Top 40 Thuyết minh Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em (hay, ngắn gọn)

Bài văn Thuyết minh Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em hay nhất, ngắn gọn gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 9. Hi vọng với Thuyết minh Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em này các bạn sẽ yêu thích và viết văn hay hơn.

Thuyết minh Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 1

 Trong chúng ta, chắc hẳn ai cũng biết chó là một con vật đáng yêu và rất hữu ích đối với con người. Nhiều người xem chúng như dũng sĩ giữ nhà, một số người còn xem chó là một người bạn trung thành. Nhưng chúng ta có biết rõ về chó chưa? Chúng mình hãy cùng tìm hiểu về con vật đáng yêu này!

Chó là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kì đồ đá.Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói, còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ màu xám.

Chó là loài động vật 4 chân, ăn tạp. Kích thước trung bình của chó là dài 40-160 cm. Mắt chó có đến 3 mí: Một mí trên, một mí dưới và mí thứ 3 nằm ỡ giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khói bụi bẩn. Tai của chúng rất thính, có thể nhận được 35000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất thính như tai. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi. Chi kiểu có ngón: Chi trước 5 ngón, chi sau 4 ngón. Ngón có vuốt nhưng không co rút được, vì vậy nên nó không leo trèo và khó giữ con mồi lâu. Chó chạy xa và mềm nhờ chân dài. Não chó rất phát triển. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động rồi sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém, chỉ nhìn thấy 2 màu đen-trắng. Ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Màu sắc lông đa dạng. Chó có đến 2 lớp lông: Lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong những ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.

Chó con mới sinh ra thì nhắm mắt, sau một tháng nó mới mở mắt và bắt đầu đi đứng được. Lúc mới ra đời, chó không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loại thú này là 42 chiếc.

Chúng ta phải thừa nhận một cách chắc chắn rằng chó là một con vật “đa năng”: Chó giữ nhà, chó cảnh, chó săn bắt, chó thể thao, chó nghiệp vụ. Chó nghiệp vụ lại được đào tạo chuyên sâu hơn như chó phát hiện, phòng ngừa mối sử dụng trong ngành nghiên cứu hộ đê điều; chó cảnh sát giúp phát hiện ma túy, săn bắt tội phạm; chó làm các dịch vụ bảo vệ; chó cứu hộ trong các tình trạng khẩn cấp như động đất, thiên tai, bão lũ; chó săn bắt mồi, chim chóc. Không thể kể hết những công việc mà chó có thể giúp đỡ hoặc thay thế con người.

Nhờ trí thông minh, sự nhanh nhẹn. Chó có thể tiếp thu mọi tín hiệu, hiệu lệnh của người điều khiển rồi làm theo sau khi nhìn con người làm mẫu. Trí thông minh của chó chỉ đứng sau khỉ nhưng xếp trên cá heo. Điều đó cho thấy chó là loài vật biết tiếp thu, nghe lời. Nhờ các cơ quan khứu giác, thính giác cực kì phát triển nên chó có khả năng nhận biết, phát triển các vật thể, dấu hiệu lạ từ xa để thông báo cho con người đề phòng.

Trong văn hóa, tâm linh của một số dân tộc, chó được thờ cúng tại các đền thờ, miếu mạo. tục thờ chó Ka phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới (Đông Nam Á, Tây Nam Á, Đông Á). Trong thần thoại vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, hình tượng chó, kẻ canh giữ gia súc đã sớm trở thành kẻ canh giữ thế giới âm phủ.

Chó có rất nhiều loại và từ đó người ta đặt tên cho chúng. Khi nhắc đến những loại chó được huấn luyện để tìm giấu vết tội phạm, phát hiện ma túy thì không thể nói đến một loại điển hình, đó là chó Béc-giê. Chó Béc-giê là giống chó thuần chủng của Đức. Loại chó này thường có chân cao bụng thon, tai to và dựng đứng giống như chó sói. Đặc biệt chó Béc-giê rất thông minh, khứu giác và thính giác rất phát triển. Chính vì vậy mà người ra thường duy trì chó Béc-giê truy tìm giấu vết tội phạm, phát hiện ma túy hay những công việc khác cũng đòi hỏi sự thông minh nhanh nhạy.

Còn khi nhắc đến chó cảnh thì ta cũng hiểu đó chính là chó nhà. Những con chó này thường được nuôi làm cảnh đồng thời kiêm cả nhiệm vụ giữ nhà. Có rất nhiều loại chó cảnh như: Chó xù, chó Nhật, chó mini, chó Bắc Kinh, chó Chihuahua Pox. Nếu như lông chó Béc-giê ngắn và mượt thì chó cảnh thường có bộ lông dài và có thể mượt hay xù.

Chó hữu ích và rất gần gũi với con người, do đó chúng ta cần chăm sóc tốt cho chúng. Chăm sóc chó cũng khá đơn giản, công việc này không phức tạp và việc luyện tập cũng vậy. Với tính hiền lành của chúng thì thật dễ hòa đồng và nhanh hiểu được những điều mà gia đình bạn cần ở chúng, chỉ cần bạn có sự quan tâm đến chúng và dắt đi dạo thường xuyên, mỗi một tuần thì tắm cho nó một lần và đôi khi bạn cũng cần chải lông cho con vật yêu của mình. Tiêm vắc-xin phòng bệnh cho chúng định kì theo chỉ định của bác sĩ thú y giúp chú chó khỏe mạnh.

Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người.

Dàn ý Thuyết minh Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em

I. Mở bài

- Giới thiệu về các loại vật nuôi phổ biến trong gia đình.

- Giới thiệu chung về loài chó.

II. Thân bài

1. Nguồn gốc

- Chó có nguồn gốc từ chó sói, sau đó được con người thuần hóa.

2. Đặc điểm

- Trọng lượng rất đa dạng, nhỏ nhất là từ 1 - 5kg, lớn nhất có thể lên đến hàng chục ki-lô-gam.

- Động vật có bốn chân, mỗi chân có bốn ngón, dưới chân có đệm mềm giúp giữ ấm và di chuyển nhanh chóng.

- Mắt chó cấu tạo ba mí: mí trên, mí dưới và mí thứ ba nằm sâu bên trong giúp che chắn cho mắt khỏi bụi.

- Tai chó rất thính, có thể nghe ngóng từ khoảng cách rất xa.

- Khứu giác (mũi) chó khá tốt nhưng không nhạy bằng tay.

- Cơ thể được của nó thường có hai lớp lông, mượt mà. Mỗi lớp đều có chức năng riêng.

- Chúng vẫy đuôi với con người hoặc loài vật khác chứ hiếm khi tự làm một mình.

3. Phân loại

Có khá nhiều giống chó khác nhau, nhưng chủ yếu nhấn mạng về giống chó nhà.

4. Vai trò

- Chó là vật nuôi trong các gia đình, giúp trông coi nhà cửa.

- Đối với người nước ngoài, họ coi chó như một người bạn.

- Đôi khi chó được huấn luyện để phục vụ cho các công tác đặc biệt như cứu hộ, truy vết tội phạm…

III. Kết bài

- Khẳng định vai trò của loài chó trong cuộc sống của con người.

Thuyết minh Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 2

 Trong cuộc sống, mỗi chúng ta ai cũng cần có những người bạn thân thiết. Sẽ thật cô đơn và buồn tủi nếu không có ai bên ta để chia sẻ mọi thứ. Xã hội ngày càng phát triển, đôi lúc những người bạn của ta không ai có đủ thời gian để gặp gỡ. Chính vì vậy, càng ngày lại càng có nhiều người xem việc nuôi thú cưng là cách để có người bầu bạn. Bản thân tôi cũng vậy, gia đình tôi có nuôi một chú chó.

Chú chó nhà thôi có cái tên khá đặc biệt là Đốp. Nó thuộc dòng chó Corgi được nhập từ nước ngoài về. Loài chó này có giá thành khá cao từ 12 - 20 triệu tùy con. Chúng là giống chó chăn gia súc có nguồn gốc từ Pembrokeshire, xứ Wales. Tổ tiên là giống chó đuôi cuộn kiểu Bắc Cực. Ở nước ta, những năm gần đây, giống chó này ngày càng trở nên phổ biến và quen thuộc. Tuy nhiên, việc chăm sóc chúng khá khó khăn, đòi hỏi người nuôi phải có những hiểu biết nhận định và sự quan tâm đặc biệt dành cho chúng.

Đốp là một chú chó trưởng thành. Thân hình dài khoảng 60cm, bốn chân rất ngắn (chưa bằng một gang tay người lớn). Bộ lông màu vàng óng, nhưng lông chân lại màu trắng. Một đặc trưng nổi bật của giống chó này là có đôi tai rất to, luôn dỏng cao lên, thỉnh thoảng vẫy vẫy cùng với đôi mắt to tròn đen láy như hòn bi ve nhìn rất thông minh khiến chú được mọi người yêu quý vì quá đỗi dễ thương. Chiếc mõm khá dài và màu đen huyền, bên trong là cái lưỡi hồng hào cùng hàm răng thưa không đều nhau rất ngộ nghĩnh. Cái đuôi ngắn ngủn lấp ló sau đám lông dày nhìn mãi chẳng thấy đâu.

Khác với giống chó ta, loại chó này khá kén ăn và cần được chăm sóc kĩ lưỡng. Mỗi khi mùa hè đến, tôi đều phải đưa Đốp ra cửa hàng chăm sóc thú cưng để người ta cắt tỉa bớt lông nhằm ngăn không cho thân nhiệt của nó không quá cao. Loại chó này có riêng thức ăn dành cho thú cưng. Ngoài ra, Đốp còn rất khoái khẩu với sữa chua và xúc xích. Để chăm sóc tốt loại chó này, chúng ta cần hiểu và nắm được tính cách, thói quen và sở thích để có thể chơi với chúng và nuôi chúng tốt nhất có thể. Chỗ ngủ của Đốp luôn được dọn dẹp sạch sẽ. Corgi là loài chó thông minh và gần gũi với con người. Đốp chính là một minh chứng cho sự thông minh của loài chó này.

Không chỉ có chó mà những loài động vật khác đã, đang và sẽ trở thành những người bạn thân thiết của con người. Mỗi chúng ta cần phải có ý thức bảo vệ động vật nói chung để tạo ra một xã hội văn minh hơn.

Thuyết minh Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 3

Mỗi một loài vật đều có những đặc tính riêng, vai trò riêng. Và loài chó - một loại vật nuôi rất phổ biến của con người cũng vậy.

Chó là một trong số rất nhiều vật nuôi trong gia đình. Nó là giống vật nuôi mà con người thuần hóa. Tổ tiên của loài chó là cáo cáo và chó sói (loài động vật gần giống chồn).

Trên thế giới có rất nhiều loại chó. Dựa vào đặc điểm khác nhau mà người ta đặt tên cho chúng. Tuy nhiên vẫn có những đặc điểm nhận dạng riêng về chó. Nhưng chúng đều mang những đặc điểm chung, đó là một loài động vật có bốn chân: hai chân trước và hai chân sau. Chân nó thường có bốn ngón và một ngón treo, móng con. Giống như mèo, lòng bàn chân nó có lớp thịt đệm rất êm. Trên người chó có hai lớp lông, lớp bên ngoài mắt nhìn thấy, còn lớp lót bên trong có nhiệm vụ giữ ấm cho chúng trong những ngày mưa rét và “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức rất kì diệu. Đầu nhỏ, mõm dài, răng nanh sắc nhọn tuy nhiên không sắc bén như khi chưa được thuần hóa. Bộ não nó phát triển và xương quai hàm thì cứng. Não chó nhỏ, thùy não kém phát triển. Mũi chó hình tam giác, lúc nào cũng ướt. Xung quanh mép và mõm có những đốm nhỏ. Lưỡi chó dài, thô ráp. Ngôn ngữ của chó đơn giản là những tiếng kêu “gâu gâu” - tiếng sủa của chúng. Chó càng trưởng thành, tiếng sủa càng lớn, vang hơn. Đuôi chó dài và tỷ lệ phù hợp với kích thước của cơ thể nó.

Đặc biệt là đôi mắt sáng được ví như “đèn pha ô tô” của nó. Mắt chó được cấu tạo với ba mí: mí trên, mí dưới và mí giữa. Mí nằm giữa hơi sâu vào phía trong, bảo vệ mắt chó khỏi bụi bẩn xung quanh. Tai chó thường lớn, hướng ra ngoài để âm thanh rọi vào màng nhĩ. Với khả năng cảm nhận được 35.000 âm rung trong vòng một giây, tai chúng cực kỳ thính, có thể nghe âm thanh ở rất xa. Đặc biệt nhất là chiếc mũi của chúng vô cùng nhạy bén.

Chó sinh con, mỗi lứa sinh từ một đến khoảng năm, sáu con. Có loài sinh nhiều hơn. Khoảng mười lăm ngày sau sinh, chó con mới mở mắt. Giống trẻ sơ sinh chó con ban đầu cũng không có răng. Nhưng bốn tuần sau, chúng có thể có tới hai mươi tám chiếc răng. Quá trình sinh trưởng của chúng diễn ra khá nhanh nên tuổi thọ thường ngắn hơn so với con người. Khi phát triển đến một giai đoạn nhất định, chó sẽ thay lông mới, đổi màu sắc và lông mềm mượt hơn. Thường hai tháng chúng rụng lông một lần.

Khả năng chạy của chó rất nhanh, chúng lao về phía trước với tốc độ khoảng từ bảy mươi đến tám mươi ki-lô-mét một giờ. Loài chó lúc vui mừng thường vẫy đuôi. Chúng không phải loài kén ăn nên khá dễ nuôi. Ngoại trừ các giống chó quý hiếm, quý tộc được sống trong gia đình có điều kiện.

Chó là người bạn thân thiết của con người, là vật nuôi không thể thiếu trong cuộc sống. Trước hết, nhắc đến chó, người ta nghĩ ngay đến lòng trung thành của nó. Chó nuôi trong nhà làm nhiệm vụ trông giữ nhà cửa. Loài chó này dữ dằn và rất thính, tiếng sủa vang và to. Nó sống trong gia đình và trở thành người bạn thân thiết của con người. Dù bị đưa đi xa, chỉ cần được thả nó chắc chắn sẽ tìm đúng đường về. Nhiều câu chuyện cảm động về chó cứu chủ đã chứng minh lòng trung thành, tình nghĩa của nó. Ngày nay, người ta còn nuôi chó làm cảnh, làm thú cưng, chăm sóc nó như con người. Những người cô đơn, già cả hay thích nuôi chó để làm bạn. Với những giống chó lớn như Béc-giê, người ta thuần hóa thành chó nghiệp vụ, phục vụ công tác truy bắt tội phạm, phá án điều tra. Chúng được huấn luyện khả năng đánh hơi, tốc độ và cả khả năng chiến đấu. Ở một số nơi trên thế giới, chó còn chuyên để kéo xe.

Bên cạnh đó, tác hại của chó là gây ra “bệnh dại” cho con người. Đôi khi, chúng còn tấn công con người, gây nguy hiểm đến tính mạng. Điều đó đòi hỏi người nuôi cần chú ý chăm sóc, phát hiện và chữa trị cho nó. Biện pháp tốt nhất là tiêm phòng cho nó thường xuyên.

Chó là vật nuôi đáng quý đối với con người. Hãy trân trọng và giữ gìn vai trò của những loài vật nhỏ bé trong cuộc sống của chúng ta hôm nay.

Thuyết minh Một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 4

 Chó là một loài động vật rất có ích cho con người. Nó trung thành, dễ gần và là bạn của con người. Cũng có thể vì thế mà người ta gọi nó là “linh cẩu”. Chó có rất nhiều loại và từ đó người ta đặt tên cho chúng. Cho là một trong số những loài động vật được thuần dưỡng sớm nhất. Trung bình chó có trọng lượng là từ một đến tám mươi ki-lô-gam.

Chó là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kỳ đồ đá. Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói (một loài động vật có vú gần giống như chồn sinh sống ở các hốc cây vào khoảng 400 triệu năm trước). Còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ, màu xám.

Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc. Mắt chó có đến 3 mí: Một mí trên, một mí dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Tai của chúng thì cực thính, chúng có thể nhận được 35.000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất tuyệt vời. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi.

Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém, ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Chó có đến 2 lớp lông: Lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong những ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.

Chó là loài động vật có bốn chân, mỗi bàn chân đều có móng vuốt sắc nhưng khi đi thì cụp vào. Chó có bộ não rất phát triển, xương quai hàm cứng. Đặc biệt, tai và mắt chó rất thính và tinh vào ban đêm. Chó vẫy đuôi để biểu hiện tình cảm. Chó là loài động vật có bộ phận tiêu hóa rất tốt.

Chó có đặc tính là chạy rất nhanh bằng bốn chân, tốc độ lao về phía trước khoảng từ bảy mươi đến tám mươi km một giờ. Hơn nữa, chó cũng có khả năng đánh hơi rất tài. Hiện nay chó hoang dã vẫn còn tồn tại, nhưng chó được thuần dưỡng như chó nhà, chó cảnh thì phổ biến hơn.

Chó thuần dưỡng có nhiệm vụ trông, giữ nhà và thường nặng từ mười lăm đến hai mươi ki-lô-gam, có tuổi thọ trung bình từ mười sáu đến mười tám năm. Loại chó bắt được tội phạm được gọi là chó nghiệp vụ, trinh thám, và thường rất to, cao, tai vểnh, hoạt động nhanh nhẹn, linh hoạt và thông minh. Chúng được nuôi rất công phu. Một số loại chó khác như chó săn thường rất khôn. Chó cứu hộ được dùng trong việc cứu nước ở các bến cảng, sân bay,… nơi xảy ra sự cố.

Ở một số nước trên thế giới, chó còn chuyên để kéo xe. Nhưng không hẳn là chỉ có ích, nó còn rất dễ bị bệnh, đó là bệnh “dại”. Thường là thời gian đầu chó rất bình thường, ít người phát hiện ra để đề phòng. Khi bị chó dại cắn, lúc bấy giờ mới thấy rõ việc nguy hiểm đến tính mạng con người. Vì vậy cần phải tiêm phòng cho chó thường xuyên theo định kì để tránh bị mắc bệnh.

Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người.

Con chó luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được.

Thuyết minh một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 5

Từ xa xưa, lợn là loài vật đã gắn bó thân thiết với người dân Việt Nam, nó là nét đặc trưng của vùng quê lam lũ, con vật hiền lành và được nuôi phổ biến trong những hộ gia đình. Nó đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế của người nông dân nghèo khó.

Trong ngành chăn nuôi gia súc, lợn là loài vật đem đến lợi nhuận kinh tế cao. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều giống lợn được người nông dân nuôi như: lợn ỉn, lợn sề, lợn mán, lợn cắp nách. Trong đó loại lợn ỉn được nuôi nhiều nhất, phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Chúng có thân màu đen, hoặc đen khoang trắng, lông chúng thưa, mõm ngắn, bụng sệ khiến lưng của chúng cũng võng xuống theo, có bốn chân nhỏ và thấp chính vì thế mà chúng di chuyển khá chậm chạp, ì ạch và nặng nhọc. Lợn ỉn sau bảy đến tám tháng nuôi sẽ đạt cân nặng là 60-70 ki lô. Khi lợn đạt đến cân nặng tiêu chuẩn, người dân có thể bán đi hoắc tiếp tục nuôi để lợn sinh sản ra lứa sau. Mỗi lứa sinh, lợn thường đẻ tới hàng chục con và nuôi chúng bằng sữa mẹ.

Lợn là loài vật rất dễ nuôi, thức ăn của chúng đa phần là bèo cái, khoai nứa hoặc cám và các loại rau như rau lang, rau muống, cây chuối. Chúng ăn rất nhiều, ăn xong nằm ngủ, đặc tính của chúng khá dễ bao gồm hai việc ăn và ngủ, chúng không có những đặc điểm giống như các loài vật khác. Thịt lợn ỉn rất ngon, thịt nạc mềm và da chúng mỏng nên được nhiều người ưa chuộng, dần chúng trở thành thực phẩm phổ biến trên thị trường thực phẩm Việt Nam nói riêng và thị trường nước ngoài nói chung. Trong các gia đình nông thôn, thường hộ nuôi hai lứa lợn, mỗi lứa dăm chục con, không chỉ nuôi lấy thịt, phân của chúng còn được tận dụng bón cho cây trồng.

Ngoài lợn ỉn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ thì cũng có nhiều giống lợn khác phân bố ở các tỉnh thành vùng núi phía Bắc như : lợn rừng, lợn cắp nách, lợn móng cái. Lợn ở trên các vùng núi thường được nuôi thả rông, thân nhỏ, mõm dài,lông cứng, nặng từ bảy đến hơn chục ki lô. Khi đủ độ lớn, chúng được người dân mang ra các phiên chợ địa phương để trao đổi mua bán.

Hiện nay, khi Việt Nam càng tập trung phát triển mạnh về chăn nuôi gia súc, với sự kết hợp của các nhà nghiên cứu và người dân, nhiều giống lợn được nhập khẩu và nuôi theo phương pháp mới, quy mô trang trại lợn hơn, tăng thêm lợi ích kinh tế cho người dân. Ví dụ như giống lợn của nước Anh, chúng có thân trắng hồng, lông mượt, đầu nhỏ và hai tai dựng, thân dài bụng thon gọn và bốn chân cao. Trọng lượng của một con lợn trưởng thành có thể lên tới 100 ki lô, cơ thể khá săn chắc do quy cách chăn nuôi được nâng cao và đổi mới. Giống lợn này hiện nay hầu như đáp ứng nhu cầu của mọi người tiêu dùng trên thị trường, Từ thịt lợn ấy, người ta chế biến được nhiều món ăn dinh dưỡng như: Thịt rang, thịt lợn luộc, thịt ba chỉ, thịt nạc vai băm để nấu canh, kho hay rán cùng với trứng,.. Hầu hết thịt lợn xuất hiện hàng ngày trong các bữa ăn gia đình đến những ngày giỗ, ngày Tết,.. Bên cạnh đó lợn còn xuất hiện trong những bức tranh Đông Hồ của các nghệ sĩ vẽ tranh, chúng mang một vẻ đẹp giản dị trong đời sống nhân dân Việt Nam.

Lợn là con vật quen thuộc mang lại nhiều lợi ích cho con người, gắn bó thân thiết với người nông dân, với xóm làng, vườn tược và quê hương Việt Nam.

Thuyết minh một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 6

Cuộc sống của con người sẽ trôi đi tẻ nhạt và buồn chán biết bao nếu như không có những con vật để bầu bạn. Nếu như những chú mèo nhỏ xinh là con vật cưng của nhiều người, chú chó là người canh dữ dũng cảm thì chú lợn hiền lành, đáng yêu luôn đem lại cho người ta những giây phút thư giãn và yêu đời.

Chắc hẳn là ai cũng nhận biết được loài vật này, lợn đã trở thành một con vật nuôi quen thuộc với chúng ta. Lợn nhà có nguồn gốc từ lợn rừng, đầu tiên do con người săn bắn và hái lượm, họ bắt được lợn rừng và đem về nuôi. Dần dần con người ý thức và chọn lựa những con lợn tốt để nuôi còn những con kém chất lượng có thể giết thịt nhằm cung cấp thực phẩm. Tổ tiên của lợn chính là lợn rừng, cho rằng lợn nhà được tạo ra từ các giống lợn rừng châu Âu và châu Á.

Các giống lợn được phân thành các giống lợn chính và các giống lợn phụ. Ở rừng châu Á và châu Âu có tới bốn giống lợn chính và 25 giống lợn phụ. Lợn ngày nay được tạo thành ba giống lợn phụ của châu Á là Sus orientalis, Sus vitatus, một giống lợn châu Âu Sus crofa. Lợn rừng và lợn hoang dã cũng là những giống lợn khác nhau ở vùng nhiệt đới và ôn đới. Lợn nước hoặc lợn đầm lầy là giống lợn thích nghi như các động vật bán thủy sinh.

Lợn thuộc vào thứ có guốc. Kích cỡ và hình dạng của lợn thường thay đổi khác nhau tùy theo từng giống. Đầu và toàn thân lợn có thể dài đến 190500mm, đuôi dài từ 35- 450mm. Lợn trưởng thành cơ thể nặng tới 350kg. Mắt của chúng nhỏ và dẹt, nằm cao trên hộp sọ. Tai của lợn khá dài và rủ xuống với một nhúm lông nằm gần đầu mút. Hộp sọ của lợn thường dài và có một điểm chấm khá bằng phẳng. Mũi của lợn to bằng bàn tay nắm lại và khá linh động. Cả bốn chân của lợn đều có móng nhưng nó chỉ thể hiện chức năng trong vận động ở các ngón giữa. Những chú lợn khoác lên mình bộ áo màu trắng phớt hồng, điểm xuyết một vài chiếc lông trắng.

Lợn được nuôi để lấy thịt có chất lượng thịt thơm ngon, tỷ lệ thịt xẻ và tỉ lệ mỡ cao trong thân thịt. Lợn có thể sản xuất một lượng mỡ đáng kể. Mỡ là một nguồn dự trữ năng lượng lớn, giúp cho thịt có mùi và vị ngon hơn. Ngoài ra thịt lợn vốn là loại thực phẩm có giá cao, ổn định trên thị trường. Lợn có rất nhiều đóng góp giá trị cho đời sống của con người. Hầu hết thân thịt lợn đều sử dụng để chế biến hoặc làm thức ăn cho con người. Da của lợn có thể làm thức ăn hoặc cung cấp cho ngành thuộc da, lông có thể được dùng để làm bàn chải, bút vẽ. Sự phát triển của công nghệ chế biến thịt hun khói, lên men đã tạo nên một số lượng sản phẩm rất đa dạng từ thịt lợn, các công nghệ này đã giúp cho quá trình bảo quản, nâng cao tính đa dạng, hương vị và nâng cao phẩm chất khẩu phần ăn cho con người.

Sau khi được thuần hóa, lợn sớm trở thành một món hàng có giá trị cho việc kinh doanh và buôn bán. Trước khi tiền tệ xuất hiện, con người đã tiến hành trao đổi lợn để lấy các loại hàng hóa khác. Quá trình thương mại diễn ra cũng có nghĩa là con lợn bắt đầu có giá trị kinh tế. Việc bán lợn và các sản phẩm lợn cung cấp một nguồn thu nhập cho hàng triệu gia đình nông dân trên thế giới. Các sản phẩm này đã ảnh hưởng rộng đến các hoạt động kinh doanh khác như: thương mại, vận chuyển, thị trường, giết mổ, chế biến thức ăn và nhiều lĩnh vực khác nữa. Ngoài ra nó còn có tác dụng kích cầu đối với các ngành chế biến thức ăn, sản xuất con giống, tinh dịch, thuốc thú y và các thiết bị khác. Khi lợn có giá trị kinh tế, chúng là một hình thức tiết kiệm cho người dân.

Lợn đã được xem là một loài vật nuôi có tầm quan trọng không chỉ vì giá trị thức ăn mà còn có các giá trị văn hoá độc đáo. Điều này được thể hiện trong các bài hát, thơ ca, tranh ảnh hội hoạ, sách. Lợn được xem là có các đặc tính của con người. Nó được thể hiện là các đấng anh hùng hay là kẻ hung dữ trong các truyện ngụ ngôn.

Những con lợn đem lại nguồn lợi không hề nhỏ cho người dân và mang những giá trị tinh thần to lớn. Vì vậy, ta cần chăm sóc và yêu quý loài vật này.

Thuyết minh một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 7

Nếu bạn đã từng đi qua những làng quê ở Việt Nam thì không thể không bắt gặp những chú trâu đang cần mẫn cày ruộng hay đang thong thả gặm cỏ. Con trâu là người bạn thân thiết của người dân và gắn bó lâu đời với nhau từ hàng ngàn năm nay. Và chúng được xem như biểu tượng của người nông dân Việt Nam.

Trâu bắt nguồn từ loài trâu rừng. Lông trâu thường có màu xám đen, thân hình vạm vỡ. Với đôi sừng nhọn, uốn cong như hình một lưỡi liềm. Chúng được con người sử dụng làm đồ trang sức. Trâu là loài động vật thuộc lớp có vú. Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày. Một con trâu đực trung bình cày bừa từ 3 - 4 sào còn trâu cái có thể cày bừa từ 2 - 3 sào.

Trong những thời đại trước trâu còn dùng để kéo xe, chở hàng và có thể kéo tải trọng từ 400 - 500kg. Con trâu còn có thể kéo gỗ củi và hàng hóa. Trâu cung cấp cho ta rất nhiều sản lượng về lương thực và sữa. Đem bán thịt trâu cũng thu được những khoản tiền đáng kể. Người ta thường trồng cây xen lẫn các cây ăn quả, phân trâu ủ xanh là thuốc bón tốt nhất cho cây. Trâu chính là tài sản nên rất được người dân chăm sóc rất chu đáo.

Hình ảnh con trâu ung dung gặm cỏ non, xanh mát và trên trời là những cánh diều bay cao giữa không trung đã in sâu trong tâm trí người Việt Nam. Chăn trâu thả diều là một trong những trò chơi của trẻ em nông thôn, một thú vui đầy lý thú. Trên lưng trâu còn có bao nhiêu là trò như đọc sách, thổi sáo... Những đứa trẻ đó lớn dần lên, mỗi người mỗi khác nhưng sẽ ko bao giờ quên được những ngày thơ ấu.

Ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu đâm trâu. Lễ hội chọi trâu ở Hải Phòng là nổi tiếng nhất ở Việt Nam. Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn - một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là 1 trong 15 lễ hội quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người. Ở Đồ Sơn vẫn có câu thành ngữ “Trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ” để lập luận Hội chọi trâu ra đời cùng với việc trở thành hoàng làng.

Tìm hiểu nguồn gốc ấy để thấy rằng lễ hội chọi trâu có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Đồ Sơn từ xưa tới nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến công ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho “nhân khang, vật thịnh”.

Người vùng biển đã gửi gắm tinh thần và ý chí của mình vào những “kháp đấu” giữa các “ông trâu”. Mỗi "ông trâu" trên xới đấu thắng thua ra sao sẽ chứng tỏ tài năng của các ông chủ trâu, của phường xã mình. Như vậy các “kháp đấu” giữa những ông trâu đã trở thành nghệ thuật, có tính biểu tượng sinh động, thể hiện bản sắc văn hoá. Như vậy chọi trâu đã nói hộ tích cách của người dân vùng biển, nó đã được định hình từ lâu với nội dung phong phú gồm nhiều yếu tố văn hoá dân gian, lành mạnh kết tinh của cả một vùng văn hoá ven biển mà Đồ Sơn là trung tâm. Đây là một lễ hội độc đáo của người dân Đồ Sơn, nó gắn liền việc thờ cúng thuỷ thần với nghi lễ chọi và hiến sinh trâu, có cả sự giao thoa giữa những yếu tố văn hoá nông nghiệp đồng bằng với văn hoá cư dân ven biển.

Con trâu đã gắn bó với người những người nông dân Việt Nam. Nó không những mang lại cho những người nhân dân việt nam về mặt vật chất mà còn mang lại cả về mặt tinh thần. Con trâu còn gắn bó với những lễ hội tiêu biểu của người dân Việt Nam. Nó đã là biểu tượng của của làng quê việt nam và Đất nước Việt Nam.

Thuyết minh một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 8

Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.

Bao đời nay, hình ảnh con trâu đã trở nên gắn bó với người nông dân Việt Nam. Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Thân hình vạm vỡ nhưng thấp và ngắn. Bụng to. Da dày có màu xám đen nhưng vẫn tạo cảm giác mượt mà bởi bên ngoài được phủ một lớp lông mềm. Điều đặc biệt ở trâu mà không thể không nhắc đến đó là trâu thuộc họ nhai lại.

Quanh năm suốt tháng, trâu cùng người chăm lo việc đồng áng vì vậy người nông dân coi trâu như người bạn thân thiết nhất của mình. Trâu to khỏe, vạm vỡ lại chăm chỉ cần cù chịu thương chịu khó nên thường gánh vác những công việc nặng nhọc của nhà nông. Từ sáng sớm tinh mơ. khi mặt trời còn ngái ngủ, trâu đã cùng người ở “trên đồng cạn” rồi lại xuống “dưới đồng sâu”, cho đến khi ông mặt trời mệt mỏi sau một ngày làm việc, chuẩn bị đi ngủ trâu vẫn miệt mài bên luống cày.

Trâu là nguồn cung cấp sức kéo quan trọng. Lực kéo trung bình của trâu trên đồng ruộng là 70 - 75kg, tương đương 0,36 - 0,1 mã lực. Trâu loại A một ngày cày được 3 - 4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 - 3 sào và loại C 1,5 - 2 sào. Trâu còn được dùng để kéo đồ, chở hàng; trên đường xấu tải trọng là 400 - 500kg, đường tốt là 700 - 800kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5m khối gỗ trên quãng đường 3 - 5km. Khỏe như vậy nhưng bữa ăn của trâu rất giản dị, chỉ là rơm hoặc cỏ.

Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mỹ nghệ như lược, tù...

Không chỉ góp phần quan trọng trong đời sống vật chất của người dân, trâu còn có mặt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, trâu hay còn gọi là ngưu, sửu - có mặt trong 12 con giáp. Con trâu trở thành con vật gắn liền với tuổi tác của con người. Người mang tuổi trâu thường là những người chăm chỉ cần cù, thậm chí vất vả. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ hội cơm mới, lễ hội xuống đồng.

Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn - Hải Phòng. Những chú trâu được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo. Con nào con nấy vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ chỉ chờ vào sân đấu. Trong tiếng trống giục giã, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Ngoài ra, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu. Đây là phong tục tập quán của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Con trâu bị giết được đem xẻ thịt chia đều cho các gia đình trong buôn làng cùng liên hoan mừng một vụ mùa bội thu.

Hình ảnh con trâu còn in đậm trong kí ức của những đứa trẻ vùng quê. Chắc không ai quên Đinh Bộ Lĩnh, người làm nên kỳ tích thống lĩnh mười hai sứ quân, đã có một tuổi thơ gắn bó với chú trâu trong trò đánh trận giả hay trò đua trâu đầy kịch tính. Chắc mỗi chúng ta đều có lần bắt gặp những hình ảnh rất đặc trưng, rất nên thơ của làng quê Việt Nam, đó là hình ảnh chú bé mục đồng ngồi vắt vẻo trên lưng trâu đọc sách hay hình ảnh chú cũng đang ngồi trên lưng trâu nghiêng nghiêng cái đầu trái đào với cây sáo trúc... Những hình ảnh tuyệt vời đó đã trở thành nguồn cảm hứng cho những nghệ nhân làng tranh Đông Hồ và cũng là nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian:

Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

Trong những năm gần đây, chú trâu đã vượt ra khỏi lũy tre làng, tham gia vào các hoạt động văn hóa thể thao. Với hình ảnh “trâu vàng” trong SEA Games 22. Trâu không còn là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu là biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy marathon, trâu đội nón... rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Ngày nay, nhiều loại máy móc hiện đại đã xuất hiện trên cánh đồng làng Việt Nam nhưng con trâu vẫn là con vật không thể thiếu đối với người nông dân. Hình ảnh con trâu cần cù, chung thủy mãi mãi in sâu trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.

Thuyết minh một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 9

Sau khi chào tôi, chị mèo hào hứng kể rằng họ mèo nhà chị có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo bắt đầu được thuần hóa và nuôi ở Ai Cập sau đó lan nhanh sang Châu Âu và các khu vực khác trên thế giới. Riêng ở Việt Nam, mèo bắt đầu được nuôi từ khoảng hai nghìn năm trước đây.

Quả đúng như chị mèo Thông Thái nói, họ nhà chị ai ai cũng có vẻ ngoài nhanh nhẹn, tràn đầy sức sống. Đầu mèo tròn, nhỏ và ở phía trước hơi nhô ra, đó là mõm mèo. Trông mèo nhỏ bé thế nhưng hàm răng nó lại có tới ba mươi chiếc. Trong số này, ngoài bốn chiếc răng nanh sắc nhọn thì hầu hết đều nhỏ xíu. Kỳ lạ nhất là đôi mắt mèo, đôi mắt trong veo như hai hòn bi ve.

Đồng tử mèo có khả năng co giãn cực tốt. Ban ngày, đồng tử thu nhỏ đến đêm mới giãn ra. Thế là mèo ta có thể nhìn rõ trong đêm tối. Thân hình nhỏ bé của mèo được nâng đỡ bởi bốn chân chắc khỏe. Vì nằm trong nhóm động vật bậc thấp nên mèo vẫn có một cái đuôi dài. Mỗi chân mèo đều có bốn ngón, dưới những ngón chân có vuốt cực sắc này là đệm thịt giúp mèo đi lại nhẹ nhàng.

Chắc chẳng có em bé nào mà lại không biết đến câu hát: "Meo meo meo, rửa mặt như mèo..." hay "mèo con ra bể nước, bàn chân nó vuốt vuốt, xoa mấy sợi râu cước...". Hình ảnh chú mèo liếm láp lòng bàn chân trước bên phải của mình cho thật sạch rồi lấy chính chân đó cọ cọ vào mặt mình đã khắc sâu vào tâm trí trẻ thơ. Một tập tính nữa mà ai cũng biết ở mèo đấy là bắt chuột. Bọn chuột xấu xí chuyên đi ăn vụng mỗi khi nghe thấy tiếng "meo meo" của mèo là hồn vía chạy đi đâu hết cả, chỉ còn biết bạt mạng chạy. Cộng thêm với đôi râu và đôi tai nhạy như ra đa mà trời đã ban cho, mèo lại càng bắt được nhiều chuột.

Nghe chị mèo nói đến đây, tôi đã thấy khoái loài mèo lắm rồi, bèn giục: "Chị ơi, chị kể cho em nghe về sự sinh trưởng của mèo đi". Chị mèo mỉm cười rồi tiếp: "Mèo con được một tháng tuổi đã được mẹ dạy cho những kỹ năng bắt chuột cơ bản như chạy, nhảy, rình mồi, vồ mồi. Trong thời kỳ này, mèo mẹ sẽ dẫn mèo con đi quanh nhà để chúng "tìm hiểu" mọi thứ. Lớn hơn một chút, khoảng từ bốn đến năm tháng tuổi là có thể tự săn mồi. Mèo từ mười đến mười hai tháng tuổi là có thể sinh sản được.

Lúc này, mèo cái có bộ lông mới mượt hơn, dày hơn bình thường. Cơ thể mèo lúc này phát ra một mùi đặc biệt và có tiếng kêu khác thường để hấp dẫn các chàng mèo đực. Sau khi giao phối, mèo cái lại sống đơn độc như trước và tự nuôi con. Mỗi lứa, mèo mẹ đẻ khoảng hai đến sáu con. Mèo con mới đẻ mắt nhắm nghiền, khoảng một tuần sau mới mở mắt".

Rồi chị đố chúng tôi kể được tên thật nhiều loài mèo. Hừm, để xem nào. Mèo mun lông đen tuyền từ đầu tới gót này. Mèo mướp với bộ lông xám tro, mèo vàng lông vàng óng nữa. Có lẽ giống mèo đông đúc nhất, được nuôi phổ biến nhất là mèo tam thể. Loài này lông có màu đen, vàng, trắng pha lẫn với nhau. Nghe chúng tôi kể, chị gật gù: "Họ nhà người cũng am hiểu về họ nhà mèo ghê".

Chị còn kể cho chúng tôi về nỗi kinh hoàng của họ nhà chị. Xưa, người ta dùng ruột mèo để căng dây vợt tennis (Nói đến đây, mặt chị hơi nhăn lại). Và bây giờ người ta còn ăn thịt mèo nữa. Nghe đâu, Chính phủ đã cấm bán và ăn thịt mèo. Song mấy người bạn chị bảo ở dưới Thái Bình, số quán nhậu "tiểu hổ" vẫn ở mức hàng trăm. Và cứ mỗi ngày, lại có hơn một ngàn anh chị em cô bác mèo "ra đi" tại đây. Chị lắc đầu "Cứ đà này, chẳng mấy chốc, bọn chuột dưới đó lại nổi loạn cho xem". Vì mèo là "khắc tinh" của chuột mà.

Các bạn có muốn góp tay ngăn chặn nạn chuột không? Hãy nuôi một chú mèo trong nhà nhé. Theo kinh nghiệm của chị mèo Thông Thái thì mèo con dưới hai tháng tuổi nên cho ở với mẹ. Khi lớn lên thì cho tập ăn cơm trộn cá, trộn thịt hoặc thậm chí cả rau nữa. Mèo là loại động vật có xuất xứ từ sa mạc nên rất ưa hơi ấm. Chính vì thế nên mèo rất hay trườn mình cọ vào chân người. Lúc đó, bạn hãy ôm mèo vào lòng, ủ ấm cho nó hoặc mang nó ra nắng sưởi ấm nhé! Thấy chưa, mèo ta đã lim dim đôi mắt và gừ gừ khoan khoái rồi kìa. Mèo cũng rất thích chơi với các em bé từ bốn tuổi trở lên. Đây là thời kỳ hình thành nhân cách của các em nên nếu trong gia đình nuôi một chú mèo thì trẻ nhỏ sẽ sớm biết yêu động vật. Thật đáng tiếc nếu bạn bị dị ứng với lông mèo vì khi đó bạn chỉ có thể ngắm nó từ xa chứ đừng nuôi mà cũng đừng âu yếm vuốt ve nó. À, các bạn nhớ đem mèo đi tiêm phòng mỗi năm một lần và thường xuyên tắm hoặc bắt rận cho mèo nhé. Để mèo luôn khỏe mạnh và sạch sẽ mà.

Ối, vì trời nắng ấm quá nên chị mèo Thông Thái đã ngủ quên mất rồi. Thôi, chúng ta sẽ để yên cho chị ấy ngủ nhé. Tôi chắc rằng lần sau chị ấy sẽ kể cho chúng ta rất nhiều chuyện thú vị về loài mèo đấy. Vì loài mèo là bạn tốt.

Thuyết minh một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 10

Từng ngày trôi, cuộc sống sẽ buồn tẻ biết bao nếu bên cạnh chúng ta không có những người bạn động vật nhỏ. Em rất thích mèo và luôn tìm hiểu về chúng. Mèo là vật nuôi quen thuộc trong các gia đình từ xưa đến nay.

Mèo là động vật thuộc lớp thú, có bốn chân. Trên mình phủ một bộ lông dày, mượt mà. Mèo nhà có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo được nuôi đầu tiên ở châu Phi, sau được nuôi ở các nước châu Âu và các nước nước khác. Thời đại phát triển ngày nay thì người ta đã lai tạo nhiều giống mèo mới như: mèo tam thể. mèo lông xù, mèo mướp, mèo mun,... Trên mặt mèo có bộ ria mép, đó chính là trợ thủ đắc lực của mèo.

Những lúc đuổi chuột, chuột chạy vào hang, mèo muốn đuổi theo thì ria mép không được chạm vào cửa hang, còn nếu ria mép chạm vào thì mèo không thể đuổi theo được, vì chiều dài của ria đúng bằng chiều rộng thân. Đặt biệt tai mèo rất thính và mắt mèo rất tinh. Tai mèo có thể nghe mọi cử động của chuột, dù là nhỏ nhất. Mắt mèo có cấu tạo đặc biệt, có thể co giãn, ban ngày mắt mèo co lại, ban đêm mắt mèo giãn ra, có thể nhìn được trong bóng tối. Điều đó giải thích vì sao mèo hay bắt chuột vào ban đêm.

Loại mèo rất sợ lạnh, nên chúng rất thích ngủ ở những nơi ấm áp, thích cuộn tròn người và vuốt ve bộ lông. Do đó vào mùa đông, mèo hay ngủ cạnh bếp lò, chui vào trong chăn ấm. Vào những ngày nắng, mèo hay nhảy lên mái bếp hoặc nằm ngoài sân để sưởi nắng. Lông mèo rất đặc biệt, khi được chiếu sáng sẽ tổng hợp thành vitamin D, mèo lấy vitamin bằng cách liếm lông, chúng ta hay nhầm tưởng mèo tự làm sạch cho mình. Dưới chân mèo có một đệm thịt dày, dù nhảy trên cao xuống cũng không phát ra tiếng động. Thức ăn chính của mèo là chuột, ngoài ra mèo còn ăn thêm cơm, cá và rau. Chân mèo có móng vuốt đàn hồi, bình thường móng cụp lại, khi tự vệ hay vồ mồi thì móng duỗi ra.

Thuyết minh một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 11

“Trâu ơi ta bảo trâu này

Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”

     Câu ca dao đã trở thành một lời ru quen thuộc, đi vào tiềm thức mỗi chúng ta từ ngày tấm bé. Hình ảnh gắn bó giữa người và trâu cũng từ đó mà mặc định không biến đổi. Đối với truyền thống nền văn minh lúa nước của nước ta, hình ảnh con trâu sớm đã trở thành biểu tượng của người nông dân Việt Nam.

     Trâu có hai loại: trâu đực và trâu cái và là động vật nhai lại. Một đặc điểm khá dễ nhận ra của trâu, đó là nó không có hàm răng trên. Tấm thân của trâu rất chắc chắn, thân hình vạm vỡ nhưng thấp. Bụng to. Da của nó màu đen, rất dai nhưng được phủ bởi một lớp lông mềm bên ngoài nên có cảm giác rất mượt mà. Mũi trâu lớn, miệng trâu rộng, sừng có hình lưỡi liềm. Cân nặng trung bình của trâu cái là từ 350-400 kg thì trâu đực nặng từ 400-450kg. Bước đi của trâu chậm chạp nhưng chắc chắn. Cái đuôi luôn phe phẩy mọi lúc như để đánh động những chú ruồi không mời mà tới. Vì thưởng làm việc liên tục trên ruộng nên trâu có thói quen ợ lên nhai lại. Khi chúng có thời gian ăn cỏ, chúng thường nhai qua loa để tích trữ càng nhiều thức ăn càng tốt cho những khi phải làm việc liên miên. Đó là lí do trâu có thể làm cả ngày mà không cần dừng lại nghỉ.

     Với một ngoại hình như vậy, trâu là loài động vật rất khỏe và chịu khó. Xuất phát từ nền văn minh lúa nước, mảnh ruộng cày đã gắn chặt với đời sống bao nhiêu năm lao động của người dân Việt Nam. Công việc đồng áng vất vả kia tuy nặng nhọc, một nắng hai sương, vất vả vô cùng nhưng những người nông dân luôn có “người bạn cần mẫn” của mình là chú trâu luôn bên cạnh giúp đỡ, chăm chỉ cùng làm lụng. Dù ngày nắng hay ngày mưa, dù có gian lao vất vả, chỉ cần người cần đến, trâu sẵn sàng không quản ngại gian lao để cùng con người cầy cấy thửa ruộng, đem lại sự no ấm, yên tâm cho cả gia đình. Nên nông dân ta vẫn luôn có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Còn trâu thì có cần gì ngoài được con người cho ít ngọn cỏ ngoài đồng cùng một nơi để trú ngụ qua đêm. Đó là những ngày bận rộn với công việc đồng áng, còn những ngày nông nhàn, trâu lại làm bạn với tiếng sáo, với cánh diều mộng mơ của trẻ mục đồng trên những bãi cỏ rộng ngập nắng và gió. Những chú bé vắt vẻo trên lưng trâu đùa nghịch mà tạo nên những kỉ niệm tuổi thơ với cuộc sống làng quê khó quên đến tận những năm tháng về sau.

     Là một loài động vật có sức lao động và trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm, chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và,.. Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Những chú trâu đã được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo từ lâu để chuẩn bị cho ngày hội hôm ấy. Con nào con nấy cũng vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ trông hùng dũng oai phong chỉ chờ vào sân đấu. Trong tiếng trống giục giã, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi.

     Chắc hẳn mọi người vẫn còn nhớ rõ hình ảnh “trâu vàng” trong SEA GAMES 22, trâu không chỉ là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu đã trở thành biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy maratong, trâu đội nón... rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lề hội cơm mới, lễ hội xuống đồng. Tất cả đều chứng tỏ từ xa xưa đến nay, trâu vẫn gắn liền với đời sống của dân tộc trong mọi mặt kể từ cuộc sống đời thường đến lao động, văn hóa, phong tục, đã trở thành một phần không thể thiếu trong bản sắc dân tộc. Mang những giá trị to lớn về mọi mặt của đời sống nhân dân, con trâu đã trở thành một “nhân vật” không thể thiếu và xứng đáng để con người có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và quý trọng chúng.

     Cho dù trong cuộc sống hiện đại ngày nay, rất nhiều loại máy móc xuất hiện thay thế vai trò của trâu trong lao động, sản xuất nhưng hình ảnh và ý nghĩa của con trâu luôn là một phần nếp sống tinh thần không thể thiếu của mỗi người nông dân đất Việt.

Thuyết minh một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 12

        Con gà là vật nuôi gắn bó với đời sống của con người đã lâu đời, được nhân dân ta xếp vào loài lục súc, gia cầm.

        Nhà nông dùng chuồng để nuôi gà, lót ổ rơm cho gà mái đẻ, chăn thả tự nhiên. Trong một đàn gà, gà trống và gà mái chiếm tỉ lệ khoảng 50%.

        Gà trống có bộ lông sặc sỡ, đủ 4-5 màu (đỏ, tía, nâu, xanh biếc, đen, vàng chanh,...). Gà trống có mào đỏ thắm, mắt màu vàng than, mỏ sắc như mũi giáo bằng thép, chân có lớp vảy cứng bao bọc, móng chân sắc như những chiếc vuốt. Cựa gà trống nhọn hoắt như mũi dùi, là vũ khí rất lợi hại.

        Con gà trống nào cũng có một đồng hồ sinh học rất chính xác để gáy sang canh, gáy dồn báo sáng vang rộn xóm làng. Gà trống gáy là cái đồng hồ báo thức cho nhà nông ra đồng cày cấy:

“Lao xao gà gáy rạng ngày

Vai vác cái cày, tay dắt con trâu

Bước chân xuống cánh đồng sâu

Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu ra cày ”

(Ca dao)

        Gà trống để phối giống. Các nhà gia cầm học cho biết một chú gà trống có thể cặp kè với 20 ả gà mái; vòng đời 3, 4 năm, nó có một đại gia tộc gồm hàng trăm con, cháu, chút, chít. Thịt gà trống ngọt đậm; gà thiến béo, to con. Chọi gà là một trò chơi dân gian được tổ chức trong một số lễ hội.

        Gà mái đẻ trứng ấp và nuôi con, tượng trưng cho sự tần tảo, đức hi sinh của bà mẹ. Mỗi gà mái có thể đẻ trứng và ấp, nuôi con 4 lứa/ một năm. Thịt gà mái ghẹ là ngon nhất. Câu tục ngữ “Cơm gà cá gỡ” cho biết món thịt gà là món đầu vị trong mâm cỗ, giỗ, Tết của nhân dân ta xưa, nay.

        Trong nền kinh tế thị trường, nhiều trại gà công nghiệp nuôi đến hàng nghìn, hàng vạn con. Thịt gà công nghiệp, trứng gà công nghiệp không ngon bằng thịt gà ta, trứng gà ta.

        Gà Đông Tảo, gà Hồ ... là hai giống gà nổi tiếng nhất ở nước ta, thịt thơm ngon, có giá trị kinh tế cao.

        Nghe gà gáy mà man mác nhớ đến truyện cổ tích “Sọ Dừa ". Nghe gà gáy sáng, kẻ tha hương vương vấn tình quê vơi đầy. Nuôi gà chăn thả tự nhiên là nguồn thu nhập khá của không ít gia đình ở mọi miền quê trên đất nước ta.

Thuyết minh một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 13

     Có rất nhiều loài vật đã được con người thuần hoá, nuôi dưỡng và trở thành "thú cưng" trong mỗi gia đình. Nhưng trong số đó, có thể nói mèo là loài vật được yêu chiều, nâng niu nhất.

     Mèo nhà là một phần loài trong họ mèo (trong họ mèo còn có báo, linh miêu..). Theo những căn cứ khoa học đáng tin cậy thì chúng đã sống gần gũi với loài người trong khoảng từ 3.500 năm đến 8.000 năm.

     Có rất nhiều các giống mèo khác nhau, một số không có lông hoặc không có đuôi. Các màu lông mèo rất đa dạng: màu trắng, màu vàng, màu xám tro... Có những chú mèo mang nhiều màu lông nên có những tên gọi như mèo tam thể (có ba màu lông), mèo vằn (hai màu lông chạy xen nhau), mèo đốm,...

     Mèo con từ 1 tháng tuổi trở lên đã được mèo mẹ dạy các động tác săn bắt mồi như chạy, nhảy, leo trèo, rình và vồ mồi. Mèo 4 tháng tuổi có thể bắt được chuột, gián, thạch sùng... Chúng giao tiếp bằng cách kêu "meo”, "mi-ao", "gừ-gừ", rít, gầm gừ và ngôn ngữ cơ thể. Mèo trong các bầy đàn sử dụng cả âm thanh lẫn ngôn ngữ cơ thể để giao tiếp với nhau.

     Thông thường mèo nặng từ 2,5 kg đến 7 kg. Cá biệt, một số chú mèo từng đạt tới trọng lượng 23 kg vì được cho ăn quá nhiều. Trái lại, cũng có những chú mèo rất nhỏ (chưa tới 1,8 kg), ở tình trạng nuôi trong nhà, mèo thường sống được từ 14 năm tới 20 năm. Chú mèo già nhất từng biết đến trên thế giới đã sống 36 năm. Mèo giữ năng lượng bằng cách ngủ nhiều hơn đa số các loài động vật khác, đặc biệt khi chúng già đi. Thời gian ngủ hàng ngày có khác nhau, thường là 12 giờ đến 16 giờ, mức trung bình 13 giờ đến 14 giờ. Một số chú mèo có thể ngủ 20 giờ trong ngày. Vì thường chỉ hoạt động nhiều lúc mặt trời lặn, mèo rất hiếu động và hay đùa nghịch vào buổi tối và sáng sớm.

     Mèo là những "vận động viên điền kinh" tài giỏi có thể chạy rất nhanh và nhảy xuống đất từ độ cao lớn. Có điều đó vì chúng có cấu tạo cơ thể rất đặc biệt.

     Mèo có bốn chân, mỗi bàn chân đều có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất. Giống như mọi thành viên khác của họ mèo, vuốt của mèo thu lại được. Bình thường, ở vị trí nghỉ các vuốt được thu lại trong da và lông quanh đệm ngón. Điều này giữ vuốt luôn sắc bởi chúng không tiếp xúc với mặt đất cũng như cho phép mèo đi nhẹ nhàng rình mồi. Các vuốt chân trước thường sắc hơn so với phía sau. Mèo có thể giương một hay nhiều vuốt ra tùy theo nhu cầu. Khi rơi từ trên cao xuống, mèo có thể sử dụng cảm giác thăng bằng sắc bén và khả năng phản xạ của nó tự xoay thân tới vị trí thích hợp. Khả năng này được gọi là "phản xạ thăng bằng." Nó luôn chỉnh lại thăng bằng cơ thể theo một cách, khiến chúng luôn có đủ thời gian thực hiện phản xạ này khi rơi. Giống như chó, mèo là loài vật đi trên đầu ngón chân: chúng bước trực tiếp trên các ngón, các xương bàn chân của chúng tạo thành phần thấp nhìn thấy được của cẳng chân. Mèo có thể bước rất chính xác, bởi vì khi đi, chúng đặt bàn chân sau (hầu như) trực tiếp lên đầu của bàn chân trước, giảm thiểu tiếng ồn và dấu vết để lại. Điều này cũng giúp chúng có vị trí đặt chân sau tốt khi bước đi trên bề mặt ghồ ghề.

     Hỗ trợ đắc lực cho mèo trong quá trình di chuyển, ngoài chân ra còn có đuôi. Đuôi mèo dài và uyển chuyển, chúng được dùng để xua đuổi ruồi muỗi. Nhưng chức năng chủ yếu là giữ thăng bằng khi chạy nhảy leo trèo.

     Tai mèo khá thính. Đa số mèo có tai thẳng vểnh cao. Nhờ tính năng động cao của cơ tai mà mèo có thể quay người về một hướng và vểnh tai theo hướng khác. Mắt mèo cũng là một bộ phận khá đặc biệt. Nghiên cứu cho thấy tầm nhìn của mèo tốt nhất vào ban đêm so với người, và kém nhất vào ban ngày. Màu mắt của mèo khá đa dạng: màu vàng, màu đen, màu nâu, màu xanh... về thính giác, con người và mèo có tầm thính giác ở mức thấp tương tự như nhau, nhưng mèo có thể nghe được những âm thanh ở độ cao lớn hơn, thậm chí tốt hơn cả chó. Khi nghe âm thanh nào đó, tai mèo sẽ xoay về hướng đó; mỗi vành tai mèo có thể quay độc lập về hướng nguồn âm thanh. Khứu giác của mèo cũng rất phát triển. Nó mạnh gấp 14 lần so với của con người. Số lượng tế bào khứu giác ở mũi của chúng cũng nhiều gấp đôi, do dó mèo có thể ngửi thấy những mùi mà chúng ta không nhận thấy được.

     Mèo là động vật ăn thịt thế nên đối tượng để nó săn mồi cho nhu cầu sinh tồn là những loài vật nhỏ như: chuột, rắn, cóc nhái, cá... Vũ khí để săn mồi là móng vuốt. Khi gặp con mồi, nó thường đứng từ xa cách con mồi khoảng chừng 5 đến 6 mét. Sau đó nó nằm bẹp hạ cơ thể xuống sát đất, mắt chăm chăm nhìn không nháy mắt đến đối tượng đồng thời bước tới con mồi cần săn rất nhẹ nhàng. Khi đến gần khoảng cách mà nó cảm thấy ăn chắc, loài mèo tung ra sức mạnh cuối cùng bằng cách đẩy mạnh 2 chân sau và đồng thời phóng mạnh toàn cơ thể tới phía trước và dùng móng sắc nhọn duỗi thẳng ra và chụp lấy con mồi. Ngày nay, loài mèo luôn sống với người qua nhiều thế hệ con cháu. Cho nên, thức ăn của loài mèo là cơm hoặc thức ăn sẵn. Nhưng thức ăn ưa thích nhất của loài mèo vẫn là món cá.

     Mèo thường tránh nơi ẩm ướt và ở rất sạch sẽ. Để làm vệ sinh cho cơ thể, nó thường thè lưỡi ra, tiết nước bọt vào chân của nó rồi bôi lên mặt và toàn thân thể. Hành động này cho thấy mục đích nó muốn xóa sạch các vết bẩn, ngay cả hơi tay của con người vừa mới bồng hay vuốt ve nó. Loài mèo luôn tự làm lấy vệ sinh cho cơ thể nhiều lần trong ngày, thường là lúc nó mới ngủ dậy hay đi đâu đó về. Hành động đó đã trở thành thói quen thường thấy ở loài mèo ngay cả khi cơ thể của nó không có vết bẩn nào cả.

     Trải qua một thời gian dài được con người thuần dưỡng, ngày nay, mèo đã trở thành một loài vật cưng trong nhiều gia đình, đặc biệt là các em nhỏ. Mèo không chỉ là một "người bảo vệ", một "dũng sĩ diệt chuột" mà còn là một loài vật cảnh hết sức dễ thương. Có lẽ bởi vậy, tinh cảm giữa con người và loài mèo sẽ ngày càng gắn bó hơn.

Thuyết minh một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 14

       Từ bao đời nay, nước ta có truyền thống làm nông và nền văn minh lúa nước phát triển. Để làm được điều này chúng ta phải lao động cật lực và nặng nhọc. Con trâu – người bạn thân thiết cùng chia ngọt sẻ bùi với người nông dân, cùng người nông dân đi khắp cánh đồng để xới đất đai, cùng chung vui niềm vui ngày được mùa. Con vật này đã trở thành thân thuộc và không thể thiếu ở làng quê Việt Nam.

       Không ai biết chính xác nguồn gốc của loài trâu ngày nay. Người ta chỉ biết trâu xuất hiện nhiều ở những nước châu Á như Pa-xki-tan, Băng-la-đét, Nê-pa, Thái Lan,… Và đặc biệt ở Việt Nam người ta tìm thấy di tích hóa thạch của trâu cách đây vài chục triệu năm ở các hang động miền Bắc nước ta. Trâu theo khoa học thuộc lớp Mammalia, ngành Chordata, họ bò, bộ nhai lại, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn. Đa số trâu Việt Nam hiện nay có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
       Trâu được phân loại theo giống đực và giống cái. Con đực tầm vóc lớn, dài đòn, trước cao, sau thấp. Con cái tầm vóc từ vừa đến to, linh hoạt. Đặc tính chung của trâu là hiền lành, thân thiện nên chúng được nuôi phổ biến ở khắp các tỉnh thành trong cả nước. Trung bình một con trâu trưởng thành có thể nặng từ 250 – 500kg. Cân nặng của trâu tùy thuộc vào giới tính và sức khỏe. Các bộ phận của trâu được chia thành các phần: đầu, cổ, thân, chân, đuôi và da. Đầu trâu đực dài, to vừa phải, trâu cái đầu thanh, dài. Trán rộng, phẳng, hơi gồ. Da mặt rất khô, nổi rõ mạch máu. Mắt to tròn, tròng đen láy lanh lẹ, mí mắt mỏng; mũi kín, bóng, ướt. Miệng trâu rộng, răng đều khít, không sứt mẻ. Điểm đặc biệt của trâu là hàm trên không có răng mà chỉ có một miếng đệm rất dai, dẻo phù hợp với đặc tính nhai lại, ăn thực vật. Hai tai trâu nhỏ vừa có thể cử động, phủ một lớp lông mềm bảo vệ tai khỏi côn trùng chui vào. Sừng trâu thanh, đen, cân đối, ngấn sừng đều, rỗng ruột. Phần cổ và thân trâu có những đặc điểm sau: cổ dài vừa phải; ức rộng, sâu, lưng dài từ 1 – 1,5m hơi cong; xương sườn to, tròn, cong đều; bụng tròn lẳng; mông nở rộng, to. Chân trâu rất khỏe, vững chắc để đỡ cả thân người, bốn chân thẳng to, gân guốc. Hai chân trước cách xa nhau, thẳng. Bàn chân thẳng, ngắn, vừa phải. Hai đùi sau to dài, bàn chân sau xuôi, ngắn. Bốn móng rất cứng, khít tròn, đen bóng và chắc chắn. Đuôi trâu to, dài, phần đuôi có túm lông lúc nào cũng phe phẩy để đuổi ruồi, muỗi. Da trâu hơi mỏng nhưng bóng láng, màu xám đen. Lông đen, cứng, sát vào da giúp điều hòa nhiệt độ trong những trưa hè oi bức ở vùng nhiệt đới. Nhìn chung, trâu có thân hình khỏe khoắn, thích hợp với công việc đồng áng cực nhọc.

       Nhờ có sức khỏe tốt, trâu có thể làm việc cả ngày từ sáng sớm đến chiều tối. Một con trâu trung bình có thể kéo được 3 – 4 sào ruộng. Trâu cũng có khả năng chịu đựng thời tiết cao. Dù phải cày dưới nắng gắt hay mưa tuôn, trâu vẫn kiên trì cùng người nông dân đội nắng, gió để cày cho mảnh ruộng được tốt tươi.
       Để nuôi trâu cũng không khó lắm. Đối với một con trâu cày từ sáng đến chiều thì nên cho ăn ba bữa chính: sáng sớm, trưa, tối. Cỏ là thức ăn chính của trâu nên vào mùa xuân hạ ta có thể tự tìm được dễ dàng trên đồi cỏ, hay bãi cỏ xanh tốt cho trâu ăn. Nhưng đối với những ngày đông rét mướt (nhất là ở Bắc Bộ) nhiệt độ xuống tới 7 – 100C thì có không thể mọc được. Cho nên, tốt nhất là ta phải dự trữ cỏ khô cho trâu bằng cách ủ xanh, lên men, không chỉ giữ cỏ tươi lâu mà còn bổ sung được hệ vi sinh cho đường ruột giúp hệ tiêu hóa của trâu được tốt hơn. Sau khi đi làm đồng về, ta không nên cho trâu ăn ngay mà để cho trâu nghỉ ngơi, tắm rửa sạch sẽ. Khoảng 30 phút sau khi nghỉ ngơi, ta cho trâu uống nước có pha muối (nồng độ nuối khoảng 10g trên 100kg trọng lượng trâu). Sau đó, ta mới cho trâu ăn. Hằng ngày, phải cung cấp đủ lượng nước cho trâu (40 lít nước/1con/1 ngày).
Muốn trâu luôn khỏe để làm việc cần phải có chế độ chăm sóc phù hợp. Sau mỗi buổi cày phải xoa bóp vai cày. Tắm mỗi ngày sau 30 phút làm việc để điều hòa nhiệt độ cơ thể của trâu. Trong một buổi cày, cần cho trâu nghỉ 3 – 5 lần, mỗi lần khoảng 20 – 30 phút, tránh để trâu làm việc không hiệu quả cao. Nếu cho trâu làm việc cả tuần thì phải để trâu nghỉ một ngày không nên để trâu làm việc quá nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe dẫn đến suy yếu. Quá trình làm việc mà thấy sức trâu sụt giảm thì phải để trâu nghỉ 3 – 5 ngày cho lại sức, bồi dưỡng thêm bằng cỏ tươi, cám cháo.

Thuyết minh một loài động vật hay vật nuôi ở quê em - mẫu 15

        Có hàng nghìn, hàng vạn loài bướm. Có nhiều giống bướm rất đẹp. Có không ít giống bướm làm hại cây trồng. Riêng con tằm, cũng là sâu của một loài bướm, được gọi là con ngài lại được con người nuôi nấng, chăm sóc, quý trọng.

        Ngài đẻ trứng, trứng nở thành sâu tằm. Sâu tằm ăn lá dâu, phải để nơi kín gió, phòng ruồi nhặng, thạch sùng,... Sau nhiều lần lột xác, sâu tằm lớn lên và làm kén. Khi tằm “ chín " bụng vàng óng căng tròn để chuẩn bị làm tổ, làm kén. Kén tằm hình trứng, bằng đốt ngón tay búp măng, dài độ l,5-2cm. Kén tằm là một cái tổ, một “cung cấm được bao bọc, được dệt bằng những sợi tơ, tơ ấy hình thành từ tuyến nước bọt. Tằm nhả chất nước bọt lỏng qua lỗ nhả tơ ở môi dưới. Tằm cứ nhả nước bọt và tự quây tròn; gặp không khí, nước bọt đông lại tạo thành tơ. Chỉ từ 24-36 giờ, tằm dệt xong kén, tằm lột xác lần nữa và hóa nhộng sau ba, bốn ngày. Nhờ có kén tơ, nhộng nằm ngủ và được bảo vệ tránh những điều kiện bất lợi trong môi trường. Chính thời điểm này, người nuôi tằm phải kịp thời ươm tơ, mới có tơ loại 1 để dệt lụa.

        Nhộng nằm ngủ trong kén, qua từ 7-10 ngày, nó biến thành con bướm, được gọi là con ngài; ngài cắn kén chui ra. Con ngài vỗ cánh rối rít. Ngài đực và ngài cái giao phối với nhau. Sau đó, ngài đực chết; ngài cái đẻ khoảng 500-1000 trứng, rồi chết theo. Trứng lại nở thành sâu tằm, và vòng đời lại tiếp tục. Vòng đời của con tằm chỉ độ 4-5 tuần (30-36 ngày).

        Cùng với nghề trồng bông dệt vải, nhân dân ta từ xa xưa đã biết trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Nhộng tằm là một thức ăn béo ngậy, giàu chất đạm, được nhiều người ưa thích. Ở Sơn Tây, ở Huế, ở Đại Lộc, Quảng Nam,... có nhiều làng nghề nuôi tằm, dệt lụa nổi tiếng. Thăng Long xưa có lụa Trúc Bạch. Làng Vạn Phúc có nghề dệt lụa nức tiếng gần xa.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 được xem nhiều nhất chọn lọc hay khác: