10+ Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện (điểm cao)
Tổng hợp 10+ Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện điểm cao, hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Dàn ý Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện
- Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện (mẫu 1)
- Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện (mẫu 2)
- Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện (mẫu 3)
- Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện (mẫu 4)
- Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện (mẫu 5)
- Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện (mẫu 6)
Dàn ý Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện
a) Mở bài:
+ Đôi nét về tác giả Thạch Lam và truyện ngắn Hai đứa trẻ: Thạch Lam là một cây bút viết truyện ngắn tài hoa xuất sắc. Hai đưa trẻ là một trong những truyện ngăn tiêu biểu của ông
+ Cảm nhận chung về bức tranh phố huyện lúc chiều tàn: Đây là bức tranh giàu ý nghĩa
b) Thân bài:
- Phố huyện lúc chiều tàn:
+ Một bức họa đồng quê quen thuộc của những vùng quê Việt Nam
+ Những tiếng ếch nhái kêu
+ Tiếng muỗi vo ve
+ Tiếng trống thu không
+ Cảnh chiều tàn mang một nét đặc trưng của miền quê Việt Nam
- Phố huyện vào đêm khuya
+ Bóng tối bai trùm cả khu phố, khiến khu phố tràn ngập bóng tối
+ Bóng tối như một ám ảnh đối với con người nơi đây
+ Sinh hoạt của con người chỉ bên ngọn đèn le lói, nhấp nháy
+ Sự sông trong phố huyện bế tắc
+ Niềm hi vọng vào ánh sáng của đoàn tàu
c) Kết bài:
+ Đánh giá chung về những nét đặc sắc nghệ thuật làm nên thành công trong việc xây dựng bức tranh phố huyện lúc chiều tàn nói chung và toàn truyện ngắn nói riêng
+ Trình bày một vài cảm nhận cá nhân
Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện - mẫu 1
Tác giả Thạch Lam là một thành viên của nhóm “Tự lực văn đoàn”, tuy nhiên ông lại mang một phong cách sáng tác riêng biệt, không thể lẫn lộn với bất cứ nhà văn nào. Lời văn của ông nhẹ nhàng mà sâu sắc, man mác và dìu dặt. Truyện “Hai đứa trẻ” là tiêu biểu cho những câu chuyện không có cốt truyện, mọi thứ được viết bằng chất liệu nhẹ mà sâu lắng. Truyện ngắn đã vẽ lên bức tranh khung cảnh phố huyện nghèo với những mảnh đời tăm tối, lầm lũi trong xã hội.
Sự nhẹ nhàng trong câu chuyện đã làm nên nét độc đáo trong văn của Thạch Lam, ông luôn khiến cho người đọc nhân ra sự tinh tế trong tâm hồn và trong những câu văn. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống của hai chị em Liên và An tại phố huyện nghèo với những công việc nhàn nhạt lặp đi lặp lại hàng ngày. Qua cuộc sống của hai chị em cũng như một số nhân vật khác, tác giả muốn gửi gắm tới người đọc về hoàn cảnh, cuộc sống và những khó khăn mà họ đã trải qua. Khung cảnh phố huyện nghèo hiện lên ở những câu văn đầu tiên “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ, từng tiếng một vang xa đê gọi buổi chiều…”.
Một buổi chiều tàn, cả cảnh vật và con người đang đắm chìm vào cái buồn man mác của nắng chiều. Khác với những cảnh chiều tàn quen thuộc trong văn học, không có hình ảnh cánh chim bay về tổ hay sự sum vầy đoàn viên, nhưng cảnh chiều vẫn nhuốm thẫm màu buồn. Đó là một phố huyện nghèo nàn, khung cảnh buổi chiều tà trên chợ tàn đã thể hiện rõ điều đó: “Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng ban ngày lẫn với cát bụi quen thuộc quá khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Chỉ bằng vài câu văn, toàn bộ khung cảnh của một khu phố nghèo lúc ngày tàn đã hiện lên trước mắt người đọc với sự héo úa, tiêu điều, hiu quạnh và ô nhiễm.
Tác giả vẽ nên khung cảnh ấy làm cho người đọc liên tưởng tới chính hiện thực xã hội bấy giờ của miền Bắc nước ta, mọi thứ từ cảnh vật dến con người dường như đều không còn sự sống, chông chênh và mờ nhạt, hằn rõ sự nghèo đói. Khu phố huyện nghèo ấy là một không gian vắng lặng và đìu hiu, bóng tối bom trùm khắp các con ngõ, khắp cảnh vật và cả con người. Bóng tối xuất phát từ nhiều thứ, từ đám mây sắp tàn, rặng tre đen kịt, tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve trong góc nhà,…Bóng tối thật đáng sợ, nó len lỏi và bao trùm lên mọi thứ, cũng giống như số phận và cuộc đời tăm tối của những người dân nơi đây.
Trong cái u ám ấy xuất hiện bóng dáng những đứa trẻ “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất lại tìm tòi…nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được. Liên động lòng nhưng chính chị cũng không có tiền cho chúng”. Bức tranh ấy thật ẩm đạm, éo le và vô cùng chân thực, sự xuất hiện của những con người nghèo khổ đã làm nhân đôi thêm vẻ nghèo và cái khốn khó của mảnh đất nơi đây. Trong phố huyện ấy có nhiều số phận khác nhau, mỗi người được miêu tả với gương mặt và cuộc sống riêng.
Chị Tí mò cua bắt tép cả ngày tối đến vẫn cố mở hàng nước dù “chẳng kiếm được bao nhiêu”, bác phở Siêu cả buổi chẳng bán được đồng nào, hay chính hai chị em Liên đang bán hàng giúp mẹ trong gian hàng nhỏ thuê lại của người khác. Tất cả họ đều đang chung số phận nghèo đói, họ lẳng lặng, cần cù và lặng nhìn theo cái đói nhưng không làm gì được. Kiếp người khổ cực ấy còn được thể hiện rõ hơn ở bà cụ Thi điên, uống rượu say rồi cười khanh khách, lảo đảo đi, khiến người đọc thấm thía và xót xa những kiếp người sống trong uất ức, bức ép, sống dật dờ. Tất cả họ đều mong ngóng và chờ đợi một cái gì đó tươi sáng hơn, mong một chuyến tàu từ Hà Nội về sẽ mang theo sự huyên náo, ồn ào và tấp nập hơn nữa. Chuyến tàu có lẽ chính là ánh sáng của niềm tin, là khát vọng được vươn ra ánh sáng và cuộc đời tốt đẹp hơn của những con người tại nơi phố huyện nghèo này.
“Hai đứa trẻ” tuy không phải truyện lên án sâu sắc tới những vấn đề trong xã hội, nhưng chính sự nhẹ nhàng, không gân guốc ấy lại khiến cho người đọc thấy ám ảnh về những mảnh đời và mảnh đất sống trong nghèo nàn, khổ cực, lầm than trong những năm đất nước ta còn chìm trong bom đạn.
Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện - mẫu 2
Đến với Thạch Lam ai cũng biết ông là một cây bút tài hoa xuất sắc của văn học Việt Nam, là nhà văn lãng mạn thuộc thành viên của nhóm “tự lực văn đoàn” nhưng văn của Thạch Lam lại nghiêng về cuộc sống cơ cực, bế tắc, vất vả của những người nông dân, tiểu tư sản, thị dân nghèo. Vì vậy trong sáng tác của Thạch Lam xuất hiện chất hiện thực và trữ tình hòa quyện đan cài tạo nên nét đặc sắc trong cách nghệ thuật. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam đã biểu hiện được phẩm chất đó. Hiện lên trong tác phẩm là bức tranh thiên nhiên, bức tranh cuộc sống, bức tranh tâm trạng của con người.
Có lẽ điều mà mỗi bạn đọc khi đến với “Hai đứa trẻ” của Thạc Lam phải cảm nhận được ngay đó là bức tranh thiên nhiên, cảnh hoàng hôn của thiên nhiên nơi phố huyện nghèo khi một ngày đã tàn. Bức tranh ấy có cả màu sắc, âm thanh rất đặc trưng của thôn quê Việt Nam. Bức tranh đó được tác giả đặt trong ba thời điểm: chiều tàn, buổi tối và đêm khuya. Cả ba thời điểm ấy như tàn dần đi theo thời gian và không gian.
Trước hết người đọc phải thấy được cảnh chiều tàn, cảnh chiều ấy có cả màu sắc của mặt trời “phương Tây đỏ rực như lử cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Và hình ảnh bóng tối ập đến “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”. Tất cả những thứ màu sắc ấy như báo hiệu một ngày đã hết, thời gian mà con người sống thực với bản thân mình đã đến. Bức tranh ấy có cả âm thanh, thứ âm thanh quen thuộc của làng quê Việt Nam “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều” thứ âm thanh ấy nghe sao mà nhẹ nhàng, chậm chạp nặng nề buồn tê cả lòng người. Tiếng thu không ấy khác chi tiếng trống trong bài thơ “Tự tình” của Hồ Xuân Hương.
“ Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”
Cũng là tiếng trống buồn rầu, chậm chạp đến đáng sợ ấy. Hay những thứ âm thanh như “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió đưa vào”,”tiếng muỗi vo ve” đó là những âm thanh quen thuộc mà vùng quê nào cũng có. Tiếng chõng tre kêu cót két như bản nhạc buồn vang lên trong buổi chiều tàn. Đối với Liên chị làm sao quên được “mùi ẩm mốc bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này”. Tất cả những thứ âm thanh, màu sắc, mùi vị ấy như hòa quyện vào nhau đưa vào lòng người đọc một vùng quê êm đềm nhẹ nhàng.
Buổi chiều tàn ấy như nhường cho thời gian đêm tối tràn đến. Cảnh đêm tối ấy như gợi lên cho người đọc được sắc màu, màu của bóng tối như bao chùm lên tất cả nơi phố huyện này “tối hết cả con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Cái bóng tối đáng sợ ấy như ám ảnh con người nơi đây, nó thống trị tất cả từ con người đến cuộc sống. Ánh sáng không phải không có, nhưng nó nhỏ bé leo lét không đủ sức để xé tan màn đêm. Thứ ánh sáng ấy như càng làm cho bóng tối trở nên mênh mông hơn, tối tăm hơn. Đó chính là khung cảnh chung của làng quê Việt nam lúc bấy giờ.
Trong màn đêm tĩnh lặng ấy người ta có thể nghe thấy cả tiếng lá bàng rơi rụng xuống vai Liên khe khẽ, từng loạt một. Tiếng động ấy không đủ sức ngân vang rồi chìm ngày vào đêm tối. Lúc đó ta mới thấy giá trị của ánh sáng, nó trở nên vô giá và rất quý báu. Cảnh đêm về lại càng làm cho không gian trở lên vắng lặng hơn. Và tất cả chỉ mong đợi chuyến tàu đêm hoạt động cuối cùng trong ngày đi qua.
Trên cái nền của bức tranh thiên nhiên ấy đã diễn ra hoạt động đời sống của con người. Đó là khung cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn “trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lúa úa”. Đó là tất cả những gì còn lại của phiên chợ tàn, hình ảnh ấy gợi ra đó là những món quà quê rẻ tiền. Từ đó cũng đã thấy được cuộc sống nghèo nàn còn nhiều thiếu thốn của người dân nơi đây. Tác giả đã chọn thời điểm cuối ngày đó là lúc chiều tàn cho đến đêm khuya để làm nổi bật cuộc sống của con người tàn tạ, bế tắc héo úa. Tại sao tác giả lại chọn hình ảnh phiên chợ tàn mà không chọn hình ảnh khác? Phải chăng chỉ có phiên chợ tàn ấy mới gợi ra được cuộc sống tàn tạ bế tắc trong đêm tối không chút ánh sáng, không chút tương lai ở phía trước. Những kiếp người tàn tạ ấy đang hiện lên trong cái nhìn của Liên tại phiên chợ tàn. Phải chăng nhân vật Liên có cái nhìn tinh tế lắm? Khác với người phương Tây, người Việt Nam ta thường có tính chậm chạp, cũng như ở tác phẩm chợ đã tàn nhưng “ một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu nữa”.
Còn ngoài đường “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi, chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hanh bất cứ cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại”. Đến những đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi học mà cũng phải tham gia vật lộn hy sinh vất vả để kiếm cái ăn hằng ngày cho bản thân cho gia đình. Ngay cả An với Liên dù khá giả hơn chúng cũng phải giúp mẹ trông hàng. Kiếp người ấy đâu chỉ là những đứa trẻ mà còn là chị Tí với đứa con của mình. Chị kiếm sống bằng công việc ngày đi mò cua bắt ốc, tối chị bá hàng nước. Hàng hóa chị bán là những thứ rẻ tiền, cả cửa hàng như vậy chị chỉ gánh một lần trên vai là hết. Những người khách của chị là “mấy người phục vụ gạo hay phu xe, mấy chú lính lệ trong huyện hay người nhà thầy thừa”. Số khách vốn đã ít ỏi nay lại không ổn định ngày nhiều ngày ít”. Tất cả như dự báo cái nghèo sẽ đeo bám gia đình chị. Câu trả lời của chị Tí với Liên như tiếng thở dài của số phận của cuộc đời “ôi chao! Sớm với muộn mà có ăn thua gì” nó thể hiện tâm trạng ngao ngán không thể trông chờ vào quán nước này mà mưu sinh được nữa. Có lẽ trong cái phố huyện nghèo này thì gia đình bác Siêu là gia đình có kinh tế khá giả nhất.
Nhưng khách hàng của bác cũng ngày ít đi, khách của bác phải là những người có điều kiện về kinh tế. Bởi món hàng của bác là món hàng sa sỉ nhiều tiền. Dự báo cuộc sống của bác sẽ phá sản vì những người đi tàu chỉ mua bao thuốc…đâu có để ý đến phở của bác. Hay gia đình bác Sẩm chỉ biết góp vui bằng tiếng đàn bầu. Trong cuộc sống nghèo khổ ấy đâu ai còn tiền để nghe bác hát.những đứa con nghịch ngợm bò ra ngoài mảnh chiếu rách. Kiếp người ấy cũng chính là bà cụ Thi, dù chỉ xuất hiện thoáng qua nhưng cũng để lại ám ảnh trong lòng người đọc.
Từng ngôn ngữ của chỉ của bà cụ chứng tỏ bà vẫn nhận thức được cuộc sống “A em Liên thảo nhỉ? Hôm nay lại rót đầy cho chị cơ đấy”. Bà không hoàn toàn mất đi mọi cảm giác, nhưng điều đau xót nhất là bà nghiện rượu, bà luôn trong trạng thái bất bình thường với “ tiếng cười khanh khách” khác chi tiếng cười của một đứa trẻ con. Ta không hiểu tại sao bà lại rơi vào trạng thái không bình thường như vậy, nhưng nó dấy lên một điều lo sợ mơ hồ. Liệu trong cuộc sống khốn khổ ấy sẽ thêm một bà cụ Thi nữa hay không?
Sự đồng cảm của nhà văn được thể hiện qua cách nhìn, cách cảm nhận của nhân vật Liên, qua đó ta thấy được nỗi lòng xót thương, xót xa những mảnh đời đầy bất hạnh của thời gian: vượt lên trên tất cả cả hoàn cảnh sống nhưng trong họ luôn giàu lòng yêu thương giữa con người với con người. Đối với Liên một cô bé mới lớn khi nhìn thấy “những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mảnh đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì” cô lại động lòng thương và muốn cho chúng tiền nhưng bản thân cô lại không có. Hay khi bà cụ Thi vào uống rượu cô chỉ “lẳng lặng rót một cút rượu ti đầy đưa cho cụ”. Cố sợ không dám nhìn cụ, nhưng cô lại thương cụ rót cụ thêm tí rượu để làm thỏa mãn nhu cầu của cụ. Còn đối với mẹ con chị Tí và mọi người xung quanh thì Liên ân cần, nhẹ nhàng, chu đáo hỏi thăm. Nhưng cuộc sống không cho họ những gì họ mong muốn mà còn đẩy đưa số phận của họ vào những con đường tăm tối với cuộc sống bần hàn khổ cực.
Trước hoàn ảnh ấy, tác giả đã thể hiện sự cảm thông xót xa cho những mảnh đời nghèo khổ, cơ cực, không có tương lai, không chút ánh sáng của những con người nơi phố huyện này. Đó là ai? Chính là gia đình Liên, mẹ con chị Tí, gia đình bác Siêu, gia đình bác Sẩm và cả những đứa trẻ nghèo kia. Tất cả họ chỉ sống quẩn quanh trong phố huyện nghèo nàn này, muốn thoát ra cũng không được. Thấu hiểu điều đó tác giả đã thắp lên cho cuộc sống của họ những ước mơ, khát khao cháy bỏng về một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đó cũng chính là ước mơ của họ “chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ” cái ước mơ ấy không chỉ về giá trị vật chất mà còn tinh thần.
Ước mơ ấy được tác giả gửi gắm vào hình ảnh đoàn tàu vì đó là sự hoạt động cuối cùng của đêm khuya. Hơn thế nữa chuyến tàu xuất hiện hàng đêm đó như mang đến một thế giới khác với cuộc sống nghèo nàn, tăm tối mà Liên với những người khác đang sống. Khi “đèn rọi đã ra” hai chị em Liên đứng hẳn lên để nhìn cho rõ. Hai chị em Liên háo hức mong đợi chuyến tàu đi qua. Khi đoàn tàu đi qua hai chị em đứng hẳn lên để nhìn cho kĩ. Chuyến tàu ấy mang đến cho phố huyện tối tăm một chút ánh sáng của một thế giới vị thành có “các toa đèn sáng trưng, toa hạng sang trọng, đồng và kền lấp lánh, các cửa kính sáng”. Khi đoàn tàu đi qua để lại bao nuối tiếc trong Liên đầy mơ mộng về một Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo mà khi cô còn sống ở đó. Đó là hoài niệm của một quá khứ rực rỡ “Liên được uống những cốc nước lạnh xanh, đỏ, đi chơi bờ Hồ” nhưng hiện tại Liên không thể có được.
Phải chăng để vẽ được một bức tranh thiên nhiên, bức tranh của cuộc sống con người nơi phố huyện nghèo này với sự đồng cảm sâu sắc thì Thạch Lam phải có ngòi bút vô cùng tinh tế? Thạch Lam là nhà văn lãng mạn vậy nên cách nhìn, cách miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” rất tinh tế và nhạt cảm. Tác giả lấy điểm nhìn từ buổi chiều tàn “chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru”. Câu văn như gieo vào lòng người đọc sự êm ả nhẹ nhàng, nhưng cũng từ đó mới gợi được ra cuộc sống tàn tạ bế tắc. Và khung cảnh đêm buông xuống cũng đầy nhẹ nhàng như vậy “trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Tất cả gợi cái hồn quê tĩnh lặng, thanh bình, yên ả đều được đặt dưới cái nhìn tinh tế sâu lặng đầy cảm xúc. Điều đó đã được hà văn gửi gắm qua nhân vật Liên-một cô gái mới lớn có tâm hồn phong phú tinh tế và giàu lòng yêu thương.
Chất thơ vẻ đẹp lãng mạn trong truyện được cảm nhận qua cách nhìn về thời gian. Thời gian trong truyện không được miêu tả thoáng nhanh mà thật chậm dãi qua quan sát của Liên. Đã tạo lên những giai điệu ngân nga lắng sâu vào trong lòng người đọc “chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru” nó thể hiện cái nhìn mượt mà, êm ái, nhẹ nhàng. Hay “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng vang ra để gọi buổi chiều”. Câu văn như gợi một cái gì đó êm ả, dịu dàng, thời gian cứ trôi đi chầm chậm theo từng bước nhịp của cơn gió “trời đã bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”, những câu văn mượt mà thấm đẫm chất thơ, uyển chuyển khiến người đọc khó có thể cưỡng lại được cảm xúc tươi mới khiến lòng người tươi mới, thanh sạch hơn.
Nhưng có lẽ điều mà tạo nên vẻ đẹp lãng mạn trong truyện chính là không gian đậm chất quê yên bình lặng lẽ của Việt Nam. Những tiếng âm thanh của muỗi bắt đầu vo ve, hay tiếng thu không trên cái chòi của huyện nhỏ. Âm thanh “văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Những âm thanh ấy mang đậm chất hồn quê Việt Nam, tâm trạng u buồn như thấm đẫm vào tâm trạng bạn đọc. Mỗi vùng quê trầm lặng, đơn điệu cùng những thứ âm thanh rời rạc. Hình ảnh bóng tối chính là không gian của nghệ thuật. Mở màn là cảnh ngày tàn kết thúc là đêm tĩnh mịch đầy bóng tối. Xuyên suốt trong toàn bộ tác phẩm chủ yếu là không gian bóng tối. Tiếng trống đánh tung lên một tiếng rồi chìm sâu vào đêm tối. Hay hình ảnh đoàn tàu kêu xa dần rồi chìm vào bóng tối. Phải chăng hình ảnh bóng tối ấy đâu phải là bóng tối của thiên nhiên mà là bóng tối của cuộc đời con người? Hình ảnh bóng tối ấy như ám ảnh con người nơi đây gợi lên cuộc sống cơ cực, không lối thoát không tương lai.
Nhưng dưới cái nhìn của Liên đã trở thành “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát”. Lên ngồi lặng lẽ bên mấy quả thuốc sơn đen “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn của buổi chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của chị”. Liên “thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn”. Những câu văn ấy gợi lên chất thơ, lắng lại những cảm xúc trong lòng người đọc.
Vẻ đẹp lãng mạn của truyện được nhà văn Thạch Lam miêu tả, xây dựng khi miêu tả ánh sáng trong truyện. Cảm xúc tinh tế của tác giả đã bắt gặp cái nhìn đồng điệu của nhân vật. Để phát hiện ra ánh sáng hiếm hoi trong ánh lên nhịp sống của con người. Đó là những hột sáng, khe sáng, chấm sáng, quầng sáng, vùng sáng, vầng sáng. Thậm chí còn phát hiện ra hòn đá bên sáng bên tối. Phải tinh tế lắm tác giả mới phát hiện ra thứ ánh sáng quý giá như vậy? Chất thơ trong truyện được thể hiện qua sự nhìn nhận của Liên “vòm trời ngàn ngôi sao ganh nhau lấp lánh, lẫn với vệt sáng của những con đom đóm bay là là trên mặt đất hay len vào những cành cây”. Từ đó người đọc thấy được vẻ đẹp thơ mộng đến tĩnh lặng.
Truyện ngắn của Thạch Lam thường không chỉ dừng lại ở cuộc sống bế tắc, tù túng, bần hàn. Mà con người nơi phố huyện này còn mang vẻ đẹp đậm nét của con người Việt Nam. Dù nghèo khổ nhưng luôn cần cù, chịu thương chịu khó, sống luôn có tình cảm chan hòa ấm áp. Đó chính là tình cảm bằng hành động quan tâm của Liên với những đứa trẻ, bà cụ Thi hay chính mẹ con chị Tí. Sự quan tâm ấy không chỉ giúp họ về vật chất mà còn về cả tinh thần giúp cuộc sống của họ được cải thiện. Hình ảnh chuyến tàu là hoạt động duy nhất còn lại trong ngày nó mang giá trị tinh thần to lớn. Đó là niềm háo hức mê say đối với hai chị em Liên. Khi đoàn tàu đến hai chị em Liên đứng lên để nhìn thật kĩ. Hình ảnh các khoang tàu lối đuôi nhau chạy, ánh sáng thì kém hơn mọt lần, người cũng ít hơn. Tàu đi đã để lại nhiều kỉ niệm về Hà Nội xa xăm, đông vui và náo nhiệt. Gợi về quá khứ hạnh phúc mà Liên không còn có được.
Nếu “thơ là hiện thực, là cuộc đời và còn là thơ nữa” thì “Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam là một tác phẩm như vậy. Truyện không chỉ về cuộc đời mà còn chính là thơ. Chất thơ thể hiện cái nhìn của Liên, ở giọng văn của Thạch Lam bàn bạc trong khắp thiên chuyện. Và nói như Thạch Lam “văn chương làm cho lòng người thêm thanh sạch và phong phú hơn” thì có lẽ “Hai đứa trẻ” của ông đã đáp ứng được những đòi hỏi đó. Vì vậy tác phẩm không chỉ có giá trị với riêng văn học giai đoạn 1930-1945 mà nó còn khẳng định chỗ đứng của mình trong mãi sự nghiệp văn học nước nhà sau này.
Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện - mẫu 3
Ở vai trò là một nhà văn, Thạch Lam được đánh giá là một hiện tượng đặc biệt có sở trường về truyện ngắn trong nền văn học lãng mạn của ta ở giai đoạn 1930 – 1945. Qua các tác phẩm của mình, Thạch Lam đã bộc lộ là một con người hồn hậu và có những cách nhìn rất tiến bộ về văn chương.
Trong sáng tác truyện ngắn, Thạch Lam thường xây dựng những câu chuyện với đặc trưng là không có cốt truyện. Tuy nhiên, tác phẩm lại có chiều sâu bởi tập trung khai thác đời sống nội tâm của nhân vật. Qua đó, người đọc có thể cảm nhận được trên trang viết của nhà văn những dòng chất chứa về tình cảm yêu thương tha thiết và chân thành mà nhà văn dành cho cảnh vật và con người.
“Hai đứa trẻ” là một tác phẩm truyện ngắn xuất sắc của Thạch Lam được trích trong tập truyện “Nắng trong vườn” (1938). Câu chuyện được xây dựng dựa trên đặc điểm trong phong cách sáng tác truyện ngắn của Thạch Lam là truyện không có cốt truyện và chủ yếu diễn tả thế giới tâm hồn của hai đứa trẻ, đó là Liên và An.
Hai chị em hằng ngày phải làm những công việc quen thuộc đến độ nhàm chán là bày bán những món hàng lặt vặt và niềm vui nhất trong ngày đối với họ và được đón chuyến tàu đi ngang qua phố huyện nhỏ của mình.
Ngay từ những dòng đầu tiên, bức tranh thiên nhiên trong Hai đứa trẻ đã được tác giả thể hiện trên cả hai phương diện là không gian và thời gian.
Thiên nhiên hiện hữu trong khoảng thời gian về chiều tối và trong không gian với không khí êm ái, tĩnh lặng của một buổi chiều êm ả. Khi “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ” vang lên từng tiếng một thì cũng là lúc thời gian về chiều được gọi đến với rất nhiều những hình ảnh ấn tượng.
Đó là hình ảnh “phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn” để rồi chính cái ánh hồng đó làm cho “dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời”.
Không chỉ có vậy, âm thanh của tiếng muỗi vo ve, của tiếng ếch nhái kêu ra và cảnh phiên chợ vãn mà sau phiên chợ thì “trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía” đã làm cho cảnh vật xuất hiện dù trong cái không khí êm ái, tĩnh lặng của một buổi chiều êm ả, man mác nhưng lại lụi tàn, héo úa.
Dường như, khi chọn cái khoảnh khắc của một ngày dần tàn vào thời điểm hoàng hôn, cảnh vật của phố huyện mỗi một phút giây lại bị bóng tối dần chế ngự. Bóng tối ấy cứ dần dần lan tỏa khắp nơi để rồi tất cả mọi thứ nơi phố huyện cứ lặng lẽ, âm thầm bị bao phủ bởi thứ bóng tối đáng sợ ấy.
Khung cảnh thiên nhiên mở ra trước mắt người đọc bằng sự miêu tả của về phương diện không gian lẫn thời gian. Khoảnh khắc về chiều ấy vốn là một thời điểm rất ngắn khi ngày dần tàn còn không gian phố huyện lại có sự chuyển biến từ cảnh chiều đến khi màn đêm buông xuống và vạn vật bước vào đêm khuya. Tất cả đã làm cho phố huyện cũng trở nên tối tăm mịt mờ trong không gian và thời gian đó.
Bức tranh thiên nhiên trong Hai đứa trẻ đầy ấn tượng với khoảnh khắc về chiều ấy đã trở thành phông nền để làm nổi bật lên đó là đời sống tiêu điều, xác xơ của những kiếp người nhỏ bé nơi phố huyện. Cuộc đời họ cũng như những cảnh vật ở phố huyện vào thời điểm chiều tàn, giống ở chỗ cũng bị bóng tối của khoảnh khắc ấy dần bủa vây.
Trong khung cảnh ấy, mẹ con chị Tí xuất hiện với gánh hàng nước vốn “chả kiếm được bao nhiêu mỗi ngày”. Mẹ con chị vốn sống bằng công việc mò cua bắt tép hằng ngày nhưng tối tối lại dọn hàng nước để với hi vọng có thể kiếm thêm được một chút tiền để trang trải cho cuộc sống.
Không chỉ có mẹ con chị Tí, người dân phố huyện cũng không còn xa lạ với hình ảnh của bác Siêu với gánh phở nghi ngút khói nhưng đó dường như là món quà rất đỗi xa xỉ với con người nơi đây.
Khung cảnh còn có sự xuất hiện của những đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ trong hình ảnh đáng thương bởi phải “cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi” để “nhặt nhạnh những thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Gia đình bác Xẩm thì nheo nhóc “góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bật trong yên lặng.
Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bên đường”. Khi về đêm tối, bà cụ Thi say lảo đảo với tiếng cười điên dại lại càng khiến cho khung cảnh thêm sầu thảm.
Họ là những người kiếm sống qua ngày bằng những công việc quẩn quanh bên phiên chợ nghèo của phố huyện. Họ sống ở đó với những điều thường nhật cứ diễn ra nhàm chán, buồn tẻ không có gì khác biệt khi mỗi ngày qua đi. Chính nhịp sống ấy của họ đã giúp cho người đọc có thể hình dung được sự mỏi mòn, cơ cực của những phận đời trong xã hội cũ.
Họ không chỉ sống nghèo đói, túng thiếu mà cuộc đời họ là sự trải dài của những tháng ngày chán chường, nhạt nhẽo. Cảnh sống lay lắt, nhếch nhác và quẩn quanh của những mảnh đời bé mọn, tội nghiệp như đồng điệu với với sự héo tàn của cảnh vật thiên nhiên trong thời điểm chuyển biến từ chiều về tối.
Tuy phải sống trong cảnh nghèo đói, lam lũ như thế nhưng những nhân vật của nhà văn Thạch Lam vẫn tha thiết mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày”. Tất cả những gì họ chờ đợi dù chỉ là những thứ có thể mơ hồ, không rõ ràng nhưng đó cũng là một niềm hi vọng rất đáng trân trọng.
Cảm nhận bức tranh thiên nhiên trong Hai đứa trẻ, ta thấy trong thời khắc chiều tối, không gian u uất, buồn bã đã hiện lên trong sự cảm nhận của một cô bé Liên – một cô bé có thế giới nội tâm phong phú và tâm hồn có chiều sâu. Chính vì sự nhạy cảm ấy mà Liên có thể cảm nhận rất rõ từng bước chuyển của thời gian nơi phố huyện từ lúc chiều cho đến khi về khuya.
Trong ánh nắng chiều hiu hắt đầy buồn bã, Liên nghe lòng mình “buồn man mác trước cái thời khắc của ngày tàn”. Không biết tự bao giờ, cái tăm tối, trầm lắng của một phố huyện nghèo có sức ám ảnh đến độ có thể in hình rõ rệt trên cả cửa sổ tâm hồn của con người.
Liên có thể cảm được“cái buồn của buổi chiều quê” và trong ánh mắt của người con gái vẫn còn trong độ tuổi thơ ngây đã “ngập dần đầy” cái bóng tối ám ảnh của phố huyện ấy.
Nỗi buồn của cuộc sống nơi phố huyện đã khiến Liên có cơ hội hoài niệm về những kỉ niệm tươi đẹp ở Hà Nội “sáng rực và lấp lánh” với những lần “được đi chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”. Những điều ấy hoàn toàn đối lập với sự héo hắt của bức tranh thiên nhiên cảnh vật của phố huyện này.
Dù chỉ là cô gái mới lớn nhưng chính cuộc sống nơi đây đã khiến Liên đã mang trong lòng nỗi ưu phiền về nhân thế không khác gì người từng trải với tấm lòng thiết tha dành cho mọi người, nhất là những người có số phận lầm than, cơ hàn.
Đến đây ta có thể thấy được, chính cái nghèo khổ, cơ cực đã cướp đi một phần tuổi thơ của Liên để rồi bao niềm vui, bao ước mơ cũng tàn lụi như buổi chiều tà và tịch mịch khi trời đất về đêm.
Những dòng viết của tác giả về bức tranh thiên nhiên đã cho thấy tài năng trong nghệ thuật miêu tả của tác giả. Nhà văn đã không trực tiếp mô tả qua cảm nhận của mình mà bằng những cảm nhận và quan sát của Liên.
Bức tranh thiên nhiên trong Hai đứa trẻ được thể hiện bằng những motip của ánh sáng và bóng tối. Cảnh thiên nhiên hiện hữu thật chân thực khi có sự phối hợp hài hòa của cả màu sắc, âm thanh và mùi vị.
Bên cạnh đó, cách hành văn, dẫn dắt bằng câu từ uyển chuyển, nhẹ nhàng nhưng vẫn thấm đượm cảm xúc, tâm trạng của nhà văn về không gian và thời gian đều góp phần giúp cho Thạch Lam tạo nên sự thi vị cho tác phẩm truyện ngắn của mình.
Không gian của một vùng phố huyện bình dị cùng với khoảng thời gian về chiều quen thuộc đã gợi nên hình ảnh của những vùng quê dẫu còn lắm những lo toan nhưng người dân lại sống trong sự chan hòa, thân ái.
Không những thế, việc tạo nên hệ thống hình ảnh có sự tương phản về độ tối – sáng trong tác phẩm cũng là một nét đặc sắc về nghệ thuật miêu tả của nhà văn. Trong truyện ngắn, ánh sáng thường xuất hiện trong sự yếu thế hơn bóng tối.
Đó là ánh sáng leo lét của ngọn đèn Hoa Kì, khe ánh sáng từ cửa hàng, quầng sáng của ngọn đèn mẹ con chị Tí, chấm lửa nhỏ của bếp lửa bác Siêu, hột sáng của ngọn đèn chị em Liên và vệt sáng của những con đom đóm.
Đối lập lại với những nguồn sáng yếu ớt ấy lại là bóng tối ngập đầy của cảnh vật và đất trời. Đó là “đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”, là “đêm tối vẫn bao bọc chung quanh, đêm của đất quê, và ngoài kia, đồng ruộng mênh mông và im lặng”, là “đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”.
Chính sự bủa giăng của bóng tối của cảnh vật ấy khiến cho đời sống con người càng trở nên lầm lũi, đáng thương hơn bao giờ hết.
Không chỉ vậy, nhà văn còn thành công trong việc chọn Liên là điểm nhìn để có thể miêu tả và cảm nhận về cảnh vật. Điều này khiến cho những tác giả có thể phần nào gián tiếp nói lên tâm trạng nhân vật, thể hiện được những rung cảm tinh tế của Liên – một nhân vật có đời sống tâm hồn phong phú và tinh tế trong cách nhìn nhận, quan sát những điều diễn ra xung quanh cuộc sống.
Có thể thấy tác phẩm“Hai đứa trẻ” của nhà văn Thạch Lam đã khắc họa rõ nét đời sống tối tăm, cơ cực của những con người nhỏ bé trong phố huyện. Một trong những yếu tố góp phần thể hiện rõ cảnh sống lầm than, khắc khổ của họ chính là từ việc tác giả miêu tả sự tăm tối, mịt mờ của cảnh vật, không gian phố huyện. Cũng tính chất đặc trưng ấy của bức tranh thiên nhiên trong Hai đứa trẻ đã giúp cho người đọc hình dung và phần nào cảm thương với cuộc sống của những kiếp người dù nhỏ bé nhưng vẫn luôn có ước mơ, niềm tin vào cuộc sống…
Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện - mẫu 4
Trong nền văn học dân tộc, ít có người như Thạch Lam. Bằng những truyện ngắn tưởng như đơn giản, không có cốt truyện nhưng những gì nhà văn viết, tiếng nói nhè nhẹ của ông đã để lại những lắng sâu, những nghĩ suy, những dư âm nhẹ nhàng mà sâu sắc cho độc giả. "Hai đứa trẻ" (in trong tập "Nắng trong vườn", xuất bản năm 1938) là một truyện ngắn như thế. Dưới con mắt ngây thơ của "Hai đứa trẻ", người đọc dường như cùng nhập cuộc, cùng theo dõi, để rồi bức tranh thiên nhiên và bức tranh đời sống của phố huyện nghèo, của những con người bình dị, lam lũ hiện lên.
Trong nắng chiều dần tắt, trong cái nhập nhòe nửa sáng nửa tối và trong cái chập chờn của màn đêm bao la với vài ngọn đèn lay lắt, cuộc sống hiện lên như những vật thể nhỏ xíu, trong cái đèn kéo quân đang hết dầu chầm chậm quay, để rồi rơi tõm vào màn đêm sâu thẳm. Cảnh không có gì hấp dẫn, hoạt động của con người thì lẻ tẻ, đơn điệu nhưng bức tranh chiều thì dần dần đen lại, chập chờn mấy ngọn đèn nhưng cứ lôi cuốn người đọc dõi theo cùng cô bé Liên bởi sự quan sát, cảm nhận, nhạy cảm, ngây thơ của cô bé, bởi sự hiện lên sống động, chân thực của bức tranh đời sống phố huyện nghèo đã gây nên cảm xúc trữ tình, tạo nên cảm giác buồn thương cho người đọc.
Mở đầu câu chuyện, Thạch Lam bằng sự quan sát tài tình của mình, bằng ngòi bút tài hoa của mình đã vẽ lên một bức tranh đơn giản mà huyền ảo, gây cho ta cảm giác như lạc vào thế giới thần tiên của truyện cổ tích: "Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương Tây, đỏ rực như lửa cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn, dãy tre làng trước mắt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời". Điệp từ "chiều" được nhắc đi nhắc lại, cái bóng tối lan nhanh thấm vào tâm hồn ngây thơ của cô bé Liên, cái âm thanh "êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng" tạo nên trong Liên nỗi "buồn man mác trước thời khắc của ngày tàn". Phiên chợ đã "vãn từ lâu", "người về hết và tiếng ồn ào cũng mất", chỉ còn lại sự nghèo nàn, xa xác với những "rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá nứa", chỉ còn lại "mùi âm ẩm bốc lên", chỉ còn lại hơi nóng ban ngày, mùi cát bụi và cảnh mấy đứa con nhà nghèo lom khom đi lại, tìm tòi. Cái thế giới "cổ tích" mà nhà văn dựng lên khác nào thế giới của những cô Tấm, Lọ Lem ngày xưa! Và rồi lần lượt hiện lên tiếp theo hình ảnh của những con người nghèo khổ khác: mẹ con chị Tí xách điếu đóm, đội chõng tre dọn hàng nước mặc dầu chẳng kiếm được bao nhiêu: "gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau trắng để trước mặt", hàng phở của bác Siêu đến trong "tiếng đòn gánh kĩu kịt"; bà cụ Thi "hơi điên vẫn mua rượu ở hàng Liên" cất tiếng cười khanh khách lẽo đẽo đi vào trong màn đêm tối mênh mông, lay lắt như ngọn đèn trước gió của "hàng nước chị Tí". "Vũ trụ thăm thẳm bao la", "về phía huyện một chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối, mất đi rồi lại hiện ra"; "tiếng trống cầm canh ở huyện đánh tung lên một tiếng ngắn khô khan, không vang động ra xa, rồi chìm ngay vào bóng tối". Ngày lại ngày, chiều và tối đơn điệu lặp lại sự buồn tẻ ấy như cuộc sống lầm than của người dân phố huyện này. Ánh sáng của cuộc sống ấy có chăng chỉ là sự lay lắt "chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ" như chiếc đèn của chị Tí. Sự sang trọng, vùng sáng lớn của con tàu đi qua phố huyện trong đêm chỉ lướt qua rồi mất hút vào đêm tối, chỉ là cái gì thật mơ hồ, xa lạ không biết bao giờ mới đến với cuộc đời của chị em Liên, của người dân phố huyện này.
Không một lời phê phán, không một sự lên án, không đặt ra một câu hỏi, ngòi bút tài hoa của Thạch Lam chỉ miêu tả đời sống thật, đời sống tối tăm, không hi vọng của người dân một vùng quê, một phố huyện nghèo mà sao làm nhức nhối chúng ta, gieo vào lòng ta một sự hoài nghi về xã hội thời nhà văn sống. Đóng góp như thế cho cuộc đời, cảm thông như thế cho thân phận con người, miêu tả như thế trong tác phẩm của mình, tâm hồn nhà văn đẹp đẽ biết bao, giá trị văn học mà Thạch Lam sáng tạo tài hoa và đáng trân trọng biết bao. Chúng ta xếp Thạch Lam vào những tên tuổi lớn của văn học nước nhà giai đoạn 1930 - 1945, độc giả biết ơn nhà văn đã viết những trang sách cho đời và coi ông như một trong những cây bút truyện ngắn bậc thầy thật đúng với tài năng của ông, đúng như tuyên bố của nhà văn với độc giả: "Đối với văn chương không phải là một cách mang đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên, trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn".
Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện - mẫu 5
Thạch Lam là cây bút trưởng thành trong nhóm Tự lực văn đoàn với phong cách sáng tác không thể lẫn lộn với bất cứ nhà văn nào. Những trang viết của ông nhẹ nhàng, sâu lắng, man mác và dìu dặt. Đó như là những lời tâm tình thủ thỉ nhưng lại có sức ám ảnh đối với người đọc. Những câu chuyện ông kể thường không có cốt truyện, bởi mọi thứ được viết bởi một chất liệu nhẹ và sâu nhất. “Hai đứa trẻ” là một câu chuyện như vậy. Truyện ngắn này đã vẽ lên bức tranh phố huyện nghèo với những mảnh đời nghèo khó, cơ cực trong xã hội.
Thạch Lam luôn khiến cho người đọc nhận ra được sự tinh tế trong tâm hồn, trong những câu văn. Sự nhẹ nhàng đã làm nên nét độc đáo trong văn của Thạch Lam. “Hai đưa trẻ” là câu chuyện xoay quanh cuộc sống của An và Liên tại phố huyện nghèo với những công việc nhàn nhạt được lặp đi lặp lại hằng ngày. Cũng qua hai nhân vật này, tác giả muốn gửi gắm đến người đọc nhiều thông điệp về cuộc sống, về những khó khăn mà con người đã trải qua.
Chất liệu làm nền cho câu chuyện chính là khung cảnh phố huyện nghèo luôn chấp chới, ẩn hiện trong mỗi trang viết. Có lẽ chính bức tranh là gợi nên cảm hứng để Thạch Lam bày tỏ cảm xúc của mình. Và có phải đây chính là phố huyện nghèo Cẩm Giàng – nơi mà ông đã sinh ra và lớn lên.
Khung cảnh phố huyện nghèo hiện lên ở những câu văn đầu tiên “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ, từng tiếng một vang xa để gọi buổi chiều…”. Một tiếng trống vang lên trong một buổi chiều sắp tàn, và có lẽ cảnh vật và con người đang đắm chìm vào trong trạng thái lơ đãng. Tại sao tác giả lại lựa chọn một buổi chiều mùa thu để làm cảm hứng vẽ lên bức tranh phố huyện? Là do mùa thu luôn gợi buồn, gợi nhớ, gợi nhiều xúc cảm nhất. Hình ảnh hai đứa trẻ xuất hiện với những công việc thường ngày “thắp đèn” rồi “đóng quan” và ngắm nhìn đoàn tàu chạy từ Hà Nội trở về, vụt sáng lên và rồi lại rơi vào hụt hẫng.
Hình ảnh phố huyện buổi chiều tà được tác giả phác họa qua những chi tiết: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và bã mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc quá khiến chị em Liên tường là mùi riêng của đất, của quê hương này. Một vài người bán hàng về muộn đang thu xếp hàng hóa, đòn gánh đã xỏ sẵn vào quang rồi, họ còn đứng nói chuyện với nhau ít câu”. Đó chính là khung cảnh của khu phố nghèo lúc ngày đã tàn, một sự héo úa, tàn phai và cả sự tiêu điều hiu quạnh hiện lên trước mắt người đọc. Có lẽ đây chính là hiện thực thời bấy giờ ở miền bắc nước ta. Mọi thứ dường như chông chênh, không điểm nhấn, không sức hút và dường như không có sự sống. Tất cả chỉ là những điều bình dị, gần gũi nhưng lại phảng phất nghèo đói.
Những câu văn mềm mại, mượt mà diễn tả một không gian đìu hiu, vắng lặng ở phố nghèo. Trên cái nền u ám đó xuất hiện bóng dáng những đứa trẻ nghèo “Mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được. Liên động lòng nhưng chính chị cũng không có tiền mà cho chúng”. Một bức tranh thêm ảm đảm hơn khi những con người nghèo khổ xuất hiện, dường như đã nhân đôi cái nghèo, cái khốn khó của mảnh đất này. Và người đọc thấy toát lên vẻ đẹp tâm hồn của Liên, thánh thiện và cao cả.
Trong bức tranh làng quê nghèo ấy còn có rất nhiều số phận khác nữa, tất cả đã tạo nên sự hỗn độn của phố huyện buổi chiều tàn. Đó là hình ảnh mẹ con chị Tí dọn hàng nhưng “chả kiếm được bao nhiêu”. Hay chính là hình ảnh của chị em Liên từ khi dọn về phố nghèo này, hai chị em bán hàng giúp cho mẹ trên một gian hàng bé thuê lại của người khác, một tấm phên nứa dán giấy nhật trình.
Những con người lẳng lặng, những con người cần mẫn lặng nhìn cái nghèo đói diễn ra trước mắt nhưng cũng không thể làm gì được.
Xen lẫn những con người nghèo khổ vật chất còn là hình ảnh bà cụ Thị bị điên vẫn thường hay mua rượu tại cửa hàng nhà liên. Hình ảnh bà cụ Thi “ngửa cổ uống một hơi sạch, đặt 3 xu vào tay liên và lảo đảo bước đi” khiến người đọc chạnh lòng về một kiếp người, một đời người dật dờ, không bến đỗ.
Giữa chốn phố huyện này, dường như ai cũng mong ngóng một chuyến tàu từ Hà Nội chạy về đây mang theo sự ồn ào, huyên náo và tấp nập hơn nữa. Có lẽ chuyến tàu có ý nghĩa to lớn đối với những phận người nơi mảnh đất này. Bởi “con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Đó có thể là thế giới có sự phồn hoa ngày xưa của hai chị em Liên, có cuộc sống sung túc và bình an hơn.
Chuyến tàu có lẽ chính là ước mơ, là khát vọng được vươn ra ánh sáng của những con người tại phố huyện nghèo này.
“Hai đứa trẻ” là một câu chuyện nhẹ nhàng, không có tình huống gay cấn những lại khiến cho người đọc thấy ám ảnh về những mảnh đời, mảnh đất nghèo nàn những năm đất nước ta còn chìm trong bom đạn.
Cảm nhận của anh chị về bức tranh phố huyện - mẫu 6
Thạch Lam (1910-1942) là một cây bút truyện ngắn rất tài hoa xuất sắc của nền văn xuôi Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. Trong văn Thạch Lam có sự kết hợp tự nhiên hài hòa giữa hai yếu tố hiện thực và lãng mạn, nên văn Thạch Lam vừa nhẹ nhàng thanh thoát vừa ý vị sâu xa. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” 1938 là một truyện ngắn đặc sắc tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam. Truyện ngắn thông qua cái nhìn của hai đứa trẻ nhà văn đã tái hiện một bức tranh thiên nhiên và một bức tranh về đời sống của nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng tám. Qua hai bức tranh này nhà văn đã gợi lên được nhiều ý nghĩa xã hội sâu xa.
Thạch Lam đã chọn thời gian là “giờ khắc của ngày tàn” khi tiếng trống thu không gọi buổi chiều để miêu tả những con người nhỏ bé họ dường như càng buồn bã hơn khi chiều tàn chuyển dần sang đêm tối.
Hình ảnh mặt trời lấp ló sau rặng tre những đám mây ánh hồng, dãy tre làng đen lại, đêm phố huyện với vòm trời ngàn sao lấp lánh, đom đóm nhấp nháy bóng đêm thăm thẳm dày đặc. Khi chợ tàn thì tiếng ồn cũng mất, trên nền chợ chỉ còn lại rác rưởi và đầy vỏ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, sự huyên náo đông vui nhường chỗ cho sự trống vắng quạnh hiu cảnh chợ tàn gây một nỗi thấm thía. Thông thường khi muốn biết kinh tế văn hóa của một vùng quê thì người ta nhìn vào cái chợ. Ở đây Thạch Lam cũng miêu tả theo quan niệm đó. Đầu tiên ông cho người đọc hình dung về một cái chợ tàn. Điều đó gợi liên tưởng đến một vùng quê rất nghèo đói và lam lũ.
Âm thanh vang lên là tiếng trống thu, tiếng ếch nhái kêu vang ngoài đồng, tiếng muỗi vo ve, tiếng hoa bàng rụng khe khẽ đã tạo nên cái buồn man mác báo hiệu một cuộc sống không có nhiều niềm vui. Mùi vị quen thuộc của các bụi, màu móc ẩm, mùi khói, mùi cỏ, mùi phân trâu ngay ngáy đó là thứ mùi vị riêng của quê hương này, mùi vị của nghèo khổ lâm than bế tắc.
Tóm lại thiên nhiên phố huyện rất êm ả nhưng thấm đậm nỗi buồn và tình cảm yêu thương trìu mến của một nhà văn luôn nặng tình với những gì là biểu hiện của hồn xưa. Nhà văn đã dùng bút pháp mượn cảnh tả tình, mượn cảnh tả người tả đời. Nhờ bút pháp này mà nhà văn đã gián tiếp dựng lên được một hình ảnh chung của bức tranh đời sống của một vùng quê nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Trong tác phẩm này ngòi bút của nhà văn tập trung đặc tả hình ảnh những cuộc đời, những con người nghèo đói, lam lũ, tối tăm và lay lắt.
Cảnh sống của con người trước hết thông qua đôi mắt của chị em Liên nhà văn đã cho xuất hiện những đứa trẻ con nhà nghèo lom khom trên nền chợ tàn. Sau khi chợ tan những đứa trẻ con nhà nghèo này đã tìm đến nền chợ nhặt những thứ còn sót lại để phục vụ đời sống của chúng, nhung vì chợ nghèo nên tàn dư của chợ chẳng có gì chúng chỉ nhặt được một vài thanh nứa, thanh tre rất ít ỏi còn sót lại trên nền chợ. Từ đó ta thấy cuộc sống của những đứa trẻ này chẳng hứa hẹn một điều gì tốt đẹp. Sự đặc tả về thân phận cuộc sống của người lao động, tác giả đã giành nhiều sự quan sát và diễn tả về mẹ con chị Tý. Chị Tý là một người nông dân suốt ngày chỉ biết “mò cua bắt tép” tối đến chị đội chõng ra dọn hàng nước bán cũng chẳng được bao nhiêu, nhưng tối nào chị cũng dọn hàng để bán và hy vọng. Cảnh sống ở phố huyện đêm nào cũng thế lại xuất hiện vợ chồng bác Xẩm nghèo ngồi trên manh chiếu rách, với cái thau trắng trước mặt để đợi chờ. Bà cụ Thi khổ lúc nào cũng đi về trong bóng tối. Khá hơn là chị em Liên có quầy hàng tạp hóa nhưng mỗi ngày cũng chẳng bán được là bao, cuộc đời cũng xập xệ trên chiếc võng nát.
Tất cả những cảnh đó đều là một cái chung đó là sự nghèo nàn tột bậc, tột cùng. Đó là một sự lam lũ tối tăm không có một chút lóe sáng với tương lai. Nhưng chúng ta đã biết con người là linh hồn của một vùng quê vùng đất. Miêu tả con người trong nghèo đói nhọc nhằn nhà văn đã gợi tả được những tầng lớp người dân nông thôn trước cách mạng tháng tám nghèo nàn thật đáng thương, thật đáng lưu tâm, thật đáng nặng lòng.
Để miêu tả bức tranh đời sống nghèo đói tối tăm nhà văn đã đặt trong cái nền bóng tối của trời đất. Mặc dù thiên nhiên thì muôn đời vẫn đẹp “một đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát” những bóng đêm đó vẫn cứ ôm siết bao trùm những cuộc đời lam lũ. Để miêu tả bóng đêm này nhà văn đã dùng những chi tiết rất gợi khi thì những con đường về làng, những con đường ra ngã sông đều sẫm đen bóng tối, khi thì tất cả đều chìm vào bóng tối, khi thì trời tối sẫm đen. Bằng những chi tiết đó nhà văn đã cho giăng mắt bao trùm bóng tối lên phố huyện nghèo trong đêm tối, để nhấn mạnh sự nhỏ nhoi, leo lắt nhà văn có khi dùng hình ảnh những “hột sáng” từ dãy tạp hóa của chị em Liên phát ra những “khe sáng” từ những nhà hàng đối diện phát ra, “đóm lửa vàng” của gánh lửa bác Xiêu, có khi là “quần sáng nhỏ” từ ngọn đèn của chị Tý. Đặc biệt để nhấn mạnh những đóm sáng nhỏ nhoi leo lắt nhà văn đã miêu tả ngọn đèn của chị Tý sáng một vùng đất nhỏ đến bảy lần. Đó là một hình ảnh thể hiện sự ám ảnh về sự nhỏ nhoi, lẻ loi của ánh sáng trong đêm tối mong manh vô tận, miêu tả bóng tối bao trùm ánh sáng, ánh sáng nhỏ nhoi lay lắt trong bóng tối, nhà văn nhằm diễn đạt một bức tranh đời sống tăm tối.
Cảnh sống của con người trong “Hai đứa trẻ” không chỉ nghèo nàn tối tăm mà còn đơn điệu nhàm chán. Ngày nào cũng thế khi chợ tàn lũ trẻ nhà nghèo lại ra chợ tìm kiếm nhặt nhạnh những rát rưởi tàn dư của chợ còn sót lại. Ngày nào cũng thế chị Tý, bác phở Siêu, bác Xẩm nghèo rồi chị em Liên vẫn cứ dọn hàng và chờ đợi, khách hàng của họ không ai khác ngoài người nhà của cụ Thừa, cụ Lục đi gọi người đánh tổ tôm tạt qua. Rồi mấy bác phu xe ghé qua uống nước, cứ thế ngày này qua ngày khác nhịp điệu cuộc sống cứ diễn ra đều đặn. Từ người bán hàng đến khách hàng đều là những ông chủ lớn nhưng vẫn nghèo sát mặt đất. Cảnh sống ấy đúng như nhà thơ Huy Cận viết:
Quanh quẩn mãi cũng vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng từng ấy mặt người”.
Trong cảnh sống đó nhà văn Thạch Lam có miêu tả cảnh chị em Liên thức đợi chuyến tàu. Đó là thể hiện sự thức tỉnh ý thức cá nhân của những con người này muốn khát khao vươn ra ánh sáng, nhưng ánh sáng cuộc đời họ phía trước cũng giống ánh sáng đoàn tàu lửa thoáng qua chốc lát rồi lại chìm ngay vào bóng tối. Hình ảnh cuối tác phẩm, ngọn đèn con của chị Tý lại chập chờn trong giấc ngủ của Liên điều đó nhà văn cũng nhằm khẳng định những cuộc đời nơi phố huyện vẫn là những cuộc đời leo lắt, tất cả đều chìm trong bóng tịt mịt.
Thông qua câu chuyện của hai đứa trẻ con nhà nghèo nhìn phố huyện trong buổi chiều xuống và đêm đến, nhà văn đã lặng lẽ đưa ra một không gian sống của một vùng quê phố huyện nghèo trước cách mạng tháng Tám. Từ không gian sống này nhà văn đã gợi cho người đọc liên tưởng đến cảnh sống nghèo đói quẩn quanh, bế tắc của những người dân quê “trong cái giời tối đất của đồng lúa ngày xưa”. Qua cảnh sống này nhà văn Thạch Lam gián tiếp lên án giai cấp thống trị thời bấy giờ đã vô trách nhiệm với người dân quê và nhà văn cũng thể hiện tình cảm nhân đạo sâu sắc đối với họ.
Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:
- Cảm nhận của em về Bác
- Cảm nhận của em về bài Làng
- Cảm nhận của em về hình tượng Ngô Tử Văn
- Cảm nhận của em về một cuốn sách đã đọc
- Cảm nhận của em về người đàn bà hàng chài
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều