hiểu. Hai chữ thẩn thơ có sức gợi lớn, chị em Kiều bần thần, tiếc nuối, buồn bã khi ra về
→ Bút pháp tả cảnh ngụ tình tả cảnh gắn với tình, cảnh và tình tương hợp
III. Kết bài
- Với bút pháp miêu tả thiên nhiên đặc sắc, đoạn trích dựng lên bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng
- Bức tranh làm nổi bật tình cảm nhân văn cao đẹp của nhà thơ đại tài Nguyễn Du trước cảnh vật và con người
- Đoạn trích khẳng định tài năng miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du cũng như kiệt tác Truyện Kiều.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 1
Trong Truyện Kiều, biết bao nhiêu lần Nguyễn Du đã dụng công nghệ thuật để miêu tả thiên nhiên có đủ bốn mùa đầy gợi cảm, trữ tình.
Thế nhưng, có lần Nguyễn Du vẽ nên bức tranh thơ bất tử về mùa xuân bằng màu xanh tươi tắn của cỏ non với nét thanh nhã của sắc trắng hoa lê. Để rồi trên cái nền xuân mênh mông, êm đềm ấy xuất hiện những trang giai nhân tuyệt sắc. Để rồi giai nhân - tài tử - mùa xuân và tình yêu đôi lứa chớm nở, đã mang cái đẹp đến cho đời và làm bùng vỡ cảm xúc thẩm mỹ của người yêu thơ Việt Nam qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.
Xuân đã vào tháng ba - tiết thanh minh, rộn ràng những cánh én trong nắng ấm. Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân bằng sự kết hợp tuyệt vời giữa thảm cỏ xanh non trải dài tận đến chân trời. Điểm trên cái nền xanh mênh mông rợn ngợp ấy, là những cánh hoa lê màu trắng thanh nhã. Tác giả dùng từ “điểm” thật phù hợp, tạo nét thanh nhã, đúng với tình cảm trong sáng thanh lịch của “nam thanh nữ tú” đang du xuân.
Đó là màu sắc tinh khôi, trong trẻo, giàu sức sống và gợi cảm, là nét đặc trưng của mùa xuân. Bức tranh xuân đã làm say lòng người.
Tám dòng tiếp theo gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh.
Nét văn hoá tảo mộ giàu tính truyền thống, trở thành nét đẹp trong tâm hồn con người.
Hội Đạp thanh gợi cái nét thanh tao mà gần gũi. Có gì thanh bình bằng dạo chơi trên cánh đồng quê lúc cỏ non vừa vươn dậy sau những cơn mưa xuân lất phất. Đâu đó thoang thoảng mùi hương trầm tỏa ra từ những ngôi mộ hòa quyện vào tâm hồn người du xuân thành niềm thiêng liêng khó tả.
Đoạn thơ giàu giá trị biểu cảm thể hiện qua các danh từ yến anh, chị em, tài tử, giai nhân tất cả mọi người xa gần đều trong tâm trạng “nô nức” sắm sửa, dập dìu đến phó hội.
Ngoài các động từ, danh từ được đưa vào thật đắt, Nguyễn Du còn hào phóng thêm vào các tính từ nô nức, gần xa và hình ảnh ẩn dụ “nô nức yến anh” đã góp phần gợi tả, làm nổi bật không khí, khung cảnh nhộn nhịp ngày xuân và tâm trạng phơi phới của khách chơi xuân.
Điểm trên khung cảnh ấy là những thoi vàng với tro tiền giấy bay càng làm cho khung cảnh có phần sâu lắng. Điều ấy làm nổi bật nét đẹp văn hoá truyền thống giàu tính nhân văn trong tiết Thanh minh.
Sáu câu cuối tả cảnh chị em Kiều trở về nhà. Cảnh hiện lên lúc chiều tàn, không còn nhộn nhịp mà như lặng dần và nhuốm buồn.
Những từ láy “tà tà, thanh thanh, nao nao” biểu đạt sắc thái cảnh vật và tâm trạng con người cũng “nao nao” như dòng nước. Phép nhân hoá độc đáo khiến cho cảnh vật như có tâm trạng.
Cảm giác vui xuân còn lâng lâng thì tác giả đã điểm vào lòng người một thoáng buồn qua hình ảnh “Nao nao dòng nước” và ngọn “tiểu khê” có màu thanh thanh lành lạnh như tiên cảm cho một điều chẳng lành, dự báo một thiên đoạn trường…
Đoạn thơ có kết cấu hợp lý và ngôn ngữ giàu tính tạo hình; nghệ thuật nhân hoá độc đáo và những từ láy giàu tính biểu cảm.
Với mười tám dòng thơ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân thanh nhã với nét chấm phá tuyệt vời và nhuốm đầy tâm trạng con người với dự cảm ẩn chứa niềm đau.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 2
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được xem là một kiệt tác của nền văn học dân tộc Việt Nam, không chỉ hấp dẫn độc giả trong nước mà còn thu hút sự chú ý và yêu thích của rất nhiều độc giả nước ngoài. Sở dĩ có sự thành công này, không chỉ bởi Truyện Kiều phản ánh được sinh động hiện thực xã hội đương thời, mang giá trị nhân đạo sâu sắc, mà còn bởi bút pháp nghệ thuật tài tình của Nguyễn Du. Điển hình nhất trong nghệ thuật miêu tả của Truyện Kiều, không thể không kể đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Ở đây, ta sẽ đi tìm hiểu nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” để thấy được sự tài tình của tài năng Nguyễn Du.
Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống được nhà thơ Nguyễn Du gợi ra đầy sinh động, tươi tắn, ngập tràn sắc xuân:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Khung cảnh mùa xuân được nhà thơ gợi ra bằng hình ảnh “con én đưa thoi”. Chim én vốn là một loại chim tiêu biểu, nó luôn gợi nhắc người ta đến mùa xuân bởi chính đặc tính sinh học của nó. Khi xuất hiện những đàn chim én bay lượn trên bầu trời cao là người ta biết mùa xuân đã về. Ngày xuân những cánh én chao liệng như gọi thêm cái náo nức, nhộn nhịp về cho đất trời. Ở đây, Nguyễn Du đã ví những cánh én như những con “thoi”, như để chỉ sự chảy trôi nhanh chóng của ngày xuân tựa như chiếc thoi vẽ những đường tơ mềm mại trên khung vải.
“Thiều quang” là làn ánh sáng đỏ hồng, tỏa rạng rực rỡ và ấm áp của ngày xuân. Trong không khí náo nức của những cánh chim én, bầu trời như cao hơn, rực rỡ hơn bởi những ánh nắng xuân nhẹ nhàng mà đầy tinh khiết, mang lại cái ấm áp cho vạn vật, khoác lên chúng bộ một sắc màu tươi tắn, mới lạ và đầy sức sống. Trên cái khung cảnh tuyệt sắc ấy của thiên nhiên, hình ảnh xanh mướt của cỏ non trải dài ra trước mắt người đọc “ Cỏ non xanh tận chân trời”. Hình ảnh những đám cỏ xanh mơn mởn trải ra bát ngát, mênh mông, dường như không có điểm dừng. Trong cảm nhận của đại thi hào Nguyễn Du, dường như những đám cỏ này trải dài đến tận đường “chân trời”. Trong không khí rộn ràng, khoe sắc của mùa xuân ấy, thu hút thị giác của độc giả không chỉ bởi cái nõn tươi của cỏ non, mà còn bởi những đốm trắng được điểm xuyết bởi những bông hoa lê “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Ta có thể thấy, sự xuất hiện của sắc trắng hoa lê đã làm cho bức tranh ngày xuân thêm hoàn mĩ, bộc lộ được trọn vẹn vẻ đẹp của ngày xuân. Sự kết hợp tài tình giữa hai màu xanh- trắng đã làm cho câu thơ tràn trề sức sống của vạn vật, của hoa lá cỏ cây.
Không chỉ không khí của ngày xuân được Nguyễn Du tái hiện một cách sinh động, chân thực mà ngay cả khi bầu trời ngả bóng chiều tà, khi không khí ngày xuân dần dần lặng xuống, nhường chỗ cho bóng tối thì Nguyễn Du vẫn dùng sự tài hoa, tinh tế của mình mang đến cho người đọc một bức tranh chiều tà thật đẹp:
“Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc qua”
Nếu không khí của ngày xuân nhộn nhịp, vui tươi bởi những cánh én chao liệng, bởi sự khoa sắc của cỏ cây hoa lá, bởi chính sự tấp nập, háo hức của con người, thì khi chiều tà, không khí của ngày xuân trở nên trầm lắng hơn, thanh tĩnh hơn nhưng không vì đó mà mất đi cái vẻ hấp dẫn, mất đi cái nét đẹp vốn có của nó. Ở đây, nhà thơ Nguyễn Du đã sử dụng hệ thống các từ láy như: “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” để vẽ ra bức tranh chiều tà, các từ ngữ này không chỉ có chức năng biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn giàu giá trị biểu cảm. Trong đó, từ láy “nao nao” rất đặc biệt, bởi nó không chỉ gợi ra được cái nhịp chảy chậm rãi, từ từ của “dòng nước uốn quanh”, mà nó còn gợi ra được bức tranh tâm trạng của con người, đó chính là cảm giác mơ hồ buồn, có chút trống trải trong sự cảm nhận của con người.
Khung cảnh buổi chiều của mùa xuân được nhà thơ Nguyễn Du khắc họa với vẻ đẹp trầm lặng, chậm rãi nhưng mọi cảnh vật vẫn thơ mộng như vậy, hữu tình như vậy. Cảnh vật vẫn mang cái thanh, cái nhẹ của mùa xuân, ánh nắng nhạt nhòa, dòng suối nhỏ, nhịp cầu chênh vênh. Đặc biệt, trong bức tranh buổi chiều mùa xuân, Nguyễn Du đã rất khéo léo lồng tâm trạng, cảm xúc của con người vào bức tranh thiên nhiên, làm cho bức tranh thiên nhiên sinh động, chân thực hệt như cảm xúc của con người.
Như vậy, bằng sự cảm nhận tinh tế của tâm hồn thi sĩ, nghệ thuật miêu tả cảnh vật bậc thầy, Nguyễn Du đã tái hiện vô cùng chân thực, tự nhiên bức tranh ngày xuân với đầy đủ sắc thái, từ náo nức rộn rã đến cái nhẹ nhàng, chậm rãi của cảnh vật, từ cái tấp nập, háo hức đến vẻ trầm tĩnh, nao nao của cảm xúc con người. Ta có thể khẳng định, bức tranh ngày xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là bức tranh tươi đẹp, sống động nhất, nó thể hiện được tài năng miêu tả bậc thầy cũng như tâm hồn đầy tinh tế của nhà thơ Nguyễn Du.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 3
Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" là một tác phẩm hay, độc đáo, rất tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên của đại thi hào Nguyễn Du. Đoạn trích nằm ngay sau đoạn tả tài, tả sắc của chị em Thúy Kiều. Qua đoạn thơ, Nguyễn Du dựng lên bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh minh thật tươi sáng, sống động. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp bút pháp tả và gợi với những chi tiết mang tính ước lệ mà vẫn vô cùng chân thực, giàu tính chất tạo hình và biểu cảm, ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt để miêu tả khung cảnh ngày xuân.
Trước hết là bốn câu thơ đầu , với nghệ thuật chấm phá độc đáo tả ít gợi nhiều, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, giàu sức xuân:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu vừa có sức gợi về thời gian, lại vừa có sức gợi về không gian. Ngày xuân thấm thoát trôi qua thật nhanh như thoi đưa. Cả mùa xuân có chín mươi ngày thì nay đã qua tháng giêng, tháng hai và bước sang tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhẹ nhàng, trong veo, lan tỏa, trải dài khắp muôn nơi. Trên nền trời cao là những đàn chim én mùa xuân đang chao nghiêng bay lượn. Dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận chạy ra xa tít tắp. Động từ “tận” làm cho không gian mùa xuân như đang giãn nở, ngày càng mở rộng ra biên độ và bao trùm cả không gian xuân là một màu xanh biếc của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh tươi ấy là những bông hoa lê điểm vài sắc trắng gợi lên sự tinh khôi, mới mẻ. Biện pháp đảo ngữ có tác dụng tô đậm thêm và làm nổi bật hơn sức trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân. Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn nhưng dưới ngòi bút và cách miêu tả thần tình, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh xuân tinh khôi, trong trẻo, thanh khiết và giàu sức sống, mang đậm hơi thở của hồn xuân đất Việt.
Đến sáu câu thơ cuối, bằng nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình", Nguyễn Du đã miêu tả thời điểm kết thúc của ngày hội xuân thấm đượm hồn người một chút buồn xao xuyến. Đây vừa là tả thực, lại vừa nhuốm màu tâm trạng nhân vật trữ tình trong thơ.
