10+ Cảm nhận Đất nước đoạn 2 (điểm cao)

Tổng hợp 10+ Cảm nhận Đất nước đoạn 2 điểm cao, hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Dàn ý Cảm nhận Đất nước đoạn 2

1. Mở bài

+ Giới thiệu đôi nét về tác giả và tác phẩm.

+ Dẫn dắt đoạn 2 Đất Nước.

2. Thân bài

+ Ví trí đoạn trích: Sau khi cảm nhận đất nước qua nhiều phương diện của lích sử, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến câu trả lời ngắn gọn và làm thức tỉnh tinh thần yêu nước trong nhân dân ta: “Đất nước trong nhân dân là gì?”

+ Cảm nhận:

* Vạn vật của đất nước không chỉ do tự nhiên tạo ra mà những phẩm chất tốt đẹp là một phần máu thịt của con người.

* Tình yêu thủy chung son sắc mà ta có “hòn Trống” “hòn Mái”

* Nhờ truyền thống hiếu học mà ta có “núi Bút” và “núi nghiên”

* Nhờ có tình yêu quê hương đất nước, tinh thần bất khuất, dũng cảm mà chúng ta mới có những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước.

* Con người làm nên 4000 năm lịch sử

* Họ là những người dân là những người con trai con gái họ có tình yêu quê hương đất nước

* Tác giả nhấn mạnh sự hi sinh của những người vô danh cống hiến cả tuổi thanh xuân để bảo vệ đất nước để bảo vệ thế hệ mai sau.

* Nhân dân tạo ra những giá trị vật chất giá trị tinh thần văn hóa; “Truyền lửa”, “Truyền giọng nói”….

* Đoạn trích ” Đất nước” là một cái nhìn mới mẻ về bình diện : lịch sử, văn hóa , địa lí dựa trên những cơ sở cốt lõi

* Sử dụng sáng tạo chất liệu dân gian ngôn ngữ giàu chất triết lí

3. Kết bài

+ Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.

Cảm nhận Đất nước đoạn 2 - mẫu 1

Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, sáng tác của ông nổi bật với phong cách thơ trữ tình, cảm xúc thiết tha, suy tư sâu sắc. Sử thi “Mặt đường khát vọng” tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm được sáng tác năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên nhằm mục đích giáo dục thanh niên thành thị vùng tạm chiến miền Nam về sứ mệnh của mình. với cuộc kháng chiến chống Mỹ. Đoạn “Đất nước” nằm trong chương thứ năm của Bài ca dài và là một trong những đoạn hay nhất của tác phẩm viết về đất nước.

Mở đầu đoạn trích, tác giả có cảm nhận mới về quá trình hình thành đất nước. Đất nước được hình thành một cách bình dị, gần gũi và gắn bó với cuộc sống hàng ngày, đó là những câu chuyện cổ tích, hay những câu ca dao, những phong tục tập quán của con người và đất nước.

Ở khổ thơ thứ hai, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện một cách cảm nhận mới nhưng cũng rất đỗi bình dị về hai tiếng đất nước. Đất nước là gì? Đất nước là những thứ gần gũi với ta, là con đường ta đi học, là lớp học ta ngồi, là bến đò em tắm, là cây đa, là giếng nước, là sân đình, là không gian riêng của những đôi lứa yêu nhau. Đất nước còn là sự hòa quyện của cá nhân với cá nhân với cộng đồng, đất nước là sự hòa quyện của tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước. Đất nước là những truyền thống cao đẹp gần gũi với mỗi chúng ta, đất nước là máu, là xương, là máu, là thân thể và ruột thịt, là thứ mà chúng ta bảo vệ cho dù phải hy sinh tất cả.

Theo tác giả Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân là chủ của nước, là người canh giữ, bảo vệ và xây dựng đất nước. Để làm rõ tư tưởng đó, tác giả đã xem xét kỹ các tầng địa lý, lịch sử, văn hóa của đất nước để chứng minh nhân dân là chủ thể sáng tạo ra đất nước trong không gian địa lý.

Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn đất nước qua những danh lam thắng cảnh trải dài trên đất nước. Tất cả những địa danh đó đều gắn liền với những di tích lịch sử, một sự thật mà lịch sử đã chứng kiến. Nói cách khác, chính những truyền thuyết, sự tích, sự kiện lịch sử về nội dung đã biến địa danh ấy thành danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hóa được mọi người công nhận và biết đến là người vợ nhớ chồng lên núi “Vọng Phu”, là đôi trai gái yêu nhau ở hòn Trống Mái, là những sinh viên nghèo tạo nên núi Bút Nghiên hay Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Đen… Diễm đã góp phần tạo nên những địa danh mang tên mình.

Trong cảm nhận của nhà thơ, mỗi danh lam thắng cảnh không chỉ là một nét vẽ tô điểm cho đất nước hình chữ S của chúng ta mà hàng nghìn năm qua còn ẩn chứa sự chung thủy, tình vợ chồng, nghĩa tình. truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của đất nước, lòng biết ơn cội nguồn, biết ơn người đi trước, người có công với nước, tinh thần hiếu học, ý chí vượt khó khăn gian khổ, tinh thần xả thân vì cộng đồng. Khai thác đất nước về mặt địa lý, tác giả không chỉ cảm nhận đất nước trù phú mà còn cảm nhận nhiều vùng đất, nhiều địa danh mang những tên gọi dân dã.

Đặc biệt, nhà thơ không chỉ nhìn đất nước từ bên ngoài mà còn nhìn sâu vào bên trong để phát hiện ra chính con người tạo nên những địa danh đó để từ đó tác giả đi đến những kết luận chung.

Những danh lam thắng cảnh nổi tiếng trong cả nước đều do nhân dân tạo nên, tất cả đều là kết tinh công sức của những con người bình thường vô danh. Nói cách khác, người dân là người tạo ra đất nước từ mọi khía cạnh địa lý. Bằng nghệ thuật kết cấu quy nạp liệt kê động từ “góp công” lặp đi lặp lại nhiều lần, nhà thơ khẳng định công lao khó nhọc để làm nên những nơi ấy.

Tác giả cũng khai thác về mặt lịch sử, tác giả đã nhìn vào bốn nghìn năm lịch sử của nước ta để thấy rằng nhân dân ta là những người cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu. những mốc son oanh liệt của các anh hùng như Nguyễn Trãi, Hưng Đạo Đại Vương, Nguyễn Huệ… không chỉ là những anh hùng nổi tiếng, tác giả còn nói về sự hi sinh tinh thần của những con người vô danh mà họ có thể là những người lính họ đã hi sinh cả tuổi thanh xuân để bảo vệ Tổ quốc. còn lại nơi chiến trường, họ là những người không tên không tuổi, nhưng họ đã cống hiến hết mình cho đất nước, hay là những con người ngày đêm miệt mài. Họ làm nên đất nước bằng cách truyền lại cho chúng ta những giá trị vật chất và tinh thần bằng hạt gạo, tiếng nói, ngọn lửa và bản sắc văn hóa dân tộc.

Họ là những người có công đánh đuổi giặc ngoại xâm tạo dựng chủ quyền để làm nền móng cho các thế hệ mai sau và các thế hệ mai sau thay phiên nhau giữ gìn và phát triển đất nước. Nhà thơ khẳng định vai trò của nhân dân trong việc giữ gìn truyền thống văn hóa để làm nên đất nước tươi đẹp.

Giọng điệu mềm mại, uyển chuyển, có lúc thủ thỉ, có lúc trang nghiêm, sử dụng tốt chất liệu văn hóa, dân gian, có sự đan xen giữa chất chính luận và chất trữ tình, đi sâu vào lòng người đọc, phần hai của đoạn văn. Trích dẫn Đất nước không chỉ nêu định nghĩa về đất nước mà còn thể hiện quan niệm của tác giả về tư tưởng nhân dân.

Cảm nhận Đất nước đoạn 2 - mẫu 2

Nếu như ở khổ thơ đầu tiên của “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm khơi gợi tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, cắt nghĩa sự hình thành của Đất Nước thì ở khổ thơ thứ hai, con mắt thơ Nguyễn Khoa Điềm đặt hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng địa lý. không gian, chiều dài thời gian lịch sử, và trong các mối quan hệ mật thiết của mỗi cá nhân.

“Đất là nơi em đi học

Nước là nơi tôi tắm

Đất nước là nơi chúng ta gặp nhau

Đất nước là nơi tôi đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ

Mảnh đất nơi “phượng hoàng bay về núi bạc”

Mặt nước là nơi “móng vuốt của ngư dân nước biển”

Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt trong cách dùng từ, đặt câu khi ở đây, nhà thơ trích ra hai chữ Đất Nước để phân tích tâm hồn ẩn sâu bên trong nó. Đất là nơi em đi học, nước là nơi em tắm, nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó mật thiết với đời sống con người. Trước đây, khi viết về đất nước, các nhà thơ thường gọi nó, tô vẽ nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, thì nay Nguyễn Khoa Điềm gợi ra đất nước còn là không gian thân thương, nơi gắn bó tình cảm, nơi khơi nguồn và khơi nguồn cảm hứng. là điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm kín của người con gái nên nó vừa tuyệt vời vừa là mảnh ký ức gợi nhớ cho tâm hồn bất cứ ai. Ở hai câu thơ tiếp theo, Đất nước tái hiện trong ca dao, tục ngữ, để thấy rằng Đất nước không chỉ đánh thức kí ức tuổi thơ mà còn đánh thức kí ức văn hoá cộng đồng, nét đẹp của con người. truyền thống cộng đồng.

“Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Đất nước là sự rèn giũa, kết hợp giữa dòng chảy vô tận của thời gian bao la nhưng thời gian ở đây không phải là thời gian vô tri vô giác mà là thời gian của lịch sử văn hóa. Nhắc lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ là gợi lại những ký ức lịch sử, văn hóa của cộng đồng, đồng thời cũng là điểm tựa để gợi nhớ những nét đẹp văn hóa dân gian của dân tộc. Đất Nước trường tồn, Đất Nước vẫn bất tử giữa không gian bao la, không gian hùng vĩ.

Nhìn đất nước theo cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, đất nước còn là sợi dây kết nối những thế hệ đã qua và thế hệ sau.

“Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Để làm nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất nước, chắc chắn đó là sự tích tụ, tiếp nối của biết bao thế hệ con cháu đã ngã xuống, hy sinh cho nền độc lập dân tộc. Đất nước sáng mãi trong lòng mỗi người bởi sự hy sinh cao cả, vĩ đại, bởi tinh thần dân tộc như ngọn lửa truyền qua bao thế hệ. Và vì thế, đồng bào các dân tộc luôn tự nhắc mình đạo lý uống nước nhớ nguồn truyền thống: Hằng năm nhớ ngày giỗ Tổ.

Tiếp tục mạch lập luận, nhà thơ nhìn Đất Nước trong cả mối quan hệ của mỗi cá nhân:

“Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn tròn, to lớn

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang đất nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng”.

Trong anh và em, trong mỗi chúng ta đều thấm đượm hồn quê. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa mỗi cá nhân và cả cộng đồng, giữa cái nhỏ và cái lớn, giữa cái mộc mạc gần gũi và cái xa vời vợi. Từ đó, bắc một nhịp cầu đến trái tim người đọc, rằng: Đất nước ở trong ta, không ở ngoài ta, và do đó:

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…”

Viết về đất nước, đó là nguồn cảm hứng bất tận và ở mỗi giai đoạn lịch sử, các nhà thơ, nhà văn lại gửi gắm vào đó linh hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm viết Đất nước với mong muốn thức tỉnh những người chiến sĩ tham gia kháng chiến kiến quốc, soi sáng, hướng dẫn họ nhưng giọng thơ của ông không hề giáo điều. đong đầy, nghẹn ngào yêu thương, như lời nhắn nhủ chân thành, như lời chuyển giao thế hệ. Nó khiến người đọc đồng cảm hơn, cảm nhận rõ hơn về sự hòa hợp, gắn kết của đất nước trong tâm hồn mỗi người. Đất nước là máu xương của mỗi người, bởi nó được xây dựng và gìn giữ bằng chính cuộc đời và lòng yêu nước thiêng liêng của biết bao thế hệ đã ngã xuống và hy sinh. Và cũng bởi Đất nước cho ta máu thịt, cho ta cách sống, cách nghĩ, cho ta điểm tựa về truyền thống văn hóa, lịch sử – những yếu tố ấy đã hun đúc nên vẻ đẹp tâm hồn của chính ta. của người Việt Nam, trong đó có bạn và tôi, mỗi chúng ta. Nếu cá nhân nào tồn tại đơn độc, không có cộng đồng để bấu víu, làm điểm tựa cho sự phát triển và nuôi dưỡng văn hóa tinh thần, thì chẳng khác nào chúng ta trở nên vô minh. bạn thua? Đó là ý nghĩa sâu xa nhất mà Đất Nước có tác động đến mỗi chúng ta. Vì vậy, mỗi chúng ta đều có trách nhiệm hóa thân thành hình đất nước, phải dấn thân hy sinh, vì đó cũng chính là sự sáng tạo tinh thần của mỗi chúng ta.

Khổ thơ thứ hai thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Vì vậy, nó không chỉ tạo được sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc mà còn làm tăng sức nặng của những triết lí, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là diễn đạt nó bằng cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu sắc.

Cảm nhận Đất nước đoạn 2 - mẫu 3

Đất Nước vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca, trở thành nguồn cảm hứng bất tận, khơi gợi cảm xúc cho biết bao ngòi bút. Ở mỗi thời đại lịch sử, Đất  Nước lại được định nghĩa theo những quan niệm khác nhau. Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào sảng, trang trọng, mang dáng vóc kỳ vĩ khó chạm tới trong thơ Lý Thường Kiệt:

"Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư"

Nguyễn Trãi trong "Bình Ngô Đại Cáo" cũng đã khẳng định sự tồn tại lâu đời của đất nước bằng các yếu tố văn hóa, văn hiến, cương vực lãnh thổ, phong tục tập quán, sự hiện diện của các triều đại lịch sử và những anh hùng hào kiệt:

"Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có."

Hay đó là một đất nước tráng lệ, huy hoàng với tầm vóc lớn lao, kì vĩ trong thơ Nguyễn Đình Thi:

"Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa"

Và với nhà thơ Thanh Hải, đất nước lại lung linh, kỳ ảo:

"Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước."

Nhưng khi đến với Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, ta thấy đất nước mình bình dị và thân quen, gần gũi đến lạ thường. Không chỉ vậy, nhà thơ còn đưa đến một cảm giác mới mẻ, thấm thía và xúc động về Đất Nước trong quan hệ với cuộc sống của nhân dân dưới góc độ văn hóa dân gian. "Đất Nước không phải là những gì trừu tượng, xa lạ, lớn lao mà là những gì rất đỗi gần gũi, quen thuộc, gắn bó với đời sống và tinh thần của con người”. Khổ thơ thứ 2 của bài là những cảm nhận, định nghĩa rất mới mẻ của tác giả về Đất Nước. Vậy, Đất Nước là gì? Nguyễn Khoa Điềm viết:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn tròn, to lớn.”.

Những tưởng rằng đất nước là những gì cao siêu, xa vời, khác thường, nhưng không, đối với Nguyễn Khoa Điềm không gian đất nước lại được tái hiện hết sức bình dị, gần gũi với cuộc sống hàng ngày của con người: “Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm”; đất nước là không gian của tình yêu đôi lứa, để đôi ta hò hẹn và nhung nhớ nhau trong chiếc khăn lỡ đánh rơi; không chỉ vậy, đất nước còn là nơi trở về của những người con có tình yêu quê hương tha thiết, sâu nặng: “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc/ Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”; và đất nước còn là không gian sinh sống của biết bao thế hệ cha ông.  Đất nước hiện lên vừa giản dị, là nơi gầy dựng cuộc sống yên ấm hạnh phúc, lại vừa lớn lao, vĩ đại.

Không chỉ cảm nhận đất nước ở chiều không gian, mà tác giả còn cảm nhận cả ở chiều dài lịch sử từ quá khứ “đằng đẵng”, đất nước hào hùng, với sự ngã xuống của nhiều người, đem lại bình yên cho quê hương, xây dựng phong tục tập quán và “gánh vác phần người đi trước ở lại/ Dặn dò con cháu việc mai sau”. Trong hiện tại, đất nước giản dị gần gũi, trong mỗi con người đều có một phần của đất nước, và khi có sự đoàn kết của tất cả mọi người sẽ đem lại một đất nược vẹn tròn, đầy đủ và tràn đầy sức mạnh nhất: “Khi chúng ta nắm tay mọi người/ Đất nước vẹn tròn to lớn”.

Đất Nước đã thể hiện những suy ngẫm vô cùng sâu sắc, những tình cảm tha thiết của ông dành cho đất nước. Đồng thời tư tưởng đất nước của nhân dân bao trùm toàn bộ tác phẩm, cho thấy nhận thức đứng đắn và long biết ơn sâu sắc của ông đối với thể hệ đi trước, đặc biệt là khổ thơ thứ 2. Bài thơ Đất Nước nói chung, đoạn 2 bài thơ nói riêng, có sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và trữ tình, vận dung linh hoạt chất liệu văn hóa dân gian, nhịp thơ linh hoạt góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

Cảm nhận Đất nước đoạn 2 - mẫu 4

Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn màu muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Đặc biệt, với tác phẩm, lần đầu tiên trong văn học nước nhà lại có một định nghĩa về Đất nước độc đáo, mới lạ và bình dị đến vậy. Khổ thơ thứ 2 của bài chính là câu trả lời của tác giả cho vấn đề: Đất nước là gì?

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”

Sau câu hỏi Đất Nước có từ bao giờ, Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khai thác hình tượng Đất Nước ở câu hỏi “Đất Nước là gì?”. Ông không trả lời khái niệm này theo cách của các nhà khoa học mà là dưới cương vị của một nhà thơ, dùng lối chiết tự, tách Đất Nước thành hai thành tố là “Đất” và “Nước” để mà định nghĩa, giúp người đọc có được cách hiểu chính xác nhất, đầy đủ nhất về khái niệm Đất Nước. Về phương diện địa lý Nguyễn Khoa Điềm ví “Đất là nơi anh đến trường/Nước là nơi em tắm” là không gian gần gũi, thân thuộc đối với mỗi người trong cuộc sống đời thường. Rồi “Đất Nước là nơi ta hò hẹn/Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, tác giả đã hợp hai thành tố lại thành “Đất Nước” theo thời gian anh và em lớn dần lên, nếu trước đây anh và em là hai cá thể và Đất Nước cũng tách riêng ra thì bây giờ anh và em đã hợp lại thành một cặp tình nhân “hò hẹn” và Đất Nước trở thành một cái không gian riêng tư, thầm kín cho tình yêu của lứa đôi. Không chỉ thế “Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc...Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ” lại cho ta thấy Đất Nước ở một dáng vẻ khác, nếu ở trên ta thấy một Đất Nước nhỏ bé dung dị thì tới những câu thơ này ta lại thấy Đất Nước mang một dáng vẻ kỳ vĩ và lớn lao được đo bằng sải cánh của con chim phượng hoàng bay về núi bạc, được đo bằng sự mênh mông, rộng lớn của biển khơi. Và cuối cùng dù đi đâu về đâu thì phượng hoàng cũng phải về núi, cá ngư ông thì phải vùng vẫy ở biển và dân tộc Việt Nam thì phải đoàn tụ ở nơi có tên là Đất Nước. Như vậy có thể tóm gọn lại Đất Nước chính là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương.

“Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Về phương diện thời gian lịch sử, tác giả đã trả lời cho câu hỏi Đất Nước là gì bằng một cái nhìn bao quát suốt chiều dài thời gian lịch sử để đưa ra một câu trả lời chính xác nhất. Trong quá khứ đó là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi tác giả gợi nhắc về truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về truyền thống hào hùng dựng nước và giữ nước của cha ông, mở ra triều đại đầu tiên của nước ta, triều đại vua Hùng tục truyền kéo dài đến 18 đời. Kèm với đó là những lời dặn dò chân thành tha thiết, phải biết kế tục hương hỏa, duy trì nòi giống dân tộc, phải đứng lên mạnh giữ gìn non sông gấm vóc, và luôn nhớ về nguồn cội của mình với tấm lòng thành kính, trân trọng.

“Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn tròn, to lớn”

Trong hiện tại, Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn tồn tại trong từng nếp sống. “Khi hai đứa cầm tay/Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm” là sự tiếp nối của ý thơ “Đất Nước là nơi ta hò hẹn”, thì đến đây trên cơ sở tình yêu lứa đôi mỗi con người phải có trách nhiệm xây dựng một tổ ấm để góp phần xây dựng một “Đất Nước hài hòa nồng thắm”. Không chỉ dừng lại ở đó, trách nhiệm của mỗi con người còn là “cầm tay mọi người”, phải nối vòng tay lớn, xây dựng khối đại đoàn kết cộng đồng vững mạnh để tạo nên một “đất nước vẹn trong to lớn” để sánh vai với các cường quốc năm châu. Không chỉ vậy hình ảnh thơ “cầm tay mọi người” còn gợi nhắc về nguồn gốc tổ tiên, nhắc nhở chúng đều cùng một mẹ sinh ra, thế nên phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau.

Khổ 2 Đất Nước, và đoạn trích nói chung, là những ngôn từ đậm màu Nguyễn Khoa Điềm. Những cảm nhận của tác giả về bài thơ như những lời tâm sự, chia sẻ, để lại trong độc giả những cảm xúc, suy tư mới và những bài học quý giá về tình yêu quê hương, đất nước, đồng bào.

Cảm nhận Đất nước đoạn 2 - mẫu 5

Đất nước là đề tài muôn thuở trong thơ ca, nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh ấy, tình yêu đất nước lại càng sáng ngời trong trái tim của mỗi người con đất Việt. Đoạn trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong những bối cảnh đó.

Nói đến văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta biết đến các nhà thơ thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật… đã viết về tinh thần của cả một thế hệ người:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

mà lòng phơi phới dậy tương lai.”

Một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ phải kể đến một nhà thơ đã trưởng thành rất nhiều trong chiến thắng lâu dài nhưng chắc chắn của dân tộc – đó là Nguyễn Khoa Điềm.

Khi nhắc đến tác giả Nguyễn Khoa Điềm, trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều không thể quên phong cách thơ của ông, đó là phong cách thơ mà trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đã làm say lòng người đọc bởi những cảm xúc sâu lắng, giàu chất chiêm nghiệm, thể hiện tâm thế của người trí thức tích cực tham gia cuộc đấu tranh vẻ vang của nhân dân. Một trong những kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích “Đất Nước” nằm trong chương V của “Bài ca khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu. 1974.

Tác phẩm cũng đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của dân” được nhân dân mãi mãi bảo vệ và giữ gìn trên cả ba phương diện: chiều rộng không gian địa lý, chiều dài lịch sử và chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm câu hỏi: “Đất nước này ai dựng nên, ai sẽ bảo vệ, gìn giữ nó muôn đời?” và từ đâu để trả lời những câu hỏi đó, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của chính mình để tìm về cội nguồn đất nước.

Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước ở khía cạnh chiều sâu văn hóa, chúng ta phải hiểu văn hóa là những giá trị mà con người của một vùng đất tạo ra. Có thể ở đây có giá trị tinh thần hoặc giá trị phi vật thể. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm nhận thấy người Việt Nam không chỉ ra đi bảo vệ bờ cõi mà còn trao truyền, đùm bọc lẫn nhau những hạt giống của dân tộc ta, những nét đẹp thấm đượm cốt cách của người Việt Nam. truyền từ đời này sang đời khác, từ trong lòng người già đến lồng ngực lớp trẻ, đó là nét đẹp đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Đất nước bắt đầu từ một cách trang trọng nhưng rất giản dị và gần gũi.

Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” nhằm hình dung quá trình phát triển của đất nước trong trường kỳ lịch sử, đất nước như một thực thể sống có nội lực mạnh mẽ. Nghệ thuật liệt kê là thủ pháp chủ đạo quản lý toàn bài thơ đã góp phần khắc họa một đất nước bình dị, gần gũi. Đất nước gắn bó với bà, với mẹ, với cha và chính Đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, làng xóm. Đất nước là một phần máu thịt trong ký ức của mỗi người.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”

Nhà thơ đã ngược dòng cảm xúc về ngày xưa, ngày xưa, đưa ta về với cõi thần tiên diệu kì mà từ lâu đã trở thành nguồn sống, trong tâm hồn ta, cho ta bài học cuộc sống. về nguyên tắc sống nhân ái, yêu đời, yêu thương, chăm sóc, đùm bọc lẫn nhau.

“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn”

Đó là tục nhuộm răng, là tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao tục ngữ là “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là sự tích trầu cau, chính là vẻ đẹp của người già Việt Nam. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt đó là từ truyện ca dao, cổ tích đến tục ngữ đến “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, sau là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn của dân tộc. Tiếp đến, nhà thơ như một người hướng dẫn đã đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan quân giặc Ân.

“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Hình ảnh quân dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ một lần mà xuyên suốt 90 câu thơ. Hình ảnh này được lặp đi lặp lại ba lần, là biểu tượng của truyền thống yêu nước, đánh giặc giữ nước. của người dân Việt Nam. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến các tác phẩm thơ ca hiện đại, cây tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần kiên trung đánh giặc cứu nước, đồng thời là biểu tượng cho phẩm chất của đời sống. vẻ đẹp của con người Việt Nam dũng cảm. Từ “lớn lên” được sử dụng rất chính xác, khơi dậy niềm tin và lòng tự hào dân tộc.

Giọng thơ sâu lắng, trang trọng khiến cho những suy ngẫm về cội nguồn đất nước giàu chất triết lí nhưng vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lý giải về cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh giản dị, địa danh quen thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân quen, bình dị ngay trong đời sống mỗi người. Câu ca dao: “Tóc mẹ vén sau đầu” nói đến phong tục làm nên nét riêng của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

Đất nước lớn lên từ những giọt mồ hôi thấm mưa nắng. Hạt gạo, hạt gạo thấm bao mồ hôi, bao công lao nuôi dạy biết bao thế hệ. Đất nước lớn lên từ những nhọc nhằn của người cha và từ sự lo toan của người mẹ: “Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”. Đó là chất liệu của ca dao, tục ngữ, là tình, là nghĩa, là lời thề vàng son sắt, và cũng là lối sống thủy chung son sắc của biết bao cặp vợ chồng Việt Nam.

Câu ca “Kèo, cột thành danh” nhắc đến tục đặt tên xấu cho con dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong nhiều câu thơ thứ tám “Gạo của gạo phải xay, giã, sàng, sảy” thể hiện các công đoạn tạo nên hạt gạo – một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn bảo vệ hạt giống, cốt lõi của dân tộc Việt Nam. Những nét đẹp do cha mẹ truyền lại cho con cái tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, nơi ông cha truyền lại cho con cái lối sống, nếp nghĩ qua ca dao, tục ngữ.

Và chính con người cũng đã lưu truyền những nét đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả cũng nhận ra: “Đất Nước có từ ngày ấy…”, và ta không biết ngày ấy là ngày gì, chỉ biết rằng nó có từ rất xa xưa, rất xa xưa. Chỉ biết rằng đất nước đã có từ trong truyền thuyết, huyền thoại và từ thời dân tộc hình thành phong tục, nơi mà từ bao đời con người Việt Nam đã không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và nơi mà bàn tay lao động của mình. để xây dựng đất nước.

“Ngày ấy” vừa là trạng ngữ chỉ thời điểm đó trong quá khứ, vừa là đại từ thay thế. Vậy là Đất Nước đã có từ khi mẹ tôi thường kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, trồng lúa, ăn trầu, búi tóc, sống nghĩa tình, thủy chung.

Như trên đã nói, tác giả Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, một trong những nhà thơ đã xẻ dọc theo chiều dài của nhiều mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về chiều rộng của không gian và địa lý, chúng ta phải hiểu rằng địa lý là toàn bộ những yếu tố tự nhiên trên một đơn vị diện tích lãnh thổ của đất nước. Là nhà thơ đã đi suốt chiều dài mảnh đất hình chữ S, ông am hiểu từng danh lam, thắng cảnh trên lãnh thổ Việt Nam.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước Những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Ấn tượng nơi ban đầu của chúng ta khi đọc tám câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không gian cổ tích diệu kỳ và thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, cùng những các sự tích như “núi vọng phu”, hay là “hòn Trống Mái”.

Một lần nữa tác giả cũng như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích nơi thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Đó cũng là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Mỗi một dòng thơ tùy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ cũng đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng với điệp từ “góp”.

Ta có thể chia bài thơ đọc theo từ “góp” sẽ là hai nửa thể hiện trong quan hệ đối lập. Nửa đầu nói về con người, chất phác, giản dị, tình cảm, có chút lém lỉnh, đáng yêu. Ngược lại, nửa sau là từ “góp” nói về đất nước, lời thơ muôn màu, muôn vẻ. Nghệ thuật tương phản này là bài ca ca ngợi sự hy sinh của nhân dân để làm nên vẻ vang cho đất nước. Đằng sau mỗi địa danh là một cái tên, đằng sau mỗi cái tên là một huyền thoại và đằng sau những huyền thoại là cuộc đời của những con người. Dân tộc ta đã làm nên đất nước, đó là đôi vợ chồng thủy chung, cũng là những anh hùng, những chiến sĩ quyết tử vì Tổ quốc quyết sinh, những học trò nghèo mài bút, ông Đốc, ông Trạng, bà Đen, bà Điểm.. .Hơn nữa, khi người dân còn nhỏ bé, những cái tên vô danh, ẩn dụ bằng hình ảnh con cóc, con gà… và trong lòng người đã có những nhân vật chỉ nhắc đến. Đến đây ta mới thấy sự uy nghiêm linh thiêng, sự ngưỡng mộ, tôn thờ đã được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp công dựng nước tổ Hùng Vương” ở nơi phúc địa quanh núi Hy Cương hay “Rồng nằm im trong xanh thẳm”. con sông”. Dân tộc ta rất đa dạng, rất nhiều, nhưng họ chỉ làm một việc chung và thống nhất: chung tay xây dựng đất nước Việt Nam của chúng ta. Việc nhà thơ sử dụng cụm từ “góp công” thật ấn tượng, gợi sự kiên trì, bền bỉ, với ý chí đồng lòng, sự đoàn kết của trăm họ trong một việc: góp phần tạo nên một không gian vẻ vang cho nhân dân. Nhân dân đã góp sức, bằng tình đoàn kết, bằng máu xương, tính mạng, tên tuổi, tài năng. Nhờ đó, thế hệ mới của chúng ta đã trở thành một đất nước hữu hình – một đất nước của những anh hùng.

Trước hết ta đến với hai câu thơ sau:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”

Nó được viết liền mạch theo kiểu ngắt dòng và diễn đạt theo lối phủ định để khẳng định. Nó như một bản tuyên ngôn sinh động mang hình thức nghị luận và khẳng định mạnh mẽ những hy sinh to lớn của nhân dân. Tiếp đó, câu thơ thứ ba: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm nhìn đâu cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ dường như không giấu được nỗi lòng, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh to lớn của nhân dân.

Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử của dân tộc, bốn nghìn đời tổ tiên đều đánh trận, đời cha đi trước, đời con theo sau, cha con là đồng chí. các đồng chí chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc. Kết thúc bài thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng: “Đời đã biến núi sông ta…” chính bởi sự biến đổi đó. Các câu trước mỗi dòng từ mười ba đến mười lăm âm tiết, nhưng ở câu cuối chỉ là một trong tám âm tiết. Nó như một sự chiêm nghiệm, và một đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Ngoài ra, nó còn được kết thúc bằng hai âm bằng và như một giọng trầm để phản âm. Dấu chấm lửng kết thúc bài thơ như một khoảng lặng trước những xao xuyến của bao tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là lời thơ đầy cô đọng.

Cuộc đời của những con người ấy tuy ngắn ngủi, hữu hạn nhưng đã hóa thành núi sông, gửi gắm vô hạn, uy nghiêm vĩnh hằng. Đây chính là sự biến đổi phi thường khẳng định nhân loại chúng ta kỳ diệu biết bao! Họ không chỉ hóa thân để tạo hình đất nước mà còn tạo nên tâm hồn đất nước.

Bên cạnh vẻ đẹp về chiều rộng và không gian địa lý, đất nước còn hiện lên với chiều dài lịch sử. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử học chính thống, làm quan dưới triều Lê sơ, ông là một nhà sử học, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi coi lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối của nhiều triều đại và nhiều đời vua:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.

Nhưng ngược lại, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang đậm màu sắc lịch sử nhất trong khi toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến:

“Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn ngàn năm Đất Nước”

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con”

Nếu như Nguyễn Trãi đã nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận vào  lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào những con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn những lớp người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, và lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành đó. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của nhiều người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, cùng nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của khi những con người vô danh:

“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”

Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính là những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ:

“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Họ truyền cho nhau ngọn lửa đã mang đến sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau với mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của cả đất nước, của dân tộc là: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong và giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, đã từ trong trái tim của mỗi con người yêu văn chương đã vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông ở trong bài thơ “Báng súng”:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng

Con lớn lên đang viết tiếp thay cha

Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống

Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.

Chính nhân dân đã viết lên  trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang sử vẻ vang của nhiều dân tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân ta. Cũng như vậy, ta lại nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ là “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công

Anh tên gì hỡi Anh yêu quý

Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng

Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ

Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ

Anh chẳng để lại gì cho riêng

Anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:

Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.

Tên Anh đã thành tên đất nước

Ôi anh Giải phóng quân!

Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.

Không một dòng địa chỉ nào cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con người ấy vẫn nguyện bước chân ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.

Hay như các triết gia người Đức – Engels cũng đã từng nói: “Nếu như không có máu, mồ hôi và nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ đã sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, là điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này là Đất Nước của nhiều Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, nơi tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, và đẹp đẽ của văn hóa, với văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, và vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, có truyện cổ là: Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại và những câu thơ hai vế song song là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà là cũng thật độc đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt Nam là nền văn hóa của người Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, nơi ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, và đặc biệt là đời sống tâm hồn của nhân dân.

Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, khiến cho dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý tứ và là hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng đã lại trở thành một câu thơ, có một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó đã khẳng định: Con người Việt Nam say đắm trong tình yêu.

Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này là sự vận dụng, kết hợp yếu tố dân gian với cách thể hiện tư duy hiện đại, tạo nên màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc vừa mới lạ. Chất liệu văn hóa, nơi văn hóa dân gian được sử dụng tối đa, tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: giản dị, gần gũi, thực tế, bay bổng, mộng mơ của ca dao, truyền thuyết nhưng mới mẻ trong cách cảm nhận và thể hiện trong hình thức thơ tự do. Có thể nói, chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tác giả tạo nên nét nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ này.

Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta cũng phần nào nhận thấy nét đặc sắc trong phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, giữa suy tưởng và cảm xúc, ngôn ngữ thơ đầy dung dị, gần gũi. hơi thở gần gũi, ấm áp của cuộc sống. Chính luận đã ngời sáng phẩm chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình phong phú. Bài thơ “điệp nhịp tim” càng làm cho chúng ta thêm yêu và tự hào về 4000 năm lịch sử của đất nước Việt Nam. Qua đó ta thấy, dù ở vùng địa lý nào, lịch sử hay văn hóa nào thì “Đất nước này là của dân” sẽ được nhân dân mãi mãi bảo vệ và gìn giữ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chắt lọc, tôi luyện và lên men trong thơ mình vẻ đẹp duyên dáng, tao nhã của văn hóa dân gian và thơ văn hóa. Tính nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ đã với những câu thơ dài ngắn đan xen như sự tan chảy của cảm xúc, của dòng suy nghĩ miên man. Xuyên suốt cả bài thơ, hai chữ “Đất nước” luôn được viết hoa trang trọng, lặp lại như một nốt nhạc chủ đạo trong bản hùng ca về sông núi. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc và trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo thể thơ lục bát, khó đọc, khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong nhiều tác phẩm này, ông xứng đáng là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thời bấy giờ. Đồng thời, “Đất Nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của những người yêu văn học vì đã bao lần viết về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu đất nước còn giá trị cho đến hôm nay.

Cảm nhận Đất nước đoạn 2 - mẫu 6

Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Hình hài đất nước từ khi được sinh ra cho đến khi phải trải qua bao nhiêu sóng gió chiến tranh được tái diễn sinh động qua một hồn thơ tinh tế, phóng khoáng của Nguyễn Khoa Điềm.

Tác giả nhìn đất nước từ nhiều khía cạnh, trải qua bao nhiêu thăng trầm của lịch sử. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.

Nguyễn Khoa Điềm như dẫn người đọc đi vào những cung bậc tình cảm khác của đất nước, đó là chuyện tình yêu lứa đôi e ấp nhưng tha thiết và mặn nồng:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất nước không chỉ hiển hiện trong không gian văn hóa, phong tục tập quán của con người mà còn hiện lên trong những tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã cắt nghĩa “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” để lí giải cụ thể ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế và đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và đầy ý nghĩa nhất.

Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử và chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện xa xưa, từ những điển tích điển cố mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “núi bà Đen, bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” chính là minh chứng cho sự phát triển nhiều thăng trầm nhưng đáng tự hào của chúng ta. Nhớ về cội nguồn, nhớ về những ngày xưa vất vả chính là đạo lí, truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta.

Đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Trong sự hình thành và phát triển bề dày văn hóa lịch sử ngày càng được khẳng định. Những con người đã ngã xuống vì đất nước, những con người thế hệ mai sau cần phải cố gắng gìn giữ và phát huy được truyền thống tốt đẹp đó.

Nguyễn Khoa Điềm đã có cái nhìn đa chiều về đất nước từ khía cạnh đời thường, khía cạnh lịch sử, khía cạnh không gian và thời gian mang đến cho người đọc nhận thức đúng đắn nhất về đất nước mà chúng ta đang sống và cống hiến.

Hơn hết tác giả còn khẳng định:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

Có thể nói đất nước đã đi vào và in hằn vào máu thịt của mỗi người, nhắc nhở trách nhiệm và nghĩa vụ của chúng ta về công cuộc xây dựng và bảo vệ sự vững mạnh của đất nước này.

Như vậy, với khổ 2 của “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm bằng ngôn ngữ bình dị nhưng sâu sắc của mình đã định nghĩa một Đất Nước vô cùng thiêng liêng trong đời sống tinh thần của mỗi con người. Gấp trang sách lại nhưng những hình ảnh về đất nước vẫn còn sống mãi trong lòng người đọc.

Cảm nhận Đất nước đoạn 2 - mẫu 7

Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.

Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lí mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là đất và nước với những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lỗi chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.

Đất mở ra cho anh một chân trời kiến thức, nước gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. Đất và nước tách rời khi anh và em đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi anh và em kết lại thành ta. Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: “Khăn thương nhớ ai, Khăn rơi xuống đất…”, một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.

Đất Nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc, con cá ngư ông móng nước biển khơi mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn.

Đất nước trường tồn trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.

Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện: trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc.

Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.

Và cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời.

Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước.

Những câu thơ của đoạn 2 đã định nghĩa một Đất Nước tuyệt đẹp và thân thương. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui…

Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.

Cảm nhận Đất nước đoạn 2 - mẫu 8

Cùng với các nhà thơ trong thế hệ chống Mỹ lúc bấy giờ, Nguyễn Khoa Điềm dường như cũng hướng ngòi bút của mình đến một chủ đề lớn lao của thơ ca đương thời đó không gì khác chính là đất nước. Tuy nhiên, có thể nói rằng hình ảnh “đất nước” trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ có đau thương mất mát hay chỉ có những cảnh sơn hào hùng vĩ mà “đất nước” hiển hiện lên trọn vẹn qua những suy nghĩ và cảm nhận hết sức mới mẻ. Qua đoạn trích “Đất nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của ông thì đây chính là một định nghĩa đủ đầy về đất nước và qua đó cũng thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất nước là của nhân dân.

Với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, “đất nước” không chỉ là những khoảng giới hạn về không gian địa lý chật hẹp nữa mà ở đây nó còn có chiều dài thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. Không những thế, “đất nước” còn chính là tình yêu đôi lứa, có trong tình yêu đôi lứa:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…

Đất và nước dường như tách riêng, và từng phần đều lại như đã tượng trưng cho những điều gần gũi nhất. “Là nơi anh đến trường” hay “là nơi em tắm” hàng ngày. Thế nhưng để rồi khi “ta hò hẹn” thành một đôi trọn vẹn thì cũng như đất nước gộp lại vẹn tròn lại thành một. Và có thể nói rằng với phát hiện mới mẻ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chỉ ra rằng Đất nước không chỉ bên ta, xung quanh ta và còn có cả ở trong ta nữa.

Đất nước còn chính là nơi khởi đầu cho những câu chuyện xa xưa, cho những câu ca dao tục ngữ, điển tích điển cố và tất thảy mọi sự sinh thành. Và hình ảnh đặc sắc “con chim phượng hoàng”, “núi Bà Đen, Bà Điểm”, “Lạc Long Quân Âu Cơ” là những minh chứng độc đáo cho đất nước hào hùng nghìn năm văn hiến của chúng ta. Nhớ về đất nước cũng như chính là một cách để ta có thể nhớ về cội nguồn, hiểu được vì sao chúng ta được sinh ra. Chính vì thế, đất nước trong ý niệm của Nguyễn Khoa Điềm còn là sự tiếp nối truyền thống:

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau…

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

Biết bao thế hệ anh cha ta đã hi sinh, đã ngã xuống để bảo vệ đất nước, bảo vệ núi sông bờ cõi. Đó còn chính là cả một chiều dài lịch sử hào hùng rất tự hào của dân tộc ta. Chính vì thế, con cháu đời sau phải tiếp tục gìn giữ truyền thống ấy. Với một truyền thống yêu nước, thương nòi, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ non sông cho những thế hệ về sau. Và cho đến thời đại của ngày hôm nay, “trong và em” “đều có một phần đất nước”. Dường như chính phần đất nước ấy là phần máu thịt, là một phần trách nhiệm phải giữ gìn và xây dựng, phần tình yêu để bảo vệ đất nước cho con cháu mai sau.

Đoạn thơ thứ 2 vừa là định nghĩa, vừa như những lời “thủ thỉ” rất đỗi chân thành. Bởi sự sống của chúng ta không chỉ do cha mẹ sinh thành mà còn vì đất nước nuôi dưỡng. Chính vì thế mà trong mỗi chúng ta cần phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó và truyền lại cho những thế hệ tiếp theo.

Đất nước đã được xem là một đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca thời kì kháng chiến chống Mĩ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm dường như cũng đã nhận thức sâu sắc vai trò và sự đóng góp to lớn của nân dân trong cuộc đấu tranh trường kì và vô cùng ác liệt này. Chính vì thế có thể nói rằng tư tưởng đất nước của nhân dân từ trong văn học truyền thống đã được nhà thơ phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc. Dùng chất liệu văn hóa dân gian được sử dụng nhuần nhuyễn, biến đổi linh hoạt đầy sáng tạo chính là nét đặc sắc thẩm mĩ và thống nhất với " tư tưởng Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” của bài thơ.

Cảm nhận Đất nước đoạn 2 - mẫu 9

Đất nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta; vừa cao cả, trang trọng; vừa xiết bao gần gũi. Hình tượng Đất Nước đã khơi nguồn cho bao hồn thơ cất cánh. “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm cũng nằm trong dòng chảy dào dạt ấy và có phần đầy đủ hơn cả khi thống nhất được cội nguồn đất nước và tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”.

Nguyễn Đình Thi viết về Đất nước:

“Việt Nam đất nước ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.”

Đó là không gia rất dài, rất rộng, rất cao mang tầm vóc sử thi tráng lệ. Với Nguyễn Khoa Điềm:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm mát

Đất Nước là nơi ta hẹn hò

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở”

Đất nước là “nơi anh đến trường” – cuộc sống học tập, “nơi em tắm mát” – cuộc sống sinh hoạt và góc đời thiếu nữ, là “nơi ta hẹn hò” – thắp lửa tình yêu, “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” – ghi dấu kỉ niệm con người. Đó cũng là một không gian giàu có, trù phú, bao la, đẹp và rộng: “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc – Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi”. Nó gần với con người lắm, chiếc khăn ấy là lời hát tha thiết trong đêm tương tư “Khăn thương nhớ ai – Khăn rơi xuống đất”, gắn với lời hát điệu hò của câu huê tình xứ Bình Trị Thiên tự buổi nào.

Đất nước cũng đi vào chiều sâu trong sự riêng tư đời người:

“Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.

Khi hai đứa “cầm tay” thì đất nước “hài hòa nồng thắm”, ta “cầm tay mọi người” thì “vẹn tròn, to lớn”. Đất nước mang tình yêu lứa đôi, tình đồng đội quê hương và còn là “cốt nhục tình thâm”, Đất Nước là “máu xương” của ta. Đất nước được nhìn từ cái chung đến cái riêng, cá nhân đến cộng đồng, từ xa đến gần, từ bề rộng về bề sâu, từ cái hữu hình đến cái vô hình. Một cách sắp xếp tự nhiên, chặt chẽ và đượm lí, đượm tình.

“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là bản nhạc mang âm hưởng dân gian hóa trong điệu hồn kháng chiến, là lời thúc giục tình yêu nước cho mỗi thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau.

Cảm nhận Đất nước đoạn 2 - mẫu 10

Từ bao đời nay, đất nước luôn là đề tài muôn thuở, là nơi gặp gỡ của các nhà thơ, nhà văn từ khắp mọi miền, tình yêu quê hương đất nước dường như đã đi vào từng câu hát, từng lời văn, lời thơ. Không giống như đất nước của Nguyễn Đình Thi hay Hoàng Cầm, qua ánh nhìn của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, hình hài đất nước hiện lên thật đầy đủ và trọn vẹn. Bài thơ “Đất nước” của tác giả xoay quanh cuộc sống sự gần gũi, bình dị với tình yêu chan chứa của nhân dân Việt Nam, nhưng cũng đầy kiên cường, mạnh mẽ vươn lên trên mọi sóng gió. Xuyên suốt đoạn trích, một hình ảnh tươi đẹp của đất nước ta được hiện ra, và được định nghĩa rõ nét nhất qua đoạn 2 của bài.

Bằng những lời thơ bình dị, đất nước được nhà thơ vẽ ra qua cái nhìn của một tình yêu trong sáng, thuần khiết lứa đôi:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Đất là nơi anh đến trường, nước là nơi em tắm, Đất Nước là nơi hẹn hò, là nỗi nhớ thầm da diết. Một sự hội tụ đầy tương xứng đẹp đẽ đến bất ngờ, sự nảy mầm và ra hoa kết trái của Đất Nước như chính tình yêu xanh tươi được vun đúc để tạo thành nỗi nhớ vô bến bờ. Đất nước được hình thành từ chính những tình yêu lứa đôi chung thủy, mặn nồng hòa quyện vào tình yêu to lớn của quê hương đất nước.

Không phải là một khoảng không thênh thang, rộng lớn bao la, Đất nước còn hiện hữu trong chính không gian sinh hoạt, cuộc sống bình dị của người dân:

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thời gian đằng đẵng”

Như quay ngược thời gian, mảnh đất đầu tiên đã có, những người con đất việt đầu tiên đã đặt chân lên cái nền móng của quê hương từ thời tổ tiên Lạc Long Quân và Âu Cơ:

“Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Cội nguồn của một dân tộc hào hùng dần lộ ra qua những lời thơ quá rõ ràng của tác giả. Khẳng định chắc chắn ràng đất nước đã có từ rất lâu, từ thời Lạc Long Quân và Âu cơ, những người tổ đã khai hoang nên mảnh đất màu mỡ, xanh tươi của cuộc sống với biết bao trang sử hào hùng, lẫm liệt.

Hay đất nước lại trở về với sự gần gũi quanh ta, về với mái nhà của sự yêu thương, che chở:

“Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ra cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn”

Tác giả như khẳng định một trách nhiệm to lớn cho thế hệ đi sau, nó như một cây cầu còn dang dở trên con đường đi tới ngày mai của đất nước. Không chỉ có vậy, đất nước vẹn tròn, to lớn khi tất cả mọi người cùng nắm tay, cùng nhau xây dựng, vun đắp nên một đất nước hòa bình, tươi đẹp.

Bằng lời văn giản dị mà tinh tế, đầy sức thuyết phục đã làm rõ nét hình ảnh Đất nước trong cuộc sống của mỗi con người. Dáng vẻ Đất Nước đầy thân thương như chẳng thể nào phai mờ trong những thứ nhỏ nhặt nhưng không chút tầm thường.

Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học