5+ Tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích (hay, ngắn gọn)

Tổng hợp 5+ phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích hay, chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh lớp 9 trên cả nước giúp học sinh lớp 9 có thêm tài liệu tham khảo từ đó biết cách viết văn dễ dàng hơn.

Dàn ý Tâm trạng của Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều, đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

- Nêu vấn đề cần cảm nhận tâm trạng: tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích

II. Thân bài

1. Cảm nhận tâm trạng nhân vật Thúy Kiều

- Tâm trạng Kiều trong 6 câu thơ đầu

    + Hoàn cảnh Thúy Kiều: bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, trơ trọi giữa không gian vắng lặng, hoang vu, lạnh lẽo ( khóa xuân, xa gần, cồn nọ, dặm kia...)

    + Thời gian tuần hoàn, khép kín sớm khuya vây hãm lấy con người

- Hình ảnh Kiều đơn độc, trơ trọi giữa nơi mênh mông non nước, không một người bầu bạn

    + Cát vàng, bụi hồng vừa là cảnh thật, vừa là cảnh ước lệ gợi sự mênh mông choáng ngợp của không gian, tâm trạng cô đơn, bẽ bàng của Kiều

- Tâm trạng nhớ thương người yêu và gia đình ( 8 câu thơ tiếp)

    + Kiều nhớ Kim Trọng – mối tình đầu trong đêm trăng thề nguyền, giờ phải chia xa, li biệt

    + Trình tự nỗi nhớ có vẻ như không hợp lý nhưng thực chất rất hợp lý, Kiều đã bán mình cứu cha mẹ và em nhưng không thể đền đáp mối chân tình của Kim vì vậy nàng khôn nguôi day dứt

    + Kiều nhớ lại đêm trăng thề nguyền rồi lại tự xót xa vì “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Tấm son ấy là tấm lòng Kiều son sắc đã bị hoen ố, vùi dập khiến nàng đau đớn tới tâm can

- Nỗi nhớ cha mẹ: thương cha mẹ già yếu không ai chăm sóc ( dẫn điển tích “ sân Lai, gốc tử, quạt nồng ấp lạnh)

- Nỗi nhớ của Kiều thể hiện nhân cách đáng trọng của nàng, Hoàn cảnh của nàng thật đau đớn. Nàng quên đi nỗi khổ của mình để thương nhớ, lo lắng cho người thân. Nàng là người chung thủy, hiếu thảo, có tấm lòng đáng trọng

2. Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu thơ cuối

- Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là hình ảnh rất đắt thể hiện tâm trạng Kiều, hình ảnh đó giống như cuộc đời Kiều lênh đênh, lận đận giữa dòng đời không biết ngày đoàn tụ cùng gia đình

- Những cánh hoa lụi tàn trôi trên mặt nước cũng giống thân phận hoa tàn của nàng khi vô định, ba chìm bảy nổi, số mệnh đầy bạc bẽo của nàng

- Màu nội cỏ rầu rầu gợi lên cho Kiều nỗi chán ngán, vô vọng, bế tắc vì cuộc sống xung quanh

- Nỗi buồn dồn dập tăng lên và đỉnh điểm là nàng tưởng tượng sóng gió cuộc đời đang mỗi lúc một dâng để nhấn chìm nàng

- Điệp từ “buồn trông” kết hợp với những hình ảnh phía sau diễn tả nỗi buồn với nhiều sắc độ khác nhau, cộng với các từ láy tượng hình, tượng thanh tạo nhịp điệu dồn dập tăng lên của sự vô vọng trong tâm trạng Kiều

- Bút pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa kết hợp với nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật thông qua ngôn ngữ độc thoại, phép kết hợp với câu hỏi tu từ

III. Kết bài

Với bút pháp miêu tả nhân vật đặc sắc, đoạn trích thể hiện thành công tâm trạng của Thúy Kiều trong cô đơn, buồn tủi, bế tắc nhưng tấm lòng nhân hậu thương nhớ về người yêu, hiếu thảo với cha mẹ của Kiều vẫn ngời sáng

Đoạn trích thể hiện tài năng miêu tả nội tâm nhân vật đặc sắc và cảm hứng nhân đạo sâu sắc của nhà thơ

Tâm trạng của Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 1

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.

(Nguyễn Du – Truyện Kiều)

Nguyễn Du đã nói lên mối quan hệ gắn bó, hòa nhập, đồng điệu giữa thiên nhiên và con người. Điều này được thể hiện rõ nét trong kiệt tác bất hủ Truyện Kiều. Ở đó, thiên nhiên và con người luôn hiện hữu trong sự đối sánh, giao hoà tuyệt đối, giữa cái vô tri và cái tâm thức, để hiện lên những bức tranh cảnh – tình đặc sắc nhất của văn học Việt Nam. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích thể hiện rõ nhất bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy của thi hào Nguyễn Du.

Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc hoạ thành công tâm trạng bi kịch của Thuý Kiều trong những bước gian truân đầu tiên của kiếp đời lung lạc. Những vần thơ mênh mang cứ day dứt, ám ảnh khôn nguôi, gieo vào lòng ta niềm xót xa về kiếp “hồng nhan bạc phận”. Trong đoạn thơ mở đầu, tác giả không đi ngay vào việc miêu tả tâm trạng Thuý Kiều mà gợi ra khung cảnh thiên nhiên:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia.

Bốn câu thơ đầu hoàn toàn không có sự xuất hiện của con người mà chỉ thuần túy thiên nhiên hay chính xác hơn là thiên nhiên hiện ra dưới mắt con người và con người ẩn mình sau dòng chữ, để cho thiên nhiên tự bộc lộ tiếng nói riêng của nó. Nhân vật trữ tình ấy chính là Thuý Kiều – người đang bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích. Chỉ có tâm hồn nàng được tự do, thỏa sức hướng ra thiên nhiên như tìm một nơi chốn neo đậu, để xoa dịu đi nỗi đau đớn nhức nhối trong lòng, để tìm cảm giác giải thoát cho tâm linh tù túng, bế tắc. Trong tâm trạng, tâm thế ấy, Thuý Kiểu hướng tầm mắt về thiên nhiên và sững sờ khi bắt gặp một bức tranh đẹp mê hồn :

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Khung cảnh như thật mà như mơ. Mơ là bởi “vẻ non xa” kia như một miền xa thẳm mịt mờ sương khói. Thực là bởi “tấm trăng gần”, như có thể đưa tay ra là với được. Vầng trăng ấy đã thân thuộc biết bao với Kiều. Cách đó không lâu người đã đến với trăng như tìm một chứng nhân cho tình yêu vĩnh cửu:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song.

Giờ đây, ở cái nơi “Chân trời góc bể bơ vơ” thật bất ngờ, trăng đã tự tìm đến với người lẻ loi làm bầu bạn. Vầng trăng vô tri mà rất đỗi thuỷ chung ! Trong cảnh ngộ Kiều bị dồn vào thế chân tường, trăng đã đến bên nàng. Sự xuất hiện của trăng tựa như một chỗ dựa tâm linh nâng đỡ Kiều. Từ điểm tựa ấy, Thuý. Kiều hướng tầm mắt ra thiên nhiên, để cảm nhận rõ hơn thân phận, tình cảnh lẻ loi của mình:

Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Nhịp thơ đều đều, trầm bổng mà không hề đơn điệu, tạo cảm giác da diết, buồn thương. Nỗi niềm ấy chất chứa trong trái tim Kiều, được Nguyễn Du gói gọn trong từ “bẽ bàng”: Bẽ bàng mây sớm đèn khuya. “Bẽ bàng” là tâm trạng của con người cảm thấy hổ thẹn vì lâm vào cảnh éo le. Cảnh ngộ của Kiểu chính là đang trong những cung bậc cảm xúc ấy. Hổ thẹn vì phụ lời thề ước với chàng Kim, vì đang ở chốn lầu xanh nhớp nhơ, vì số phận ngang trái trớ trêu,… Trong tình cảnh ấy, thiên nhiên như cũng thấu nỗi niềm của thân phận lỡ làng, nhẹ nhàng đến bên nàng như một điểm tựa tinh thần, hòa cùng khúc nhạc sầu thương: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Tình và cảnh tưởng chừng như tách biệt trong hai vế của câu thơ bởi từ “chia” nhưng thực ra là sự đồng điệu, thấu nhập tuyệt đối : cảnh chứa tình và tình phổ buồn vào cảnh. Vì thế mà nhìn cảnh, bao cung bậc sầu thương của Kiều mới được bộc lộ:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Tại sao tâm trí Kiều lại hướng về Kim Trọng đầu tiên mà không phải là cha mẹ ? Nếu có ai vì điều này mà trách Kiều là bất hiếu thì thật là chưa hiểu nàng. Kiều hướng đến chàng Kim trước nhất vì vầng trăng trực diện đang gợi lòng người nhớ về cảnh cũ của đêm thề nguyền. Chính cảnh ấy đã gợi lòng người thiếu nữ nhớ về tình yêu. Hơn nữa, Kiều đã bán mình chuộc cha nên đối với song thân, cảm giác tội lỗi đã vơi đi ít nhiều. Còn đối với Kim Trọng, Kiều là người bội ước, là kẻ phá vỡ lời thề sắt son hôm nào. Điều đó khiến trái tim thiếu nữ lần đầu sống trong tình yêu luôn khắc khoải hình bóng tình nhân: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Nỗi niềm nhớ thương da diết hoà cùng bức tranh cảnh càng khiến cho lòng người đau đớn khôn khuây. Càng đau vì nhớ người, vì sự khắc khoải ngóng trông của người yêu, Kiều càng cảm thương cho thân phận “bẽ bàng” của mình:

Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Có sự đối lập về ý giữa “Tin sương luống những rày trông mai chờ” và “Bên trời góc bể bơ vớ” – sự ngóng trông trông mòn mỏi, vô vọng một người nơi xa xăm, mịt mù vô định. Kiểu tự ý thức được cảnh ngộ của mình, nên nỗi đau càng như xé gan ruột. Nhưng chính trong niềm đau ấy, ta nhận ra ở người con gái bé nhỏ mà kiên trinh ấy những phẩm chất cao quý :

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Một câu hỏi đồng thời cũng là lời khẳng định đinh ninh về tấm lòng sắt son đối với người yêu của Kiều. Ta còn nhận ra trong lời tự thán ấy dư vị chua xót – sự chua xót của bi kịch khi phải sống trong kiếp bơ vơ, nơi “bên trời góc bể’’ mà nỗi lòng nhớ nhung cứ vẫn vít khôn khuây. Nỗi đau nối tiếp nỗi đau. Nhớ về Kim Trọng trong sự xót xa, bẽ bàng, Kiều hướng tới cha mẹ trong nỗi nhớ, niềm thương:

Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Bán mình chuộc cha, lâm vào tình cảnh “bẽ bàng”, Kiều vẫn một lòng lo cho song thân. Nỗi lo song hành với cảm giác xót xa của một người con hiếu thảo không thể chăm sóc cha mẹ lúc già yếu. Cảm thương và trân trọng biết bao trước một nàng Kiều với những tình cảm cao đẹp. Trong cảnh ngộ như vậy, đáng ra Kiều phải lo cho bản thân mình trước, xót xa cho số kiếp mình đầu tiên, nhưng nàng lại hướng tới người yêu và cha mẹ trong sự khắc khoải, day dứt. Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của người con gái “sắc tài” ấy.

Sau nỗi nhớ là niềm đau, nỗi buồn tê tái khi chợt thức nhận về hoàn cảnh hiện tại của mình. Những tháng ngày bão tố, sóng gió vừa qua, chặng đường phía trước mịt mờ, đầy chông gai ! Bao bất hạnh, bao xót xa bủa vây, siết chặt hồn Kiều:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
.....
Âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Tám câu thơ chất chứa nỗi buồn đau tê tái, sự hoang mang lo sợ. Điệp từ “buồn trông” lặp lại bốn lần ở những câu thơ lục vừa diễn tả trọn vẹn tâm thế của Kiều trong tình cảnh ấy vừa góp phần tạo nên âm hưởng, nhịp điệu da diết cho toàn đoạn thơ. Trong cảnh ngộ đơn độc, bơ vơ nơi chân trời, góc bể, Thuý Kiều đã tìm đến với thiên nhiên như một người bạn tri âm, một điểm tựa tinh thần. Thiên nhiên đến với nàng để sẻ chia, để sát cánh. Vì vậy mà dưới con mắt của Kiểu, mỗi hình ảnh thiên nhiên lại gợi ra biết bao chua xót về thân phận bơ vơ, về số kiếp bất hạnh:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Cánh buồm thấp thoáng, như thực như ảo giữa “cửa bể chiều hôm'” gợi ra hành trình lưu lạc, nổi chìm của Kiều. Khung cảnh chiều hôm gợi nhớ, gợi sầu cho kẻ li hương. Cánh buồm “thấp thoáng” vô định cộng hưởng kì lạ với tâm trạng của nàng trước lầu Ngưng Bích. Thân phận nàng giờ đây đâu khác gì cánh hoa, lắt lay trước sóng gió cuộc đời:

Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Câu hỏi này cũng là lời tự vấn, tự thương cho thân phận mình của Kiều. Giữa đời nước vô định, cánh hoa mong manh biết bao trước sóng dập gió vùi, như thân phận người con gái chuẩn bị bước vào cuộc hành trình đằng đẵng của số kiếp đoạn trường, oan khổ lưu li. Người con gái “Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai” ấy phải chịu kiếp “cỏ nội hoa hèn” bạc bẽo, sầu đau:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Nội cỏ mang tâm trạng “rầu rầu“, héo úa, cô đơn, lạc lõng giữa “chân mây“, “mặt đất” hay là thân phận của Kiều giữa mênh mông cuộc đời:

Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Cả thiên nhiên vắng lặng hoà theo tâm hồn lạnh lẽo, cô đơn, hoang mang lo sợ của Kiều. Thanh âm duy nhất vang vọng lại là tiếng sóng “ầm ầm”, như nói lên nỗi lo âu, khiếp sợ của Kiều. Tám dòng thơ chất chứa tâm trạng. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du đã đạt đến độ tuyệt bút. Mỗi hình ảnh, mỗi yếu tố ngoại cảnh đều như một ẩn dụ cho tâm trạng khổ đau và cảnh ngộ ngang trái của Kiều. Nàng đang ngập chìm trong bể khổ trầm luân. Hệ thống từ láy được tác giả sử dụng đắc địa đã tạo nên cho đoạn thơ âm hưởng hắt hiu, trầm buồn, diễn tả tinh tế tâm trạng của Kiều.

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất của Truyện Kiều. Từ bức tranh cảnh, Nguyễn Du đã thổi hồn vào đó, xây dựng nên chân dung tâm hồn của Kiều trong cơn bĩ cực, từ đó mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thành, xúc động trước một cô Kiều tài hoa mà bạc phận có tâm hồn cao quý. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng xúc động thốt lên:

Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên.

(Chế Lan Viên – Đọc “Kiều ”)

Tình cảm của nhà thơ cũng là tiếng lòng chung của triệu triệu trái tim những người đã, đang và sẽ thổn thức cùng Kiều.

Tâm trạng của Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích - mẫu 2

Truyện Kiều là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Du cũng là tác phẩm tiêu biểu nhất của thể loại truyện Nôm trong văn học trung đại Việt Nam. Viết Truyện Kiều, Nguyễn Du có dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bên Trung Quốc. Tác phẩm có giá trị lớn về mặt nội dung cũng như nghệ thuật.

Đoạn trích nằm ồ phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà vờ hứa chờ Kiều bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế, rồi đưa Kiều ra giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, đợi thực hiện âm mưu mới tàn bạo hơn, đê tiện hơn.

Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo của Thuý Kiều. Khung cảnh chung ở lầu Ngưng Bích: không gian, thời gian mênh mông, hoang vắng:

Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Chỉ với mười bốn chữ mà chữ nào cũng gợi lên thời gian, không gian mênh mông, hoang vắng. Cảnh non xa, trăng gần gợi hình ảnh lầu Ngưng Bích chơ vơ, cao ngất nghễu giữa mênh mang sông nước. Từ lầu Ngưng Bích nhìn ra chỉ thấy những dãy núi mờ xa, những cồn cát bụi bay mù mịt. Kiều sống cô đơn, tội nghiệp

Kiều sỐng một mình giữa cái lầu trơ trọi, giữa thời gian, không gian mênh mông hoang vắng. Cái lầu trơ trọi đã giam một thân phận trơ trọi, không một bóng người, không sự giao lưu giữa người với người.

Cụm từ mây sớm đèn khuya gợi thời gian tuần hoàn khép kín. Thời gian cũng như không gian giam hãm con người. Ở đó, sớm, Thuý Kiều làm bạn với mây trời, đêm, nàng làm bạn với ngọn đèn. Dù sớm hay đêm nàng vẫn chỉ thui thủi một mình.

Thật thương cho nàng Kiều. Mới hôm nào Kiều cùng hai em đi du xuân trong tiết Thanh minh mà bây giờ nàng phải sống cô đơn, buồn tủi ở lầu Ngưng Bích.

Khi ở lầu Ngưng Bích, Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau. Điều đó hoàn toàn phù hợp với lô-gíc tâm trạng. Kiều đã bị Mã Giám Sinh làm nhục và đang bị ép tiếp khách làng chơi nên Kiều nhớ tới Kim Trọng với một nỗi nhớ thương day dứt:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Nhớ Kim Trọng là nhớ đến tình yêu nôn bao giờ Kiều cũng nhớ lời thề đôi lứa. Nàng đã cùng Kim Trọng thề nguyền dưới ánh trăng. Giờ đây nàng tưởng tượng, ở nơi xa Kim Trọng cũng đang hướng về mình, đang chờ mong tin tức của mình. Nàng nhớ về Kim Trọng với tâm trạng đau đớn xót xa. Bởi vì, tình yêu son sắt, trắng trong mà nàng thề trao tặng, gắn bó trọn đời với chàng đã bị lũ buôn bán người dập vùi hoen ố. Nàng đã hứa hẹn nhưng rồi vì hoàn cảnh gia đình nàng đã bán mình chuộc cha, cứu em. Nàng đau đớn còn bởi lẽ vết nhơ bẩn bọn buôn người gây ra làm sao có thể gột rửa cho sạch mà mong xứng đáng với chàng. Kiều không chỉ đau đớn mà còn day dứt, tự hổ thẹn vì đã phụ tình yêu, niềm tin, lòng mong mỏi, sự gửi gắm của Kim Trọng. Những chi tiết miêu tả nỗi dày vò, đau đớn đến xót xa của Kiều đã giúp ta hiểu được tấm lòng nàng. Một số từ ngữ tưởng, trông, chờ, bơ vơ, gột rửa, phai,… đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình. Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho mối tình trong sáng, sâu nặng lời thề mà bị tan vỡ.

Nghĩ đến cha mẹ, Kiều thương và xót. Nàng thương cha mẹ khi sáng khi chiều tựa cửa ngóng tin con, trông mong sự đỡ đần. Nàng xót xa lúc cha mẹ tuổi già sức yếu mà không được chăm nom. Nàng còn lo lắng không biết bây giờ ai đang chăm sóc cho song thân:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Thành ngữ quạt nồng ấp lạnh, điển cố sân Lai, gốc tử đều nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều. Nàng tưởng tượng nơi quê nhà tất cả đã đổi thay mà đổi thay lớn nhất là gốc tử đã vừa người ôm, nghĩa là cha mẹ ngày một thêm già yếu. Cụm từ cách mấy nắng mưa vừa nói được thời gian cách xa bao mùa mưa nắng, vừa nói lên được sức mạnh tàn phá của tự nhiên, của nắng mưa đối với cảnh vật và con người. Nhớ về cha mẹ, Kiều luôn ân hận vì nàng cho rằng, mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dưỡng của cha mẹ.

Chỉ bằng tám câu thơ mà Nguyễn Du đã miêu tả thật trọn vẹn nỗi nhớ của Thuý Kiều về Kim Trọng, về cha mẹ, người đã sinh thành và nuôi dưỡng mình khôn lớn. Nỗi nhớ thật sâu lắng và da diết.

Cảnh lầu Ngưng Bích được nhìn qua tâm trạng Kiều: cảnh được quan sát từ xa đến gần. về màu sắc thì được miêu tả từ màu nhạt đến đậm. về âm thanh, tác giả lại miêu tả từ tĩnh đến động. Nỗi buồn thì tác giả miêu tả từ nỗi buồn man mác dần tăng lên nỗi lo âu, kinh sợ. Ngọn gió cuốn mặt duềnh và Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi là cảnh tượng hãi hùng, như báo trước giông bão của số phận sẽ nổi lên, xô đẩy, vùi dập cuộc đời Kiều. Và quả thực, ngay sau lúc này, Kiều đã bị Sở Khanh lừa và dấn thân vào kiếp sống long đong lận đận của 15 năm lưu lạc.

Bằng hai câu hỏi tu từ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?, Hoa trôi man mác biết là về đâu, tác giả đã làm nổi bật lên tâm trạng của Thuý Kiều. Đó là tâm trạng cô đơn lẻ loi, là tâm trạng lo sợ hãi hùng. Kiều nghĩ đến tương lai mờ mịt, héo tàn của mình

Như vậy, cũng là tả cảnh nhưng bức tranh cảnh vật ở đây được quan sát qua tâm trạng của nàng Kiều. Chỉ trong tám câu thơ nhưng điệp ngữ buồn trông xuất hiện tới bốn lần. Càng buồn thì càng trông. Càng trông lại càng buồn vì ở lầu Ngưng Bích Kiều sông cô độc, lẻ loi. Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn càng làm tăng nỗi buồn đau của kiếp người lưu lạc. Cảnh cửa bể chiều hôm với cánh buồm thấp thoáng xa xa càng làm cho Kiều suy nghĩ đến thân phận bơ vơ của mình nơi đất khách quê người.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn thơ hay nhất trong truyện Kiều. Bởi vì, qua đoạn trích, người đọc cảm nhận được tâm trạng cô đơn, buồn tủi, tấm lòng thuỷ chung, hiếu thảo của Thuý Kiều. Đồng thời, qua đoạn trích, người đọc thấy rõ nghệ thuật khắc hoạ nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc.

Học đoạn trích, ta cũng thấy được tấm lòng nhân đạo của nhà thơ Nguyễn Du. Nhà thơ đã xót thương cho một người con gái tài hoa mà bạc mệnh như nàng Kiều. Đó cũng chính là sự cảm thông sâu sắc của tác giả dành cho những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội xưa.

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

truyen-kieu.jsp