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Cảnh vẫn mang cái dịu nhẹ, êm đềm của ngày xuân nhưng bóng dương đã “tà tà ngả về tây”. Cảnh vật như trở nên nhạt dần đều, cái khung cảnh rộn rã, náo nức, tưng bừng lúc sáng sớm ngày xuân đã phải nhường chỗ cho sự tĩnh lặng, yên ả. Không gian xuân co gọn lại theo ánh sáng của bầu trời hoàng hôn chứ không mở ra rộng lớn, mênh mông, vô tận như ở bốn câu thơ đầu. Tất cả đều thu nhỏ trong bước chân của người ra về. Phong cảnh thì "thanh thanh" nhẹ nhàng, dòng nước tiểu khê thì uốn quanh "nao nao" và chiếc cầu "nho nhỏ" thì "bắc ngang" cuối ghềnh. Cảnh thực đẹp, rất giàu chất thơ, chất họa, phảng phất một nỗi buồn lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng của lòng người. Đồng thời gieo vào lòng người đọc những linh cảm về một điều sắp sửa xảy ra, như là sự dự báo trước cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và sự gặp gỡ của hai con người trai tài gái sắc: Thúy Kiều – Kim Trọng. Tóm lại, với bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng hệ thống những từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã khắc họa bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân thấm đượm tâm trạng của con người nhân vật. Qua đó cho thấy được tài năng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và tâm trạng con người của Nguyễn Du.
Nếu như ở bốn câu thơ đầu, bức tranh thiên nhiên mùa xuân vào lúc sáng sớm hiện lên căng tràn, đầy nhựa sống, bao la, vô tận trong màu sắc xanh non, biếc rờn của cỏ cây thì đến sáu câu cuối, bức tranh xuân khép lại trong ánh sáng nhạt nhòa của ánh nắng chiều yếu ớt ngã về phía tây, co gọn lại thật nhỏ bé và nhuốm màu sắc tâm trạng con người. Cảnh chuyển rất tự nhiên và hợp lý.
Tóm lại, qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy được nghệ thuật miêu tả thiên nhiên rất độc đáo, giàu sức gợi của nhà thơ. Đó là một bức tranh mùa xuân giàu chất thơ, chất họa, rất sống động, nhịp nhàng.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 4
Trong nền văn học Việt Nam, "Truyện Kiều" được biết đến là một tác phẩm xứng tầm kiệt tác. Điều này được tạo nên bởi ngòi bút điêu luyện của đại thi hào Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn ngữ. Không chỉ được đánh giá cao ở mặt nội dung mà tác phẩm còn để lại nhiều dấu ấn trong lòng độc giả về mặt nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Nằm trong dòng chảy đó, trích đoạn "Cảnh ngày xuân" là một minh chứng tiêu biểu cho tài năng của tác giả trong việc miêu tả thiên nhiên.
Trước hết, tác giả đã miêu tả bức tranh thiên nhiên thông qua khung cảnh mùa xuân tươi đẹp và tràn trề sức sống:
"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Bút pháp miêu tả thiên nhiên dưới ngòi bút của nhà thơ lại hiện lên đậm chất tạo hình và hội họa với những hình ảnh, đường nét, màu sắc phối hợp tinh tế, nhẹ nhàng. Khung cảnh mùa xuân quen thuộc được miêu tả thông qua hình ảnh những cánh én sải cánh chao liệng trên bầu trời cao rộng, gợi lên bước đi không ngừng nghỉ của dòng thời gian. Ánh nắng mùa xuân được miêu tả qua cụm từ "thiều quang" gợi sắc màu tươi mới, dịu nhẹ, vừa ấm áp vừa rực rỡ của tiết trời xuân. Bức họa thiên nhiên tiếp tục được làm nổi bật bởi những gam màu mang đậm tính chất hội họa. Sắc xanh tươi của cỏ non trải dài đến tận cuối chân trời tạo nên một không gian bao la, rộng lớn ngút ngàn và khoáng đạt. Sự xuất hiện của một vài bông hoa lê điểm xuyết sắc trắng trong sự kết hợp giữa biện pháp đảo ngữ, sử dụng cách nói "trắng điểm" thay cho "điểm trắng" để làm nổi bật màu sắc tinh khôi, sáng trong cùng bút pháp chấm phá quen thuộc trong thơ ca trung đại đã gợi liên tưởng đến những câu thơ cổ trong nền văn học Trung Quốc:
"Phương thảo liên thiên bích
Lê chi sổ điểm hoa"
(Cỏ thơm liền với trời xanh
Trên cành lê có mấy bông hoa)
Nếu trong những câu thơ trên, người viết miêu tả hình ảnh "cỏ thơm" gợi hương vị thì tác giả Nguyễn Du lại sử dụng màu sắc "Cỏ xanh" với sự non tươi mơn mởn để gợi lên sức xuân và sắc xuân tràn trề, đồng thời tạo nên sự hài hòa trong vẻ đẹp vừa tươi mới, vừa tinh khôi.
Và rồi sự chuyển động của thời gian cũng khiến cho lễ hội kết thúc, đồng thời ánh "thiều quang" không còn và thay vào đó là không gian buồn bã của bóng tà dương trong buổi xế chiều:
"Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"
Khung cảnh thiên nhiên vẫn mang vẻ đẹp dịu nhẹ của mùa xuân thông qua hình ảnh "bóng tả về tây" gợi ánh nắng nhạt dần và mặt trời đang lặn xuống cùng những chi tiết về khe nước nhỏ - nơi mà con người bước đi cùng sự chậm rãi, "thơ thẩn" và dòng nước uốn quanh "nao nao" để gợi lên không gian bé nhỏ, thân thuộc khác với không gian rộng lớn, bát ngát ở khổ thơ đầu. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt từ láy giàu giá trị gợi hình, gợi cảm để miêu tả không gian tĩnh lặng trong tâm trạng buồn bã, bâng khuâng và tiếc nuối. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn thơ vô cùng đặc sắc thông qua việc tác giả đã sử dụng thành công hệ thống từ láy và bút pháp tả cảnh ngụ tình. Các từ láy thường được đảo lên đầu câu thơ để nhấn mạnh tâm trạng của con người - dụng ý của nhà thơ. Đặc biệt, qua cách sử dụng từ láy "nao nao", sắc thái của cảnh vật hiện lên qua vẻ đẹp lững lờ trôi xuôi của dòng nước trong bóng chiều tà; đồng thời đó còn là sự "nao nao" trong tâm trạng của con người. Đó là sự bâng khuâng, luyến tiếc, xao xuyến về một buổi du xuân trong cảm xúc của người con gái "đa sầu đa cảm" Thúy Kiều, đó còn là sự linh cảm về những điều sắp xảy ra - Kiều sẽ gặp nấm mộ Đạm Tiên, gặp Kim Trọng.
Như vậy, thông qua trích đoạn "Cảnh ngày xuân", chúng ta có thể thấy được tài năng của tác giả Nguyễn Du trong việc miêu tả thiên nhiên. Để phác họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp, sáng trong và bức tranh lặng lẽ buổi chiều tà, đại thi hào dân tộc đã lựa chọn những hình ảnh thơ đặc sắc và miêu tả trong sự hài hòa giữa màu sắc, đường nét và hình khối. Đặc biệt, tác giả đã vận dụng thành công bút pháp "tả cảnh ngụ tình" để làm nổi bật dòng tâm trạng của con người ẩn chứa sau cảnh vật, thể hiện sự thống nhất giữa "cảnh" và "tình" giống như ông đã từng khẳng định:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 5
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm ”Truyện Kiều” – kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. "Truyện Kiều” là một bài ca lớn về giá trị nhân đạo, một bản cáo trạng nghiêm khắc về cái ác, cái phản nhân bản, một tập đạo thành của nghệ thuật văn chương. Chỉ xét về bút pháp tả và gợi Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi. Điều này được thể hiện qua đoạn trích ”Cảnh ngày xuân” nằm ở phần I, ”Gặp gỡ và đính ước” của Thúy Kiều. Có thể nói đây là một đoạn trích thành công nhất trong nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du.
Bốn câu thơ đầu gợi lên khung cảnh mùa xuân với vẻ đẹp riêng: hữu tình, hữu sắc, hữu hương, lên thơ.
"Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”
Bằng bút pháp chấm phá kết hợp với gợi tả, hai câu thơ đầu vừa gợi không gian, vừa gợi thời gian. Nhưng không gian ấy không tĩnh mà rất sống động bởi hình ảnh ”con én đưa thoi”. Trước hết đây là một hình ảnh tả thực, trong tháng cuối cùng của mùa xuân, những cánh én vẫn rộn ràng chao đi chao lại giữa bầu trời trong sóng. Nhưng đồng thời nó còn là hình ảnh ẩn dụ, ngụ ý. Chỉ thời gian đang trôi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh. Mùa xuân có chín mươi ngày, mới đó thôi mà giờ đã sang tháng ba, gợi sự nuối tiếc trong lòng người. Sau đó hình ảnh ”con én đưa thoi” là thiều quang, thiều quang gợi lên cái mùa hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời. Đặc biệt bức họa tuyệt đẹp của mùa xuân là ở hai câu thơ:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Ở đây Nguyễn Du đã vận dụng một cách sáng tạo câu thơ cổ của Trung Quốc ”cỏ thơm liền với trời xanh – trên cành lê có mấy bông hoa”, thay vì dùng từ cỏ thơm Nguyễn Du đã dùng từ ”cỏ non” để tô đậm màu sắc – màu xanh của cỏ non trải rộng đến tận chân trời. Đó là gam màu nền của bức tranh xuân, trên thảm cỏ xanh ấy, điểm xuyết một vài bông hoa lê trắng. Từ ”trắng” được đảo lên trước gây ấn tượng mạnh, tuy chỉ là một vài chấm trắng nhỏ nhưng lại là điểm nhấn nổi bật tỏa sáng trên toàn cảnh. Như vậy, màu sắc có sức hài hòa đến tuyệt mĩ. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, giàu sức sống, khoáng đạt trong trẻo nhẹ nhàng, thanh khiết. Chữ ”điểm” làm cho bức tranh xuân thêm sống động, có hồn chứ không tĩnh tại.
Cảnh ngày xuân là bức tranh hoa lệ mà Nguyễn Du để lại cho đời, to điểm cho cuộc sống mỗi chúng ta, đồng thời nó cũng tương hợp với tâm trạng náo nức chung của chị em Thúy Kiều khi đi du xuân.
Tám câu thơ tiếp theo, tác giả gợi khung cảnh mùa xuân trong tiết thanh minh. Trong ngày thanh minh có hai hoạt động diễn ra cùng một lúc: lễ tảo mộ – đi viếng mộ sửa sang quét tước phần mộ của người thân, hội đạp thanh – dẫm lên cỏ non ở chốn đồng quê:
“Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”
Cảnh trẩy hội mùa xuân diễn ta tưng bừng náo nhiệt, trên các nẻo đường gần xa, những dòng người cuồn cuộn trẩy hội. Có biết bao yến anh trẩy hội trong niềm vui nô nức, bao tài tử, giai nhân dập dìu vai sánh vai nhịp bước.
“Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm”
Nguyễn Du tài tình khắc họa khung cảnh lễ hội mùa xuân bằng bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình, một loạt các từ láy, từ ghép và danh từ, động từ, tính từ xuất hiện. Các danh từ: ”chị em, yến anh, tài tử, giai nhân” diễn tả sự đông vui, nhiều người đến dự hội. Các động từ "sắm sửa, dập dìu” gợi tả sự rộn ràng náo nhiệt của ngày hội. Các tính từ “gần, xa, nô nức” làm rõ hơn tâm trạng của người đi dự hội. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng cách nói ẩn dụ ”yến anh”, hoán dụ ”ngựa xe, áo quần”. Tất cả đều làm sống dậy không khí lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt diễn ra trên mọi miền đất nước, trẻ trung và xinh đẹp, trang trọng và phong lưu. Ai đã từng đi hội Chùa Hương, hội Lim, hội Yên Tử mới thấy hết được cái hay, cái đẹp, cái vui, cái tưng bừng tươi trẻ trong hội đạp thanh mà Nguyễn Du từng nói tới.
Đồng thời qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều tác giả khắc họa một nét đẹp truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa: Tết thanh minh người ta sắm sửa lễ vật để đi tảo mộ, sắm sửa quần áo mới vui hội đạp thanh mọi người rắc những con thoi vàng vó, đốt giấy tiền vàng để tưởng nhớ người đã khuất.
“Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay”
Cuộc vui nào rồi cũng đến hồi kết thúc, sáu câu thơ cuối bài là cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về, cảnh đẹp nhưng thoáng buồn vì nhuốm màu tâm trạng của con người.
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”
Cảnh vẫn mang cái thanh dịu của mùa xuân. Ánh nắng nhạt, khe nước nhỏ một dịp cầu nho nhỏ bắc ngang, ta thấy mọi chuyển động đều nhẹ nhàng, mặt trời từ từ ngả bóng về Tây, bước chân người thơ thẩn, tuy nhiên cái không khí rộn ràng, náo nhiệt của lễ hội không còn nữa tất cả đang nhạt dần, lặng dần.
Cảnh mùa xuân trong sáu câu thơ cuối và bốn câu thơ đầu bên cạnh những nét giống nhau còn có nét khác biệt bởi không gian và thời gian đã thay đổi nhưng điều quan trọng hơn cả là cảnh đã được nhìn qua tâm trạng của con người. Ngày tàn sao chẳng buồn, hội tàn sao chẳng buồn? Một loạt từ láy tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao trong câu thơ “Nao nao dòng nước uốn quanh” cho thấy cảnh đã được nhân hóa một cách tự nhiên, cảnh nhuốm màu tâm trạng con người. Có thể nói sáu câu thơ cuối bài thơ là bức họa chiều xuân đẹp được nhìn qua tâm trạng con người, Nguyễn Du đã viết ”tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”.
Nói tóm lại bằng những từ ngữ, bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình qua đoạn trích ”Cảnh ngày xuân” Nguyễn Du đã gợi lên tư tưởng của người đọc một bức tranh thiên nhiên, cảnh lễ hội xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống cũng là một đoạn thơ miêu tả cảnh thiên nhiên thành công nhất của ông. Ông không những là một nhà thơ lỗi lạc của dân tộc mà còn là một nhà họa sĩ ngôn từ tài tình. Qua đây chúng ta hãy biết cách yêu quý thiên nhiên và giữ gìn phát huy những nét đẹp truyền thống của dân tộc "Uống nước nhớ nguồn”.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 6
Trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du, người ta có thể nhận thấy sự khéo léo của ông trong việc sử dụng công nghệ thuật miêu tả để tạo ra những bức tranh thiên nhiên phong phú, phản ánh đầy đủ bốn mùa với sự gợi cảm và trữ tình.
Một trong những lần nổi bật nhất là khi Nguyễn Du vẽ lên bức tranh thơ bất tử về mùa xuân, nơi mà màu xanh tươi tắn của cỏ non hòa quyện với nét thanh nhã của sắc trắng hoa lê. Trên bức tranh nền xuân êm đềm và mênh mông, những trang giai nhân tuyệt sắc xuất hiện, tạo nên một hình ảnh tinh tế. Giai nhân, tài tử, mùa xuân và tình yêu đôi lứa nảy nở, đưa đến cái đẹp cho cuộc sống và làm phát triển cảm xúc thẩm mỹ của người yêu thơ Việt Nam qua đoạn trích "Cảnh ngày xuân".
Xuân đã đến trong tháng ba, tiết thanh minh, cánh én rộn ràng trong nắng ấm. Bức tranh mùa xuân tuyệt vời được tạo nên thông qua sự kết hợp tuyệt vời giữa thảm cỏ xanh non vươn ra tận chân trời. Trên nền xanh mênh mông đó, những cánh hoa lê trắng thanh nhã nở rộ. Màu sắc tinh khôi, trong trẻo, đầy sức sống và gợi cảm, là nét đặc trưng của mùa xuân, làm cho bức tranh xuân đẹp đến mê hồn.
Tiếp theo là tám dòng tiếp theo mô tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Nét văn hóa tảo mộ độc đáo và giàu truyền thống trở thành một phần của tâm hồn con người.
Hội Đạp thanh hiện lên với nét thanh tao và gần gũi. Không gì tuyệt vời hơn là dạo chơi trên cánh đồng quê khi cỏ non vươn dậy sau những cơn mưa xuân. Mùi hương trầm từ những ngôi mộ kết hợp vào tâm hồn người du xuân, tạo nên một không khí thiêng liêng khó tả.
Đoạn thơ giữ giá trị biểu cảm cao thông qua các danh từ như yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, tất cả đều "nô nức" sắm sửa, dập dìu đến phó hội. Các động từ, danh từ và tính từ được sử dụng một cách phong phú, với từ láy nô nức, gần xa, và hình ảnh "nô nức yến anh", đều tạo ra một không khí sôi động của ngày xuân và tâm trạng phơi phới của người chơi xuân.
Điểm trên khung cảnh đó là những thoi vàng với tro tiền giấy bay, làm cho khung cảnh trở nên sâu lắng hơn. Điều này làm nổi bật nét đẹp văn hóa truyền thống và tính nhân văn trong tiết Thanh minh.
Sáu câu cuối cùng miêu tả cảnh chị em Kiều trở về nhà. Cảnh hiện ra lúc chiều tàn, không còn nhộn nhịp nhưng trở nên lặng lẽ và buồn bã.
Các từ láy như "tà tà, thanh thanh, nao nao" biểu hiện sắc thái cảnh vật và tâm trạng con người cũng "nao nao" như dòng nước. Phép nhân hoá độc đáo khiến cho cảnh vật có vẻ như có tâm trạng.
Mặc dù cảm giác vui tươi của mùa xuân vẫn còn lâng lâng, tác giả đã châm biếm một thoáng buồn qua hình ảnh "Nao nao dòng nước" và ngọn "tiểu khê" thanh thanh, lành lạnh như tiên cảm cho một điều gì đó không lành, dự báo một sự thay đổi khôn lường.
Với mười tám dòng thơ, tác giả đã tạo ra một bức tranh mùa xuân thanh nhã, với những chi tiết tuyệt vời và nhuốm đầy tâm trạng con người, kết hợp giữa sự chấm phá tuyệt vời và niềm đau tiềm ẩn.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 7
Nguyễn Du, vị đại thi hào của dân tộc, đã ghi dấu tên mình trong lịch sử văn hóa thế giới với tác phẩm "Truyện Kiều," kiệt tác vô song của văn học trung đại Việt Nam. "Truyện Kiều" không chỉ là một tác phẩm văn học, mà còn là một bức tranh to lớn về giá trị nhân đạo, một bản cáo trạng nghiêm túc về cái ác và cái phản nhân bản, cũng như là một tập đạo thành của nghệ thuật văn chương.
Nếu xét về bút pháp miêu tả và gợi, Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi, nhất là trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân" thuộc phần I, "Gặp gỡ và đính ước" của Thúy Kiều. Bằng cách sử dụng chấm pháp và miêu tả, ông đã vẽ lên khung cảnh mùa xuân với sự hữu tình, hữu sắc, và hữu hương, tất cả được thể hiện qua bốn câu thơ đầu:
"Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi."
Các câu thơ đầu tiên không chỉ gợi lên không khí mùa xuân mà còn mang đến sự sống động thông qua hình ảnh "con én đưa thoi." Hình ảnh này không chỉ là tả thực, mà còn chứa đựng ý nghĩa ẩn dụ về sự trôi chảy của thời gian và mùa xuân đang qua đi nhanh chóng. Thiều quang làm nổi bật sự hồng nhan của mùa xuân, tạo ra bức tranh phong phú với sự ấm áp của ánh nắng xuân và sự rộn ràng của đất trời.
Bức họa tuyệt vời nhất của mùa xuân xuất hiện ở hai câu thơ tiếp theo:
"Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa."
Nguyễn Du sử dụng một cách sáng tạo câu thơ cổ Trung Quốc, thể hiện màu xanh của cỏ non trải dài đến chân trời. Sự lựa chọn từ "cỏ non" thay vì "cỏ thơm" tô điểm màu sắc mùa xuân, với hình ảnh nhẹ nhàng, trong trẻo, và thanh khiết. Việc sử dụng từ "điểm" làm nổi bật những bông hoa lê trắng nhỏ, tạo ra điểm nhấn trên bức tranh và tăng cường vẻ đẹp của mùa xuân.
Những câu thơ tiếp theo gợi mở khung cảnh lễ hội mùa xuân trong tiết thanh minh:
"Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh."
Nguyễn Du mô tả hình ảnh của lễ hội mùa xuân thông qua nhiều từ láy, từ ghép và danh từ, động từ, tính từ, tạo ra một bức tranh đầy đủ về sự náo nhiệt, đông đúc và phấn khích của lễ hội. Ông sử dụng những từ như "chị em, yến anh, tài tử, giai nhân" để diễn đạt sự đa dạng và nhiều người tham gia. Các động từ "sắm sửa, dập dìu" mô tả sự hồi hộp và náo nhiệt trong ngày lễ hội. Bằng cách này, Nguyễn Du mô tả không chỉ cảnh đẹp mà còn tâm trạng và sự sôi động của ngày xuân.
Cuộc vui của lễ hội cũng được miêu tả thông qua hình ảnh:
"Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm."
Từ láy như "nô nức, sắm sửa, dập dìu" tạo nên không khí sôi động, vui tươi của ngày xuân và hình ảnh của những người tham gia lễ hội. Bằng cách sử dụng từ ngữ như "gần xa," Nguyễn Du làm nổi bật sự đồng lòng và phô trương của những người tham gia. Hình ảnh "ngựa xe như nước, áo quần như nêm" mô tả sự trang trí phô trương và đội mũ, áo cưới của tài tử và giai nhân.
Cuối cùng, Nguyễn Du miêu tả cảnh chị em Thúy Kiều du xuân trở về, với tâm trạng thoáng buồn và hình ảnh trầm lặng của cuộc sống sau những ngày hội:
"Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang."
Nguyễn Du vẫn giữ được nét thanh nhã của mùa xuân trong cảnh vật, với ánh nắng nhạt và khe nước nhỏ. Hình ảnh "dòng nước uốn quanh" thể hiện sự nhẹ nhàng của mùa xuân và tâm trạng của con người. Tuy nhiên, sự lặng lẽ và buồn bã của cuộc sống sau lễ hội được thể hiện qua "tà tà bóng ngả về tây" và "chị em thơ thẩn dang tay ra về." Mặc dù cảnh vật vẫn là của mùa xuân, nhưng tâm trạng của nhân vật đã thay đổi, tạo ra một bức tranh có sự phức tạp và sâu sắc hơn.
Tổng cộng, qua đoạn trích "Cảnh ngày xuân," Nguyễn Du không chỉ miêu tả cảnh thiên nhiên mùa xuân một cách tinh tế mà còn chạm vào tâm trạng và tâm hồn con người trước vẻ đẹp của lễ hội và mùa xuân. Bằng cách này, ông đã tạo ra một bức tranh phong phú, sống động, với những chi tiết tinh tế và phong cách văn chương tài tình. Điều này chứng minh sự khéo léo và tầm ảnh hưởng lâu dài của Nguyễn Du trong văn hóa Việt Nam.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 8
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du không chỉ là một kiệt tác của văn học Việt Nam mà còn là một tác phẩm độc đáo và thu hút độc giả trong và ngoài nước. Sự thành công của nó không chỉ đến từ khả năng phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội và giá trị nhân đạo mà còn xuất phát từ bút pháp nghệ thuật tài tình của Nguyễn Du. Trong đó, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên được coi là một điểm đặc sắc, và chúng ta sẽ tìm hiểu về điều này qua đoạn trích "Cảnh ngày xuân".
Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh mùa xuân sống động và tươi mới trong đoạn trích này. Bằng cách miêu tả con én như những chiếc "thoi", ông đã vẽ lên hình ảnh của sự chảy trôi nhanh chóng, tương tự như chiếc thoi vẽ những đường tơ mềm mại trên khung vải. "Thiều quang" rực rỡ như ánh sáng đỏ hồng của mùa xuân, làm tăng thêm sự ấm áp cho không khí. Đoạn thơ tiếp tục mô tả cảnh cỏ non xanh mướt mọc tận chân trời, cùng với bông hoa trắng của cây lê tinh khôi.
Nguyễn Du đã tận dụng hệ thống từ ngữ và hình ảnh để tạo nên bức tranh sinh động về mùa xuân. Ánh sáng nhẹ nhàng, đàn én chao nghiêng bay lượn, cỏ non mênh mông và hoa lê trắng tinh khôi, tất cả đều kết hợp để tạo nên một không khí rộn ràng và tràn ngập sức sống.
Những câu thơ cuối cùng chuyển đổi không khí từ sự rộn ràng sang một tâm trạng nhẹ nhàng buồn bã khi bóng tà của chiều buông xuống. Bức tranh chiều tà vẫn giữ được vẻ đẹp của mùa xuân, nhưng nó trở nên trầm lắng hơn, nhấn mạnh sự nhỏ bé và nhuốm màu tâm trạng của con người. Nguyễn Du sử dụng nghệ thuật miêu tả cảnh ngụ tình để làm nổi bật sự buồn bã và lưu luyến trong tâm hồn con người.
Đoạn thơ cuối cùng vẫn giữ được vẻ đẹp của mùa xuân trong chiều tà, nhưng giữa bức tranh yên bình có sự trống trải của nỗi buồn lưu luyến và bâng khuâng. Sự kết hợp tài tình giữa miêu tả thiên nhiên và cảm xúc con người làm cho bức tranh xuân trở nên đậm chất nghệ thuật và sâu sắc hơn.
Tóm lại, qua đoạn trích "Cảnh ngày xuân", Nguyễn Du không chỉ thể hiện sự tài năng về miêu tả thiên nhiên mà còn truyền đạt thành công cảm xúc và tâm trạng của con người. Bức tranh xuân trong tác phẩm này không chỉ là một hình ảnh đẹp mắt mà còn là một tác phẩm nghệ thuật sâu sắc, phản ánh tinh thần và nghệ thuật của đại thi hào.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 9
Đoạn văn miêu tả "Cảnh ngày xuân" của đại thi hào Nguyễn Du là một tác phẩm vô cùng xuất sắc và độc đáo, thể hiện sự tinh tế và tài năng miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên một cách rất đặc sắc. Đoạn trích nằm ngay sau phần miêu tả về tài sắc của chị em Thúy Kiều, và qua đó, Nguyễn Du đã xây dựng nên một bức tranh mùa xuân trong tiết Thanh Minh rất tươi sáng và sống động.
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả và gợi mô tả những chi tiết tinh tế, tạo ra một không gian mùa xuân vô cùng ấn tượng. Bốn câu thơ đầu tiên đã tạo ra một bức tranh với sự chấm phá độc đáo, nơi mà ngày xuân trôi qua như làn gió nhẹ nhàng của con én, cỏ non mọc um tùm đến chân trời, và cây lê trắng tinh khôi nở rộ. Thông qua những từ ngữ và hình ảnh này, Nguyễn Du đã thổi hồn vào bức tranh, khiến nó trở nên sống động và tràn ngập sức sống mùa xuân.
Những câu thơ tiếp theo mang đến hình ảnh một mùa xuân tràn đầy ánh sáng, với đàn én bay lượn trên bầu trời cao, và thềm cỏ xanh tươi mở ra vô tận. Sự kết hợp giữa ánh sáng nhẹ nhàng và cảm giác rộn ràng của mùa xuân đã được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế, làm cho người đọc cảm nhận được không khí tươi mới và tràn ngập niềm vui.
Tính ước lệ và chân thực của miêu tả còn được thể hiện qua cách Nguyễn Du mô tả những chi tiết nhỏ như bông hoa lê trắng trên nền cỏ xanh tươi. Bằng cách này, ông đã tạo ra một bức tranh mùa xuân không chỉ đẹp mắt mà còn truyền đạt được cảm xúc và tâm trạng của người viết.
Sáu câu thơ cuối cùng chuyển đổi không khí của bức tranh từ sự rộn ràng và tươi mới sang một tâm trạng nhẹ nhàng buồn bã. Ánh nắng chiều nhạt nhòa, cảnh vật co gọn lại và tất cả đều trở nên nhỏ bé, nhuốm màu tâm trạng con người. Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình" để miêu tả những khoảnh khắc cuối cùng của ngày hội xuân, khiến cho người đọc cảm nhận được sự buồn bã và sâu sắc của tâm hồn con người.
Tóm lại, thông qua bức tranh chi tiết và phong cách miêu tả độc đáo, Nguyễn Du đã tạo nên một tác phẩm vô cùng sâu sắc và tinh tế về vẻ đẹp của mùa xuân, đồng thời truyền đạt được nhiều tầng cảm xúc và tâm trạng của con người. Bức tranh xuân của ông không chỉ là một hiện thực mà còn là một tác phẩm nghệ thuật đầy sức sống và ý nghĩa.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 10
Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Truyện Kiều, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du thật sự xuất sắc, tạo nên một bức tranh mùa xuân sống động, tràn ngập sức sống và tình cảm. Nguyễn Du bắt đầu bức tranh của mình bằng việc miêu tả thời gian, sử dụng hình ảnh thơ mộng về sự trôi qua nhanh chóng của ngày xuân. “Ngày xuân thoắt ẩn thoắt hiện, Ngọt ngào như khúc, đắm say trôi”. Thời gian như một khúc nhạc êm đềm, đưa đến không gian của mùa xuân một sự huyền bí và tinh tế. Bằng cách này, Nguyễn Du đã khéo léo chọn từ ngôn ngữ để tạo nên một tâm trạng riêng, làm cho độc giả cảm nhận được nhịp nhàng, êm đềm của ngày xuân.
Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du tiếp tục mô tả không gian mùa xuân một cách sôi động và phong phú. “Trời sáng, gió nhẹ, nắng mơ màng. Bãi cỏ xanh rờn, thấp thoáng lúa non.” Bức tranh xuân xuất hiện trước mắt độc giả với vô vàn hình ảnh sống động: ánh nắng ban mai nhẹ nhàng, làn gió êm đềm, mặt trời nhấp nhô trong sự mơ màng, và bãi cỏ xanh rờn tỏa sáng dưới ánh nắng mặt trời. Tất cả những chi tiết này được kết hợp một cách khéo léo để tạo nên một không khí trong lành, tràn ngập hương thơm và sức sống của mùa xuân. Đặc biệt, bức tranh của Nguyễn Du không chỉ mô tả về thời gian và không gian mà còn chứa đựng nhiều hình ảnh chi tiết như "chút buồn non nước", "dáng người thôn nữ", "hoa lê xao xuyến". Bằng cách sử dụng những hình ảnh sinh động và tượng trưng, Nguyễn Du làm cho bức tranh trở nên sống động và giàu cảm xúc.
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Khung cảnh mùa xuân trong bài thơ của Nguyễn Du được tạo nên bởi hình ảnh đẹp đẽ và tươi mới, được diễn đạt một cách tinh tế và giàu sức sống. Nguyễn Du bắt đầu bức tranh của mình bằng hình ảnh "con én đưa thoi", biểu tượng của sự sống động và tinh tế của mùa xuân. Chim én, với đặc tính sinh học của nó, trở thành báo hiệu rõ ràng của mùa xuân khi bay lượn trên bầu trời cao. Tác giả khéo léo mô tả chúng như những con "thoi", tạo ra hình ảnh của sự chảy trôi nhanh chóng, như chiếc thoi vẽ những đường tơ mềm mại trên khung vải, tạo nên không gian sống động và phong cách. "Thiều quang" là một khía cạnh khác của mùa xuân được thể hiện qua ánh sáng đỏ hồng, rạng rỡ và ấm áp. Mô tả về ánh sáng xuân như một tác phẩm nghệ thuật, làm tăng thêm vẻ ấm áp cho không khí náo nức của những đàn chim én. Nguyễn Du sử dụng từ ngôn ngữ phong phú để mô tả sự rực rỡ của ánh sáng xuân, tạo nên một khung cảnh ấn tượng.
Bức tranh tiếp theo của Nguyễn Du là cỏ non mướt mắt, mênh mông và "xanh tận chân trời". Hình ảnh của cỏ non, với sự mở rộng không gian vô tận, tạo nên một cảm giác rộng lớn, tự do. Sự kết hợp giữa xanh mướt của cỏ và sắc trắng của hoa lê tạo nên một bức tranh màu sắc đa dạng và hài hòa. Cuối cùng, khi bóng chiều tà buông lỏng, Nguyễn Du vẫn giữ được sự tinh tế và tài hoa của mình. Mô tả về chiều tà xuân với sự giảm nhẹ của ánh sáng và không khí dần lặng lẽ, chúng ta cảm nhận được sự diệu kỳ và tâm huyết của tác giả trong việc tạo nên một bức tranh chiều tà xuân tuyệt vời.
“Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc qua”
Trong bức tranh "Cảnh ngày xuân" của Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên với sự tài tình và tinh tế, tạo nên một không gian mùa xuân sống động và đầy ắp cảm xúc. Bắt đầu với sự nổi bật của những cánh én chao liệng trên bầu trời, Nguyễn Du đã mô tả không khí ngày xuân như một bản nhạc, êm dịu và say đắm. Thời gian trôi qua nhanh chóng, nhưng bức tranh về ngày xuân vẫn giữ lại sự tươi mới và ngập tràn sinh lực. Bằng cách sử dụng những từ ngữ như "thoắt ẩn thoắt hiện", Nguyễn Du đã tạo nên một không gian thời gian huyền bí, kích thích sự tò mò và kỳ vọng của độc giả.
Nguyễn Du tiếp tục chi tiết hóa không gian xuân bằng cách mô tả bãi cỏ xanh rờn và lúa non thơm lừng. Bức tranh của ông không chỉ là về hình ảnh mà còn là về mùi hương và sắc thái. Bằng cách sử dụng từ láy "mơ màng" và "rờn", ông đã làm cho không gian trở nên mềm mại, nhẹ nhàng và phong cách. Cảnh cỏ xanh và lúa non trở nên sống động và đầy sức sống dưới bàn tay tài năng của Nguyễn Du. Qua sáng tạo nghệ thuật của mình, Nguyễn Du không chỉ mô tả không gian xuân một cách sinh động mà còn kết hợp cảm xúc con người vào bức tranh. Bức tranh buổi chiều xuân trở nên trầm lắng và thanh tĩnh, nhưng không mất đi vẻ đẹp tự nhiên của nó. Bằng cách sử dụng từ láy như "thanh thanh", "nao nao", và "nho nhỏ", Nguyễn Du đã lồng ghép tâm trạng buồn xao xuyến của con người vào cảnh vật, tạo ra một không gian lãng mạn và ẩn sau đó là một cảm xúc không tên.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 11
Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" trong tác phẩm "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du mang đến cho độc giả một hình ảnh rực rỡ và sống động về vẻ đẹp thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh minh. Tác giả đã sử dụng bút pháp tả và gợi với những chi tiết ước lệ, tinh tế để xây dựng bức tranh mùa xuân độc đáo và tràn ngập sinh khí. Nguyễn Du khéo léo mô tả bức tranh thiên nhiên bằng cách chấm phá và tận dụng từ ngôn ngữ sáng tạo của mình. Bốn câu thơ đầu tiên không chỉ tóm gọn mà còn gợi mở một không gian rộn ràng của mùa xuân. Bằng cách sử dụng mô phỏng và so sánh, ông đã tạo ra một bức tranh mô phỏng không khí tràn ngập sự mới mẻ của mùa xuân. Thông qua lời văn thanh thoát và trau chuốt, tác giả chuyển đạt vẻ đẹp của thiên nhiên trong tiết Thanh minh, khiến cho độc giả có thể hình dung rõ hình ảnh cây cỏ, hoa lá, và không khí tươi mới.
Bức tranh tiếp theo của Nguyễn Du xoay quanh hình ảnh lễ hội Thanh minh. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ phong phú, ông miêu tả không gian sôi động và tràn đầy năng lượng của những ngày lễ hội. Thông qua các chi tiết như tiếng hò reo, mùi hương thoang thoảng, và cảnh đám đông hân hoan, tác giả đã tạo ra một không khí phấn khích và hân hoan của mùa xuân. Câu thơ như là những bức tranh sống động, giúp người đọc có cảm giác đang được hòa mình vào không khí lễ hội đầy sôi động và vui tươi.
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu của Nguyễn Du không chỉ mô tả thời gian mà còn chứa đựng sức mạnh của không gian, tạo nên một bức tranh mùa xuân sống động và tinh tế. Thời gian chảy trôi như thoi đưa, nhanh chóng và thoắt ẩn thoắt hiện, đặt ra hình ảnh của ngày xuân thấm thoát trôi qua như gió nhẹ. Sự nhấn mạnh vào số ngày của mùa xuân, chín mươi ngày, mang lại sự hiểu biết về sự ngắn ngủi và quý báu của thời gian, tạo nên một ý thức về sự trân trọng mỗi khoảnh khắc. Nguyễn Du không chỉ miêu tả thời gian mà còn tạo nên một không gian tươi mới và rộn ràng của mùa xuân. Ánh sáng nhẹ nhàng và trong veo của ngày xuân được miêu tả một cách tinh tế, nó trải dài khắp mọi ngóc ngách, làm tỏa sáng cả không gian. Bức tranh bầu trời cao với đàn én chao nghiêng bay lượn gợi lên hình ảnh của một mùa xuân đầy sức sống, với âm thanh nhẹ nhàng của tiếng én hòa quyện trong không khí.
Dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận, mô tả không gian rộng lớn của mùa xuân. Sự sử dụng động từ "tận" khiến cho không gian mở rộng, lan tỏa khắp nơi. Cỏ xanh tươi mơn mởn chạy ra xa tít tắp, tạo nên một bức tranh mênh mông và vô tận của đất đai mùa xuân. Bông hoa lê trắng như điểm sáng trên thềm cỏ, tô điểm thêm cho không gian, đồng thời làm nổi bật sự tinh khôi và mới mẻ của mùa xuân. Đến sáu câu thơ cuối, Nguyễn Du kết thúc bức tranh mùa xuân bằng nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình". Ngày hội xuân trôi qua, buồn bã nhưng cũng đậm chất trữ tình. Thời điểm kết thúc ngày hội xuân được mô tả qua ánh hoàng hôn, dòng suối nhỏ và cầu bắc ngang. Tất cả những yếu tố này hòa quyện tạo nên một không khí trầm lắng, buồn bã, và làm tăng thêm vẻ đẹp và ý nghĩa của mùa xuân.
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Đoạn văn trình bày về cảnh chiều tà trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du là một tác phẩm tuyệt vời, chi tiết và phong phú, chứa đựng nhiều cảm xúc và ý nghĩa sâu sắc. Nguyễn Du đã tận dụng bút pháp tả và sử dụng từ ngôn ngữ sáng tạo để xây dựng bức tranh về cảnh vật chiều tà trong mùa xuân. Cảnh vật ban đầu rực rỡ, tươi mới của buổi sáng xuân đã dần dần trở nên nhạt nhòa và êm đềm khi bóng tà bắt đầu "tà tà ngả về tây". Sự chuyển đổi này không chỉ diễn ra ở cảnh vật mà còn lồng ghép tâm trạng lưu luyến và bâng khuâng của con người.
Tác giả cẩn thận chọn lọc các chi tiết mô tả để tạo nên một không gian tĩnh lặng, yên bình và có phần bi bôi. Cây cỏ, dòng nước tiểu khê, và chiếc cầu "nho nhỏ" tất cả đều được miêu tả một cách tinh tế và giàu tính hình ảnh. Thông qua bức tranh này, Nguyễn Du truyền đạt một nỗi buồn lưu luyến về sự thoáng qua của thời gian, và sự thay đổi của mùa xuân cũng như cuộc sống. Bằng cách kết hợp tả cảnh và ngụ tình, tác giả đã đặt ra một dấu hiệu, một sự chuẩn bị cho sự kiện sắp xảy ra, có thể là cuộc gặp gỡ giữa Thúy Kiều và Kim Trọng. Ánh sáng nhạt nhòa của ánh chiều tà cũng nhưng con người, mọi thứ đều thu nhỏ và co gọn lại, tạo nên một không gian yên ả, phù hợp với tâm trạng của nhân vật.
Cuối cùng, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và tâm trạng con người của Nguyễn Du trong đoạn này được thể hiện một cách sâu sắc và tinh tế. Bức tranh về chiều tà mùa xuân không chỉ đẹp mắt mà còn là một cách để tác giả truyền đạt những tâm tư và tình cảm sâu sắc của nhân vật, làm cho độc giả cảm nhận được hết vẻ đẹp và ý nghĩa của những khoảnh khắc này.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều