Dàn ý Người anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ) (hay, ngắn gọn)



Dàn ý Người anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ) trong hồi thứ 14 tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn hay hơn.

Bài giảng: Hoàng Lê nhất thống chí - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Dàn ý Người anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ) - mẫu 1

Giới thiệu tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ 14, là tác phẩm có giá trị văn học sử học sâu sắc

- Dẫn dắt vấn đề: Hình tượng Quang Trung Nguyễn Huệ oai phong, trí dũng đích thân cầm quân thần tốc tiến ra Bắc dẹp tan quân giặc Thanh.

Hoàn cảnh lịch sử bấy giờ: Các tập đoàn phong kiến sa đọa, thối nát cực độ. Sự tranh giành quyền lực diễn ra quyết liệt, dữ dội

    + Vua Lê Chiêu Thống hèn hạ cầu cứu quân Mãn Thanh. Nguyễn Huệ biết tin, vô cùng nổi giận, lên ngôi và tiến quân ra bắc dẹp giặc

- Vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ

    + Là người hành động dứt khoát, mạnh mẽ

    + Nghe tin giặc đến chiếm thành Thăng Long, ông không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”

    + Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ làm được nhiều việc lớn: lên ngôi, tuyển quân, dẫn binh...

- Có trí tuệ nhanh nhạy, sáng suốt

Khi quân Thanh hùng hổ kéo quân vào nước ta, thế giặc đan mạnh, tình thế khẩn cấp, vận mệnh đất nước “ngàn cân treo sợi tóc” Nguyện Huệ đã quyết định lên ngôi hoàng đế để chính danh vị, lấy niên hiệu là Quang Trung, ra lời hiệu dụ động viên khích lệ tướng sĩ...

    + Ý chí quyết chiến quyết thắng, tầm nhìn xa trông rộng

    + Tài dùng binh như thần, tài thao lược hơn người

- Nhận định được sức mạnh, điểm yếu của quân ta, biết cách dùng người...

    + Lẫm liệt trong chiến đấu

Cưỡi voi xông vào trận chiến chỉ đạo quân binh, nổi bật hình ảnh oai phong lẫm liệt với tư thế làm chủ trận chiến....

- Thái độ của tác giả đối với nhân vật:

Mặc dù mang tư tưởng chính thống, trung thành với nhà Lê, nhưng với thái độ tôn trọng lịch sử và ý thức dân tộc cao nên nhóm tác giả Ngô gia văn phái làm nên những trang viết chân thực, sinh động về người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Thể hiện nhân vật dưới góc nhìn khách quan của người viết sử để làm nổi bật hình ảnh con người có tâm, có tầm, trí tuệ sáng suốt ,biết nhìn xa trông rộng

    + Nhân vật được khắc họa chủ yếu qua lời nói và hành động, từ cách nói chuyện với kẻ bề dưới cho thấy được tấm lòng muốn chiêu mộ người tài, và quyết tâm đồng lòng cùng tướng sĩ giệt giặc bảo vệ đất nước.

Nguyễn Huệ là tượng đài bất hủ tiêu biểu cho vẻ đẹp quật cường của dân tộc và tinh thần tự chủ của nước ta, điều này tạo cảm hứng cho nhóm tác giả Ngô Thì ghi lại những trang văn sử bất hủ.

Dàn ý Người anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ) - mẫu 2

1, Mở bài:

Giới thiệu đoạn trích và nhân vật:

    - Đoạn trích: là hồi thứ 14 của cuốn tiểu thuyết chương hồi “Hoàng Lê nhất thống chí”; miêu tả chiến thắng của quân đội Quang Trung trước nhà Thanh và tàn quân Lê Chiêu Thống.

    - Nhân vật Quang Trung: được miêu tả chân thực, khách quan với nhiều phẩm chất anh hùng.

2, Thân bài:

a, Hình ảnh Quang Trung trước khi tiến quân vào Thăng Long:

    - Một lòng yêu nước, lo lắng cho dân: khi nghe tin giặc kéo vào Thăng Long đã rất tức giận, chỉ muốn ngay lập tức tiến đánh, nhưng không cả giận mất khôn, không hấp tấp mà tính toán việc chu đáo:

    + Ông quyết định lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung: nếu không lên ngôi, việc tiến quân ra Bắc sẽ không danh chính ngôn thuận là đưa quân đánh kẻ xâm lược và bè lũ bán nước Lê Chiêu Thống, mà chỉ như một đội quân phản vua Lê; đó là việc “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, nhận được sự ủng hộ của nhân dân.

    - Có phẩm chất cùng lí tưởng cao cả, chiêu mộ binh sĩ bằng sự chân thành:

    + Ông chỉ ra rõ quân địch ở trước mắt: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”, ấy là lũ giặc phương Bắc, không cùng dòng máu, chỉ tới để xâm lược cướp bóc, không phải để bảo vệ triều đại của vua Lê.

    + Đưa ra lời chiêu mộ binh sĩ vừa chân thành, đề cao tinh thần yêu nước, vừa nghiêm khắc, thể hiện khả năng và uy quyền của mình: đưa ra những tấm gương yêu nước, chiến đấu chống giặc không ngại hi sinh thân mình; cảnh cáo việc “ăn ở hai lòng” sẽ bị trừng phạt.

    - Trí tuệ, sáng suốt, tỉnh táo:

    + Sáng suốt trong phân tích tình hình, trong việc dùng người: không trách hai tướng Sở và Lân vì rút quân bỏ thành, còn ngợi khen họ vì biết nhìn nhận tình hình ta yếu địch mạnh; đánh giá cao Ngô Thì Nhậm, sử dụng tài trí của ông để dẹp giặc mà không mất nhiều binh đao.

    - Là người mưu lược, có tài năng quân sự, nhìn xa trông rộng:

    + Ông quyết định tiến công dẹp giặc Thanh phải thần tốc: từ lúc xuất phát cho tới khi đuổi được giặc là 10 ngày; không chờ qua tết mà tiến công luôn, mở tiệc khao quân vào 30 tháng chạp cổ vũ tinh thần binh sĩ, nói chắc rằng chiếm lại được thành sẽ ăn tết sau.

    + Liệu trước mọi việc: bàn trước với Ngô Thị Nhậm về quyết sách ngoại giao mềm mỏng với nhà Thanh, vì e ngại nước lớn thua trận sẽ thù hằn, tiếp tục động binh đao.

    + Quan quân trên dưới một lòng, nghiêm chỉnh, kỉ cương trái ngược hoàn toàn sự vô phép tắc, thiếu tôn ti trật tự của quân đội nhà Thanh và tàn quân nhà Lê: càng thể hiện tài lãnh đạo của Quang Trung.

b, Hình ảnh Quang Trung trong những trận chiến với quân xâm lược, bán nước:

    - Tài cầm binh của Quang Trung và sức mạnh của quân đội Tây Sơn đã được ca ngợi là “tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên”.

    - Ông lãnh đạo tài tình: đánh trận nào thắng trận ấy, cưỡi voi xông lên trước lấy tinh thần cho binh sĩ ⇒ oai phong lẫm liệt.

    + Đánh ở sông Gián, sông Thanh Quyết: quân giặc bỏ chạy, bị bắt sống.

    + Đánh trận Hà Hồi: không tốn sức cũng chiếm được đồn.

    + Đánh trận Ngọc Hồi: ông cho quân lấy ván ghép phủ rơm đã tẩm ướt nước để tránh được hỏa công của địch; đội quân của ông hầu hết là nông dân không quen trận mạc, họ chiến đấu với tinh thần quả cảm, hi sinh vì đất nước “ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau nhất tề xông tới”

⇒ Chính vị tướng “anh hùng áo vải” Quang Trung vừa mộc mạc, giản dị, vừa kiên cường, mưu lược ấy đã cổ vũ tinh thần chiến đấu của binh sĩ, đã giành chiến thắng nhờ biết đoàn kết nhân dân, biết bài binh bố trận.

c, Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

    - Sử dụng những tính từ, động từ thể hiện sự quyết đoán, mưu lược.

    - Giọng miêu tả và kể chuyện dù mang tính khách quan nhưng vẫn không giấu được lòng khâm phục của tác giả đối với Quang Trung

⇒ Xây dựng một hình ảnh Quang Trung vừa chân thực qua cuộc hành quân và đánh giặc, vừa được thần thánh hóa như một vị tướng nhà trời qua những hình ảnh cưỡi voi thúc giục, áo bào đỏ nhuốm màu đen của thuốc súng, qua lời kể của cung nữ.

3, Kết bài:

    - Qua đoạn trích ta thấy nhân vật Quang Trung: anh hùng, có tài mưu lược, tài dùng người, có tình yêu nước, ý chí kiên cường, là một vị vua sáng suốt.

    - Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi: sử dụng ngôn ngữ kể và tả sống động, thể hiện sự cảm phục của tác giả.

Dàn ý Người anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ) - mẫu 3

I. Mở bài :

- “Hoàng Lê nhất thống chí” là một cuốn tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hán được viết theo thể chương hồi do nhiều tác giả trong Ngô Gia Văn Phái (Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du…) sáng tác. Đây là một bức tranh sâu rộng vừa phản ánh được sự thối nát, suy tàn của triều đình Lê Trịnh, vừa phản ánh được sự phát triển của phong trào Tây Sơn.

- Trong hồi thứ 14 của tác phẩm, hình tượng người anh hùng Quang Trung hiện lên thật cao đẹp với khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người.

II. Thân bài:

1. Trước hết Quang Trung là một con người hành động mạnh mẽ quyết đoán:

- Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn có chủ đích và rất quả quyết.

- Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long mất cả một vùng đất đai rộng lớn mà ông không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”.

- Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế, dốc xuất đại binh ra Bắc…

2. Đó là một con người có trí tuệ sáng suốt và nhạy bén:

* Ngay khi mấy chục vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị hùng hổ kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế khẩn cấp, vận mệnh đất nước “ngàn cân treo sợi tóc”, Nguyễn Huệ đã quyết định lên ngôi hoàng đế để chính danh vị, lấy niên hiệu là Quang Trung.

Việc lên ngôi đã được tính kỹ với mục đích thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn là “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, được dân ủng hộ.

* Sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch và ta:

- Qua lời dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An, Quang Trung đã chỉ rõ “đất nào sao ấy” người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác”. Ông còn vạch rõ tội ác của chúng đối với nhân dân ta: “Từ đời nhà hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”.

- Quang Trung đã khích lệ tướng sĩ dưới quyền bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập của cha ông ta từ ngàn xưa như: Trưng nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành…

- Quang Trung đã dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người Phù Lê “thay lòng đổi dạ” với mình nên ông đã có lời dụ với quân lính chí tình, vừa nghiêm khắc: “các người đều là những người có lương tri, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.

* Sáng suốt trong việc sét đoán bê bối:

- Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với Sở và Lân ta thấy rõ: Ông rất hiểu việc rút quân của hai vị tướng giỏi này. Đúng ra thì “quân thua chém tướng” nhưng không hiểu lòng họ, sức mình ít không địch nổi đội quân hùng tướng hổ nhà Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Vậy Sở và Lân không bị trừng phạt mà còn được ngợi khen.

- Đối với Ngô Thì Nhậm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sĩ “đa mưu túc trí” việc Sở và Lân rút chạy Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao.

3. Quang Trung là người có tầm nhìn xa trông rộng:

- Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”.

- Đang ngồi trên lưng ngựa, Quang Trung đã nói với Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 tới ta hoà bình. Đối với địch, thường thì biết là thắng việc binh đao không thể dứt ngay được vì xỉ nhục của nước lớn còn đó. Nếu “chờ 10 năm nữa ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh thì ta có sợ gì chúng”.

4. Quang Trung là vị tướng có tài thao lược hơn người:

- Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung hoạch định kế hoạch từ 25 tháng chạp đến mùng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tiết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức 2 ngày.

- Hành quân xa, liên tục như vậy nhưng đội quân vẫn chỉnh tề cũng là do tài tổ chức của người cầm quân.

5. Hình ảnh vị vua lẫm liệt trong chiến trận:

- Vua Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông làm tổng chỉ huy chiến dịch thực sự.

- Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy này, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù.

- Khí thế đội quân làm cho kẻ thù khiếp vía và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc hoạ lẫm liệt: trong cảnh “khói tỏ mù trời, cách gang tấc không thấy gì” nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc” với tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.

- Hình ảnh người anh hùng được khắc hoạ khá đậm nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần; là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại.

III. Kết bài

Với ý thức tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc, những người trí thức – các tác giả Ngô Gia Văn Phái là những cựu thần chịu ơn sâu, nghĩa nặng của nhà Lê, nhưng họ đã không thể bỏ qua sự thực là ông vua nhà Lê yếu hèn đã cõng rắn cắn gà nhà và chiến công lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn, làm nổi bật hình ảnh vua Quang Trung – người anh hùng áo vải, niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Bởi thế họ đã viết thực và hay đến như vậy về người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ.

Dàn ý Người anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ) - mẫu 4

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí và đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh

- Nêu đánh giá, cảm nhận chung về nhân vật vua Quang Trung trong đoạn trích.

2. Thân bài

a) Cảm nhận về vẻ đẹp của vua Quang Trung

- Là một người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:

+ Nhận định đúng tình hình địch ta, xác định rõ thời cơ và mục tiêu của cuộc chiến

+ Sử dụng kế sách linh hoạt, sáng tạo

- Là một người có ý chí quyết tâm cao độ, lòng yêu nước nồng nàn:

+ Quyết tâm đánh đuổi quân Thanh, giành lại độc lập cho dân tộc

+ Không quản ngại gian lao, khó khăn

- Là một người có tài thao lược quân sự xuất sắc:

+ Cuộc hành quân thần tốc, bất ngờ

+ Lập kế hoạch tác chiến chặt chẽ, hợp lý

+ Từng bước đánh bại quân Thanh, giành thắng lợi vẻ vang

b) Cảm hứng của tác giả đối với nhân vật vua Quang Trung

- Tác giả Ngô gia văn phái đã dành nhiều lời ca ngợi, tôn vinh vua Quang Trung

- Điều đó thể hiện tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc của tác giả

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị, ý nghĩa, vẻ đẹp của nhân vật vua Quang Trung.

Cảm nhận vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ) - mẫu 1

        “Giặc đau tàn bạo sang điên cuồng

        Quân vua một trận oai bốn phương

        Thần tốc ruổi dài xông thẳng tới

        Như trên trời xuống ai dám đương”

(Ngô Ngọc Dụ)

    Vua Quang Trung, vị anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Vẻ đẹp uy nghi, trí tuệ của vua Quang Trung đã được phản ánh đầy đủ, trọn vẹn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14.

    Hồi thứ thứ 14 kể về lần thứ ba ra Bắc Hà của Nguyễn Huệ. Ông đã tạo nên chiến công kì tích nhất trong lịch sử Việt Nam, với tốc độ tiến công thần tốc, chỉ trong 10 ngày ông đã tiêu diệt gọn quân Thanh, lấy lại nền độc lập cho đất nước. Chỉ trong đoạn trích ngắn này, nhưng vẻ đẹp khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người đã được biểu lộ rõ nét nhất.

    Đọc Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14, ấn tượng đầu tiên của người đọc đối với vị anh hùng này chính là ở trí tuệ sáng suốt và vô cùng mạnh mẽ, quyết đoán. Ngay khi 20 vạn quân Thanh tràn vào đất Bắc, chiếm giữ kinh thành Thăng Long bấy giờ Nguyễn Huệ mới là Bắc Bình Vương và ở Phú Xuân. Nhận được tin cấp báo, lòng yêu nước trào dâng ông đã định cầm quân đi ngay. Song trước sự khuyên ngăn, suy nghĩ kĩ lương, Nguyễn Huệ quyết định lên ngôi, để danh chính ngôn thuận cầm quân ra Bắc. Ngay sau khi lên ngôi Nguyễn Huệ - niên hiệu là Quang Trung đã ra lệnh xuất quân ngay. Không chỉ vậy, để giành được chiến thắng với kẻ địch mạnh, đòi hỏi phải có một trí tuệ sáng suốt. Quang Trung đã rất mưu lược, sáng suốt khi nhận định tương quan tình hình hai bên, ra lời hịch vừa để khích lệ binh tướng, vừa để răn đe, cảnh tỉnh với những kẻ hai lòng. Ông vô cùng sáng suốt khi nhận rõ bản chất của kẻ định, và khơi dậy lòng yêu nước ở những người chiến sĩ. Trước những lời lẽ đanh thép, sắc sảo của ông tướng sĩ trên dưới một lòng đều nhất nhất tuân lệnh: “xin vâng lệnh không dám hai lòng”.

    Không chỉ vậy, sự mưu lược của ông còn được thể hiện trong cách nhận xét về thế mạnh và cái yếu của bề tôi. Ông hiểu năng lực của Sở và Lân, họ chỉ là “hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến việc tùy cơ ứng biến là không có tài”. Bởi vậy ông không trách cứ, xử tội họ. Ông cử Ngô Thì Nhậm – người có tài mưu lược để bên cạnh mà hỗ trợ hai vị tướng. Cách hiểu người, dùng người đúng đắn, trách người đúng tội đúng việc làm cho quân tướng ai nấy đều hài lòng và khâm phục. Nhờ có sự am hiểu như vậy, đã giúp ông thu phục nhâm tâm của mọi người.

    Và cuối cùng sự sáng suốt của ông còn thể hiện trong tầm nhìn xa trông rộng. Ông nắm rõ tình hình, quân Thanh bành trướng đang đóng quân gần hết Bắc Hà, nhưng ông cùng vô cùng tự tin chỉ trong mười ngày sẽ đánh đuổi sạch bóng quân Thanh. Nhưng ông không chỉ lo nghĩ đến việc dẹp yên giặc, mà con nghĩ trước cách ứng xử với chúng sau khi chúng bị đánh đuổi về nước. Là một nước lớn, khi thua trận tất yếu sẽ sinh sự cay cú mà đem quân trả thù, bởi vậy ông đã cử Ngôi Thì Nhậm, dùng “khéo lời để dẹp yên binh đao”. Làm việc ấy cũng là để cho nhân dân nghỉ sức, ta có điều kiện trong vòng mười năm xây dựng đất nước, củng cố quân sự, lúc bấy giờ giặc Thanh có xâm lược ta cũng không còn phải ngần ngại gì nữa. Qua tất cả những sự việc đó, đã cho hậu thế thấy một con người tài trí sáng suốt, liệu việc như thần.

    Không chỉ dừng lại là một con người có tài trí sáng suốt, mà dưới ngòi bút của Ngô Gia Văn Phái, Quang Trung còn là một người có tài thao lược hơn người. Ngay sau khi hạ lệnh xuất quân ra Bắc, ông lập tức lên đường, vừa đi vừa tuyển quân, khiến cho binh lực mạnh lên không ngừng. Ông có cuộc hành quân thần tốc nhất trong lịch sử, làm cho ai cũng không khỏi kinh ngạc, từ Phú Xuân ra đến kinh thành Thăng Long ông chỉ đi mất có bốn ngày, trong khi đi còn tuyển quân, phương tiện di chuyển thô sơ chủ yếu đi bộ, phần còn lại đi ngựa. Chính tốc độ hành quân thần tốc ấy cũng là một yếu tố làm cho kẻ địch bất ngờ.

    Đồng thời ông lựa chọn thời cơ chính xác, chớp cơ hội tết nguyên đán giặc sơ hở, lo ăn chơi để đánh một trận tiến quân lớn, đập tan tất các các ngả quân của chúng. Ở mỗi trận đánh có có cách đánh hết sức linh hoạt, khiến cho kẻ thù choáng váng, tưởng “tướng ở trên trời rơi xuống, quân ở dưới đất chui lên”. Và chính điều đó đã dấn đến thắng lợi tất yếu của quân ta và sự thất bại thảm hại của kẻ thug. Quang Trung cùng với các tướng sĩ của mình đánh một mốc son chói lọi và hào hùng vào trang sử vẻ vang dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

    Đẹp đẽ nhất là khi vua Quang Trung chỉ huy đội quân tướng sĩ trên chiến trường, đó là vẻ đẹp của sự oai phong, lẫm liệt, khó ai có thể bì kịp. Vua Quang Trung thân chinh cầm một mũi tiến công, chỉ huy xông ra trận. Trong ánh sáng của buổi sớm, khói của súng đạn, vị anh hùng thân cưỡi voi, mình mặc áo bào lẫm liệt xông ra chiến đấu với kẻ thù. Một tạo hình uy nghĩ, lẫm liệt và vô cùng đẹp đẽ. Hình ảnh đó đã trở thành tượng đài bất hủ của dân tộc Việt Nam.

    Hoàng Lê nhất thống chí hồi thứ 14 đã tạc lên tượng người anh hùng Quang Trung – Nguyễn Huệ thành công xuất sắc. Ông là con người toàn tài, vị vua anh dũng, sáng suốt, đánh tan quân xâm lược, đem lại độc lập cho dân tộc. Vẻ đẹp trí tuệ của vua Quang Trung cũng chính là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp, khí phách của dân tộc Việt Nam.

Cảm nhận vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ) - mẫu 2

Quang Trung – Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự, một vị anh hùng dân tộc kiệt xuất. Hình ảnh vua Quang Trung tiêu biểu cho tinh thần quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 39 tuổi xuân, Quang Trung đã có 22 năm đánh Nam dẹp Bắc – tạo cơ sở cho quá trình thống nhất đất nước; đuổi Xiêm diệt Thanh – góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập nước nhà. Mỗi chiến công trong cuộc đời Quang Trung đánh dấu một mốc son trong lịch sử hào hùng của cả dân tộc.

Nói đến vua Quang Trung, trước hết nói đến một anh hùng với tính cách mạnh mẽ quyết đoán mỗi lần ông hành động. Nghe tin giặc đã kéo đến tận Thăng Long ông đã rất tức giận, đã họp các tướng sĩ, "định thân chinh cầm quân đi ngay". Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: "Tế cáo trời đất", "lên ngôi hoàng đế", "đốc suất đại binh'' ra Bắc, gặp gỡ "người cống sĩ ở huyện La Sơn", tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Là con người hành động liên tục, không ngừng làm việc, có tính cách xông xáo, mọi quyết định đều nhanh gọn và rất dứt khoát, xứng đáng là vị chủ tướng trên vạn quân.

Vua Quang Trung còn nổi tiếng là con người có trí tuệ sáng suốt, rất nhạy bén trong mọi trường hợp. Ông có một tầm nhìn xa trông rộng, mưu cao trí lược, hơn nữa cái nhìn khái quát ấy còn giúp ông định hình về tình thế và về thời cuộc ông lên ngôi với mục đích có thể " để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người". Vì vậy, ông đưa ra mọi quyết định đều cân nhắc trước hết, làm thế nào để yên bề tình hình, giúp cho mục đích cuối cùng. Ông phân tích tình hình quân địch, nhận định được thế lực hai bên để phán đoán trong từng bước đi của mình. Ông đưa vào trong bài hịch những tội ác của giặc, chúng đã gây nên tội ác với nhân dân ta, phá huỷ nhiều nếp nhà, khiến cho quân sĩ được khích lệ tinh thần, đồng thời ông cũng nhắc đến nhiều tên tuổi anh hùng bảo vệ dân tộc như: Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng…Ông dùng những lời lẽ mềm mỏng để thuyết phục những kẻ "mềm lòng" dễ thay lòng đổi dạ, lạt mềm buộc chặt, nhưng vẫn không mất cái uy. Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản các tướng lĩnh dưới trướng mình bởi vậy ông vẫn trách mắng để họ nhận ra khuyết điểm đồng thời tha cho họ. Việc làm của ông là hành động sáng suốt, giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.

Với Quang Trung, tư tưởng quyết chiến, quyết thắng, tầm nhìn xa, trông rộng rất quan trọng. Ông đã kiên quyết khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long, nói được làm được, đây chính là một trong những trận chiến anh hùng nhất trong suốt những năm tháng chống quân xâm lăng của dân tộc ta. Ông đã mềm mỏng dùng ngoại giao để giữ hoà bình và cuộc sống cho nhân dân. Trên chiến trường, ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, với nhiều kế binh hiểm hóc kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, lúc cần thì phòng thủ, luôn lợi dụng được điểm yếu của quân địch khiến kẻ địch không kịp trở tay. Tài dùng trận thì khỏi bàn cãi: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp tinh thần quân giặc, trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn xiêu phách lạc.

Đoạn trích Quang Trung đại phá quân Thanh đã xây dựng hình tượng vua Quang Trung với vẻ đẹp dũng mãnh, tài trí, có tài có đức, đại diện cho hình ảnh dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất. Với cá nhân em, hình tượng vua Quang Trung là một hình tượng vô cùng đáng ngưỡng mộ. Ông là một người anh hùng tiêu biểu cho lòng yêu nước, ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc của dân tộc ta. Ông là một tấm gương sáng cho thế hệ trẻ noi theo.

Cảm nhận vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ) - mẫu 3

Quang Trung là một trong những vị anh hùng vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Ông là người đã lãnh đạo nhân dân ta đánh bại quân xâm lược Thanh trong cuộc đại thắng mùa xuân năm 1789, lập nên chiến công vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Trong đoạn trích "Quang Trung đại phá quân Thanh" (hồi thứ 14 trong tác phẩm "Hoàng Lê nhất thống chí"), hình tượng vua Quang Trung được khắc họa với những phẩm chất, tài năng phi thường.

Trước hết, ta có thể thấy Quang Trung là một con người đầy quyết đoán. Mỗi việc làm của mình, nhà vua đều suy nghĩ rất thấu đáo, biết được mục đích cần phải làm và quyết tâm hành động để làm nên nó. Điều đó được chứng minh bằng các sự kiện cụ thể. Khi biết rằng giặc Thanh đang đánh chiếm thành Thăng Long - vị trí quân sự quan trọng của quân ta, ông không hề tỏ ra sợ hãi hay nao núng mà họp bàn các tướng lĩnh để đề ra những kế sách, sau đó đích thân cầm quân lên đường. Phải có lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí lớn thì vừa Quang Trung mới có hành động tức thời và quả quyết đến như vậy. Khi nghe những lời phải của các trọng thần, ông không hề do dự mà lập tức "đắp đàn trên núi Bân", làm lễ tố cáo trời đất và các thần sông núi, tạo ra áo mũ vừa mà lên ngôi hoàng đế. Quang Trung lên ngôi vua cũng là lúc nhận về mình trọng trách lớn lao với dân, với nước, vì vậy mà khi vừa lên ngôi, sau khi lễ xong liến cấp tốc xuất quân vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân.

Không chỉ là người tướng lĩnh quyết đoán, giàu mưu lược mà Quang Trung Nguyễn Huệ còn biết trọng dụng người tài. Trước sự kiện quân Thanh kéo đánh nước ta, Nguyễn Huệ đã hỏi ý kiến của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp nhằm đề ra kế sách vẹn toàn nhất. Sau khi đưa đại binh cả thủy lẫn bộ tới Nghệ An, nghe được lời khuyên khi gặp người cống sĩ Nguyễn Thiếp ông liền tổ chức ngày việc kén lính, chiêu mộ quân sĩ. Khi hoàn thành thì mở ngày cuộc duyệt binh và chia quân thành tiền, hậu, tả, trung để đối phó với địch. Sau khi ban bố lời phủ dụ binh lính và tướng sĩ, Quang Trung quyết hạ lệnh tiến cống, chỉ ra kế hoạch, phương hướng đối phó với bè lũ nhà Thanh trong chớp mắt. Những hành động thần tốc, ý nghĩ mạnh mẽ và kiên quyết ấy cho thấy một bản lĩnh hơn người của vị vua dân tộc.

Ở vua Quang Trung, không chỉ có sự cương trực, quyết đoán mà còn là một người có trí tuệ anh minh, nhãn quan tỏ tường. Ông biết phân tích những điểm yếu, điểm mạnh giữa ta và địch, biết nhận định đúng sai và đưa những quyết định đúng thời điểm. Đó là điều mà làm nên những chiến thắng khi thực hiện các chiến lược mà ông đã vạch ra. Những lời phủ dụ vừa thâm sâu vừa ân tình đó ông truyền đạt đã tác động vào ý chí, kích thích sự chiến đấu của nghĩa quân." Quân Thanh sang xâm lấn nước ta chớ bảo là ta không nói trước". Những lời lẽ đầy sức thuyết phục như vậy phát ra từ một người tài năng và nhiệt huyết càng khiến quân sĩ nể phục mà vâng lệnh: "Xin vâng lệnh, không dám hài lòng".

Sự thông minh xuất chúng ấy còn được thể hiện ở khả năng dùng người tài ba của ông. Biết chọn Ngô Thì Nhậm, một người giỏi lý lẽ lại khéo lời làm tướng dẹp loạn đao binh đưa lại phúc cho muôn dân thiên hạ." Lần này ta ra, thân hành cầm quân bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?". Đặc biệt, trong cách xử trí Sở và Lân trên núi Tam Điệp cũng khiến người người phải nể phục.

Nhờ vậy mà cuộc chiến do Nguyễn Huệ thân chính đã mang lại những chiến thắng thần tốc, vàng dội non sông. Đó là những cuộc hành binh nhanh chóng từ Huế đến Tam Điệp chỉ trong vòng một tuần. Tới Thăng Long vào 30 tháng Chạp để lên đường, ngày mùng 5 năm sau đã hoàn thành nhiệm vụ. Tại huyện Phú Xuân, bắt sống được hàng loạt quân Thanh trên đường trốn chạy. Tại làng Hà Hồi, quân ta vây kín khiến giặc sợ hãi, xin hàng và giao nộp toàn bộ khí giới, lương thực cho quân Nam. Trận chiến tại đồn Ngọc Hồi quyết liệt, quân Thanh sau khi tự làm hại mình thì không chống cự nổi, giày xéo lên nhau mà chạy tán loạn. Quần ta thắng lớn, quân Thanh đại bại trong nhục nhã, tướng Sầm Nghi Đống thắt cổ chết tại trận.

Người anh hùng Nguyễn Huệ, một người tướng lĩnh tài ba, vị minh quân của dân tộc qua từng trang viết được khắc hoạ thật rõ nét. Qua đó, ta thêm tự hào về truyền thống yêu nước, về những danh nhân của thời đại xưa. Từ đó, cố gắng học tập, rèn luyện và hoàn thiện để bản thân mỗi ngày thật mạnh mẽ, trưởng thành, sống với lý tưởng yêu nước mà ông cha đã gìn giữ, phát huy.

Cảm nhận vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ) - mẫu 4

"Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho chúng chích luân bất phản
Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ"

Bài hịch với khí thế hào hùng của trận chiến là lời của vị vua anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung. Người anh hùng ở mảnh đất Tây Sơn là một biểu tượng về một vị vua hiền triết, anh minh, sáng suốt, có tài thao lược, cầm quân tuyệt diệu. Hồi thứ mười bốn trong "Hoàng Lê nhất thống chí" là biểu hiện rõ nhất trong việc khắc họa hình ảnh vị vua này.

Nguyễn Huệ được biết đến là một vị thần trong cách dùng quân. Khi hay tin quân Thanh đóng chiếm thành Thăng Long, Nguyễn Huệ tức giận, vội cầm quân đi ngay. Thế nhưng ông đã bình tĩnh làm lễ tế thần rồi mới xuất quân ra trận. Việc này chứng tỏ ông là một người tướng tài giỏi, biết lắng nghe ý kiến người khác.

Tiếp đến, Nguyễn Huệ đưa quân đi đánh vào đúng thời điểm cũng thể hiện rõ sự anh minh, sáng suốt của ông khi lưa chọn thời cơ. Đánh giặc vào dịp Tết, đây là thời điểm quân địch lơ là nhất, lo ăn chơi, hưởng lạc, sẽ có nhiều lỗ hổng để quân ta lợi dụng thời cơ. Bài Hịch để khích lệ, động viên tinh thần quân nhân có tác dụng to lớn về mặt tinh thần, khích lệ quân nhân tham gia đánh giặc. Nguyễn Huệ còn rất tài tình trong cách dùng người, tiêu biểu là việc sử dụng Ngô Thời Nhậm.

Nguyễn Huệ cũng thể hiện được cái tài, cái tâm, sự anh minh, sáng suốt của mình trong việc hết mực lo nghĩ cho nhân dân, không muốn quân nhân, đất nước phải chịu cảnh đầu rơi máu chảy, li tán, loạn lạc, thiệt hại về con người và tài sản nên ông đã bày binh bố trận đánh giặc bằng mưu trí, hạn chế tối đa tổn thất về người.

Việc thực hiện từ suy nghĩ đến hành động của người anh hùng áo vải này được thể hiện rất rõ từ việc ông chiêu mộ nhân tài, cứ ba suất đinh thì lấy một suất đi lính, tạo nên một đội quân tinh nhuệ chỉ trong vòng thời gian ngắn tuyển quân. Bên cạnh đó, ông cũng không hề trách phạt đội quân mà khích lệ tinh thần, động viên khi quân bại trận tại Tam Điệp. Ông đã nhìn rõ vận mệnh của đất nước mười năm tới và thấy được chiến thắng trong tương lai của đất nước.

Trận chiến diễn ra rất nhanh gọn, rạng sáng mùng ba tết, đội quân tiến sát và đánh sạch đồn Hà Hồi, đến mùng 5 tết thì tiến đến đồn Ngọc Hồi, tiến vào đến Thăng Long mà ngay cả đến quân đich cũng không hề hay biết, đề phòng, Ngay cả đến vua tôi Tôn Sĩ Nghị và lũ vua chúa nhà Lê đều hưởng lạc trong những ngày tháng ăn chơi mà không hề có chút đề phòng với đội quân áo vải do Nguyễn Huệ khởi nghĩa. Trận chiến kết thúc với sự thắng lợi tuyệt đối cho Nguyễn Huệ - Quang Trung cùng với sự thất bại nhục nhã, ê chề được khắc họa của lũ vua chúa, giặc Thanh. Tôn Sĩ Nghị sợ chạy mất mật, ngựa chưa kịp đóng yên cũng không kịp mặc chiếc áo giáp chạy theo hướng về phương Bắc. Đám giặc chạy tán loạn, hỗn độn, rơi xuống sông Nhị Hà chết gần hết. Vua Lê thì vội vã đưa thái hậu và tùy tùng bỏ chạy trốn, cướp đồ, cướp thuyền của dân... Cảnh tan tác của lũ giặc được khắc họa rõ nét và chi tiết hơn bao giờ hết.

Bài giảng: Hoàng Lê nhất thống chí - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:


hoang-le-nhat-thong-chi.jsp


Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học