Top 40 Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn (hay, ngắn gọn)

Bài văn Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn hay nhất, ngắn gọn gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 9. Hi vọng với cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn này các bạn sẽ yêu thích và viết văn hay hơn.

Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 1

Lục Vân Tiên là một trong những truyện đặc sắc của tác giả Nguyễn Đình Chiểu. Tác phẩm nói về cuộc đời của nhân vật Lục Vân Tiên- một người người chính trực, văn võ song toàn với những đức tính tốt bụng và thật thà. Lục Vân tiên là tiêu biểu cho những người con miền Nam luôn giàu lòng nhân ái, do đó, chàng sau này đã có một kết quả hạnh phúc.

Sau đây là đoạn trích miêu tả cảnh Lục Vân tiên gặp nạn do bị Trịnh hâm hãm hại và được những người dân tốt bụng cứu giúp. Mở đầu  đoạn trích là phân cảnh Lục Vân Tiên bị Trịnh hâm hãm hại bởi hắn ganh ghét với những gì mà Lục Vân tiên có, hắn sợ chàng sẽ hơn mình rồi nhẫn tâm làm hại chàng mặc dù khi ấy chàng đã không còn khả năng đe dọa những bước tiến công danh của hắn. Cả  đoạn thơ là sự đối nghịch và nối bật của hai kiểu người, đó là thiện và ác. Qua đó, tác giả thể hiện sự khinh thường với những kẻ luôn ganh ghét người khác và nói lên những thiện cảm của mình đối với những con người tốt bụng.Đoạn đầu tiên là cảnh Lục vân tiên khi ấy đã bị mù sau khi về tang mẹ, lúc này chàng chỉ có một tiểu đồng bên người. Gặp được Trịnh Hâm, chàng  tưởng mình gặp được người giúp đỡ, ai ngờ vì kẻ tiểu nhân mà hắn đã trói tiểu đồng ở trong rừng rồi đẩy Vân tiên xuống nước.

“Đêm khuya lặng lẽ như tờ

Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay

Trong thuyền ai nấy kêu là

Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”

Nguyên nhân mà Trịnh Hâm hãm hại Lục vân tiên chính là bởi do hắn đố kị và ganh ghét trước tài năng của Vân Tiên. Dù khi ấy, Vân Tiên đã bị mù nhưng hắn vẫn không thể buông tha cho chàng. Tất cả những hành động của hắn chứng đỏ một điều hắn là một kẻ vô cùng ích kỉ và có lòng dạ cực kì độc ác.Hành động bất nhân bất nghĩa của hắn đã khiến cho Vân Tiên, một người đang bị mù lúc đó rơi vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn, vất vả. Nhưng thật may mắn, chàng đã được ông Ngư và gia đình của ông cứu giúp. Tác giả đã gọi là ông Ngư mà không phải là một cái tên riêng nào như thể hiện cho chúng ta rằng, trong cuộc sống này, không phải ai cũng là kẻ gian ác, có những người người vẫn rất tốt bụng mà đó không chỉ là một người mà là rất rất nhiều những con người như vậy.Cả gia đình ông Ngư tuy có cuộc sống vất vả, cả gia đình chỉ sống chung trên một chiếc thuyền nhỏ bé nhưng những nghĩa khí của những con người ấy thì hơn hẳn bất kì ai. Họ luôn giàu lòng thương yêu con người và có những làm những việc thiện mà không hề trông chờ vào sự đền đáp của bất kì một ai cả.

“Hối con vầy lửa một giờ

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”

Chỉ với hai câu thơ nhưng hình ảnh giản dị mà chan chứa tình cảm thương yêu con người của gia đình ông Ngư đã hiện lên một cách rõ nét trong lòng người đọc. Đó là những con người với những tấm lòng cao cả, không quản ngại khó khăn vất vả chỉ mong cho những người bị nạn có thể cố gắng vượt qua sóng gió.

“Nay đà trôi nổi đến đây

Không chỉ báo đáp mình nầy trơ trơ

Thì Ngư ông lại đáp luôn

Ngư rằng:” Lòng lão chẳng mơ”

Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn”

Với những lời lẽ bộ trực, khảng khái, đó chính là cách ứng xả và nói chuyện của những người dân Nam Bộ, luôn thẳng thắn vì biết hi sinh vì người khác. Và cũng nhờ có Ông mà Vân tiên mới có thể thoát khỏi những khó khăn trong lúc bản thân mình yếu ớt nhất. Qua đoạn trích, chúng ta đã thấy được hai bộ mặt của hai con người, là sự đối đầu giữa thiện và ác. Những con người ấy luôn sống đan xen giữa cuộc sống này, có những người xấu nhưng xùng không ít những người tốt bụng. Từ đo chúng ta phải có những bài học cho riêng mình. Mặt khác, bài thơ cũng đã thể hiện được cho chúng ta hình ảnh của những người dân Nam Bộ hiền lành, tốt bụng.

Dàn ý Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), là nhà thơ mù yêu nước của Nam Bộ.

- Giới thiệu đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn

+ Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai của truyện

+ Đoạn trích kể về việc Vân Tiên và Tiểu Đồng bị Trịnh Hâm hãm hại do đố kị, ghen ghét tài năng của Vân Tiên.

2. Thân bài 

- Tội ác của Trịnh Hâm

+ Hoàn cảnh của Lục Vân Tiên: tiền hết, mù lòa, bơ vơ nơi đất khách.

+ Trịnh Hâm mưu hại Vân Tiên dưới lớp vỏ “giúp đỡ”.

+ Nguyên nhân: tính đố kị, ganh ghét tài năng, lo cho con đường tiến thân của mình ngay từ khi mới gặp Vân Tiên.

+ Thái độ của Trịnh Hâm: so đo, tính toán, lo âu khi kết bạn với Vân Tiên, người được đánh giá là tài cao.

+ Dù biết Vân Tiên bị mù nhưng Trịnh Hâm vẫn ra tay hãm hại, chứng tỏ sự độc ác dường như đã ngấm vào máu thịt, trở thành bản chất con người hắn.

- Trịnh Hâm: độc ác, bất nhân, bất nghĩa.

- Việc làm nhân đức và nhân cách của Ngư Ông

+ Vân Tiên được Giao Long “dìu đỡ” và gặp được gia đình nhà Ngư Ông cứu sống.

+ Hành động: cả nhà nhốn nháo, hối hả lo chạy chữa để cứu sống Vân Tiên, mỗi người mỗi việc. Đó chính là tình cảm chân thành của gia đình Ngư Ông đối với người bị nạn.

- Khi biết được tình cảnh của Vân Tiên:

+ Ông Ngư sẵn sàng cưu mang chàng.

+ Khi cứu mạng không cần đền đáp.

+ Tấm lòng bao dung, vị tha, hào hiệp của ông Ngư đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen, độc ác của Trịnh Hâm.

+ Cuộc sống của gia đình Ngư Ông: cuộc sống không danh lợi “rày doi mai vịnh vui vầy”, tránh xa những tính toan nhỏ nhen, ích kỉ.

- Tác giả gửi gắm khát vọng, niềm tin vào cái thiện của người dân lao động. Lên án cái xấu, cái ác đang lấp sau những mũ cao, áo dài của bọn người có địa vị cao sang.

3. Kết bài

- Nội dung: 

+ Sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn.

+ Thể hiện thái độ quý trọng và niềm tin của tác giả với nhân dân lao động.

- Nghệ thuật: 

+ Tình tiết và diễn biến hành động hợp lí, nhanh gọn.

+ Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc.

+ Hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm, giàu cảm xúc.

Sơ đồ tư duy Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn

Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn

Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 2

Đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn một lần nữa cho thấy tư tưởng nhân nghĩa tỏa sáng trong Truyện Lục Vân Tiên và thể hiện niềm tin của nhà thơ mù đất Đồng Nai đối với nhân dân giữa thời loạn lạc.Nhân vật ông Ngư được nói đến trong đoạn thơ thật đẹp, tiêu biểu cho đạo lí của nhân dân ta: "Thương người như thể thương thân". Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho ông Ngư một tình cảm nồng hậu biết bao!

Trịnh Hâm là một kẻ độc ác, thâm hiểm, đố kị tài năng. Hắn đã lừa Vân Tiên lên thuyền (khi chàng đã mù) rồi đẩy xuống sông cho chết. Giữa "đêm khuya lặng lẽ như tờ", hắn đã "ra tuy" đẩy Vân Tiên xuống nước, thế nhưng hắn còn xảo quyệt, đạo đức giả cất "tiếng kêu trời” .  Đối lập với những con người độc ác ấy, những người cùng đi thuyền đã đau đớn kêu thương:

“Trong thuyền ai nấy kêu la,

Đều thương họ Lục, xót xa tấm lòng.”

Thái độ, tình cảm ấy biểu thị tình thương người của nhân dân ta như ca dao đã truyền lại: “Thấy người hoạn nạn thì thương…" Trời đất cũng không thể phụ một con người tốt đẹp như Vân Tiên. Giao long là một loài thủy quái cũng đã đến cứu người bị nạn:

“Vân Tiên mình lụy giữa dòng,

Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.”

Sự xuất hiện của giao long trong cảnh Vân Tiên gặp nạn tuy có tạo nên màu sắc huyền thoại của truyện thơ, nhưng đã làm nổi bật một sự thật cay đắng ở đời, đó đây có lúc con người còn ác độc hơn cả loài lang sói. Trong tình huống ấy, ông Ngư đã xuất hiện. Người bị nạn đã gặp được người nhân đức:

“Vừa may trời đã sáng ngày,

Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.”

Bốn chữ "vớt ngay lên bờ" thể hiện một tinh thần hối hả, khẩn trương, kịp thời cứu người chết đuối. Cả một gia đình xúm vào cứu chữa, săn sóc người bị nạn. Con thì "vầy lửa", đốt lửa lên, sưởi ấm người chết đuối. Hai vợ chồng, người thì "hơ bụng dạ” người thì "hơ mặt mày" cho Vân Tiên:

“Hối con vầy lửa một giờ,

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.”

"Hối" nghĩa là hối hả, giục giã, cách nói biểu cảm dân dã của người nông dân Nam Bộ. Trong văn cảnh, nó thể hiện sự lo lắng cho tính mệnh người bị nạn, biểu lộ tình thương người bao la của ông Ngư. Vân Tiên hồi tỉnh, ông Ngư đã ân cần "hỏi han", hết lời an ủi, chia sẻ nỗi đau buồn với người gặp nạn. Mặc dù nhà nghèo, nhưng ông Ngư đã chân tình mời Vân Tiên, một người mù lòa, đau khổ ở lại với gia đình ông, để được chăm sóc nuôi nấng:

“Ngư rằng: “Người ở cùng ta,

Hôm mai hẩm hút với già cho vui".”

Ở đời, có "một lời nói một đọi máu " (đọi: bát). Có "một câu nói một gói bạc”. Câu nói của ông Ngư là một tấm lòng vàng, chan chứa tình nhân đạo. Cuộc đời ông Ngư là cuộc đời của một con người "lánh đục tìm trong" xa lánh con đường danh lợi, coi trọng tình người, phấn đấu cho lí tưởng nhân nghĩa cao cả:

“Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,

Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn.

Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi chi sờn lòng đây".

Vân Tiên đánh cướp cứu dân, cứu Kiều Nguyệt Nga với ý thức: "Làm ơn há để  trông người trả ơn". Ông Ngư cũng vậy: "Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn". Những tấm lòng cao cả ấy đã gặp nhau, họ đã nêu cao tình nhân ái. Và đó cũng là cái lẽ đời: "ở hiền thì lại gặp hiền" như một nhà thơ đã nói.Ông Ngư ngoài tình nhân ái mênh mông còn có một tâm hồn thanh cao. Ông đã chan hòa, gắn bó với thiên nhiên. Sông dài biển rộng, trời cao là môi trường thảnh thơi, vui thú của ông. Suốt đêm ngày, năm tháng, ông đã lấy doi, vịnh, chích, đầm, lấy bầu trời, lấy Hàn Giang làm nơi vẫy vùng, tìm nguồn vui sống. Ông đã lấy gió và trăng, con thuyền và dòng sông làm bầu bạn. Ông đã lấy công việc chài lưới để sống cuộc đời thanh bạch. Ông Ngư là một con người tự do, thoát vòng danh lợi, thích nhàn. Câu thơ vang lên như một tuyên ngôn đẹp về lẽ sống của một nhà nho, một kẻ sĩ chân chính đang sống giữa thời loạn lạc:

“Rày doi, mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng.

(…) Thuyền nan một chiếc ở đời,

Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang.”

Đây là những câu thơ hay nhất, đậm đà nhất trong Truyện Lục Vân Tiên. Giọng thơ nhẹ nhàng, êm ái. Cảm hứng thiên nhiên trữ tình dào dạt tạo nên sắc điệu thẩm mĩ sáng giá, biểu hiện một cách tuyệt đẹp tâm hồn trong sáng, thanh cao và phong thái ung dung của ông Ngư.Cũng như ông Quán, ông Tiều, lão bà, tiểu đồng, nhân vật ông Ngư trong đoạn thơ này vừa là người lao động chất phác, nhân hậu, vừa là hình ảnh một nho sĩ bình dân coi thường danh lợi, giàu lòng nhân nghĩa, yêu tự do và thanh cao. Sống giữa thời loạn lạc, nhân vật ông Ngư cũng là nhân vật lí tưởng phát ngôn lẽ sống và tư tưởng nhân nghĩa của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Đẹp vậy thay một con người:

“Kinh luân đã sẵn trong tay,

Thung dung dưới thế, vui say trong trời.”

Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 3

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của Việt Nam thời kì trung đại với những tác phẩm có giá trị nhân văn cao cả. Truyên Lục Vân Tiên là tác phẩm tiêu biểu cho tư tưởng nhân đạo của nhà thơ. Đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn” nằm ở phần hai của tác phẩm thể hiện sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn qua đó tác giả bày tỏ tấm lòng ngợi ca đối với những con người nghèo khổ nhưng có nhân cách, tâm hồn thanh cao.Cái ác trong đoạn trích được tác giả xây dựng thông qua nhân vật Trịnh Hâm với những mưu mô, xảo quyệt, những toan tính thấp hèn, sự bất nhân bất nghĩa. Điều đó thể hiện qua hành động Trịnh Hâm hãm hại chính người bạn của mình là Lục Vân Tiên. Lúc này, Lục Vân Tiên đã rơi vào đường cùng nơi đất khách. Mẹ ở quê nhà thì mất, mắt thì bị mù, tiền lại bị cướp hết. Những tưởng sẽ được bạn giúp đỡ, nhưng không kẻ tiểu nhân ấy không những không giúp Vân Tiên mà còn mưu mô, toan tính hãm hại chàng:

“Đêm khuya lặng lẽ như tờ

…Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”

Vì sao Trịnh Hâm lại ra tay sát hại bạn mình trong lúc bạn đang cơn hoạn nạn như thế? Tất cả là vì lòng ganh ghét, đó kị với tài năng của Vân Tiên. Hắn đã chọn một thời điểm mà “người không biết, quỷ không hay” để hãm hại Vân Tiên. Đó là vào lúc “đêm khuya lặng lẽ như tờ”, khi mọi người đã chìm sâu trong giấc ngủ. Không gian hoang vắng lặn im lại còn mờ ảo “mịt mờ sương bay”. Cả thời gian và không gian đều thích hợp để hắn thực hiện âm mưu của mình. Hành động của Trinh Hâm rất dứt khoát “xô ngay xuống vời” khiến Vân Tiên bất ngờ không kịp kêu cứu. Lúc này bản chất bất giả nhân nghĩa của Trịnh Hâm lại được bộc lộ khi hắn “giả tiếng kêu trời” như để hợp thức hóa hành động của mình.Chỉ với tám dòng thơ ngăn ngủi nhưng tác giả đã bóc trần tâm địa độc ác, bất nhân bất nghĩa, mưu mô xảo quyệt của Trịnh Hâm. Với ngôn ngữ chân thực, tự nhiên, giàu sức biểu cảm đoạn thơ như một câu chuyện với đầy đủ nhân vật, diễn biến và tình huống. Người đọc càng thương Vân Tiên bao nhiêu thì lại càng thêm căm ghét tên Trịnh Hâm nham hiểm bấy nhiêu.Đối lập với cái ác của Trịnh Hâm là cái thiện của ông Ngư và gia đình ông. Cái Thiện được biểu hiện ngời sáng qua việc làm, lời nói và nhân cách cao cả của ông Ngư. Khi thấy Vân Tiên bị nạn ông đã chẳng mảy may suy nghĩ ra tay cứu giúp, sau đó:

“Hối con vầy lửa một giờ

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày”

Những hành động gấp gáp, khẩn trương. Việc làm của gia đình ông Ngư xuất phát tấm lòng nhân nghĩa dù không biết người gặp nạn là ai. Sau khi nghe Vân Tiên kể về hoàn cảnh của mình, ông Ngư thương chàng và sẵn sàng mời chàng ở lại cùng gia đình dù cuộc sống của gia đình ông cũng chẳng khá giả gì. Trái tim của ông Ngư thật nhân hậu biết bao! .Được gia đình ông Ngư cứu giúp, Vân Tiên cảm động và không biết lấy gì đền đáp thì câu nói của ông Ngư một lần nữa cho thấy nhân cách cao cả của ông:

“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”

Câu thơ thể hiện một quan điểm, một triết lí sống đẹp của ông Ngư: làm việc nhân nghĩa ở đời thì không mong được trả ơn. Cái thiện ở đây còn được biểu hiện qua cuộc sống thanh bần của ông Ngư:

“Nước trong rửa ruột sạch trơn

…Tắm mưa trải gió trong vời Hàn Giang”

Một cuộc sống tự do, tự tại, hòa hợp với thiên nhiên, sông, nước, gió, trăng của một người lao động nghèo. Ông Ngư đã từ bỏ mọi danh lợi viển vông để tìm về với cuộc sống an nhàn, để gắn bó với thiên nhiên bao la, đất trời rộng lớn. Cuộc sống của ông Ngư ngoài vòng danh lợi, chính vì thế mà tấm lòng ông Ngư trong sáng như sao. Hình ảnh chiếc thuyền nan nhỏ bế, mỏng manh trôi nổi giữa dòng nước bao la mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời của ông Ngư cũng giống như chiếc thuyền nan ấy. Nhân cách thanh cao của ông sẽ chẳng thể nào bị vấy bẩn bởi cái vòng danh lợi cuộc đời.

Qua đoạn trích “ Lục Vân Tiên gặp nạn” tác giả thể hiện sự đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Tác giả bày tỏ sự căm ghét với con người nham hiểm, độc ác như Trịnh Hâm và ca ngợi tấm lòng cao đẹp, nhân cách thanh cao của những người lao động nghèo như ông Ngư. Đoạn trích cũng cho thấy sự tinh tế trong việc xây dựng cốt truyện, nhân vật, tình huống của Nguyễn Đình Chiểu.

Cảm nhận đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn – mẫu 4

Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai của truyện, kể về Vân Tiên sau khi nghe tin mẹ mất đã bỏ khoa thi, cùng tiểu đồng vội vã trở lại quê nhà để chịu tang. Đang bơ vơ nơi đất khách thì hai người lại gặp Trịnh Hâm ở phần đầu tác phẩm, tác giả kể rằng khi Trịnh Hậm và Bùi Kiệm đến trước trường thi, gặp Vân Tiên và Tử Trực liền kết bạn và cùng nhau vào một quán rượu xướng hoạ thơ phú. Thấy Vân Tiên tài cao, xuất khẩu thành thơ, Trịnh Hâm lo lắng không yên:

“Kiệm, Hâm là đứa so đo,

Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.

Khoa này Tiên ắt đầu công,

Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.”

Lòng ganh ghét, đố kị đó đã biến Trịnh Hầm thành một kẻ độc ác, nhẫn tâm, ngay cả khi Vân Tiên không còn khả năng đe dọa bước đường công đanh của hắn. Nói như nhà nghiên cứu Hoài Thanh: Mối oán thù nhân một câu chuyện gọi bằng văn chương trong tâm địa của một tiểu nhân đã dẫn đến những chuyện không ngờ.

Đoạn thơ Lục Vân Tiên gặp nạn thể hiện sự đối lập giữa thiện và ác, giữa nhân cách cao cả và những toan tính thấp hèn; đồng thời thể hiện thiện cảm của tác giả đối với những người nghèo mà giàu lòng nhân ái.Bố cục đoạn trích chia làm hai phần: Tám câu thơ đầu là hành động tội ác của Trịnh Hâm. Phần sau miêu tả việc làm nhân đức, cuộc sống trong sạch và nhân cách cao cả của ông Ngư.Ngoài Lục Vân Tiên là nhân vật chính còn có hai nhân vật phụ là Trịnh Hâm, tiêu biểu cho kẻ ác và ông Ngư tiêu biểu cho người thiện: Cuộc chiến đấu giữa cái thiện và cái ác diễn ra không mạnh mẽ như ở đoạn Lục Vân Tiên đánh cướp mà nhẹ nhàng, thấm thía, đẹp như trong truyện cổ, vẻ đẹp của cái thiện toả ra từ nhân vật ông Ngư, với cuộc sống an bần lạc đạo: Thuyền nan một chiếc ở đời…Lúc này, dường như thầy trò Vân Tiên lâm vào bước đường cùng nơi đất khách. Tiền thì hết, mắt đã mù. Gặp lại Trịnh Hâm, Vân Tiên mừng vì tưởng được giúp đỡ, nhất là khi nghe hắn hứa sẽ đưa về tận nhà. Không ngờ Trịnh Hâm lừa Tiểu Đồng vào rừng, trói vào gốc cây. Sau đó, hắn nói dối Vân Tiên là Tiểu Đồng đã bị cọp vồ. Vân Tiên chi còn trơ trọi một mình.. Lúc này, kẻ tiểu nhân mới thực hiện hành vi tàn độc:

“Đêm khuya lặng lẽ như tờ,

Nghinh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.

Trong thuyền ai nấy kêu la,

Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.”

Vì sao Trịnh Hâm cố tình hãm hại Vân Tiên? Nguyên nhần do hắn đố kị, ganh ghét trước tài năng của Vân Tiên và lo cho con đường tiến thân của mình bị người khác cản lối. Khi mối lo đó không còn vì Vân Tiên đã mù nhưng hắn vẫn tìm cách hãm hại, chứng tỏ sự ác độc dường như đã thấm vào máu thịt hắn, đã trở thành bản chất cua hắn. Cái ác không có giới hạn, kẻ ác không bao giờ chùn tay.

Hành động của Trịnh Hâm vừa bất nhân, vừa bất nghĩa. Độc ác, bất nhân vì hắn đang tâm hâm hại một con người tội nghiệp trong cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa, không có khả năng tự vệ. Bất nghĩa vì Vân Tiên từng coi hắn là bạn, từng trà rượu, xướng họa thơ phú cùng nhau, Vân Tiên cũng đã có lời nhờ cậy: Tiên rằng: tình trước ngãi sau, Có thương xin khá giúp nhau phen nầy và hắn cũng từng hứa hẹn: Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.Hành động độc ác của Trịnh Hâm được hắn mưu tính, sắp xếp khá kĩ lưỡng. Thời gian gây tội ác là Đêm khuya lặng lẽ như tờ, khi mọi người đã ngủ yên. Giữa trời nước mênh mông mịt mờ sương bay, Vân Tiên bị xô ngay xuống vời, hoàn toàn bất ngờ, không kịp kêu lên một tiếng. Đến lúc biết là không ai có thể cứu được Vân Tiên thì Trịnh Hâm mới giả tiếng kêu trời, rồi kể lể bịa đặt để che lấp tội ác của mình. Kẻ tội phạm gian ngoan, xảo quyệt đã phủi sạch tay mà không mảy may cắn rứt lương tâm.

Chỉ qua tám dòng thơ, tác giả đã miêu tả tội ác tày trời và bóc trần tâm địa của một kẻ bất nghĩa, bất nhân. Đoạn thơ giống như một câu chuyện với đầy đủ nhân vật, tình huống, diễn biến và được kể bằng ngôn ngừ chân thực, tự nhiên, gây xúc động mạnh. Người đọc, người nghe càng thương Vân Tiên bao nhiêu thì càng căm ghét gã Trịnh Hâm nham hiểm bấy nhiêu!Trái với hình ảnh Trịnh Hâm tiêu biểu cho cái ác là hình ảnh ông Ngư và gia đình ông tiêu biểu cho cái thiện. Cả gia đình vất vả trên một chiếc thuyền nan nhỏ bé nhưng nhân cách và quan niệm sống của họ mới rộng lớn, cao cả làm sao! Đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen độc ác của Trịnh Hâm là tấm lòng nhân ái, hào hiệp của ông Ngư. Sau khi cứu sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khó của chàng, ông sẵn lòng giúp đỡ, chia sẻ cuộc sống đói nghèo hẩm hiu tương rau nhưng đầm ấm tình người. Ông cứu người mà chẳng hề tính toán: Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn. Cái Thiện được biểu hiện trọn vẹn và ngời sáng qua việc làm nhân đức và tính cách cao cả của ông Ngư. Trời vừa sáng, thấy người bị nạn, ông Ngư nhanh nhẹn vớt ngay lên bờ rồi:

“Hối con vầy lửa một giờ,

Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.”

Sự việc được kế lại ngắn gọn nhưng thể hiện được mối chân tình của gia đình ông Ngư đối với chàng trai họ Lục.Cả gia đình ông lão mỗi người một việc, lo cứu sống người. Không cần biết nạn nhân đó là ái, cứ thấy bị nạn là cứu, thấy việc nghĩa là làm. Đó là bản chất cao quý của những con người lao động nghèo khó, lương thiện. Khi Lục Vân Tiên tỉnh dậy, xúc động kể lại sự tình và bày tỏ lòng biết ơn:

“Nay đà trôi nổi đến đây,

Không chi báo đáp mình nầy tra trơ.

thì Ngư ông đáp luôn:

Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,

Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.”

Lời lẽ của ông Ngư bộc trực, khảng khái, đúng là cung cách và giọng điệu của người dân Nam Bộ, nghe thấm thía vô cùng. Ông không hề có ý nghĩ làm ơn sẽ được đền đáp bằng tiền bạc, của cải. Ông chỉ dốc lòng nhân nghĩa, cứu người gặp nạn. Hành động và lời nói của ông Ngư thật hào hiệp, vô tư. Nghe Vân Tiên kể về tình cảm éo le, đau khổ của chàng, ông lão thương đứt ruột, hành động cứu người của ông tuy lặng lẽ, âm thầm nhưng có ý nghĩa lớn lao. Ông đã giúp Lục Vân Tiên thoát khỏi bàn tay tàn độc của Trịnh Hâm. Trái tim nhân hậu của ông Ngư thật đáng kính trọng biết bao!Cái thiện còn được biểu hiển qua cuộc sống thanh bần của ông Ngư. Quan điểm của ông Ngư về cuộc sống của mình cũng chính là những ước mơ của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi ô trọc; một cuộc sống phóng khoáng giữa trời cao đất rộng, bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sông nước, gió trăng… Con người tự do, tự tại nên tâm hồn vui vẻ, nhân hậu, khác xa với những kẻ sống trong những toan tính nhỏ nhen, ích kỉ, mưu danh, trục lợi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức, nhân nghĩa…Trên chiếc thuyền nan bé nhỏ, mong manh ấy, ông Ngư đã sống cuộc sống thật ý nghĩa. Ngỡ như không phải ông nói, mà là đang ngân nga cất tiếng hát ca ngợi lối sống thanh cao của những bậc chính nhân quân tử trọng nghĩa khinh tài. Trong âm thanh, nhịp điệu của lời thơ nghe như có tiếng phách, tiếng đàn thong thả đệm theo lời ông già Nam Bộ hát Vân Tiên. Hát rằng:

“Nước trong rửa ruột sạch trơn,

Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.

Rày doi mai vịnh vui vầy,

Ngày kia hứng gió đêm nầy chơi trăng…”

Đây là một trong những đoạn thơ hay của tác phẩm. Ý thơ phóng khoáng, sâu xa, lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp và gợi cảm. Vũ trụ bao la, thiên nhiên tuyệt mĩ với những doi, vịnh, chích, đầm, bầu trời, mặt đất, gió trăng… Con người hòa nhập trong cảnh đẹp ấy không chút cách biệt: hứng gió, chơi trăng, tắm mưa, chải gió… Tác giả sử đụng rất nhiều từ miêu tả trạng thái tâm hồn thanh thản của ông Ngư; vui vầy, thong thả, nghêu ngao, vui thầm, thung dung, vui say… Tưởng như chính nhà thơ đang nhập thân vào nhân vật để nói lên khát vọng sống và niềm tin yêu cuộc đời của mình. Rũ bỏ mọi danh lợi, tìm về với sông nước đề rửa ruột sạch trơn, tấm lòng ông Ngư trong sáng như sao. Nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh…, ông Ngư đã chọn được một phong cách sống thật phóng khoáng, tự do. Gia đình, nhà cửa, cả thân xác lẫn tâm hồn như đã hoà làm một với biển trời, sông nước. Cặp từ hứng gió, chơi trăng phác hoạ hình ảnh con người lao động nhưng lại có tâm hồn bay bổng, mơ mộng của một thi nhân. Mơ mộng nhưng cũng rất chủ động, ung dung:

“Một mình thong thả làm ăn

Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.”

Câu thờ ngắt nhịp 2/2/2 (dòng lục) và 4/4 (dòng bát) như những mái chèo khỏa nước lúc nhặt lúc khoan, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ. Cuộc sống tự đo của ông Ngư hạnh phúc biết bao, vui sướng biết bao!Trò chuyện với Lục Vân Tiên, ba lần ông Ngư nói đến chữ vui: vui vầy, vui thầm rồi vui say. Lúc nào cũng vui, càng lúc càng vui. Đi đây đi đó, ra khơi vào vịnh, gặp bè gặp bạn thì vui vầy. Giừa trời đất thanh vắng, chỉ có một mình vẫn vui thầm. Ý thức sâu sắc về lối sống đúng đắn của mình trong trời đất, giữa thế gian này là động lực đế ông vui say, nghĩa là lạc quan hơn, yêu sự sống hơn, đắm say, mơ mộng hơn. Càng về cuối, khúc hát cuộc đời của ông Ngư càng bay bổng. Men rượu đă ngấm, hồn thơ cất cánh, ông Ngư đã hoá thành triết gia, thành nghệ sĩ:

“Kính luân đã sẵn trong tay

Thung dung dưới thế vui say trong trời

Thuyền non một chiếc ở đời, .

Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang.”

Chiếc thuyền nan nhỏ bé, mỏng manh trôi nổi giữa sông dài biển rộng mà không sợ đắm chìm. Cuộc đời ông Ngư gắn liền với chiếc thuyền nan ấy. Hình ảnh chiếc thuyền nan cũng như hình tượng nhân vật ông Ngư được Nguyễn Đình Chiểu xây dựng nên từ sự thăng hoa của cảm hứng lãng mạn. Dường như nhà thơ đả nhập thân vào nhân vật, vừa kể chuyện, ngợi ca, vừa giãi bày tất cả những suy nghĩ, quan điểm, cảm xúc của mình về cuộc sống, về cách sống. Đó là cuộc sống nhân nghĩa, cách sống thanh cao, trong sạch, cần cù lao động, tự chủ, tự tin, hoà hợp với đất trời. Cuối đoạn trích, âm điệu thơ càng dạt dào, sóng sánh như ánh trăng trải trên mặt nước, như mặt nước được mái chèo nhẹ nhàng khua động lung linh.

Trong văn chương thời trung đại, hình tượng Ngư – Tiều dường như đã được dùng để ám chỉ những ẩn sĩ muốn trốn tránh cuộc đời đen bạc, nhiễu nhương, tìm về với thiên nhiên trong sáng: Ôm tài giấu tiếng làm Tiều, làm Ngư (Ngư-Tiều y thuật vấn đáp).Nguyền Đình Chiểu rất quen thuộc với bút pháp ước lệ cổ điển, cho nên qua những lời nói của ông Ngư, ông Tiều, ta thấy bóng dáng của họ giống ẩn sĩ hơn là người lao động bình thường (Kinh luân đã sẵn trong tay). Tuy nhiên, cảm xúc của người đọc, người nghe đối với những nhân vật này không hoàn toàn là thế.Ông Ngư trong đoạn thơ này và ông Tiều trong đoạn thơ sau cùng có một cách nói giống nhau về cuộc sống của mình:

“Tiều rằng: vốn lão tình không,

Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.

...

Công hầu phú quý mặc ai,

Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày.”

Họ hiện diện giữa đời sống trong sạch, thanh thản, khinh ghét sự bạc đen, tráo trở, sự bạo ngược hung tàn và bao giờ cũng có mặt đúng lúc để cứu giúp người hoạn nạn với tấm lòng trọng nghĩa khinh tài: Xin tròn nhân ngãi còn hơn bạc vàng. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét: Với Đồ Chiểu, những người lao động ấy cũng là những người có tài, ghét đời ô trọc mai danh ẩn tích.Đọc truyện thơ Lục Vân Tiên, ngoài những con người trẻ tuổi biết sống hiếu, trung, tiết, nghĩa, chúng ta còn gặp những ông Quán, ông Tiều, ông Ngư – những tấm gương nhân nghĩa, tượng trưng cho bản chất tốt đẹp của người lao động và đạo lí truyền thống dân tộc. Ông Ngư – nhân vật đẹp nhất trong đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn phải chăng chính là một mảnh tâm hồn cửa nhà của Nguyền Đình Chiều?Đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn là kiểu kết cấu thông thường ở các truyện cổ dân gian. Ở đây, người tốt thường gặp hoạn nạn, bị hãm hại nhưng lại luôn được cứu giúp có khi là con người (ông Ngư), có khi là thần linh (giao long). Kiểu kết câu này còn được lặp lại ở một sô tình tiết khác, nhưng truyện vẫn không bị coi là nhàm chán. Bởi nó thế hiện niềm tin và ước mong của những con người bị áp bức, khó bề chống đỡ trong xã hội đầy rẫy áp bức, bất công. Niềm tin ấy xuất phát từ triết lí nhân sinh đã thành truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta bao đời nay: Ở hiền gặp Lành.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay, ngắn nhất khác: