Sơ đồ tư duy Ai đã đặt tên cho dòng sông (dễ nhớ, ngắn gọn)
Nhằm mục đích giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa được kiến thức, nội dung các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 12, chúng tôi biên soạn bài viết Sơ đồ tư duy Ai đã đặt tên cho dòng sông dễ nhớ, ngắn gọn với đầy đủ các nội dung như tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, bố cục, dàn ý phân tích, bài văn mẫu phân tích, .... Hi vọng qua Sơ đồ tư duy Ai đã đặt tên cho dòng sông sẽ giúp học sinh nắm được nội dung cơ bản của bài Ai đã đặt tên cho dòng sông.
- Sơ đồ tư duy Ai đã đặt tên cho dòng sông
- Tác giả tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông
- Tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông
- Dàn ý Phân tích Ai đã đặt tên cho dòng sông
- Phân tích vẻ đẹp hình tượng sông Hương qua tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” - mẫu 1
- Phân tích tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” - mẫu 1
- Phân tích tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” - mẫu 2
- Phân tích tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” - mẫu 3
Bài giảng: Ai đã đặt tên cho dòng sông (phần 1) - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937 tại thành phố Huế, quê gốc ở làng Bích Khê, xa Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
- Năm 1966, Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát li lên chiến khu, tham gia cuộc kháng chiến chống Mĩ bằng hoạt động văn nghệ.
- Ông từng là Tổng thư kí Hội văn học nghệ thuật Trị Thừa – Thiên, Chủ tịch Hội Văn học Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt.
- Các tác phẩm chính: “Ngôi sao trên đỉnh Phu Văn Lâu”, “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, “Hoa trái quanh tôi”,…
- Phong cách sáng tác:
+ Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí…
+ Lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
II. TÁC PHẨM:
1. Hoàn cảnh ra đời:
Bài kí Ai đã đặt tên cho dòng sông? Được viết tại Huế tháng 1 - 1981, in trong tập bút kí cùng tên. Tập sách gồm tám bài kí, viết ngay sau chiến thắng mùa xuân 1975 nên vẫn còn bừng bừng cảm hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nhưng ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, lòng yêu nước, tinh thần dân tộc thường gắn với tình yêu sâu sắc đối với thiên nhiên đất nước và với truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời của dân tộc mà ông đã bỏ công tìm tòi, tích lũy một cách say mê và đầy trân trọng, đồng thời cố gắng truyền đạt bằng một ngòi bút tài hoa với những lời văn thật đẹp, thật sang.
2. Thể loại: Bút kí
3. Chủ đề: Từ những cảm xúc sâu lắng được tổng hợp bằng vốn kiến thức phong phú về địa lí, lịch sử, văn hóa... tác giả đã khám phá và ca ngợi vẻ đẹp của sông Hương, kinh thành Huế cũng là vẻ đẹp của quê hương, đất nước.
4. Bố cục: 2 phần
- Phần 1 (từ đầu đến “quê hương xứ sở”): Thủy trình của sông Hương.
- Phần 2 (còn lại): Vẻ đẹp lịch sử, văn hóa và thi ca của sông Hương.
5. Giá trị nội dung:
Khám phá vẻ đẹp của dòng sông Hương trên các mặt: Địa lí, lịch sử, văn hóa, thơ ca,...; qua đó thể hiện tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào đối với vẻ đẹp của dòng sông quê hương, cũng như thấy được sự tài hoa, vốn kiến thức phong phú, đa dạng của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.
6. Giá trị nghệ thuật:
- Thể loại bút kí.
- Văn phong hướng nội, súc tích, tinh tế và tài hoa.
- Sức liên tưởng phong phú, vốn hiểu biết phong phú trên nhiều lĩnh vực.
- Ngôn ngữ phong phú, giàu hình ảnh, giàu chất thơ, sử dụng các biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa…)
- Có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, chủ quan và khách quan.
III. DÀN Ý PHÂN TÍCH:
I. Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường (tiểu sử, sáng tác chính, phong cách nghệ thuật…)
- Giới thiệu về tác phẩm Ai đã đặt tên cho dòng sông? (hoàn cảnh ra đời, vị trí đoạn trích, khái quát nội dung và nghệ thuật)
II. Thân bài:
1. Vẻ đẹp thiên nhiên của sông Hương:
a) Vẻ đẹp của sông Hương ở thượng nguồn:
- Sông Hương như “một bản trường ca của rừng già”: “rầm rộ … màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, “rừng già đã hun đúc … tự do và trong sáng”.
→ Từ ngữ tạo hình, gợi tả vẻ đẹp của sông Hương ở vùng thượng nguồn vừa hùng vĩ, man dại vừa trữ tình, say đắm lòng người.
- Nhà văn đã khéo léo so sánh sông Hương với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, nhân hóa sông Hương thành một thực thể sống động, có hồn.
- Hình ảnh so sánh độc đáo “Sông Hương như người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.
b) Sông Hương ở ngoại vi thành phố:
- Sông Hương trước khi chảy vào thành phố thì “nằm giữa cánh đầu châu hóa đầy hoa dại”.
- Vẻ đẹp mơ màng của sông Hương được miêu tả rất rõ nét, có những đường cong mềm mại, quanh co uốn khúc quanh cố đô Huế.
- Tác giả dành một tình yêu lớn cho dòng sông. Tình yêu ấy khiến ông mơ màng nhận ra bóng dáng của dòng sông giống như tấm lụa trên có thể người thiếu nữ.
c) Vẻ đẹp của sông Hương ở trung tâm thành phố:
- Nét đẹp của dòng sông khi chảy vào thành phố có nét khác biệt so với khu chảy ở ngoại ô.
- Dòng sông trở nên vui tươi nhưng cũng rất êm dịu, như một điệu slow tình cảm của xứ Huế.
- Dòng sông như người con gái tinh tế đánh đàn trong đêm khuya.
2. Vẻ đẹp lịch sử và thơ ca của sông Hương:
a) Dòng sông lịch sử:
- Tên của dòng sông được ghi trong cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi.
- Sông Hương là một nhân chứng lịch sử của xứ Huế, của đất nước:
+ Là điểm tựa, bảo vệ biên cương thời Đại Việt.
+ Thế kỉ XVIII, vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân với tên tuổi người anh hùng Nguyễn Huệ.
+ Nó đọng lại đến bầm da, tím máu, “nó sống hết lịch sử bi tráng của thể kỉ XIX”.
+ Nó đi vào thời đại của cuộc cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
+ Nó chứng kiến cuộc tổng tiến công và nổi dậy màu xuân năm 1968.
b) Vẻ đẹp của sông Hương dưới góc độ văn hóa
- Tác giả cho rằng đó là một dòng thi ca về sông hương, đó là một dòng sông không bao giờ lặp lại mình
- Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế.
3. Hình tượng cái tôi tác giả:
- Quan sát dòng sông trên nhiều góc độ khác nhau, miêu tả dòng sông trên nhiều phương diện.
- Là nhà văn có những liên tưởng, so sánh, độc đáo, lối viết tài hoa, uyên bác.
- Là cái tôi nghệ sĩ có tình yêu tha thiết, say đắm với thiên nhiên Huế và đất nước.
III. Kết bài:
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật:
+ Nội dung: với những trang viết mê đắm, tài hoa, bài kí cho chúng ta cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp của dòng sông Hương thơ mộng, trữ tình - cái nôi của nền văn hóa Huế.
+ Nghệ thuật: văn phong hướng nội, súc tích, hình ảnh giàu sức liên tưởng, ngôn ngữ phong phú, giàu chất thơ,…
- Cảm nhận về văn bản: Qua tác phẩm ta cảm nhận được niềm tự hào và tình yêu tha thiết của tác giả với vẻ đẹp thiên nhiên xứ Huế nói riêng và đất nước nói chung.
IV. MỘT SỐ CÂU HỎI ĐỌC HIỂU VÀ BÀI PHÂN TÍCH:
Câu hỏi 1: Nêu nhan đề của tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
- Lấy tên nhan đề cho bài bút kí dưới hình thức của một câu hỏi nhằm mục đích dẫn dắt, gợi mở người đọc về nguồn gốc tên gọi của dòng sông, nói lên những khát vọng, niềm tự hào của con người xứ Huế. → Nội dung bài kí là câu trả lời dài, ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông có cái tên cũng rất đẹp và phù hợp với nó: Sông Hương.
- Nhan đề thể hiện được niềm biết ơn đối với những con người đã khai phá vùng đất này, bộc lộ niềm tự hào về vẻ đẹp của đất nước.
Câu hỏi 2: Sông Hương vùng thượng lưu được tác giả miêu tả như thế nào trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
Sông Hương vùng thượng lưu:
- rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn → Sự mãnh liệt, hoang dại.
- dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng″ (màu sắc rực rỡ) → Vẻ đẹp dịu dàng, say đắm.
- như một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại (so sánh), rừng già đã hun đúc một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng; cũng chính rừng già đã chế ngự sức mạnh bản năng để khi ra khỏi rừng, nó mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa.
⇒ Sông Hương là một bản trường ca của rừng già với nhiều tiết tấu vừa hùng tráng, dữ dội. Nó mang vẻ đẹp của một sức sống vừa mãnh liệt, hoang dại; vừa dịu dàng, say đắm, đầy cá tính.
* Nghệ thuật:
- Liên tưởng kì thú, xác đáng.
- Ngôn từ gợi cảm.
⇒ Sức cuốn hút, hấp dẫn về một con sông mang linh hồn, sự sống.
Câu hỏi 3: Phẩm chất của sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử và thi ca trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
Sông Hương trong mối quan hệ với lịch sử và thi ca:
* Với lịch sử dân tộc:
- Dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua Hùng.
- Dòng Linh Giang (dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi.
- Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại.
- Nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ.
- Nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX với máu của những cuộc khởi nghĩa.
- Nó đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
⇒ Sông Hương mang vẻ đẹp của một bản hùng ca ghi dấu những thế kỉ vinh quang từ thời vua Hùng dựng nước đến Cách mạng tháng Tám thàng công.
* Với thi ca:
- “Dòng sông trắng – lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà.
- Là vẻ đẹp hùng tráng “như kiến dựng trời xanh” trong thơ Cao Bá Quát.
- Nỗi quan hoài vạn cổ vạn cổ với bóng chiều bảng lảng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan.
- Nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn trong thơ Tố Hữu.
⇒ Dòng sông “không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ.”
Câu hỏi 4: Anh/chị hãy nêu những nét đặc sắc trong văn phong của Hoàng Phủ Ngọc Tường qua tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
- Tình yêu dạt dào, sâu lắng của tác giả dành cho quê hương, xứ sở vào đối tượng miêu tả, khiến đối tượng trở nên lung linh, huyền ảo, đa dạng như chính con người sống động
- Sự liên tưởng diệu kì, những hiểu biết phong phú về kiến thức địa lý, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật và trải nghiệm bản thân
- Ngôn từ trong sáng, phong phú, gợi tả, gợi cảm, giàu chất thơ
- Sử dụng thuần thục các phép tu từ: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ
- Sự kết hợp hài hòa của cảm xúc, trí tuệ, chủ quan và khách quan.
Bài phân tích mẫu
Đề bài 1: Phân tích vẻ đẹp hình tượng sông Hương qua tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông”
Phân tích vẻ đẹp hình tượng sông Hương qua tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông” - mẫu 1
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên viết về bút kí với những sáng tác kết hợp nhuần nhị giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với những suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú, uyên bác thuộc nhiều lĩnh vực đời sống. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ra đời năm 1946 là bài bút kí trữ tình đặc sắc thể hiện rõ phong cách tác giả của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sông Hương đã để lại cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ khó quên về một con sông trong mối quan hệ gắn bó máu thịt với cội nguồn, lịch sử, văn hoá và con người xứ Huế.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là tác phẩm xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về sông Hương. Tác phẩm khắc họa hình tượng một con sông thơ mộng, trữ tình của Huế.
Ở thượng nguồn, sông Hương như một người con gái man dại của núi rừng. Sự man dại ấy được so sánh như “trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn” khi chảy qua những miền hiểm trở, sông Hương mang những vẻ dữ dội đặc trưng. “Mãnh liệt qua ghềnh thác” nhưng cũng có lúc sông Hương như một cô gái đầy nữ tính dịu hiền “dịu dàng, say đắm”.
Ngòi bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả sông Hương như một người con gái Di-gan man dại. Nhờ có rừng già, sông Hương đã được hun đúc một bản tính tự do phóng khoáng sức mạnh ấy được chế ngự bởi cấu trúc địa hình lãnh thổ nơi đây, để khi đi khỏi, bắt gặp xứ Huế mộng mơ, sông Hương “nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ”.
Khi tả sông Hương ở đồng bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường như ngụ ý tả tỉ mỉ sông Hương “nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục”. Từ ngã ba Tuần đến điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc rồi dần dần ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Vì gặp Huế, sông Hương trong lòng tác giả như thay đổi tâm tình đột ngột “sông như chế ngự được bản năng của người con gái” cảnh đẹp, có đường nét và hình khối “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo” sông Hương còn mang màu sắc vô cùng đẹp “sớm xanh trưa vàng chiều tím”. Lại còn vẻ đẹp trầm mặc u tịch đó là vẻ đẹp mang tính triết lí cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông nơi chùa Thiên Mụ. Vậy đấy, một cô gái hoang dại như những nàng Di-gan, nay đã mang lại màu mỡ phù sa cho xứ Huế. Sông Hương thực sự đã thay tính đổi nết vì gặp được nơi này.
Đặc biệt đoạn miêu tả sông Hương đi qua thành phố miêu tả đầy ấn tượng. Những chiếc cầu bắc qua dòng sông thật đẹp “nhỏ nhắn như những vầng trăng non” dòng sông như không muốn xa thành phố. Nó cứ như vậy “để nói một lời thề trước khi về biển cả” ấy như một tấm lòng của người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ xở.
Sông Hương còn được nhìn dưới góc độ văn hóa, như một âm nhạc cổ điển của Huế. Như một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya... Quả thật, âm nhạc Huế đã sống trên mặt nước nơi con sông này. Sông Hương còn gắn với lịch sử dân tộc, “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, nó là điểm tựa bảo vệ biên cương thời Đại Việt. Nó đi vào thời cách mạng tháng Tám như một chứng nhân lịch sử quan trọng. Gắn với lịch sử Huế, lịch sử dân tộc.
Nói chung, sông Hương đã nêu bật được vẻ đẹp của một ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cảm ơn ông đã vẽ lên một dòng sông vô cùng tuyệt đẹp của quê hương đất nước, để ta càng thêm yêu mến và tự hào về quê hương mình.
Đề bài 2: Phân tích tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”
Phân tích tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” - mẫu 1
Nhắc tới xứ Huế mộng mơ, con người ta chẳng thể nào quên được dòng sông Hương thơ mộng uốn quanh, bao bọc cả thành phố Huế cổ kính. Biết bao người đã dành trọn tình yêu mà phải lòng dòng sông hương huyền ảo. Hoàng Phủ Ngọc Tường - một người con của xứ Huế, được sinh ra và lớn lên với biết bao kỉ niệm cùng dòng sông nổi tiếng ấy. ông đã dồn hết biết bao tâm tư tình cảm để sáng tác “Ai đã đặt tên cho dòng sông” nhằm ngợi ca vẻ đẹp và linh hồn của dòng sông mang đặc trưng của xứ Huế.
Mang trong mình những âm sắc, khí trời của cố đô Huế, bởi vậy, những cảm nhận của tác giả về con sông Hương cũng vô cùng đặc sắc, riêng biệt dưới lăng kính của tâm hồn ông. Mở đầu tác phẩm, Ngọc Tường đã giới thiệu những nét độc đáo của dòng sông. Nó là con sông duy nhất của thành phố, trải qua biết bao thác ghềnh con sông đã uốn mình về với vùng đất yên bình nơi đây. Nổi bật lên nền tím đặc trưng của con người xứ Huế, màu xanh của sông nước được điểm tô cùng màu đỏ của hoa đỗ quyên càng làm cho vùng đất này trở nên rực rỡ. Sông Hương tuy có lúc êm đềm là vậy, nhưng có những lúc dòng sông tựa như “cô gái Di gan phóng khoáng khi nó ở giữa lòng Trường Sơn”, nơi suối rừng bạt ngàn đã tôi luyện nên cho nó một bản tính gan dạ, kiên cường. Dòng sông được nhân hóa, thổi hồn tựa như con người vậy, sông cũng biết yêu biết buồn, lúc bình yên lặng lẽ có lúc lại mạnh mẽ dâng trào. Sông Hương chẳng những mang một nét đẹp dịu dàng trí tuệ, trở thành đặc trưng của cả một vùng cố đô cổ kính, sông còn mang những điều kì bí đầy cá tính.
Sông Hương khi chảy về thành phố thì lại có những sức hút đến kì lạ. Tác giả vẽ nên vẻ đẹp, hình hài cho sông Hương bằng những lời lẽ, ngôn từ tuyệt vời nhất và còn bằng cả trái tim yêu thương của mình. Bỏ lại sau lưng những cánh đồng Châu Hóa đầy cỏ dại, giờ đây dòng sông được ví như “cô gái đẹp ngủ mơ màng” đang đợi chờ một người tình đến hỏi han. Vẻ đẹp ấy đôi lúc lại “chuyển dòng liên tục”, lúc thì trôi theo hướng bắc nam theo điệu Hòn Chén, vấp phải Ngọc Trản, lúc lại chuyển vòng qua bãi Nguyệt Biểu, Lương Quán. Người đọc càng khó có thể cưỡng lại được vẻ đẹp của dòng sông khi nó ôm trọn cả chân đồi Thiên Mụ. Cứ mỗi điểm sông Hương chảy qua, là một lần độc giả được mở mang, hiểu thêm về những khu vực địa lý, văn hóa tinh hoa của cố đô Huế.
Chắc hẳn, phải rất yêu con sông ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới có thể vẽ được bức tranh hoàn mĩ, hoàn hảo tới từng chi tiết, góc độ ấy của dòng sông. Sông Hương vừa mềm mại, dịu dàng như “mềm như tấm lụa”, có khi ánh lên những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Những nét đặc biệt ấy như níu chân người nhìn khi một lần bắt gặp dòng sông, chắc hẳn chỉ sông Hương mới có.
Khi sắp được bắt gặp thành phố mến thương, mặt nước con sông cũng như biểu hiện sự thay đổi trạng thái rõ rệt. Con sông trở nên mơ màng, phẳng lặng trong tiếng chùa Thiên Mụ vang vọng cùng tiếng gà của chòm xóm nơi đây. Tác giả dẫn dắt người đọc liên tưởng đến dòng sông Xen của Paris, sông Đa núp của Bulades, để tôn vinh lên vẻ đẹp độc đáo của sông Hương. Nó góp phần làm cho vùng đất cố đô trở nên đặc biệt, khi giữa lòng thành phố, lại có một con sông mang nước Hương giang tỏa đi khắp các ngõ ngách, xóm thuyền. Sông Hương như gieo sự sống, góp mặt trong hầu hết các hoạt động thường ngày của con người nơi đây.
Lần thứ hai, tác giả liên tưởng so sánh về con sông Nê-va của thành phố Lê-nin-grat với nước Nga xa xôi với sông Hương. Dưới con mắt của ông, tác giả mường tượng tới được hóa thành một con chim nhỏ co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Sông Hương hoàn toàn khác biệt với những dòng chảy của con sông khác. Chẳng ồn ào, vội vã, sông Hương có một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”. Hình ảnh hàng trăm ánh đèn hoa đăng trôi bồng bềnh vào đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn chén trôi về càng khiến cho vẻ đẹp của dòng sông trở nên huyền ảo, đi sâu vào lòng người.
Sông Hương còn như một chứng nhân lịch sử, là người đã chứng kiến biết bao sự thay đổi của cố đô Huế. “Dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của tổ quốc đại việt qua những thế kỉ trung đại, vẻ vang soi bóng kinh thành phú xuân của anh hùng Nguyễn Huệ”. Với biết bao “công lao “ như vậy, tác giả đã dành cho sông cả một tấm lòng yêu mến, quý trọng. Đoạn nói về sông Hương khi rời khỏi kinh thành được tác giả diễn tả bằng những bút pháp tài hoa, điêu luyện. Biết bao khó khăn, sông mới trở về với cố đô, đến phiên sông phải rời đi, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mượn cả nàng Kiều trong đêm tình tự để nói lên cho hết những nỗi vương vấn với dòng sông. Sông Hương gần gũi bao đời, tựa như một con người xứ Huế vậy. Tình cảm son sắt thủy chung với người, với đất nước, Sông Hương đã mang trọn những ân tình ấy với người dân Châu Hóa.
“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” thực sự là một tác phẩm tuyệt hay viết về dòng sông Hương. Với trái tim nhẹ nhàng, ân cần, luôn muốn được chăm chút cho dòng sông tựa như một phần máu thịt của mình, tác giả đã dùng hết tài năng cùng những bút pháp nghệ thuật độc đáo để vẽ nên bức tranh tuyệt mỹ về dòng sông Hương huyền thoại ấy.
V. MỘT SỐ LỜI BÌNH VỀ TÁC PHẨM:
· “Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có rất nhiều ánh lửa”
· “… Nhiều thế hệ văn nghệ sĩ đến với Huế và đã bị con Sông Hương mê hoặc. Nhiều tác phẩm văn học đã đưa con sông này đến với người đọc. Để từ đó đem lòng yêu Huế, dù chưa một lần đặt chân đến nơi này. Nhưng với Hoàng Phủ Ngọc Tường, người một đời gắn bó với Huế, bằng tình cảm tha thiết, bằng tiềm năng văn hóa đã khám phá vẻ đẹp của Hương Giang một cách toàn diện. Đưa Sông Hương trở thành biểu tượng của đất cố đô…”
(Bùi Thị Hải Hạnh)
Phân tích tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” - mẫu 2
Sông Hương – xứ Huế đã trở thành nguồn cảm hứng cho rất nhiều nghệ sĩ. Nhưng có lẽ, chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường - một cây bút tài hoa lãng mạn, một người con thân yêu của Huế mới có thể khiến sông Hương hiện lên với vẻ đẹp toàn bích. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Hoàng Phủ Ngọc Tường được coi là “Nhà văn của những dòng sông kỉ niệm”. Là con người đa tài, phóng khoáng, nhà văn đã đặt chân đến nhiều vùng đất nhưng Huế mộng mơ và dòng Hương giang huyền ảo vẫn luôn có một vị trí đặc biệt trong lòng nhà văn. Nhan đề “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là câu hỏi của một nhà thơ Hà Nội khi lặng ngắm dòng sông. Tác giả đã lý giải tên dòng sông bằng câu chuyện dân gian lấp lánh sắc màu huyền thoại. Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm. Nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm tho mãi mãi. Không phải một nhà hiền triết uyên thâm hay vị tao nhân mặc khách nào mà chính những người dân bình thường đã sáng tạo, bồi đắp cho mảnh đất văn hóa ấy. Cách lí giải này cho thấy tình yêu tha thiết của nhà văn dành cho cố đô Huế và sông Hương, đồng thời thể hiện lòng biết ơn, ngưỡng mộ dành cho những con người đã khai phá vùng đất này.
Trong tác phẩm, sông Hương được tác giả miêu tả với ba trạng thái ở ba chặng khác nhau gồm khi ở thượng nguồn, ở trong lòng thành phố và ngoại vi thành phố.
Trường Sơn là chứng nhân lịch sử cho những năm tháng gian lao và hào hùng của dân tộc nên ở đây, sông Hương cũng mang dáng vẻ dữ dội, mạnh mẽ tựa như một “bản trường ca của rừng già”. Sự kết hợp của những hình ảnh ấn tượng như “ghềnh thác”, “đại ngàn”, “cơn lốc”, “đáy vực” và hệ thống từ giàu tính biểu cảm “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, “mãnh liệt”, “dịu dàng”, “say đắm”, “chói lọi” diễn tả sức mạnh của dòng chảy. Bên cạnh đó, các gam màu rực rỡ như màu xanh của bóng cây, màu đỏ của hoa đỗ quyên khiến bức tranh sông Hương tràn đầy sức sống. Nhà văn so sánh dòng sông với “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, cho thấy vẻ đẹp khỏe khoắn, trong sáng và phóng khoáng vô cùng. Và quả thực, giống như những thiếu nữ có tâm hồn kín đáo và thanh khiết, sông Hương chẳng chịu phô bày mình. Dòng sông bèn đóng cửa lòng mình ở cửa rừng và ném chiếc chìa khóa vào những hang đá ở chân núi Kim Phụng. Nếu ta không chú ý tìm hiểu sông Hương từ nguồn cội thì chẳng thể nào nắm bắt được bản chất của nó. Cái hay của Hoàng Phủ Ngọc Tường nằm ở chỗ dù miêu tả sự hào hùng nhưng giọng văn của ông vẫn đượm chất trữ tình.
Trong hành trình theo chân con sông xuôi về đồng bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra sự thay đổi tính cách của sông Hương. Toàn bộ thuỷ trình của dòng sông được tác giả cảm nhận như “một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân đích thực của cô gái trong câu chuyện tình yêu nhuốm màu cổ tích”. Không gian mở ra đẹp như huyền thoại: “Phải nhiều thế kỉ đi qua, người tình mong đợi mới đến đánh thức người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại”. Ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã “chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Dòng sông như bừng lên sức trẻ, niềm khao khát tình yêu, không thể chờ đợi thêm để có thể gặp được Huế. “Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế”. Câu văn dài, liệt kê nhiều địa danh khiến người đọc có cảm giác được ngồi trên du thuyền mà chiêm ngưỡng danh lam xứ Huế. Nhà văn đã vận dụng những kiến thức văn hóa trên nhiều lĩnh vực, kết hợp giữa kể và tả để làm nổi bật từng bước đi của sông Hương.
Bức tranh sông Hương có thêm đường nét, có hình khối. “Sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách, với những điểm cao đột ngột như Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo mà từ đó, người ta luôn nhìn thấy dòng sông mềm như tấm lụa với những chiếc thuyền xuôi ngược chỉ bé bằng con thoi”. Qua những dãy đồi phía Tây Nam thành phố, sông Hương “ánh lên những phản quang rực rỡ. Nếu ta từng yêu cái xanh mướt mát như ngọc trong khu vườn thôn Vĩ, ắt hẳn cũng sẽ say mê sắc màu “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” của sông Hương. Xanh, vàng, tím đều là những gam màu quen thuộc nhưng qua con mắt của Hoàng Phủ Ngọc Tường bỗng trở thành đặc trưng của không gian Huế. Lạc đến những lăng tẩm, đền đài sông Hương mang vẻ đẹp trầm mặc “như triết lí, như cổ thi”. Lướt mình dưới chân những rừng thông u tịch, dòng sông khẽ khàng đi qua những lăng mộ của các vua chúa triều Nguyễn. Mặt nước phẳng lặng, êm ái. Tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân dài, tiếng gà gáy vẳng đến từ các thôn xóm. Không gian thật thanh bình và cổ kính. Hoàng Phủ Ngọc Tường trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp khi có thể khắc họa những đường uốn lượn của dòng sông.
Nhà văn đang đóng vai một người kể chuyện, đôi khi tập trung vào những chi tiết rồi lại kéo ta trở về với hành trình chính. Đắm mình trong tiếng chuông chùa, ta giật mình nhận ra những xóm làng đã lùi xa. Sông Hương đã gặp Huế. Sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”. Như những người yêu nhau không thể kìm lòng trong giây phút gặp mặt, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng Tây – Nam, Đông - Bắc” khi nhìn thấy “chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như một vành trăng non”. Càng đến gần thành phố, sông Hương càng phô bày hết vẻ nữ tính, yêu kiều. “Khi đã giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương Uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”. Tiếng “vâng” ở đây chính là sự đồng điệu của hai trái tim cùng chung nhịp đập. Chứng kiến câu chuyện tình yêu giữa sông Hương và Huế, ngắm nhìn dòng sông khi đã ở trong lòng thành phố của nó, ta mới thấy hết được vẻ đẹp, sức sống “bình dị nhưng không tầm thường, trầm mặc nhưng không ủy mị, dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” mà Hoàng Phủ Ngọc Tường từng ngợi ca trong “Sử thi buồn”.
Vốn sống phong phú, kiến thức uyên bác của nhà văn được thể hiện trực tiếp nhất ở đoạn miêu tả sông Hương khi chảy vào thành phố Huế. Tác giả miêu tả chi tiết những phong tục, lễ hội của người dân nơi đây.Nhưng nếu chỉ kể, tả, Hoàng Phủ Ngọc Tường mới chỉ là một người ghi chép. Ông thổi hồn vào từng ánh hoa đăng bồng bềnh “chao nhẹ trên mặt nước như những vương vấn của một nỗi lòng”. Kiến thức về âm nhạc đã giúp nhà văn tìm được cách biểu đạt gợi cảm, trữ tình, lãng mạn nhất để nói về “điệu Slow tình cảm” dành riêng cho Huế của sông Hương. Thiên tình ca vẫn được tiếp tục. Ngắm dòng sông, mà ta thấy được bao triết lí về tình yêu và con người. Cách nói “dành riêng cho Huế” đem đến cảm giác dòng sông đã thay dòng để đắm mình với cảnh sắc Huế cũng như con người khi yêu bỗng biết thay đổi để hòa hợp. Bên cạnh đó, tác giả còn so sánh sông Hương với sông Xen của Pari, sông Đa – nuýp của Bu- đa – pét, dòng sông Nê-va để thể hiện tình yêu, niềm tự hào về quê hương xứ sở.
Khi xa Huế, sông Hương xiết bao thương nhớ. Con sông chẳng muốn rời xa Huế, vẫn để lại chút lưu luyến giữa màu xanh biếc của tre trúc và những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Như bước chân “Xăm xăm băng lối” của nàng Kiều thuở xưa, dòng sông “đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng Đông -Tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ”. Sự thủy chung, son sắt của sông Hương dành cho Huế cũng chính là “tấm lòng người dân Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
Là nhà văn của những dòng sông, Hoàng Phủ Ngọc Tường từng nhận xét: “Sông Hồng là nỗi nhớ về phù sa của đời người, sông Cửu Long là sức mạnh đi tới biển và sông Hương như nỗi hoài vọng về một cái đẹp không thể đạt tới”. Có lẽ, sông Hương có “cái đẹp không thể đạt tới ấy” bởi nó hàm chứa trong mình rất nhiều giá trị về văn hóa, lịch sử đằng sau vẻ nên thơ khiến ta mãi hoài vọng, băn khoăn. Sông Hương gắn với âm nhạc cổ điển Huế, trở thành “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”. Những âm thanh trong trẻo, quý báu trở thành di sản đã lớn lên từ những khoang thuyền, những mái chèo khuya. Điều này khiến tác giả liên tưởng tới việc có người nghệ nhân già gần thế kỷ chơi đàn, một đêm nghe con gái đọc Kiều: “Trong như tiếng hạc bay qua/Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”.
Soi chiếu con sông từ góc độ thi ca, tác giả cho rằng đây là con sông “không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các thi sĩ”. Này là “Dòng sông trắng lá cây xanh” trong cái nhìn tinh tế của Tản Đà, này là “Kiếm dựng trời xanh” trong khí phách Cao Bá Quát,… Sông Hương trở thành mạch nguồn cho vô vàn sáng tạo nghệ thuật.
Trong mối quan hệ với lịch sử đất nước, sông Hương trở thành “sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Nhà văn đã đưa người đọc trở về với quá khứ gian lao mà hào hùng của đất nước để cảm nhận giá trị của sông Hương. Dòng sông ấy đã có từ thời các vua Hùng, về sau lại chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc. Bước vào thế kỉ XVIII, sông Hương vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. Khi cả nước giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, đánh đuổi thực dân Pháp, sông Hương cũng có cho mình những chiến công rung chuyển. Lời phát biểu của đại tướng Võ Nguyên Giáp đã để lại trong ta bao xúc động nghẹn ngào: “Lịch sử Đảng đã ghi bằng nét son tên của thành phố Huế, thành phố tuy nhỏ nhưng đã cống hiến rất xứng đáng cho Tổ quốc”.
Bằng tất cả tình yêu của mình, nhà văn đã khắc họa dòng sông trên tất cả các phương diện. Với ngôn ngữ trong sáng, lối hành văn tài hoa lãng mạn, hình ảnh phong phú, liên tưởng đặc sắc, kết hợp hài hoà giữa cảm xúc và trí tuệ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết nên bản tình ca nồng nàn về thiên nhiên và con người cố đô:
“Sao thèm một điệu gì xưa lắm
Thèm đọc một đoạn văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Có ai đó rót chiều vào chén ngọc
Huế dịu dàng xây bằng khói và sương.”
Phân tích tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” - mẫu 3
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một văn, một nhà trí thức yêu nước, có vốn hiểu biết sâu rộng trên nhiều hình vực. Ông cũng là một nghệ sĩ đa tài với nhiều thể loại, và đặc biệt thành công về thể loại bút kí. Nét đặc sắc, độc đáo trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường đó chính là sự kết hợp nhuần nhuyễn, tài hoa giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với suy tư đa chiều, có được từ việc tổng hợp vốn kiến thức sâu rộng về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí, cùng lối hành văn hướng nội súc tích, tài hoa và mê đắm. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài bút kí xuất sắc trong sự nghiệp sáng tác của ông được viết tại Huế 1981.
Tác phẩm đã tái hiện lại vẻ đẹp của cảnh quan thiên nhiên sông Hương, thể hiện sự gắn bó của con sông với chiều dài lịch sử và văn hoá của xứ Huế, của đất nước. Qua đó nhà văn bày tỏ niềm tự hào tha thiết dành cho dòng sông Hương, cho xứ Huế thân thương và cũng là cho đất nước.
Sông Hương nhìn từ hướng thượng nguồn là dòng chảy có mối quan hệ sâu sắc với dãy Trường Sơn. Trong mối quan hệ này, sông Hương tựa như một bản trường ca vang dội của rừng già với nhiều tiết tấu hùng tráng, dữ dội, hào hùng: khi thì rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, lúc lại mãnh liệt vượt qua các ghềnh thác, khi thì cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực sâu, có lúc lại dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ rực của hoa đỗ quyên rừng.
Với biện pháp nhân hoá, sông Hương được ví như cô gái Digan phóng khoáng và man dại với một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn thích tự do và trong sáng. Theo nhà văn, nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành mà không chú ý tìm hiểu về nguồn cội của sông Hương, người ta sẽ khó mà hiểu hết được các vẻ đẹp trong phần tâm hồn sâu thẳm của dòng sông mà chính nó không muốn bộc lộ ra.
Như vậy, ở vùng thượng nguồn, sông Hương có thể chất mạnh mẽ, toát lên vẻ đẹp của một sức sống tràn đầy, mãnh liệt, hoang dại, đầy cá tính. Khi sông Hương chảy về kinh thành Huế lại mang những vẻ đẹp khác đa dạng, nó gắn bó với đặc trưng văn hoá, không gian kinh thành Huế. Trước khi trở thành người tình dịu dàng, thắm thiết và chung thuỷ của cố đô, thì sông Hương đã trải qua một hành trình đầy gian truân và nhiều thử thách. Trong cái nhìn tinh tế và lãng mạn, tài hoa của tác giả, toàn bộ thuỷ trình của dòng sông Hương tựa như một cuộc tìm kiếm có ý thức người tình nhân của người con gái trong một câu chuyện tình yêu mang đậm màu cổ tích.
Đoạn văn miêu tả sông Hương khi nó chảy xuôi về đồng bằng và ngoại vi thành phố bộc lộ ra cái nét lịch lãm và tài hoa trong lối hành văn của tác giả. Người đọc sẽ khó cưỡng lại sức hấp dẫn toát lên từ hàng loạt những động từ diễn tả cái dòng chảy sống động đầy thơ mộng qua những địa danh khác nhau của xứ Huế.
Giữa cánh đồng Châu Hoá với đầy hoa dại, sông Hương như một “cô gái đẹp ngủ mơ màng”; nhưng ngay sau khi ra khỏi vùng núi ấy thì cũng như công chúa được đánh thức bởi nụ hôn của hoàng tử, dòng sông Hương bỗng bừng lên sức trẻ và niềm khao khát mãnh liệt của tuổi thanh xuân, được thể hiện qua sự “chuyển dòng liên tục”, “rồi vòng những khúc quanh đột ngột”, vẽ lên một hình cung thật tròn, ôm trọn lấy chân đồi Thiên Mụ, rồi lại “vượt qua”, “đi giữa âm vang”, cuối cùng là “trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”…
Vừa mạnh mẽ lại vừa dịu dàng, sông Hương có lúc thì “mềm như tấm lụa” khi đi qua Vọng Cảnh, Tam Thai, Lựu Bảo; có khi thì ánh lên “những phản quang nhiều màu sắc sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” khi nó đi qua những dãy đồi núi phía tây nam của thành phố và lại mang vẻ đẹp trầm mặc, sâu sắc khi qua bao lăng tẩm, đền đài của cố đô mang niềm kiêu hãnh âm u được phong kín trong những rừng thông u tịch cho đến lúc lại bừng sáng, tươi tắn và trẻ trung, vui tươi khi gặp được “tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà”…
Hai bút pháp kể và tả xen kẽ được kết hợp nhuần nhuyễn hài hòa trong đoạn văn trên đã làm nổi bật một dòng sông Hương đẹp tuyệt trần bởi bối cảnh kì thú giữa nó với thiên nhiên xứ Huế mộng mơ, phong phú mà hài hoà. Sông Hương khi chảy trong kinh thành Huế, nó như đã tìm thấy chính mình khi gặp lại thành phố thân yêu, sông Hương trở lên “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông ấy “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo phía tây nam – đông bắc”, rồi lại “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến cho dòng sông mềm mại hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”.
Nằm ngay giữa lòng thành phố yêu quý, thân thương của mình, sông Hương cũng giống như sông Seine của Pari hay sông Đa Nuýp của Budapest,… nhưng trong cách biểu đạt tài hoa, uyên bác của tác giả, sông Hương được cảm nhận từ nhiều góc độ khác nhau: nó được nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó đã tạo lên những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc thì sông Hương lại “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, suy tư, đầy trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình thì sông Hương lại là người tình dịu dàng và chung thuỷ.
Điều này được thể hiện trong một phát hiện thú vị của tác giả qua đoạn văn: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ.
Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo nhà văn khúc quanh thật bất ngờ đó, như thể hiện một “nỗi vương vấn, trăn trở”, và dường như nó còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu vậy.
Sông Hương trong mối quan hệ khăng khít với lịch sử dân tộc lại mang một vẻ đẹp của bản hùng ca ghi dấu những dấu mốc lịch sử của thế kỉ vinh quang từ thuở còn là một dòng sông ở tận biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, thuở nó còn mang tên là Linh Giang (hay dòng sông thiêng) trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, và là “dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại ”, nó đã “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” vào thế XVIII; nó cũng đã “sống hết lịch sử đầy bi tráng của thế kỉ mười chín với máu của những cuộc khởi nghĩa”, nó chứng kiến thời đại mới với sự thành công vang dội của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bao cuộc chiến công rừng chuyển qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc về sau này.
Sông Hương với cuộc đời và thi ca như là một nhân chứng đầy tính nhẫn nại và kiên cường qua những thăng trầm, những biến đổi của cuộc đời. Tuy nhiên, cái điều làm nên vẻ đẹp giản dị mà khác thường ấy của dòng sông đó là ở chỗ: khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến dâng bản thân mình để làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống đời thường, làm một người con gái dịu dàng, đằm thắm của đất nước. Có lẽ chính điều đó đã làm cho dòng sông Hương thơ mộng này không bao giờ tự lặp lại mình trong nguồn cảm hứng của các nghệ sĩ.
Có thể nói, nét đặc sắc nhất làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của đoạn văn đó chính là tình yêu say đắm, tha thiết với dòng sông được thể hiện bằng tài năng vượt bậc của một cây bút giàu trí tuệ, được tổng hợp từ một vốn hiểu biết sâu rộng về các lĩnh vực từ văn hoá, lịch sử, địa lí tới văn chương, cùng với một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và đầy tài hoa.
Trích đoạn bài kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã gợi lên vẻ đẹp của xứ Huế, của tâm hồn người dân nơi đây qua sự quan sát sắc sảo, tinh tế của nhà văn về dòng sông Hương. Ông quả xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điển sống về cố đô Huế, một cây bút tài năng giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. Bài kí đã góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào to lớn đối với dòng sông Hương và cũng là với quê hương đất nước.
Xem thêm sơ đồ tư duy của các tác phẩm, văn bản lớp 12 hay, chi tiết khác:
- Sơ đồ tư duy Đàn ghi ta của Lorca
- Sơ đồ tư duy bài thơ Đất nước
- Sơ đồ tư duy Người lái đò sông Đà
- Sơ đồ tư duy Những đứa con trong gia đình
- Sơ đồ tư duy Rừng Xà Nu
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều