15+ Cảm nhận Kiều ở lầu Ngưng Bích (điểm cao)

Cảm nhận Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất, ngắn gọn gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 9 trên cả nước.

Bài giảng: Kiều ở lầu Ngưng Bích - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Cảm nhận Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 1

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc, ông đã đóng góp vào nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm văn học đặc sắc, độc đáo bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Nhiều tác phẩm của ông đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc mọi thế hệ và có lẽ để lại ấn tượng sâu sắc nhất chính là tác phẩm viết bằng chữ Nôm - "Truyện Kiều" (Đoạn trường tân thanh). "Truyện Kiều" hấp dẫn người đọc bởi nội dung hấp dẫn, nghệ thuật độc đáo và đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích", trích từ câu 1033 đến 1054 là một trong số những đoạn trích tiêu biểu của tác phẩm.Trước hết, đoạn trích đã thể hiện rõ nét cảnh ngộ và nỗi niềm tâm sự đau thương của Thúy Kiều ở chốn lầu Ngưng Bích.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Hai chữ "khóa xuân" được tác giả sử dụng thật tài tình, chỉ với hai chữ ấy thôi nhưng đã đủ để khái quát được tình cảnh của Thúy Kiều. "Xuân" chính là tuổi trẻ của con người, của Kiều và để rồi từ đó cho ta thấy "khóa xuân" chính là đang muốn nói đến tình cảnh đang bị giam lỏng, khóa chặt và chôn vùi tuổi trẻ của mình. Đặc biệt, trong những câu thơ tiếp theo đã vẽ nên một không gian, cảnh sắc hoang vắng, lạnh lẽo - dãy núi ở xa, bốn bề không gian mênh mông, rộng lớn, những cồn cát tiếp những bụi hồng trải dài ra xa. Đặc biệt, sự hoang vắng của cảnh vật, không gian còn được thể hiện qua việc tác giả sử dụng nghệ thuật tương phản, đối lập "non xa" - "trăng gần" cùng việc sử dụng từ láy "bát ngát" làm cho không gian như càng thêm mênh mông, rộng lớn. Và để rồi, trước không gian mênh mông, rộng lớn ấy, trong Thúy Kiều ùa về bao nỗi niềm đau thương cho cảnh ngộ, số phận của mình.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Chỉ với hai câu thơ nhưng tác giả đã lột tả một cách chân thực và rõ nét nỗi niềm tâm trạng của Thúy Kiều. Với việc sử dụng cụm từ "mây sớm đèn khuya" gợi sự tuần hoàn, lặp đi lặp lại cùng từ "bẽ bàng" ở đầu câu đã diễn tả sự buồn tủi, tuyệt vọng, cô đơn, chán chường của Kiều. Không dừng lại ở đó, nỗi niềm của Thúy Kiều, sự chua xót, buồn đau càng được thể hiện rõ nét qua câu thơ "nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng". Dường như chỉ có cảnh vật mới có thể chứng kiến, cảm nhận và thấu hiểu hết những nỗi đau của Kiều.Không chỉ diễn tả nỗi đau thương về cảnh ngộ, thân phận của mình, đoạn trích còn thể hiện nỗi nhớ Kim Trọng và nỗi nhớ cha mẹ của Thúy Kiều. Nỗi nhớ thương chàng Kim của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét qua những câu thơ tiếp theo.

Chữ "tưởng" đặt ở đầu câu thơ dường như đã làm cho nỗi lòng của Thúy Kiều thêm đau đáu, nàng như đang hồi tưởng, tưởng tượng và nhớ lại những ngày tháng hẹn thề, hạnh phúc cùng chàng Kim. Nàng nhớ tới cảnh nàng cùng Kim Trọng uống rượu thề nguyền dưới ánh trăng và nàng còn nghĩ tới hình ảnh Kim Trọng đang ngày đêm ngóng chờ tin tức của mình. Và để rồi, sau nỗi nhớ người yêu da diết ấy, nàng bỗng giật mình xót thương cho cảnh ngộ của mình ở hiện tại.

Bến trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Càng nhớ Kim Trọng, Kiều càng thương cho cảnh ngộ "bơ vơ" nơi "bến trời góc bể" và tủi phận cho mình. Động từ "gột rửa" đã cho chúng ta thấy cho thấy nỗi đau đến tột cùng của Thúy Kiều khi danh dự, phẩm giá của nàng đã bị hoen ố. Như vậy, qua những dòng thơ này đã cho chúng ta thấy được tâm trạng buồn nhớ người yêu đến tột cùng và nỗi tủi phận của Kiều.Cùng với đó, đoạn thơ còn thể hiện rõ nét nỗi nhớ thương cha mẹ của Thúy Kiều.

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm.

Nếu lúc nhớ về Kim Trọng, tác giả dùng từ "tưởng" để diễn tả nỗi niềm của Kiều thì khi diễn tả nỗi lòng của Kiều với cha mẹ tác giả đã thật khéo léo khi dùng động từ "xót". Kiều xót xa biết bao khi cha mẹ đã già mà vẫn phải ngày đêm tựa cửa ngóng chờ tin con. Đặc biệt, với việc sử dụng thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh" và điển tích "Sân Lai" tác giả đã cho thấy tấm lòng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ và nỗi lo lắng của nàng. Với tấm lòng của một người con hiếu thảo, Thúy Kiều nghĩ tới cảnh cha mẹ ở quê nhà giờ đây đã già mà không có ai chăm sóc. Như vậy, có thể thấy, Thúy Kiều mặc dù đã bán mình chuộc cha và em nhưng trong sâu thẳm tấm lòng mình nàng vẫn luôn nhớ thương, lo lắng và quan tâm cha mẹ. Nỗi nhớ thương người yêu và cha mẹ của Thúy Kiều thêm một lần nữa cho chúng ta thấy Kiều là một người tình thủy chung và là một người con hiếu thảo.Nếu những đoạn thơ trên cho chúng ta thấy nỗi nhớ thương người yêu và cha mẹ của Kiều thì trong những câu thơ còn lại của đoạn trích đã làm bật nổi tâm trạng cô đơn, buồn tủi của Thúy Kiều qua cách nhìn, cách cảm nhận về cảnh vật, thiên nhiên.

Điệp từ "buồn trông" được tác giả nhắc lại bốn lần như khắc sâu và làm bật nổi thêm nỗi niềm tâm trạng của Thúy Kiều. "Buồn trông" là buồn nhìn ra xa, để trông ngóng một điều gì đó nhưng xa xôi và vô vọng. Để rồi từ đấy, trong Kiều hiện lên bao nỗi buồn, dường như mỗi câu thơ đã gợi lên một nỗi buồn rất riêng. Đằng sau hai chữ "buồn trông" ấy, tác giả đã sử dụng hàng loạt hình ảnh thiên nhiên gợi lên nỗi niềm thân phận của Thúy Kiều. Đó là hình ảnh "thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa" gợi lên một hành trình lưu lạc nay đây, mai đó không có bến bờ. Là hình ảnh "ngọn nước mới sa", "hoa trôi man mác" gợi lên sự nhỏ bé, vô định giữa dòng đời nổi trôi, tấp nập. Là hình ảnh "nội cỏ rầu rầu" gợi nên cuộc sống vô vọng, buồn tủi kéo dài từ ngày này qua ngày khác. Và đặc biệt, với hình ảnh "gió cuốn mặt duềnh" cùng âm thanh "ầm ầm" của tiếng sóng dường như đã là một sự dự báo trước cho tương lai, số phận của Thúy Kiều với biết bao khó khăn, sóng gió ở phía trước. Như vậy, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tám câu thơ kết thúc đoạn trích đã diễn tả một cách sâu sắc và chính xác nỗi niềm tâm trạng buồn tủi, cô đơn của Thúy Kiều.

Tóm lại, đoạn trích "Kiều ở Lầu Ngưng Bích" với việc sử dụng hàng loạt điệp từ, từ láy, thành ngữ cùng các điển cố điển tích và bút pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã diễn tả một cách sâu sắc nỗi niềm tâm trạng của Thúy Kiều - nỗi nhớ thương người yêu, cha mẹ và nỗi buồn thương cùng dự đoán về tương lai lênh đênh, nổi trôi, khó khăn của chính mình.

Dàn ý Cảm nhận Kiều ở lầu Ngưng Bích

1. Mở bài

- Giới thiệu một vài nét về tác giả Nguyễn Du: đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, một cây bút xuất sắc của nền văn học

- Truyện Kiều là tác phẩm được coi là hồn dân tộc; đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” được trích từ Truyện Kiều, qua đoạn trích nhà thơ đã vô cùng tinh tế và sâu sắc khi diễn tả được tâm trạng của Thúy Kiều qua cảnh vật.

2. Thân bài

a. 6 câu thơ đầu: Hoàn cảnh cô đơn, tội nghiệp của Thúy Kiều

* 4 câu thơ đầu: bức họa về hoàn cảnh, không gian nơi Thúy Kiều ở

- Khung cảnh thiên nhiên được miêu tả là khung cảnh trước lầu Ngưng Bích qua điểm nhìn từ trên cao, từ tâm trạng của Kiều

- “Khóa xuân”: khóa kín tuổi xuân, ở nơi đây, con người đã chẳng còn mong chờ đến tuổi thanh xuân nữa

- “Non xa- trăng gần” đối nhau: tạo không gian xa rộng, nơi đây Kiều không có một người thân quen

- Tác giả sử dụng từ ghép “bốn bề” đứng cạnh từ láy “bát ngát” gợi không gian rộng lớn không một bóng người,

- Cảnh vật vốn có đường nét, màu sắc nhưng lại không đẹp, đã vậy còn gợi cảm giác cô đơn, rợn ngợp

- Ở đây tác giả sử dụng vô cùng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình.

* 2 câu thơ sau: Tình của Kiều

- Từ láy “bẽ bàng”: diễn tả nỗi xấu hổ tủi thẹn của Kiều, trong tâm trí nàng vẫn còn in đậm những sự việc vừa mới xảy ra: bị Mã Giám Sinh làm nhục, bị ép làm gái lầu xanh rồi giờ bị giam lỏng nơi đây

- Thành ngữ “mây sớm đèn khuya”: chỉ thời gian tuần hoàn khép kín, một mình Kiều nơi đây làm nổi bật nỗi bơ vơ

- So sánh “Nửa tình nửa cảnh như chia tâm lòng”: nỗi lòng Kiều như bị chia ra làm hai, nửa dành cho cảnh nửa dành cho tình

- Sáu câu thơ đầu được xây dựng bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tả cảnh hoang vắng quạnh hiu để khắc họa rõ tâm trạng cô đơn của Kiều

b. 8 câu thơ tiếp: Nỗi nhớ người yêu và cha mẹ của Kiều

* Nỗi nhớ người yêu (4 câu đầu)

- “Người dưới nguyệt chén đồng”: chỉ chàng Kim cùng lời thề nguyền đính ước

- Động từ “tưởng”: Kiều hồi tưởng lại những kỉ niệm đẹp bên Kim Trọng

- Hai động từ “trông, chờ” được tách ra đi kèm với các danh từ chỉ thời là “rày, mai”: Thúy Kiều lo chàng Kim cũng nhớ Kiều tha thiết

- Thành ngữ biến thể “bên trời góc bể”: gợi ra không gian quê người xa xôi, cách trở.

- Ẩn dụ “tấm son” kết hợp với câu hỏi tu từ “gột rửa bao giờ cho phai” tạo ra hai cách hiểu: thứ nhất tấm lòng Kiều không bao giờ quên được chàng Kim và thứ hai là tấm thân của Kiều đã bị làm nhục bao giờ mới gột rửa được.

- Sự thủy chung son sắt của Kiều với người yêu

* Nỗi nhớ cha mẹ (4 câu tiếp theo): Kiều nhớ thương cha mẹ:

- Động từ “xót” lại kết hợp với câu hỏi tư từ: thể hiện sự đau đớn của nàng khi nhớ về cha mẹ

- “Nắng mưa”: ẩn dụ thời gian trong tâm tưởng của Kiều khi xa gia đình

- Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”: làm nổi bật sự lo lắng của Kiều, rồi đây ai sẽ quạt cho cha mẹ ngủ khi oi nóng, ai sẽ ủ chăn ấm cho cha mẹ khi trời giá lạnh

⇒ Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy Kiều vẫn lo cho cha mẹ ⇒ một người con có hiếu

c. 8 câu thơ cuối: Tâm trạng đau buồn của Kiều và dự cảm trước tương lai sóng gió

* 2 câu đầu: Bức tranh cửa bể lúc hoàng hôn

- “Mênh mông cửa bể chiều hôm”: Giữa không gian bao la mênh mông Kiều cảm thấy nhớ quê hương, một nỗi buồn trào dâng da diết

- Hình ảnh “con thuyền” gợi sự cô đơn, Kiều đang nhớ gia đình, không biết bao giờ mới được trở về

- Nhìn cánh buồm lẻ loi trôi nỗi giữa sóng nước Kiều nghĩ đến thân phận mình cũng đang bị dòng đời đưa đẩy.

* 2 câu tiếp: Cảnh hoa trôi mặt nước

- “Buồn trông”: gợi âm điệu buồn mênh mang, nỗi buồn nhân lên khi nàng nhìn thấy cánh hoa trôi lênh đênh vô định

- Từ “trôi”: chỉ sự vận động nhưng ở thế bị động, nhũng cánh hoa trôi mặc sóng nước vùi dập như số phận Kiều cũng thế

* 2 câu tiếp: Cảnh nội cỏ rầu rầu

- Từ “rầu rầu” được nhân hóa chỉ màu sắc của cỏ ⇒ thiên nhiên như nhuốm màu tâm trạng ⇒ bút pháp tả cảnh ngụ tình

- Màu xanh nhợt nhạt héo hắt của cảnh vật chính là ẩn dụ cho tương lai mờ mịt vô vọng của Kiều

- Kiều tuyệt vọng, mất phương hướng, đây vừa là tâm trạng vừa là cảnh ngộ của Thúy Kiều

* 2 câu cuối: Cảnh giông bão sóng gió và niềm dự cảm tương lai

- Hình ảnh dữ dội xuất hiện: “gió cuốn mặt duyềnh”: ước lệ cho sóng gió cuộc đời đang bủa vây, cuốn lấy Kiều, những tai ương sắp ập đến đời nàng

- Nhân hóa “sóng kêu”: gợi hình dung Kiều chới với giữa cái bất tận sục sôi trong lòng Kiều và quanh Kiều

- “Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”: Trong lòng Kiều là tiếng sóng của buồn đau sợ hãi, dự cảm sóng gió dường như đang tiến đến rất gần Kiều

⇒ Câu thơ thể hiện dự cảm của Thúy Kiều về cuộc đời mình nhiều gian truân sóng gió.

3. Kết bài

- Khẳng định những giá trị nghệ thuật làm nên thành công của đọan trích: thể thơ lục bát cổ truyền, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tinh tế kết hợp các biện pháp tu từ quen thuộc, điệp ngữ “buồn trông”…

- Đoạn trích thể hiện tâm trạng buồn đau, cô đơn hiu quạnh trước khung cảnh thiên nhiên cùng bao nỗi nhớ ùa về trong lòng.

Sơ đồ tư duy Cảm nhận Kiều ở lầu Ngưng Bích

Cảm nhận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Cảm nhận Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 2

Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa, một đại thi hào của dân tộc ta. Ông đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam ta một kiệt tác của nền văn học trung đại - tác phẩm Truyện Kiều. Ngoài hai giá trị lớn và giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo, truyện Kiều còn rất thành công về mặt nghệ thuật. Chỉ xét riêng về nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật và bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sử bằng trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích miêu tả thành công cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Kiều.Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" nằm trong phần "Gia biến và lưu lạc". Đoạn thơ dài 22 câu, không chỉ biểu lộ tình cảm xót thương của Nguyễn Du đối với kiếp người bạc mệnh mà còn thể hiện bút pháp đặc sắc về tự sự, về tả cảnh ngụ tình với ngôn ngữ độc thoại nội tâm để biểu đạt nỗi lòng và tâm trạng của Kiều. Cảnh ngộ của Kiều ở lầu Ngưng Bích vô cùng cô đơn, buồn tủi:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.

Bốn bề bát ngát xa trông,

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Bằng nét bút tả cảnh ngụ tình điêu luyện, Nguyễn Du đã miêu tả thành công nội tâm của Kiều. Từ ngữ "khóa xuân" đã cho thấy tình cảnh Kiều lâm vào cảnh cá chậu chim lồng, bị giam lỏng nơi lầu cao, khóa kín tuổi xuân của nàng. "Khóa xuân" ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, giờ lại bị đầy vào chốn lầu xanh ô nhục. "Lầu Ngưng Bích" vốn là một nơi phong cảnh tuyệt đẹp, khung cảnh hữ tình, thơ mộng được mở ra cả ba chiều cao, xa và rộng qua các từ ngữ "non xa", "trăng gần", "cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia". Thế nhưng "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!", trong tình cảnh giam cầm Kiều khung cảnh thật buồn thảm, vắng lặng, nhìn trăng nàng chỉ thấy vầng trăng đơn côi, nhìn mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô lượng sóng bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm hoang vu, vắng lặng. Lầu Ngưng Bích chỉ là là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Trong cái không gian quẩn quanh "mây sớm đèn khuya" gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm tuổi xuân mơn mởn của tuyệt sắc giai nhân, sự sống của Kiều như bị những bàn tay tàn bạo bóp nghẹt. Từ đó khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy "bẽ bàng" chán ngán, buồn tủi, không ai chia sẻ nàng chỉ biết là bạn với mây, với đèn, với cảnh vật hoang vu, nhạt nhòa.

Những bài văn Phân tích đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất

Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, Kiều cảm thấy xa cách, hoang vắng, một mình một bóng bơ vơ, bị giam cầm cách biệt nơi đất khách quê người, xa quê hương, xa người yêu của mình:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng trước, đó là một nét bút đặc sắc, độc đáo và phù hợp với tâm lí, thể hiện tấm lòng chung thủy của Kiều. Các từ ngữ "tưởng", "trông", "chờ" trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm bật lên nỗi nhớ Kim Trọng khôn nguôi của nàng. Kiều càng nhớ về lời thề đôi lứa, lời hẹn ước trăm năm ở vườn Thúy lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề như còn đây mà nay mỗi người như mỗi ngả khiến nàng ân hận, xót xa như kẻ phụ tình. Nàng tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình, "rày trông mai chờ" uổng công vô ích khiến nàng càng thêm xót xa, càng thấp thỏm lo âu. Dù cho mỗi người một phương nhưng tình cản, tấm lòng son của nàng dành cho Kim Trọng là mãi mãi, không thể phai mờ. Càng nghĩ Kiều càng lo lắng, khiến nàng bật lên câu hỏi tu từ không biết trên bước đường trôi dạt nơi "bên trời góc bể", bao giờ nàng mới có thể gột rửa sạch những hoen ố của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại tình yêu của Kim Trọng dành cho nàng. Ở nơi lầu cao ấy, nàng cũng không nguôi nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ của mình:

Xót người tựa cửa hôm mai,

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Với ngôn ngữ độc thoại, kết hợp với lối viết cổ, tâm trạng ngổn ngang của Kiều hiện lên thật rõ nét. Các từ ngữ "hôm mai", "cách mấy nắng mưa" chỉ nỗi nhớ mong cha mẹ dài theo năm tháng của nàng. Kiều xót thương cha mẹ mình ngày đêm lo lắng, "tựa cửa hôm mai" mong ngóng tin nàng, sợ cha mẹ già yếu ở nhà, không ai chăm sóc, phụng dưỡng. Thành ngữ "quạt nồng ấp lạnh", cùng với điển tích "Sân Lai", "Gốc tử" đã nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ mình. Nàng lo sợ ở nơi quê hương, mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ của người con. Từ đó tấm lòng vị tha và hiếu thảo của Kiều đã hiện lên thật rõ nét. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích, lưu lạc nơi chân trời góc bể, Kiều là người đáng thương nhất. Thế nhưng với tâm hồn cao đẹp của mình, nàng luôn hi sinh bản thân, quên đi cảnh ngộ của bản thân để lo lắng, nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ của mình. Nỗi nhớ của Kiều rất thực và có chiều sâu, từ đó cho thấy Kiều là một đứa con hiếu thảo, một người tình thủy chung và là một con người giàu lòng vị tha.Tâm trạng buồn tủi của Kiều đã thể hiện rõ nét qua cảnh vật bên ngoài. Mỗi cảnh vật là một nét riêng nhưng đều diễn tả một khía cạnh trong tâm trạng của Kiều. Cánh buồm trên biển giữa mênh mông trời chiều hoàng hôn thật cô độc, lẻ loi:    

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Khung mở ra vào thời điểm chiều hôm, thời điểm của những lưu luyến khó tả. "Cửa bể chiều hôm" gợi trước mắt ta hình ảnh những tia nắng leo lắt cuối ngày phản chiếu lên mặt biển xanh thẳm rồi lan ngay ra không gian xung quanh, khiến mọi thứ nhuốm màu sẫm tối, có cái gì da diết như đêm luyến ngày, như niềm lưu luyến tha thiết của Kiều về ngày tháng êm đềm xưa kia. Các từ ngữ "thấp thoáng", "xa xa" gợi sự lẻ loi, đơn độc như chính niềm hi vọng mỏng manh, leo lét của Kiều. Một mình bơ vơ ở nơi đó, Kiều chỉ mòn mỏi nhớ về quê hương, nhớ về cha mẹ, chờ mong một con thuyền đến cứu, thế nhưng những chiếc thuyền ấy chỉ thấp thoáng ở xa rồi mất hút về phía chân trời. "Thuyền ai" lênh đênh rồi mất hút về phía chân trời xa như cuộc đời Kiều, chẳng biết đến bao giờ có thể về được quê nhà, báo hiếu cho cha mẹ.Ánh nhìn của Kiều vẫn ở mặt nước nhưng đã gần hơn:

Buồn trông ngọn nước mới sa,

 Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Cánh hoa mỏng manh, dập dìu trong dòng nước, bé nhỏ, chẳng thể nào chống chọi được sức của "ngọn nước mới sa" như chính thân phận nàng Kiều nhỏ bé trong dòng đời đẩy đưa. Thân phận Kiều giờ đây lạc lõng, lẻ loi, tả tơi trôi theo dòng đời vô định "biết là về đâu" như chính bông hoa kia. Nhìn cánh hoa bị vùi dập tả tơi ấy, nàng Kiều lại càng nhớ thương Kim Trọng, càng buồn tủi, xót xa vì số phận bèo dạt mây trôi, chẳng biết sẽ đi về nơi nao của mình. Không chỉ có mặt nước mênh mang chất chứa bao nỗi buồn mà cả cỏ cây cũng sầu thảm:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu,

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.

Ngược với cái tên xanh biếc hi vọng của "Ngưng Bích" sắc xanh nối tiếp của trời đất qua đôi mắt buồn tủi của Kiều trở nên thật sầu thảm. Từ láy "rầu rầu" gợi nên hình ảnh của một bãi cỏ tàn úa, xơ xác đến thảm thương. Xanh trời nối tiếp xanh đất tàn úa, héo hon, vô vị, tẻ nhạt như chính số phận bị giam lỏng trên lầu cao của Kiều. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều, tài sắc vẹn toàn của nàng rồi sẽ phai tàn, vô vị như màu xanh héo úa kia. Màu xanh vốn là màu của hi vọng nay đã tàn úa như chính niềm hi vọng đang cạn dần và nỗi xót xa, dằn vặt ngày càng dâng cao trong lòng Kiều. Quang cảnh đang im lặng, bỗng dậy sóng:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Âm thanh của tiếng sóng "ầm ầm" trong cảnh "gió cuốn mặt duềnh" như chính là những bão tố phong ba đang chờ Kiều ở phía trước. Nàng lo lắng không biết khi nào tai họa sẽ ập đến như tiếng sóng dồn dập ngoài xa. Tiếng sóng ầm ì như chính tiếng của tai họa sắp ập tới, những cạm bẫy của cuộc đời ập đến "kêu quanh ghế ngồi" khiến cho nàng Kiều sợ hãi.Điệp ngữ "buồn trông" đặt ở bốn đầu câu lục bát trong đoạn thơ như tiếng thở dài cùng với nhịp thơ chầm chậm và những thanh bằng đã nhấn mạnh nỗi buồn cứ càng lúc càng dâng lên mãi trong lòng Kiều cùng hòa với cảnh vật càng lúc càng mênh mang, vắng vẻ hơn. Những từ láy "xa xa", "thấp thoáng", "man mác", "rầu rầu", "xanh xanh", "ầm ầm" như những con sóng dằn vặt, buồn tủi dâng tràn trong lòng Kiều.Đoạn thơ "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong Truyện Kiều cũng như văn học trung đại Việt Nam. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm về Kiều, môt người tình chung thủy, một đứa con hiếu thảo và lòng một con người giàu lòng vị tha, khiến ta căm hận xã hội phong kiến bất công tàn bạo đưa đẩy con người tài hoa vào kiếp lầu xanh tủi hổ.

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn thơ miêu tả tinh tế nội tâm nhân vật kết hợp bút pháp tả cảnh ngụ tình điêu luyện đã làm nổi bật cảnh ngộ của Kiều và chứng tỏ được tài năng và trái tim biết sẻ chia, biết yêu thương của Nguyễn Du đối dành cho nhân vật và cho cuộc đời. Chính hồn thơ ấy, trái tim ấy đã đi vào tâm tưởng bao thế hệ, đưa chúng ta đến bao cảm xúc khác nhau, khiến ta chẳng thể nao quên như nghĩa tình đậm đà của nhà thơ Tố Hữu đối với đại thi hào này:

Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân,

Bâng khuâng nhớ cụ thương thân nàng Kiều.

Cảm nhận Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 3

Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một tác gia văn học tài hoa và lỗi lạc của văn học Việt Nam. Ông được mệnh danh là thi sĩ của các nhà thi sĩ. Truyện Kiều là một tác phẩm lớn nhất của Nguyễn Du là đỉnh cao chói lọi nhất của nghệ thuật thi ca. Đọc tác phẩm, chúng ta không thể quên được đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".

Sau bao biến cố khủng khiếp: tai bay vạ gió, cha và em bị tù tội, gia sản bị cướp hết, Kiều phải hi sinh chữ tình để báo hiếu với cha mẹ. Bị Mã giám Sinh lừa gạt bán vào lầu xanh của Tú Bà, Kiều tự tử nhưng không chết. Tú Bà dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích để kén chồng nhưng thật chất đó là cuộc giam lỏng, chờ cơ hội mụ sẽ bắt Kiều trở lại lầu xanh. Lầu Ngưng Bích chơi vơi giữa biển khơi là điểm dừng chân đầu tiên trên con đường lưu lạc đầy cay đắng và tủi nhục của Thúy Kiều. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là nỗi cô đơn buồn tủi, niềm nhớ thương da diết về quê hương gia đình và người thân của Kiều. Đó cũng là thể hiện tấm lòng thủy chung hiếu thảo của nàng.Trước hết với sáu câu thơ mở đầu của đoạn trích, là không gian nghệ thuật chứa đầy tâm trạng của Kiều. Trước mặt, là biển khơi từ trên lầu cao nàng cảm nhận được một không gian mênh mông rợn ngợp. Xa xa là dãy núi, hai bên bờ là cồn cát bụi mù bay. Chỉ có lầu Ngưng Bích đang giảm lòng một thân phận mỏng manh đơn côi. Đó là một không gian hoàn toàn khép kín. Một mình đối diện với "mây sớm đèn khuya". Khiến Kiều đau khổ đến tủi nhục bẽ bàng cho cái kiếp vô duyên lạc loài của mình:

"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng"

Không gian đã vậy thời gian cũng hoàn toàn khép kín khiến Kiều buồn tủi, lủi thủi một mình cô đơn đến tuyệt đối.Đến với tám câu thơ tiếp theo là tâm trạng nhớ thương da diết của Kiều về gia đình và người thân. Trước hết, Nguyễn Du để cho Kiều nhớ Kim Trọng (điều này khác hẳn với Thanh Tâm tài nhân). Nàng đã từng uống rượu ăn thề cùng Kim Trọng dưới ánh trăng nhưng rồi đã phải xót xa trao mối tình ngọt ngào ấy cho Thúy Vân. Trên đường về Lâm Tri theo Mã giám Sinh nàng vẫn thương cho Kim Trọng trong cô đơn buồn tủi: "Một trời thu để riêng ai một người". Giờ đây trong lúc mà thời gian cứ trôi đi Kiều nhớ Kim Trọng là tưởng nhớ tới lời thề đôi lứa:

"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai."

Những lời thề nguyền đâu còn nữa, cái cây cầu trần thế mà Kiều và Kim Trọng phải bước qua thật là éo le. Nàng tưởng tượng cái cảnh Kim Trọng đang hướng về mình, đêm ngày đau đáu chờ tin mà uổng công vô ích "Tin sương luống những dày trông mai chờ". Trong nỗi nhớ ấy người đọc nhận ra một tâm trạng xót xa đau đớn. Nàng tự hứa "Tấm son gột rửa bao giờ cho phai". Đó là tấm lòng thủy chung son sắt thề non ước biển của kẻ chung tình.Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích chi tiết, dễ hiểuTiếp đó, là Kiều nhớ tới cha mẹ. Nghĩ tới song thân Kiều vô cùng thương xót:

"Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?

Sân Lai cách mấy nắng mưa,

Có khi gốc tử đã vừa người ôm"

Nàng nghĩ tới cái cảnh cha mẹ ngồi tựa cửa ngóng con lúc sáng sớm hay buổi chiều tà. Vậy mà vẫn bặt vô âm tín. Nàng xót xa lúc cha mẹ già yếu không có ai chăm sóc phụng dưỡng chăm nom. Tâm trạng nhớ thương vời vợi cùng với nỗi xót xa thể hiện sâu sắc tấm lòng hiếu thảo của nàng. Rất nhiều từ ngữ lấy từ điển cố cùng với từ ngữ dân gian vừa nói được thời gian xa cách, vừa nói đến sự tàn phai khốc liệt của thiên nhiên đối với con người. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm, phong cách cổ điển hài hòa với phong cách dân tộc tạo nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi kịch, một cảnh ngộ đầy bi kịch của Kiều. Trong cảnh bình rơi trâm gãy Kiều là người đáng thương nhất nhưng nàng không nghĩ đến mình mà vẫn nhớ thương cha mẹ và người thân. Kiều thực sự là người tình thủy chung một người con hiếu thảo có tấm lòng vị tha đáng trân trọng.Tám câu cuối, là cảnh xế chiều cảnh vật dễ làm cho con người buồn thương da diết.

Mỗi biểu hiện của cảnh vật bên bờ biển lúc này đều thể hiện một tâm trạng và một cảnh ngộ đáng thương. Nhìn cánh buồm thấp thoáng giữa biển khơi rồi dần dần khuất bóng "càng trông" lại càng thấy buồn, nàng liên tưởng tới cuộc đời nho nhỏ bơ vơ trơ trọi trên đất khách. Nhìn những cánh hoa tàn nát trôi giữa dòng nước lũ. Nàng tự hỏi rồi nó sẽ trôi về đâu về phương trời nào mà hoàn toàn vô định. Cánh hoa ấy hay chính số phận chìm nổi không có nơi nào neo đậu của số phận nàng Kiều. Nhìn nội cỏ dầu dầu trong không gian bao la, cái màu sắc ảm đạm thê lương ấy phản chiếu một nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc. Cuộc sống như mất hết ý nghĩa như cái sắc cỏ úa tàn kia mất dần sự sống. Rồi "ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi" trận cuồng phong của biển cả bắt đầu nổi lên, gió to sóng lớn hay chính lòng đố kị ghen ghét của thiên nhiên đang bủa vây lấy nàng. Phải chăng đây là điều mà Nguyễn Du đã dự báo những tai họa khủng khiếp giáng xuống đầu nàng. Càng lo âu Kiều càng hãi hùng và ghê sợ. Cứ thế, từ nhìn đến nghe, "buồn trông" đến bốn lân trong một điệp ngữ.Tám câu thơ là một điệp khúc buồn được lặp lại qua sự thay đổi của từng cảnh vật. Cảnh được miêu tả từ xa đến gần, từ màu nhạt đến màu đậm, âm thanh từ tĩnh đến động nỗi buồn cũng từ "man mác" đến lo sợ hãi hùng Nguyễn Du đã từng kết luận:

"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"

Đoạn thơ sử dụng rất nhiều câu hỏi tu từ, các từ láy các thành ngữ, ngôn ngữ độc thoại nội tâm, âm hưởng trầm buồn tạo nên một không gian nghệ thuật và cảm xúc nghệ thuật.Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một trong những đoạn thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất Truyện Kiều. Ngòi bút của ông đi sâu vào từng ngõ ngách tâm tư sâu kín của nàng Kiều khiến người đọc thực sự rung động xót xa.Cảnh trong tình, tình trong cảnh cứ hòa quyện đan xen làm nổi bật chủ đề đoạn thơ. Bức tranh tâm trạng của người con gái họ Vương vì thế neo đậu mãi trong lòng người đọc.

Cảm nhận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 4 

Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí. Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:

Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguvễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.

Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Bên trời góc bể bơ vơ,

Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.

Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận: Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.Phân tích đoạn thơ Kiều ở lầu Ngưng Bích có dàn ý

Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuối cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

...

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng, xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.

Cảm nhận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 5 

Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết:

“Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc

Sắc tài sao mà lắm truân chuyên”

Hình tượng Thúy Kiều từ lâu đã bất diệt trong văn học bởi một người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng số phận hẩm hiu, bất hạnh. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đã khắc họa nội tâm của nàng Kiều khi bị giam lỏng nơi chốn lầu cao hoang vu.

Mở đầu đoạn trích là một khung cảnh ảo não nhuốm tâm trạng cô đơn, thê lương của con người:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung”

Hai chữ “khóa xuân” chứa đầy sự chua chát xót xa. Tuổi thanh xuân, tuổi trẻ đầy những cảm xúc, với mối tình Kim Trọng trong như sớm mai giờ đây đã trôi vào dĩ vãng, đã bị dập vùi nơi đất khách quê người, nơi đầy nhiễu nhương ô nhục. Kiều ở trên lầu cao đến mức núi thì xa mà trăng thì lại rất gần. Không gian như mở ra đến vô cùng vô tận:

“Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

Bên này là cồn cát vàng mênh mông hoang vắng, bên kia là những bụi hồng cuốn lên mù mịt. Bốn bề chỉ toàn cát bụi, núi trăng, cô tịch, não nùng!

Cảnh buồn vì người buồn hay cảnh buồn lại càng làm cho nàng Kiều thêm sầu? Để rỗi nàng tự thấy thân phận “bẽ bàng” đầy ê chề, đau đớn của mình khi bị lừa bán vào lầu xanh. “Mây sớm đèn khuya” gợi ra vòng thời gian tuần hoàn khép kín, gợi ra không khí tù đọng, ngột ngạt ở lầu Ngưng Bích. Câu thơ “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” khiến người đọc liên tưởng đến quy luật “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Bởi vậy tả cảnh mà hiện ra cả một thế giới tâm hồn của Kiều.

Trong cảnh lẻ loi, Thúy Kiều nhớ tới mối tình với chàng Kim, hồi tưởng lại đêm hai người thề nguyền đính ước dưới trăng. Chữ “tưởng” nghe sao mà xót xa, khi trở về với hiện tại thì mọi điều tốt đẹp đã tan biến, nàng lại tự băn khoăn, tự dằn vặt mình “tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”.

Nàng nhớ về gia đình về cha mẹ, tự hỏi hai em ở nhà có chăm sóc tốt cho đấng sinh thành không, liệu ai sẽ là người quạt mát cho cho cha mẹ những trưa hè oi bức, ủ ấm chăn cho cha mẹ nằm những ngày đông lạnh giá. Nguyễn Du đã để nàng Kiều nhớ về Kim Trọng, về chữ tình trước và chữ hiếu sau. Điều này ắt hẳn cũng có cái hợp tình hợp lý của đại thi hào.

Với gia đình, nàng đã bán mình chuộc cha và em, coi như phần nào đền đáp công ơn dưỡng dục còn với Kim Trọng, nàng là người đã phụ tấm lòng, phản bội lại lời thề. Sự tinh tế của Nguyễn Du khiến người đọc càng thêm trân trọng vẻ đẹp phẩm chất của nàng: vừa là một người tình nhất mực thủy chung, vừa là một người con hiếu thảo.

Tám câu cuối chính là những câu thơ đặc sắc nhất của đoạn trích, là khuôn vàng thước ngọc của lối thơ tả cảnh ngụ tình. Điệp từ “Buồn trông” vừa mở ra bốn bức tranh thiên nhiên khác nhau về thiên nhiên và số phận con người vừa nhấn mạnh nỗi buồn sâu đậm của người con gái kia. Nhìn cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển xa, vào lúc chiều hôm khi vạn vật tìm về bến đỗ càng tô đậm thêm nỗi nhớ nhà nhớ quê da diết.

Nhìn cánh hoa mỏng manh trôi man mác giữa ngọn nước mới sa tung bọt trắng xóa, nàng lại tự xót thương phận đời chìm nổi lênh đênh, bị vùi dập không thương tiếc. Câu hỏi tu từ “Biết là về đâu” là cả sự hoang mang vô định của Kiều về tương lai mịt mờ tăm tối. Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” từ chân mây đến mặt đất chỉ toàn một màu xanh xanh như gợi ra sư héo hon, tàn lụi. Bức tranh cuối đầy âm thanh và dữ dội “gió cuốn mặt duềnh”, “ầm ầm tiếng sóng” như báo trước phong ba bão táp còn đang đợi nàng ở phía trước.

Đọc đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, trái tim độc giả như cũng thổn thức theo từng nhịp tâm trạng của nàng Kiều và đồng cảm xót thương cho tình cảnh bất hạnh của nàng.

Cảm nhận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 6 

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh đa dạng, phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh. Khắc hoạ nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang nếm trải, dự báo sóng gió bão bùng mà nàng phải trải qua trong mười lăm năm lưu lạc thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.

Từ một thiếu nữ tài sắc sống trong cảnh êm đềm trướng rủ màn che, Kiều đã trở thành món hàng trong màn mua bán của Mã Giám Sinh và giờ đây nàng đang sống trong cô đơn, nhớ thương đau buồn, lo âu nơi lầu Ngưng Bích. Hai mươi hai câu thơ trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích đã thể hiện rõ bức tranh tâm cảnh của Kiều. Sống nơi lầu Ngưng Bích là Kiều sống trong sự cô đơn tuyệt đối:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
….
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, hai chữ khóa xuân đã nói lên điều đó. Khoá xuân ở đây không phải nói tới những cô gái còn cấm cung mà là sự mỉa mai, chua xót cho thân phận nàng Kiều. Nàng trơ trọi giữa thời gian mênh mông, không gian hoang vắng trong hoàn cảnh tha hương, cô đơn, tương lai mờ mịt. Trong khi những dư vị đau khổ vừa trải qua vