Phân tích Vợ nhặt (điểm cao)

Bài văn Phân tích Vợ nhặt hay nhất, ngắn gọn gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh trên cả nước.

Kim Lân, nhà văn chuyên viết truyện ngắn, với biệt tài viết về người nông dân. Người nông dân trong trang viết của Kim Lân dù nghèo khổ nhưng luôn sáng ngời những phẩm chất: yêu đời, thật thà, chất phác, hóm hỉnh, tài hoa. Vợ nhặt là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông khi viết về người nông dân.

Tác phẩm là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất nằm trong tập truyện “Con chó xấu xí” (1962). Tác phẩm này trước vốn là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công. Tuy nhiên chỉ được viết dở dang và sau đó mất bản thảo. Đến năm 1954, khi hòa bình lập lại, nhân một số báo văn nghệ kỉ niệm cách mạng tháng 8 thành công, Kim Lân đã nhớ lại tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, dựa trên cốt truyện cũ viết lại thành truyện ngắn. Ngay từ khi ra đời, tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn trong giới sáng tác.

Tác phẩm lấy bối cảnh là nạn đói năm Ất Dậu 1945, năm diễn ra nạn đói khủng khiếp, khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Cái đói tràn làn, khủng khiếp diễn ra ở khắp nơi khiến con người không thể nào chống cự được, tất cả những yếu tố đó đã được Kim Lân tái hiện thành công trong tác phẩm của ông.

Trước hết là màu sắc, ông đi khai thác màu xanh xám của da người, màu đen kịt của đàn quạ bay trên trời. Những màu sắc gợi lên sự chết chóc, ảm đạm, tàn lụi và héo úa. Bao quanh không gian đó là mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người, mùi đốt đống dấm khét lẹt. Kết hợp với tiếng quạ kêu từng hồi, hòa lẫn với tiếng khóc hờ từ những gia đình có người chết. Để làm rõ nét hơn, Kim Lân còn cho người đọc thấy hình ảnh sáng nào cũng có ba bốn thây người nằm chết còng queo bên đường. Tình cảnh vô cùng thảm thương, bất hạnh. Kim Lân nhìn nhận hiện thực bằng cái nhìn chân thực, sắc nét, không né tránh, phơi bày tất cả trên trang văn của mình, để người đọc thấy rõ cái khủng khiếp của nạn đói năm 1945. Nhưng giá trị thật sự của tác phẩm là ở chỗ: từ trong bóng tối của cái đói, cái chết, tác giả tìm thấy ánh sáng của vẻ đẹp tâm hồn con người.

Sau khi vẽ nên khung hình chung của nạn đói, nhân vật đầu tiên trong thiên truyện xuất hiện, đồng thời cũng là nhân vật trung tâm của tác phẩm – anh cu Tràng. Tràng vốn là dân ngụ cư, sống tha phương cầu thực, những người dân ngụ cư thường bị phân biệt, kì thị, sống ở rìa làng, chứ không được sống trong trung tâm của làng như những người khác. Không chỉ vậy, họ còn không được chia ruộng đất, không được tham gia bất cứ hoạt động sinh hoạt cộng đồng nào của làng xã. Anh cu Tràng bị đặt ra ngoài lề xã hội. Không dừng lại ở đó, gia đình Tràng còn rất nghèo, cha mất, chỉ con hai mẹ con nương tựa vào nhau, vì không được chia ruộng nên Tràng phải làm công việc bấp bênh để kiếm sống: kéo xe bò thuê.

Dường như số phận càng trở nên trớ trêu hơn, khi gia cảnh nghèo nàn, là người ngụ cự, anh Tràng còn có ngoại hình hết sức xấu xí. Hai mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, còn hai bên quai hàm bạnh ra, khiến khuôn mặt càng to lớn hơn. Thân hình to lớn vập vạp, như một người khổng lồ. Tràng còn vừa đi vừa lảm nhảm những điều mình nghĩ và cứ thể ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch. Anh cu Tràng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp hấp dẫn lũ trẻ con, còn với các cô gái anh hoàn toàn không có chút hấp dẫn nào, cả về ngoại hình lẫn gia cảnh, anh cu Tràng không có khả năng để lấy được vợ.

Nhưng trong một lần hát nghêu ngao trong lúc làm việc, anh cu Tràng đã lấy được vợ một cách đầy bất ngờ và ngỡ ngàng. Trong lúc làm việc mệt nhọc, dân ta thường có những câu hò để xua tan cái mệt, tăng động lực làm việc. Và anh cu Tràng cũ vậy, anh cũng hát, lời hát hết sức bông đùa: “Muốn ăn cơm trắng với giò. Lại đây mà đẩy xe bò với anh”. Lời nói ấy đã khiến thị theo anh cu Tràng về làm vợ thật.

Trước khi đưa cô vợ về nhà, Tràng rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới, dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh cu Tràng từ một kẻ thô kệch, lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lí và tinh tế lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng, phớn phở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc, rạng rỡ vừa vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, Tràng đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui, niềm hạnh phúc khi lấy được vợ. Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng ngịu, xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sờ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành hiện thực. Điều Tràng mong ngóng nhất là đợi mẹ mình về nhà, để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu thị với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng, xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lí, nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lí, suy nghĩ của anh cu Tràng.

Hạnh phúc đã khơi dậy ý thức bổn phận của người đàn ông trong gia đình. Sáng hôm sau, Tràng tỉnh dậy muộn, cảm thấy trong người dễ chịu, êm ái, như người đi ra từ trong giấc mơ, anh ngỡ ngàng trước hạnh phúc mình đang nắm giữ. Tràng quan sát khung cảnh đang bày ra trước mắt mình, nhận thấy cảnh tượng thay đổi mới mẻ, khác lạ, nhà cửa không bừa bộn mà được dọn dẹp sạch sẽ, không khí gia đình trở nên ấm áp, vui vẻ, mẹ và vợ chung tay dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Trành thấy thấm thía, cảm động và bỗng thấy yêu thương những người xung quanh, đồng thời nhận thấy trách nhiệm của bản thân, phải biết lo lắng cho gia đình, vợ con. Và sự ý thức đó đã được hiện thực hóa bằng hành động xăm xăm chạy ra sân, muốn chung tay tu sửa căn nhà. Tràng muốn chung tay để nghênh đón tương lai tươi sáng đến với gia đình. Đồng thời trong Tràng cũng bừng lên khát vọng đổi đời mãnh liệt, anh biết quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội: mạn Thái Nguyên Bắc Giang không đóng thuê mà còn phá kho thóc Nhật cha cho người đói. Hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới lẩn khuất, ẩn hiện trong trí óc Tràng. Hình ảnh lá cờ chính là tín hiệu cho tương lai tươi sáng. Người đọc tin tưởng Tràng sẽ đi theo Việt Minh, theo cách mạng.

Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lên trước hết phơi bày cuộc sống khổ cực của nhân dân ta trong nạn đói 1945. Nhưng đằng sau đó còn là sự cảm thương cho số phận họ. Trân trọng, phát hiện và ngợi ca vẻ đẹp của người dân Việt Nam trong tình cảnh khốn cùng: tấm lòng nhân hậu, khát khao hạnh phúc, tin tưởng vào tương lai.

Bên cạnh nhân vật Tràng, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật người vợ nhặt. Người vợ nhặt không có lai lịch rõ ràng, không rõ tên tuổi, quê quán, nghề nghiệp và cũng không hề có tài sản gì khi lần đầu gặp Tràng. Có thể thấy rằng, trong nạn đói khủng khiếp, thân phận con người trở nên hết sức vô nghĩa. Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rác rưới, tả tơi như tổ đỉa, người gầy sọp đi vì đói, mặt lưỡi cày xám ngoét, ngực gày và lép, hai con mắt sâu trũng hoáy lại. Ngoại hình thị vô cùng thảm hại, do cái đói đã gây ra cho con người. Ngôn ngữ của thị cũng hết sức chao chat, chỏng lỏn: “Điêu! Người thế mà điêu!”, “Ăn thật nhá”, “Hà, ngon. Về chj ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”; rồi thì “Ton ton chạy lại”, “liếc mắt cười tít”, “sầm sập chạy đến”, “xưng xỉa nói”, “cong cớn”, “cắm đầu ăn”, “ăn xong lấy đũa quẹt một cái”. Thị tỏ ra là con người hết sức vô duyên, dường như cái đói, cái chết có thể mài mòn nhân cách con người ta ghê gớm đến như vậy.

Nhưng đằng sao sự chỏng lỏn đến vô duyên ấy lại là một con người có khát vọng sống vô cùng mãnh liệt. Khi nhìn dưới góc độ nhân bản thì tất cả hành động, cử chỉ trơ trẽn, vô duyên của thị lại là biểu hiện của khát vọng sống mãnh liệt. Bên cạnh đó, thị còn hiện lên với vẻ đẹp nữ tính, trên đường về nhà, thị rón rén, e thẹn: “Thị cắp cái thúng con, cái đầu hơi cúi xuống; cái nón rách tả tơi nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”. Khi về đến nhà chồng, thấy quang cảnh nhà chồng thị nén tiếng thở dài, ngồi mớn ở mép giường và vô cùng lễ phép khi gặp mẹ chồng. Sáng hôm sau cô dậy sớm cùng mẹ dọn dẹp, vun vén nhà cửa. Nhân vật thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

Cuối cùng là nhân vật bà cụ Tứ, dù chỉ thấp thoáng trong tác phẩm, nhưng cũng có vai trò, ý nghĩa quan trọng. Bà là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực: dân ngụ cư tha phương cầu thực; chồng và con gái mất sớm. Cả đời lận đận, chỉ có tâm nguyện lớn nhất là lấy vợ cho con nhưng mãi không giành dụm được tiền, trong lúc nghèo đói đến cùng cực người con trai lại nhặt được vợ. Nhìn thấy con đưa vợ về, bà nín lặng cúi đầu, băn khoăn, nhưng vẫn rất vui mừng cho đôi trẻ, bà dặn dò hai vợ chồng mới. Nói những chuyện tương lai tốt đẹp, đem đến niềm tin, sự lạc quan cho chúng. Bà là một người mẹ nhân hậu và hết sức yêu thương con. Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học hiện thực. Tác phẩm vừa cho thấy hiện thực cuộc sống nghèo khổ của nhân dân, đồng thời ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự trân trọng, nâng niu những ước mơ đổi đời của con người. Không chỉ vậy, tác phẩm cũng cho thấy nghệ thuật phân tích phân tâm lí và miêu tả bậc thầy của nhà văn Kim Lân.

I. Mở bài

- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về cảnh nong thôn, hình tượng người nông dân lao động.

- Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.

II. Thân bài

1. Ý nghĩa nhan đề: “vợ nhặt” nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và phản ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.

2. Tình huống truyện

- Tình huống: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà lại là nhặt được, theo về không.

- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hoàn cảnh của Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo không về, tự ngờ ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với bà cụ Tứ.

- Tình huống éo le: hoàn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh nạn đói) không cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.

3. Nhân vật Tràng

- Hoàn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, ..., bản thân: xấu xí, thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ nghệch, vụng về, ...

a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ

- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.

- Lần gặp 2:

    + Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.

    + Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.

    + Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.

b. Trên đường về:

    + Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc”, ... Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.

    + Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.

c. Khi về đến nhà:

    + Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.

    + Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vi gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.

    + Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.

    + Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.

d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:

    + Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước, quần áo, ...), Tràng nhận ra vai trì và vị trí của người đan bà trong gia đình. Cũng thấy mình trưởng thành hơn.

    + Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.

- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đỏi theo chiều hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái đói.

4. Nhân vật người vợ nhặt

a. Lai lịch

- Không có quê hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.

- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.

b. Chân dung

- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.

- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

- Lần thứ hai:

    + Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.

    + Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ ... cùng về”, thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.

- Nhận xét: cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với thị vì đó không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.

c. Phẩm chất

- Có khát vọng sống mãnh liệt:

    + Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.

    + Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.

- Thị là người ý tứ và nết na:

    + Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.

    + Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong giá đình.

    + Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.

    + Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.

    + Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.

- Nhận xét: cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.

- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

- Nêu cả nhận chung về hình tượng người vợ nhặt sau khi phân tích.

5. Nhân vật bà cụ Tứ

- Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa ho húng hắng, lẩm nhẩm tính toán theo thói quen người già.

- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.

- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoàn đi ”:thương cho con trai phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.

- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây ... đỡ mỏi chân”, nói về tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn, ...

- Nhận xét: bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.

III. Kết bài

- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ bình dị, gần gũi.

- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình cảnh người nông dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.

Phân tích Vợ nhặt (điểm cao)

Người ta vẫn thường nói rằng tác phẩm nghệ thuật là đứa con tinh thần của mỗi nhà văn. Dù cùng một đề tài những mỗi nhà văn có những cách khai thác hiện thực khác nhau. Đó chính là điểm làm nên phong cách của mỗi tác giả. Là một nhà văn hiện thực xuất sắc, Kim Lân được biết đến không chỉ là tác phẩm Làng, mà còn rất nhiều tác phẩm khác, nổi bật nhất chính là Vợ nhặt. Tác phẩm thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của Kim Lân với những con người nghèo khổ.

Đọc Vợ nhặt ta được tiếp cận với biết bao thân phận tăm tối, cuộc đời họ đã bị đẩy đến bước đường cùng. Nhân hình của Tràng, người vợ nhặt, bà mẹ đều méo mó trước sức hủy diệt khủng khiếp của cái đói. Là sự thiếu thốn về vật chất đến cùng cực. Nhưng chính từ nơi tối tăm, thiếu thốn nhất ấy, lại bừng lên tình người, tình yêu thương con người mãnh liệt của những người cùng cảnh ngộ. Nhân đạo chính là ở chỗ đó.

Bước chân vào tác phẩm, cái đói được tác giả khắc họa vô cùng rõ nét. Sự sống của những con người, đặc biệt là xóm ngụ cư dường như ngàn cân treo sợi tóc, thần chết sẵn sàng đến đưa họ đi bất cứ lúc nào. Cõi dương nhưng lúc nào cũng lởn vởn âm khí, cái chết hiện hình ngay bên cạnh những người đang còn sống. Nhưng giữa nạn đói khủng khiếp đó, anh Tràng lại vẫn rất lạc quan, sự sống đối với anh “chẳng bao giờ là chán nản”. Tràng được tác giả phác họa là chàng trai thô kệch, xấu xí “hai con mắt nhỏ tí” “lưng to như lưng gấu” tình tình lại không được khôn ngoan, hay nói nhảm, nói một mình, đôi khi tự ngửa cổ lên trời mà cười hềnh hệch. Không chỉ vậy, xuất thân của anh ta cũng rất đáng buồn, là dân xóm ngụ cư, cảng được ai chú tâm, coi trọng. Quả thực anh cu Tràng đã là tận cùng của sự khổ sở và đau đớn.

Nhưng điều bất ngờ nhất chính là sự kiện chàng có vợ. Một cô vợ được nhặt về. Càng lạ hơn là trong thời buổi, lo cho mình còn chưa xong, mà Tràng lại sẵn sang đèo bòng thêm một người phụ nữ, thêm một miếng ăn cho chính mình. Liệu đây có phải là một phút bồng bột nhất thời của người đàn ông này hay không? Nhưng đó quả thực không phải là một quyết định nhất thời, mà quyết định đó xuất phát từ tình yêu thương, từ khát khao hạnh phúc rất đỗi bình thường của mỗi con người. Khi nhìn thấy người vợ nhặt, một kẻ tứ cố vô thân, gầy đen như sắp chết, một con người thiện lương như Tràng chắc chắn sẽ không thẻ làm ngờ. Chỉ bằng bốn bát bánh đúc cũng đã đủ se nên mối duyên trăm năm tình nghĩa vợ chồng. Có gì đó như là chua xót, như là thương cảm cho cuộc hôn nhân của những con người cùng khổ này. Dựng nên một tình thế éo le như vật dường như nhà văn đã đánh cược với tất cả, để khẳng định, để tin tưởng vào tấm long nhân đạo, nhân văn ẩn sâu trong mỗi con người.

Cái đói, cái chết cũng không thể hủy diệt khát khao hạnh phúc, khát khao có một mái ấm gia đình trong lòng Tràng. Không chỉ vậy, với mái ấm này đã khiến Tràng thay đổi hoàn toàn. Đó là cảm giác sung sướng, hạnh phúc, lâng lâng “tựa hồ như có ai vuốt nhẹ vào sống lưng”. Hạnh phúc của con người thật bình dị và đơn sơ, nó có sức mạnh cải hóa con người, giúp con người ta sau một đêm tân hôn tuyệt vời có thể thay đổi theo hướng tích cực đến như vậy: “Trong phút chốc Tràng quên tất cả cảnh sống ê chề, tủi nhục”. Nhìn thấy ngôi nhà gon ghẽ, thấy người vợ quét tước dọn dẹp, lại bừng lại trong cgangf khát vọng vun vén cho gia đình. Cuộc sống, chao ôi sao mà dễ thương, yên ấm đến như vậy. Mặc dù ngay sau đó hiện thực lại ấp thẳng xuống họ, với bữa cơm ngày đói vô cùng thảm hại, nhưng ai cũng thấy ngon, vì trong họ trào dâng niềm hạnh phúc, khát vọng về tương lai tốt đẹp.

Đọc tác phẩm này ta không thể không chú ý đến nhân vật bà cụ Tứ, một bà mẹ khốn khổ, yêu thương con hết mực, bà chính là hình ảnh phản chiếu tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam. Nhìn thấy anh con mang một người đàn bà về nhà, bà vừa lo lắng, vừa sợ hãi. Nhưng sau khi biết sự tình, bà cảm thông và chúc phúc cho hai người, rồi bà còn tự trách mình không làm tròn trách nhiệm của một người mẹ. Có người mẹ nào lại không muốn con mình, yên ấm, hanh phúc. Nhưng vì hoàn cảnh mà chẳng thể cưới được vợ một cách tử tế cho con. Chính bà cũng tự hiểu: ôi, người ra dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong có con đàn cháu đống… con còn mình lúc đói kém mới có được vợ … chúng mày lấy nhau u cũng mừng lòng”. Bà không chỉ thương con trai mà thương cả người con dâu kia. Chúng quả là những đứa trẻ đáng thương. Nhưng trong bà cũng không thối dấy lên hi vọng “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Rồi ba còn vạch ra những viễn cảnh tương lai đẹp đẽ cho đôi vợ chồng trẻ.

Nhân đạo trong tác phẩm Kim Lân cũng thật đặc biệt. Ông đẩy mỗi nhân vật đến tận cùng của khổ sở, để rồi sau đó mở ra con đường, tương lai cho họ. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện cuối tác phẩm, đã mở ra một tương lai tươi sáng, giải thoát cuộc đời của những con người dưới đáy xã hội. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ nét nhất ở chia tiết này.

Những dòng văn cuối cùng đã kết đọng tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà văn Kim Lân. Ông trân trọng, yêu thương từng cá nhân, từng số phận. Đồng thời ta cũng thấy được nghệ thuật miêu tả, và tạo dựng tình huống bậc thầy của nhà văn này.

Tác phẩm “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm tiêu biểu phản ánh rất chân thực cuộc sống khốn khó của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Cuộc sống của họ bị đàn áp và dồn đến tận cùng của cái đói, khi mà sinh mạng của con người trở nên rẻ rúm. Tuy nhiên, tác phẩm của ông chú trọng nhiều vào các giá trị nhân văn, nhân đạo, khai thác và làm sáng rõ những vẻ đẹp của con người thông qua nghịch cảnh cuộc sống để mang đến ánh sáng, niềm tin hy vọng trong những tháng ngày tăm tối nhất.

Truyện bắt đầu từ tình huống "nhặt vợ" đầy lạ lùng, éo le của anh cu Tràng. Theo lẽ thông thường, để lấy được vợ thì người ta phải có tình cảm với nhau rồi làm lễ cưới hỏi đàng hoàng, còn anh cu Tràng thì khác, anh nhặt vợ chỉ với vài câu bông đùa cùng bốn bát bánh đúc ăn vội. Tình huống càng éo le hơn, khi mà Tràng và mẹ đang trong hoạn nạn của đói khổ, vùng vẫy giữa cảnh khốn cùng thì Tràng lại đèo bòng thêm một người phụ nữ, nhà lại có thêm một miệng ăn, gánh nặng lại thêm ghì lên vai. Tràng có vợ khiến người ở xóm ngụ cư ai nấy đều kinh ngạc, ai nấy đều tò mò, thích thú nhưng cũng không khỏi xót xa trước một tình cảnh éo le. Bởi họ biết giờ này đến thân còn không lo nổi thì làm sao có thể lo thêm cho ai. Một tình huống "nhặt vợ" tuy nhẹ nhàng nhưng lại là một sự độc đáo để triển khai câu chuyện, thể hiện tư tưởng nhân văn trong tác phẩm về tiếng nói của tình người, của lòng nhân ái. Giữa cảnh khốn cùng, người ta vẫn sẵn sàng cưu mang nhau lúc khốn khó, trong đói rét ngọn lửa của khát khao hạnh phúc vẫn nhen nhóm và bùng cháy trong tâm thức mỗi con người.

Những nhân vật bước ra từ trang văn "Vợ nhặt" đều để lại trong lòng chúng ta những ấn tượng và niềm thương cảm sâu sắc. Nhân vật chính trong tác phẩm là Tràng, một người nông dân hiền lành, chất phác mà giàu tình cảm. Tràng vốn sinh ra không được sự ưu ái của tạo hóa khi mang trên mình một dáng hình xấu xí, tình tình lại cục mịch, chẳng được lanh lợi như bao người: "...Hai con mất nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạch ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhính những ý nghĩ gì vừa lí thú vừa dữ tợn. Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm than thở những điều hắn nghĩ". Hơn thế nữa, Tràng con là dân ngụ cư, khốn cảnh không có đất đai mà cày cấy, đã nghèo lại càng nghèo thêm. Tràng chẳng có công việc ổn định, chỉ là anh phu kéo xe bò thuê. Người như Tràng thì khó có vợ, hắn biết, mẹ hắn cũng biết và cả xóm ngụ cư đều biết. Tuy vậy, nhưng Tràng là người hiền lành, và còn rất chăm chỉ. Tràng ngày ngày vẫn làm thuê kiếm sống, cùng người mẹ nghèo cố gắng từng ngày. Cũng như bao người con trai khác, Tràng cũng mong có vợ, niềm hạnh phúc đến với hắn khi được thị theo về khi chợt cất lên câu nói bông đùa trong một lần đẩy xe bò thuê thì gặp thị: "Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về". Từ giây phút ấy, Tràng bắt đầu trưởng thành và thay đổi lên rất nhiều. Niềm hạnh phúc có vợ, niềm hạnh phúc khi được sống trong một căn nhà nhỏ ấm êm có một người mẹ hiền, một cô vợ thảo đã khiến Tràng thay đổi, Tràng thấy mình như "nên người" hơn: "Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà."

Sự xuất hiện của thị là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, khiến Tràng thay đổi tích cực về cả nhận thức và hành động. Có thể nói niềm hạnh phúc có vợ ấy đã xua tan những nỗi lo chuyện cơm áo nơi Tràng, khiến Tràng trân trọng và thêm niềm tin vào cuộc sống. Sức mạnh của tình yêu, của hạnh phúc đã cứu vớt tâm hồn Tràng, dẫu đó chỉ là thứ hạnh phúc "nhặt vội" mà thôi. Qua nhân vật Tràng, tác giả đã bày tỏ niềm cảm thương sâu sắc trước số phận của những con người bất hạnh trong xã hội, là niềm tin tưởng vào những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam xưa.

Thị cũng là một nhân vật tiêu biểu trong tác phẩm. Người phụ nữ không tên, khổng tuổi, với dáng hình gầy đét đi vì đói. Cái đói đã đày đọa con người cả dáng hình, thậm chí thị phải vứt bỏ cả lòng tự trọng của một người con gái để theo Tràng về. Người ta thấy ở thị cái sự chòng lọn, chao chát, thậm chí là trơ trẽn trong hai lần thị gặp Tràng, trong cái cảnh mà thị ăn một chặp 4 bát bánh đúc. Nhưng cũng có thể thấy ở thị, một điều đáng trân trọng là niềm khát khao sống mãnh liệt, vì đói quá rồi, khổ quá rồi, thị biết cái đói có thể chực chờ để giết chết mình bất cứ khi nào, nên theo Tràng về cũng là để có miếng ăn, có một nơi để cứu lấy mình, để mình nương tựa. Thị theo Tràng chính là lựa chọn cuối để giành lại sống cho chính mình, nuôi hi vọng vào một điều gì đó dự phần vào thay đổi tình cảnh đói rét của bản thân lúc ấy. Cả quãng đường theo Tràng về nhà, rồi đến lúc đặt chân vào nhà Tràng, thị vẫn luôn có cái nét bẽn lẽn, nữ tính của người phụ nữ. Những nét chao chát mà người ta thấy ở thị lúc ban đầu đã biến mất. Thị cũng có cái nét e thẹn khi bước chân về nhà chồng. Thị cũng biết thể hiện sự đảm đang khi cùng bà cụ Tứ dọn dẹp lại căn nhà, khu vườn nho vào sáng hôm sau. Có thể thấy, sâu thẳm bên trong thị cũng là một người con gái trách nhiệm, biết sống vì gia đình, bên trong vẻ ngoài bất cần ấy là một con người khát khao hạnh phúc.

Và đặc biệt, chúng ta cũng không thể nào quên hình ảnh người mẹ hiền còm cõi ở tuổi xế chiều vẫn một lòng lắng lo cho con - bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ trước hết là một người mẹ nghèo đã trải qua một đời đắng cay, vất vả. Cũng như bao người mẹ khác, cụ Tứ cũng mong con mình được hạnh phúc êm ấm khi đến tuổi lập gia đình.

Khi Tràng dắt thị về, bà cụ Tứ thấy thì vô cùng ngạc nhiên đan xen với nỗi tủi hờn, tự trách. Bà ngạc nhiên vì sự xuất hiện của người con dâu mới, bà chua xót bởi bà hiểu trong cảnh khốn cùng, đói khổ quá người ta mới chịu theo con mình về nhà, chứ không hề có tình yêu. Bà lắng lo bởi lẽ với một người từng trải như bà cụ Tứ, chắc chắn hiểu được những khó khăn trong tương lai mà cả Tràng và thị phải vượt qua. Lời dặn dò con đầy ấm áp của bà thật xúc động: "Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau". Là một người mẹ, bà cũng mừng cho hạnh phúc của con, dù lo lắng nhưng trong người mẹ ấy vẫn tin vào ngày mai, vào một thứ ánh sáng tốt đẹp nơi bần cùng tăm tối. Bà cụ Tứ hẳn là một người mẹ trách nhiệm, mẫu mực, giàu lòng bao dung và đức hi sinh mà ai đã từng đọc Vợ nhặt cũng không thể nào quên được.

Bằng việc xây dựng tình huống truyện đặc sắc cùng hệ thống các nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, nghệ thuật đối thoại, độc thoại nội tâm sâu sắc cùng ngôn từ giản dị mà giàu sức biểu đạt, Kim Lân đã dựng nên một tác phẩm giàu giá trị nhân văn. Đó là tiếng nói thiết tha, thương cảm và trân trọng những người nông dân nghèo trong xã hội giữa nạn đói năm những năm 1945 đầy đau xót. Đó là tiếng nói căm phẫn trước tội ác "trời không dung, đất không tha" của bọn thực dân xâm lược. Là sự trân trọng những khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người trong gian khổ. Đồng thời, mở ra một con đường để nhân dân vượt qua tăm tối, vươn tới những điều tốt đẹp hẹp, đó là con đường đấu tranh cách mạng.

Kim Lân bằng tài năng trong ngòi bút của mình đã vẽ lên một bức tranh hiện thực về nạn đói và những thảm cảnh trong những năm tháng đói khổ. Qua đó, bộc lộ chiều sâu tư tưởng của tác phẩm hiện thực vì con người, gắn bó với đời sống con người.

Puskin từng viết “Linh hồn là ấn tượng của một tác phẩm. Cây cỏ sống được là nhờ ánh sáng, chim muông sống được là nhờ tiếng ca, một tác phẩm sống được là nhờ tiếng lòng của người cầm bút”. Và nhà văn Kim Lân đã để tiếng lòng mình cất lên, để linh hồn tác phẩm neo đậu mãi trong trái tim của bạn đọc về hình tượng nhân vật anh cu Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt. Anh là một người nông dân nghèo khổ, xấu xí nhưng mang một tấm lòng ấm áp tình yêu thương và lòng nhân hậu.

Có nhà văn từng nói “Con người là điều thú vị nhất đối với con người, và con người cũng chỉ hứng thú với con người”. Con người cũng chính là nội dung quan trọng nhất của văn học. Nhân vật văn học là một khái niệm không còn quá xa lạ đối với chúng ta. Đó là khái niệm dùng để chỉ hình tượng các cá thể con người trong tác phẩm văn học - cái đã được nhà văn thể hiện bằng các phương tiện riêng của nghệ thuật ngôn từ. Và mỗi nhà văn sẽ tập trung tất cả những hình họa nghệ thuật, những quan niệm cuộc sống và nhân vật để gửi gắm những tư tưởng đến bạn đọc. Để từ đó khi chúng ta tìm hiểu một nhân vật, chúng ta cũng thấy được khía cạnh bức tranh xã hội lúc bấy giờ và nỗi niềm của người nghệ nhân khi đứng trước nó. Chẳng hạn như trong Chí Phèo của Nam Cao, ta thấy được bản chất lương thiện của một con người lưa manh trong xã hội thực dân nửa phong kiến, qua đó thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của nhà văn. Có thể khẳng định rằng, nhân vật có yếu tố then chốt góp phần tạo nên thành công của một tác phẩm, như “ xương sống của một con người vậy”. Viết đề tài người nông dân, nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi khắc họa chân dung người lao động nghèo khổ, chân lấm tay bùn nhưng mang một phẩm chất đẹp đẽ như nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt”.

Kim Lân là một cây bút xuất sắc chuyên viết truyện ngắn về đề tài người nông dân chất phác, thật thà và đậm tình người ở những làng quê Việt Nam. Lần đầu tiên có một nhà văn “nông dân” xắn quần lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của đất đai, của cuộc sống con người để tái hiện lên rõ mồn một trên mỗi trang viết. Với cốt truyện đơn giản, lời kể hấp dẫn và khả năng phân tích tâm lý nhân vật thiên tài, ông đã để lại cho độc giả những trang viết sâu sắc và xúc động về người dân quê - những con người gắn bó rất tha thiết với quê hương và cách mạng. Một trong những sáng tác thuộc đỉnh cao của Kim Lân là truyện ngắn “ Vợ nhặt”. Tác phẩm được xây dựng trên nền nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu. Cái năm mà người ta vẫn nhắc đến như một tai nạn thảm khốc khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ. Truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời dựa trên một cốt truyện cũ với nhau để “ Xóm ngụ cư”, được in trong tập “ Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Tác phẩm kể về anh cu Tràng - một thanh niên nghèo khổ làm nghề kéo xe bò thuê. Dù trong tình cảnh đói kém quay quắt nhưng anh vẫn dắt thêm một người đàn bà về làm vợ. Sự việc khiến cả xóm ngụ cư và ngay cả mẹ Tràng - bà cụ Tứ hết sức ngạc nhiên và lo lắng. Nhưng qua đó, Kim Lân muốn ca ngợi sức sống và niềm tin mãnh liệt của con người vào tương lai, vào cách mạng, vào tình người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Viết về người nông dân, Kim Lân đã “khơi nguồn chưa ai khơi” , đó là thân phận rẻ rúng như rơm rác của người nông dân nghèo trong xã hội cũ. Tràng - một nhân vật điển hình như thế với một hoàn cảnh vô cùng khốn khó, mang một ngoại hình chẳng mấy ưa nhìn. Tràng xuất thân là dân ngụ cư - tầng lớp người bị coi thường nhất lúc bấy giờ, sống cùng mẹ già trong “ túp lều tranh nằm rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những bụi cỏ dại”. Hai mẹ con nương tựa vào nhau để sống sót qua nạn đói này. Tràng thì làm nghề kéo xe bò thuê nên cũng chưa đến mức phải chết đói nhưng cũng cực nhọc vô cùng. Sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước, chứng kiến biết bao là xác chết nằm la liệt, lại hội tụ trong mình đầy yếu tố của một loại người đáng bị coi khinh.Tràng còn có một ngoại hình hết sức thô kệch, cục mịch. Nó được ví như “ sự gọt đẽo sơ sài của tạo hóa”. Nếu như trong văn Nam Cao ta thấy Chí Phèo xuất hiện đầu tác phẩm với tiếng chửi ngoa ngoắt “hắn vừa đi vừa chửi, …nó chửi trời, chửi đất...” thì Kim Lân lại đưa vào Tràng một số nét khắc họa ngoại hình “dáng đi ngất ngưởng, hai mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào hướng chiều hai bên quai hàm, đôi khi lại ngửa mặt lên cười khành khạch”. Tác giả khi xây dựng nhân vật này không tập trung miêu tả ngoại hình mà chỉ chú trọng khắc họa những nét riêng biệt. Nhìn vào Tràng ai cũng thấy, ngoại hình ấy không hề đẹp, có phần hoang dã khác hẳn với cách trau chuốt của xã hội văn minh. Bên cạnh đó ngoại hình của Tràng còn được khắc họa rõ nét hơn khi nạn đói tràn vào xóm ngụ cư. Đó là dáng đi mệt mỏi, đầu thì chúi về đằng trước mặt cứ nằm lại, nó làm mụ mị con người vui vẻ, ngất ngưởng trước đây ở Tràng. Tạo hóa đã ban cho anh cái xấu mà không hề thương xót. Phải chăng cách xây dựng nhân vật có số phận như thế là dụng ý nghệ thuật của nhà văn Kim Lân?! Để từ đó người nghệ sỹ ấy làm bật lên vẻ đẹp bên trong của con người Tràng!

Ẩn sâu bên trong của con người xấu xí, thô kệch ấy là cả một bầu trời nhân cách tốt đẹp. Tràng tốt bụng, hiền lành, hòa hiệp và nhân hậu. Tính anh vui vẻ, nhanh nhẹn và thích nô đùa với trẻ con. Bởi vậy mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm ra vây lấy hắn reo cười vang lên, khi ấy Tràng chỉ ngửa mặt lên “cười hềnh hệch”. Quả thật, tính tình Tràng vô tư chẳng khác đám trẻ con là mấy. Cũng chính vì thế mà anh đã sẵn sàng cưu mang người đàn bà xa lạ giữa nạn đói bằng một bữa ăn. Mặc dù anh cũng là tầng lớp đang bị cái đói hoành hành. Tuy nhiên “ Thương người như thể thương thân”, anh đã cứu một người đàn bà đang ở giữa ranh giới của sự sống và cái chết, sẵn sàng cưu mang thị với quyết định đưa về làm vợ. Tình thương người với người tỏa sáng hơn bao giờ hết trong một con người tưởng chừng như gàn dở, ngờ nghệch đang bị coi thường! Vẻ ngoài thô kệch chính là bàn đạp để làm nổi bật tinh thần nhân đạo, yêu thương con người của Tràng. Đó cũng chính là dụng ý của nhà văn Kim Lân. Một người ngờ nghệch như anh cu Tràng mà biết cưu mang người khác, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp thì những người cao hơn anh, có địa vị hơn anh đánh rơi tình người ở đâu mất rồi?. Đây chính là niềm trăn trở của những nhà văn chân chính, những nhà nhân đạo, đặc biệt là những cây bút hướng về con người. Vì xét cho cùng, văn chương là vì con người, giáo dục nhân cách chúng ta!

Người đàn ông nhân hậu, tốt bụng ấy sẵn sàng cưu mang những người cùng cảnh ngộ. Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn trong tình huống truyện độc đáo. Tình huống Tràng nhặt vợ khi gặp lại người con gái đẩy xe bò giúp anh lần trước khiến anh không khỏi ái ngại, xót xa. Bởi trước mắt anh là hình ảnh thê thảm của người cùng cảnh ngộ “quần áo rách như tổ đỉa trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ thấy hai con mắt”. Cái đói khiến người con gái ấy chẳng biết thể diện là gì, cứ thế mà thô thiển, trơ trẽn bất chấp tất cả để được ăn. Tràng động lòng thương, bởi Tràng cảm nhận được sự đói khát cùng đường của người đàn bà ấy. Nó đã đánh thức con người nhân hậu trong Tràng. Anh hào hiệp, phóng khoáng đãi người đàn bà xa lạ đến bốn bát bánh đúc. Vẻ đẹp tình người đã được nhen nhóm, thắp sáng lên giữa cái tối tăm của nạn đói. Và cũng chỉ một câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng “ Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về mà thị đã theo Tràng về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất nỗi lo sợ về cái đói, cái chết, “ Thóc gạo này đến cái thân mình cũng có nuôi nổi hay không mà còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật, nhất là cái thời đói kém như thế này. Nhưng rồi anh cũng chậc lưỡi “chậc, kệ”. Kệ ở đây không phải là kệ đời hay mặc xác đời mà là cái kệ trong niềm tin mãnh liệt vào tương lai, cái “kệ” trong hành động của con người luôn khao khát hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi ngay cả khi cái chết đang cận kề. Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để hướng đến hạnh phúc. Người ta cho rằng đó là hành động liều lĩnh bởi ta đã chứng kiến một chị Dậu phải bán con, bán chó để nuôi những đứa con khác, duy chì miếng sinh nhai, một anh Đĩ Chuột phải tự tử để nhường lại miếng cơm cho vợ và con mình. Vậy mà Tràng lại đi cưu mang người khác. Tình thương đã cho anh quyết định dứt khoát hơn về hành động của mình. Nó còn tiềm ẩn cái khao khát hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước. Nhà văn Kim Lân quả thật đã khám phá thành công những vẻ đẹp tâm hồn của những người nông dân như Tràng - giàu tình yêu thương và sẵn sàng cưu mang những kiếp người khổ hơn mình.

Sau khi có vợ, Tràng không còn là một anh thanh niên ngờ nghệch mà đã trở thành một người đàn ông có khát vọng hạnh phúc, có ý thức vun vén cho mái ấm gia đình. Ta nhận ra rằng, Tràng là một người chồng hết sức yêu quý, quan tâm người bạn đời của mình. Anh đưa thị vào chợ tỉnh “ mua cho thị cái thúng con đựng lặt vặt”, đưa vào hàng cơm “ đánh một bữa no nê rồi cùng đẩy xe bò vê”. Chăm sóc từng cái nhỏ nhặt như thế cũng chứng tỏ Tràng rất tâm lý. Anh mua cho thị cái thúng con không chỉ đựng mấy thứ lặt vặt mà còn là minh chứng thị là một người phụ nữ giống như những người khác, để thị có thể tự tin hơn khi về nhà chồng, ai lại để vợ về nhà bằng tay không bao giờ! Tràng còn “rất chịu chơi” khi chi hẳn hai hào mua dầu để thắp sáng cho đêm tân hôn của mình. Chi tiết Tràng khoe với thị chai dầu vừa buồn cười lại vừa xót thương. “Hai hào đấy, đắt quá cơ, mà thôi, chẳng cần”. Tràng muốn đêm tân hôn của mình sáng lên một chút để giúp người đàn bà xấu số phần nào đỡ tủi thân trong buổi đầu về nhà chồng. Khi mà có hạnh phúc thì con người ta sẵn sàng đánh đổi cho niềm tin của mình được thắp sáng, cho hạnh phúc được bấu víu cũng như cho hy vọng của mình được nhen nhóm và phát triển. Tràng cũng khao khát như vậy!

Ai đó đã từng nói rằng “ Hạnh phúc trong tình yêu có thể làm cho tâm hồn con người thay đổi một cách kỳ lạ” và Tràng cũng không ngoại lệ. Tràng không còn cúi đầu lầm lũi như mọi ngày mà “phởn phở khác thường”, “ tủm tỉm cười”, “ hai mắt sáng lên lấp lánh”. Cái cảm giác lâng lâng êm ái hạnh phúc buổi đầu đi bên vợ. Bởi vốn dĩ anh chưa từng được người đàn bà nào tình tứ với mình như thế, chưa bao giờ nghĩ mình sẽ có được hạnh phúc giữa nạn đói này. Sự xuất hiện của thị, của người vợ nhặt không chỉ mang đến một luồng sinh khí cho Tràng, cho mẹ Tràng mà còn cả xóm ngụ cư. Có thứ gì đó lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm của họ. Phải chăng sự xuất hiện của người vợ nhặt, sự thay đổi của con người khi người ta nâng niu và ngợi ca tình người thì cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn! Từ câu chuyện của hai con người dưới đáy của xã hội dường như đã mang theo không khí chờ đợi hạnh phúc đang đến nhẹ nhàng và bình yên. Nó như nhắn nhủ với chúng ta một điều “Trong những hoàn cảnh bần cùng nhất mà con người ta vẫn nghĩ đến tình người thì chắc chắn sẽ còn một tia sáng ở cuối con đường”.

Khi đem thị về nhà, Tràng mới thật sự lo lắng, tâm trạng thiếu tự tin, giống như một đứa trẻ. Trong lòng anh ngổn ngang trăm thứ cảm xúc vừa vui, vừa lo âu. Tràng vui vì hạnh phúc quá lớn, “ Hắn đã có vợ rồi đấy ư?”, sẽ có một hạnh phúc gia đình. Nhưng rồi hắn cũng lo sợ ý của mẹ, hết chạy ra ngõ lại chạy vào sân. Khi thấy mẹ, “Tràng reo lên như một đứa trẻ. Anh cẩn thận mời mẹ vào ngồi lên giường cho chĩnh chện rồi mới giới thiệu. Không chỉ là một người đàn ông có trách nhiệm mà Tràng còn là một người con hết mực lễ phép, ngoan ngoãn với mẹ. Anh giới thiệu với mẹ, “Kìa nhà tôi nó chào u đấy”. Kim Lân quả thật rất tài tình trong việc xây dựng lời thoại rất ít chữ nhưng chứa đựng trong đó tình cảm rất nhiều. Chao ôi, cái người mà Tràng gọi “nhà tôi” ấy, cái người đang ra mắt mẹ chồng lại chỉ là một người đàn bà nhặt được theo không, không cưới hỏi, không nhan sắc, bộ áo cô dâu trong ngày vu quy thì xác xơ như tổ đỉa. Tuy nhiên, tiếng “nhà tôi” kia vẫn nghe như có gì đó hết sức thân thương, trân trọng. Nó có sự nghiêm túc, chín chắn về việc hệ trọng cả đời người. Đến với nhau chỉ bằng bốn bát bánh đúc nhưng Tràng đã dành trọn tình thương, tình yêu cho người đàn bà xấu số kia, mở ra những ngày tháng hạnh phúc đang chờ phía trước. Như nhà văn Kim Lân đã chia sẻ “Tôi muốn họ vào trong sự sống, sự yêu thương nhau... dù trong hoàn cảnh cùng đường, bế tắc nhất”.

Song song với niềm hạnh phúc vừa chớm nở, nhà văn Kim Lân đã cho thấy ở Tràng một luồng sống mới vào sáng hôm sau. “Một nguồn sung sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”, “trong người êm ái lửng lơ như người trong giấc mơ đi ra”. Việc có vợ như một giấc mơ đẹp trong cuộc đời Tràng vậy, nó đột ngột, nhanh chóng, niềm vui sướng ngập dâng trong lòng,… bỗng nhiên hắn thấy yêu thương, gắn bó với căn nhà này lạ lùng. Tràng đã có suy nghĩ, ý thức của một người đàn ông trưởng thành, từ vô tâm thành quan tâm, tử dửng dưng đến lo lắng cho hạnh phúc lứa đôi. Từ trách nhiệm với cá nhân gia đình càng thêm khát khao cháy bỏng vào tương lai phía trước. Ở Tràng hiện rõ tương lai tươi sáng, dù trên bờ vực thẳm, anh vẫn đi tìm sự sống “ Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đây”.Và hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới như báo hiệu trước cuộc sống đói khổ này sẽ chấm dứt thay vào đó là những ngày vui, ấm áp của mọi người. Giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm được tỏa sáng hơn bao giờ hết, tình thương, tình yêu giữa người với người đã thắp lên hy vọng, niềm tin vào một ngày mai tươi đẹp!

Với tác phẩm “ Vợ nhặt”, Kim Lân một lần nữa khẳng định tài năng, sức sáng tạo và tấm lòng nhân đạo sâu sắc của mình. Cái vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc, cái lối viết tưởng chừng như dễ nhưng rất khó phỏng theo, giản dị nhưng ánh lên một vẻ hào hoa lạ kỳ của nhà văn. Nhưng có lẽ cái đọng lại trong tôi là cách nhìn đời, nhìn người đầy xót xa, thương yêu của tác giả, là niềm tin mà ông muốn trao gửi qua thiên truyện ngắn. Tràng không may mắn khi tạo hóa ban cho ngoại hình chẳng mấy ưu nhìn, bị cuộc sống vùi dập đến đường cùng nhưng anh vẫn luôn khát khao được sống hạnh phúc, vẫn vững tin vào tương lai trong cái tối tăm, đói kém của xã hội bây giờ. Viết về nạn đói, nhà văn muốn gửi đến thông điệp: Không có khát khao nào chính đáng bằng khát khao được sống như một con người, sống cho ra người, dù cuộc đời có bi thảm đến đâu thì vẫn hướng về ánh sáng, niềm tin vào tương lai.

Viết về đề tài người nông dân, ta đã từng bắt gặp nhiều sáng tác của các nhà văn trước năm 1945. Đó là Nam Cao với hình ảnh “ Chí phèo” bị tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính nhưng vẫn khát khao được làm người, nhà văn Ngô Tất Tố với hình ảnh chi Dậu phải hy sinh những gì quý giá nhất cuộc đời để duy trì sự sống cho gia đình. Điểm chung của các nhân vật này và Tràng là đều có số phận hết sức bi thảm nhưng vẫn khát khao vươn lên. Nhưng có lẽ, vì hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà chị Dậu, Chí Phèo.... đều phải bước vào đường cùng khi không tìm ra ánh sáng. Còn Tràng, khi được sống trong tình yêu anh đã ý thức tìm thấy ánh sáng của cách mạng, của Đảng. Song đó cũng là dụng ý của nhà văn Kim Lân khi mở con đường mới cho nhân vật, đó là theo cách mạng. Và cũng qua câu chuyện của Tràng chúng ta thấm thía nhiều bài học quý giá. Chúng ta được sinh ra trong điều kiện tốt hơn, được đón nhận nhiều điều tốt đẹp, vậy chẳng có lý do gì mà chúng ta không yêu thương lẫn nhau? Chưa nói đến làm gì lớn lao, hãy bắt đầu từ những việc nhỏ như quan tâm sức khỏe bố mẹ, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, tích cức tham gia các hoạt động thiện nguyện.... Mỗi hành động nhỏ sẽ góp phần cho toàn xã hội ngày một tốt đẹp hơn, yêu thêm cuộc sống này hơn. Còn gì tuyệt vời hơn khi mỗi sáng mai thức dậy, ta được làm thêm nhiều việc tốt! Và thấm thía hơn, ta học được bài học về cách nhìn người, nhìn đời – cái nhìn đầy yêu thương, bao dung, trìu mến và lạc quan, tin tưởng. Chúng ta chỉ được sống có một lần trong đời, vậy hãy chọn sống tích cực và ý nghĩa!

Câu chuyện Vợ nhặt được kể thật nhẹ nhàng, thấm thía, theo một trình tự thời gian ngắn gọn từ chiều tà, vào đêm tối, đến sáng sớm hôm sau và cũng theo một trình tự của phép biện chứng tâm hồn, ánh sáng của niềm vui, hơi ấm của hạnh phúc gia đình, ngọn lửa tình người được nhen nhóm rồi thắp lên, để cuối cùng “sáng lóa” trong ánh sáng một rạng đông mùa hè. Ba kiếp người đói rách ngồi bên nhau chuyện trò, nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật cứu đói, hướng tới Việt Minh, tới những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi, đằng trước lá cờ đỏ to lắm, lá cờ đỏ bay phấp phới,…

Có thể nói cuộc gặp gỡ của đôi trai gái – anh cu Tràng và cô vợ – những giây phút đầu đúng là một câu chuyện tầm phào theo cách nghĩ của Tràng. Song, khi cả anh chị cùng cất lời, đưa mắt thì… dường như lửa và rơm đã bắt đầu bén. Chỉ vừa nghe anh cất tiếng: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!”, chị đã “nhà tôi ơi” rồi “liếc mắt,cười tít”. Câu chuyện ái tình của họ được Kim Lân miêu tả bằng một giọng văn tưng tửng, như bỡn cợt, đùa vui, song hoàn toàn không phải bọt bèo, trăng gió vu vơ, Nó nghiêm túc, càng về sau càng nghiêm túc. Giữa thời thóc cao, gạo kém, mỗi người chưa chắc nuôi nổi thân mình, họ nhặt được nhau, rồi đưa nhau về, sau cái chậc lưỡi liều lĩnh, song táo bạo như một lời thách đố đã diễn ra. Hai anh chị đi bên nhau đàng hoàng cứ hệt như chú rể đưa cô dâu về nhà chồng. “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng”. Đó là tình yêu? là hạnh phúc tuổi trẻ? Là ánh sáng đổi đời? Có lẽ là tất cả, đối với hai kiếp người tăm tối, vời vật, chắp nối lại cùng nhau để thành vợ, thành chồng. Cái giây phút quan trọng nhất của lời thách đố là lúc Tràng đi sát bên người con gái, ngẫm nghĩ một lúc, rồi giơ cao cái chai con lên khoe: “Dầu thắp tối đây này… Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ, chả nhẽ chưa tối đã rúc ngay vào, hì hì…”. Tràng đã nói ra được ý nghĩ thô mộc mà thiêng liêng nhất: “ Vợ mới, vợ miếc”. Cô gái cũng đáp lại bằng một lời nói suồng sã nhất “Khỉ gió”, và một cử chỉ cởi mở nhất “phát đánh đét vào lưng hắn”, khiến cho “hắn thích chỉ ngửa cổ cười khanh khách”.

Khi hai vợ chồng về tới nhà, giới thiệu vợ với mẹ, anh cu Tràng: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả…”. Giọng tuy ngập ngừng, song lời lẽ thật chững chạc. Mỗi chữ mỗi câu vừa ấm tình người vừa sâu nghĩa lí. “Nhà tôi… làm bạn… duyên kiếp… cái số cả…”, ấy là những ngọn lửa Tràng thắp lên vừa để sưởi ấm, vừa để soi sáng cái đầu óc chậm chạp già nua của bà cụ Tứ. Với chính Tràng, ngọn lửa ấy cũng thắp sáng lên trong lòng một quyết tâm. Nói tới “duyên kiếp” là chạm vào vùng thiêng liêng nhất trong mảnh đất của đôi lứa gái trai. “Duyện” là sự hấp dẫn, lôi cuốn gọi mời, là tình yêu giữa hai người. “Kiếp” là đời sống cơ cực cùng cảnh ngộ, cùng thuyền cùng hội mà tạo hóa xô đẩy, trôi đến gần nhau,cảm thông với nhau, rồi chia sẻ và thương nhau. Từ câu chuyện “tầm phào” ở bên đường bữa nọ, rồi tới lúc đưa cô ả đi qua ngõ xóm nói lời bỡn cợt “vợ mới, vợ miếc”, giờ đây giữa mái ấm của căn nhà, trước mặt mẹ, Tràng đã thực sự coi mối quan hệ giữa mình với cô gái như có tiền định, có lương duyên do trời sắp xếp, do đời run rủi, ràng buộc.

Bà cụ Tứ đã hiểu, hiểu việc con làm, hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự khác nữa. Bà mẹ nghèo khổ ấy vừa ai oán vừa xót thương cho đời mình, đời con, Bà thấm thía, tủi hờn về hoàn cảnh, về trách nhiệm mẹ cha trước việc trăm năm hạnh phúc của con cái. Rồi bà cảm động đăm đăm nhìn cô gái, như chấp nhận, như hàm ơn: “ Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà nhắc lại ý con trai để nói với “nàng dâu mới”: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Đọng lại ở câu chuyện giữa hai kiếp người tuy khác nhau về tuổi tác mà thật giống nhau trong cảnh ngộ làm người ở chữ “thương”. Ấy là tình người. lòng bao dung nhân hậu của những người mẹ, người phụ nữ Việt Nam. Nói được những lời gan ruột ấy, hẳn bà cụ Tứ vợi đi biết bao đau khổ, giải tỏa biết bao lo lắng, tủi nhục. Trái tim người mẹ như nghẹn lại “nước mắt cứ chảy ròng ròng”. Phải chăng đó là nước mắt của niềm vui, của hạnh phúc nhỏ nhoi, hạnh phúc được chia sẻ, giãi bày?

Khi thấy con trai đánh diêm đốt đèn, bà cụ vội vàng lau nước mắt, ngẩng lên nói như reo: “có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa…”. Một câu nói của nhân vật, một chi tiết thật đơn giản mà chứa đựng bao nhiêu ý nghĩa. Có thể nói, nhà văn Kim Lâm vào giữa căn nhà bà cụ Tứ một ngọn lửa – dù chỉ là ngọn đèn dầu, thứ của cải đắt đỏ bấy giờ – đồng thời thắp trong lòng mình, lòng người đọc một niềm vui, niềm tin yêu, trân trọng trước bản lĩnh sống của con người – những con người trong tăm tối vẫn nhen nhóm và cố thắp sáng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống cho ra con người, nên người.

Một buổi sớm mai đẹp đẽ xiết bao! Nắng mùa hè sáng lóa. Nhà cửa, sân vườn được quét tước thu dọn sạch sẽ, gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa được đem ra hong nắng. Hai cái ang nước vẫn để khô cong, nước đầy ăm ắp. Đống rác ngay lối đi đã được hót sạch… Ngoài vườn người mẹ đang lúi húi giẫy những búi cỏ mọc nham nhở. Vợ Tràng đang quét sân, tiếng chổi kêu sàn sạt trên mặt đất… Tất cả như đang đổi thay, mới mẻ. Một nguồn sống mới, vui sướng, ngọt ngào của hạnh phúc gia đình trỗi dậy, tràn ngập trong lòng. Anh cảm thấy mình đã “nên người”, thấy thương yêu, gắn bó với căn nhà, với những người thân. Ý thức về sự “nên người” khiến cho Tràng trưởng thành, đổi thay cả về tâm tình lẫn hành động. Anh thấy mình phải có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này.

Cái họa chết đói năm 1945 quá là khủng khiếp. Không chỉ đói xóm làng mà đói nửa nước. Từ Bắc Trung Bộ trở ra, từ thu đông năm 1944 đến xuân hè 1945 hơn hai triệu người nằm xuống. Kim Lân chọn bối cảnh ấy cho truyện Vợ nhặt. Không nhiều dòng miêu tả trực tiếp nhưng là những dòng rất hiếm trong văn chương từ đó đến nay. Cái nghèo ở Ngô Tất Tố, cái đói ở Nam Cao, ta thương cảm muốn rơi nước mắt. Cái đói và cái chết ở Kim Lân khiến ta khiếp sợ, rụng rời.

Nó hiện lên thành màu: xanh xám của da người sắp chết, đen kịt đầy trời của các đàn quạ. Thành mùi: gây gây của xác người, khét lẹt của những gì đốt lên ở nhà có người chết. Thành tiếng: thế thiết của quạ trên những cây gạo, hờ khóc gió đưa tận vào nhà, văng vắng như từ dưới âm ty. Cuộc sống khắp nơi, cuộc sống ở xóm ngụ cư đều bị bao vây trong những màu, những mùi, những tiếng thê lương ấy. Chưa chết thì ủ rũ, hốc hác, thở than tuyệt vọng. Đến như Tràng to lớn, lưng rộng như lưng gấu cũng chỉ đi từng bước một, đầu chúi về đằng trước như bị những lo lắng đè hẳn người xuống. Cô con gái nhanh nhẩu, táo tợn, mới mấy hôm đã tả tơi, gầy sọp, xám xịt. Bà cụ Tứ, mẹ Tràng, lại là hiện thân đầy đủ nhất của cái đói, cái chết truyền kiếp của nông thôn. Không gian toàn điêu tàn, rữa nát, cái chết lan tràn nơi nơi. Cái sống chỉ còn thoi thóp, leo lét.

Vậy mà một chuyện trái đời đã xảy ra: chuyện lấy vợ lấy chồng. Chẳng theo lễ nghi nào cả. Cô gái đói lâu ngày, Tràng mời cô ăn mấy bát bánh đúc, Tràng bảo có về thì về cùng về và cô theo. Hoàn cảnh là ngược đời: lấy vợ lấy chồng ít ra là lúc đời sống đang bình thường, lúc ăn nên làm nổi như như mẹ Tràng nói, chứ đâu trong cơn đói chết này, bản thân mình cũng chưa chắc qua khỏi. Việc trọng đại cho đời người ấy lại xảy ra nhanh chóng ngoài sự tưởng tượng.

Cái đói cái chết bám theo quyết liệt với tất cả sức hủy diệt của nó. Tưởng như thế, đôi vợ chồng này chỉ đưa nhau đến chỗ chết. Nhưng không, họ vẫn trụ được, hơn thế, lại vượt lên chiến thắng với một sức sống mãnh liệt phi thường và sức sống ấy đã tạo ra sự biến đổi kì diệu. Tất cả đều khác. Trẻ con khác, người lớn khác, Tràng khác, bà cụ cũng khác. Còn cô gái? Chính tác giả đã gửi sức sống vào cô gái. Nó tỏa ra từ cô, cô làm mọi thứ thay đổi đột ngột, lạ lùng, làm nổi bật lên trên cái phòng âm u rùng rợn của cái đói, cái chết kia, cái sáng tươi, cái ước mơ đổi thay số phận cho mọi người, cho mình. Cô là vợ nhặt nhưng lại là một hào quang, một luồng khí ấm tiêu biểu cho sự sống trường cửu, mãnh liệt và mầu nhiệm.

Cô vợ ấy, nàng dâu ấy không chỉ biến đổi mình mà quan trọng hơn và sâu sắc hơn là đã thổi luồng gió lành đánh thức sức nóng cho mọi người, mọi nơi, đem lại sự sống ngay trong cái đói cái chết.

Cô vừa xuất hiện bên cạnh Tràng ở đầu xóm, cả xóm như sống dậy. Nhà cửa lúp xúp, tối om bỗng rộn ràng lên. Trẻ con ủ rũ không buồn nhúc nhích đã thoắt chạy theo Tràng và tình ranh như thế nào lại reo lên thích thứ “chông vợ hài”, người lớn kéo nhau ra cửa, mặt mày đang u tối bồng rạng rỡ hẳn lên, kẻ dò đoán, kẻ than thở và tỏ lòng thương cảm, xôn xao trước cảnh người đàn bà thẹn thẹn hay đáo để.

Nói gì Tràng! Bắt đầu là đùa vui lối nông dân trẻ trung. Đến khi thấy cô gái sau mấy hôm đã xám xịt, bay hết màu sống, anh mời, cô ăn liền liền, không kịp thở như đã đói lâu, anh nửa đùa nửa thật lửng lơ có về thì cùng về, cô theo thật. Anh hơi chợn nhưng chặc lưỡi: Kệ. Mọi sự tình bắt đầu từ cái kệ này. Trước hết là một suy nghĩ nghiêm túc rất nhân tình từ đáy sâu lòng anh. Người đàn bà ấy đã cuốn anh từ đùa vui chuyển qua tình thật, Tiếp một sức sống mới cho lòng anh.

Bà mẹ anh cũng như có nước cam lồ rưới vào, hóa khác hẳn. Bà như trẻ lại, vỗ về con dâu, ngọt ngào một u hai u, một con hai con, rồi tíu tít nhưng dự định,nào ngăn riêng buồng cho đội vợ chồng, nào mua gà nuôi, nào lúi húi giẫy cỏ sân, nào đon đả tươi cười với nồi cám khuấy mà bà gợi là chè đem ra đã vợ chồng mới và cuối bữa cơm tân hoen chỉ cháo loãng và muối hột này trên cáu mẹ rách, một bữa con không gì thê thảm hơn. Ôi, tấm lòng của những bà mẹ! Sao nó bao la thế. Chỉ có mấy lời phải chăng, thực tế từng trải cả một đời với giọng nói đẫm tình thương đem bày tỏ với cô gái là thay thế tất cả mọi nghi lễ, giải tỏa hết mọi bần thần mặc cảm của cô, đã là mẹ con, nàng dâu mẹ chồng hòa hợp, đằm thắm nghĩa tình. Bữa cháo đã thành bữa tiệc. Chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng.

Sự sống đã thách thức, đối mặt với cái chết, cái đói và đã đàng hoàng chứng tỏ là bất diệt, lực lưỡng và mầu nhiệm. Chỗ sâu của dụng ý người viết là đó. Mời đầu là tối sầm, kết thúc là bừng bừng thắm đỏ, nén sâu sức mạnh một đằng, tí tách hóm hỉnh đằng khác trong giọng điệu, đảo trước ra sau cho lạ lùng thêm câu chuyện ở kết cấu, lặng lẽ gài cô gái vào vai kì diệu… kĩ cho cùng đều là nhằm tô đậm dụng ý tư tưởng nghệ thuật ấy.

Tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm đặc sắc, phản ánh chân thực đời sống khó khăn của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Trong bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm 1945, sự tồn tại của con người trở nên mong manh và đầy khổ cực. Tuy nhiên, tác phẩm không chỉ dừng lại ở việc khắc họa bi kịch, mà còn nổi bật ở các giá trị nhân văn sâu sắc, làm sáng tỏ vẻ đẹp của con người trong hoàn cảnh éo le, khó khăn, mang đến ánh sáng và niềm tin cho cuộc sống trong những thời khắc đen tối.

Câu chuyện xoay quanh tình huống “nhặt vợ” đầy kỳ lạ của nhân vật Tràng. Trái ngược với những quy tắc thông thường trong việc lấy vợ, Tràng “nhặt” được vợ chỉ với vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc ăn vội. Giữa nạn đói đang hoành hành, sự kiện này trở nên càng éo le khi Tràng đưa thêm một người phụ nữ về nhà, khiến gánh nặng kinh tế của gia đình anh thêm phần khắc nghiệt. Dù hoàn cảnh khó khăn, tình huống này lại khắc họa rõ nét lòng nhân ái và khát vọng hạnh phúc của con người, dù giữa cơn đói khổ tột cùng.

Nhân vật Tràng, một người nông dân hiền lành và chất phác, mang trong mình sự ngô nghê và vụng về. Với vẻ ngoài thô kệch, Tràng không được ai chú ý, sống cuộc đời nghèo khổ, bấp bênh. Nhưng khi có vợ, Tràng dần trưởng thành và có những thay đổi tích cực. Anh cảm thấy “nên người” hơn, nhận thức rõ ràng về trách nhiệm của mình với vợ con và bắt đầu xây dựng niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn.

Thị, người vợ mà Tràng “nhặt” được, là một phụ nữ không tên, gầy đét vì đói khổ. Thị buộc phải vứt bỏ lòng tự trọng để theo Tràng về, chấp nhận số phận để tồn tại. Mặc dù ban đầu có vẻ trơ trẽn, nhưng thị lại toát lên niềm khao khát sống mạnh mẽ. Sau khi về nhà Tràng, thị dần thay đổi, trở nên e thẹn, và thể hiện sự đảm đang của mình. Thị là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, khát vọng tìm kiếm hạnh phúc dù trong nghịch cảnh.

Bên cạnh đó, bà cụ Tứ, mẹ của Tràng, là hình ảnh người mẹ hiền từ, chịu đựng suốt cuộc đời trong nghèo khổ và đắng cay. Khi thấy con trai dẫn vợ về, bà ngạc nhiên, xót xa và lo lắng cho tương lai của hai con. Tuy nhiên, bà vẫn cố gắng động viên, an ủi, và hy vọng vào một ngày mai tốt đẹp hơn. Sự bao dung, hy sinh và lòng nhân hậu của bà cụ Tứ là biểu tượng cho tinh thần người mẹ Việt Nam, luôn yêu thương và chăm lo cho con dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Bằng cách xây dựng tình huống truyện độc đáo và các nhân vật điển hình trong hoàn cảnh khó khăn, Kim Lân đã khắc họa sâu sắc cuộc sống của người nông dân Việt Nam trong nạn đói. Nghệ thuật đối thoại và độc thoại nội tâm, cùng với ngôn ngữ giản dị mà biểu cảm, giúp tác phẩm “Vợ nhặt” truyền tải thông điệp về lòng nhân ái, sự trân trọng những khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người giữa gian khổ. Tác phẩm không chỉ phản ánh hiện thực đau xót mà còn mở ra con đường đấu tranh cách mạng, hy vọng vào một tương lai tươi sáng hơn.

Qua “Vợ nhặt”, Kim Lân đã tạo nên một bức tranh hiện thực sống động, bộc lộ chiều sâu tư tưởng nhân văn, gắn bó chặt chẽ với đời sống của con người trong xã hội thời kỳ khó khăn.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học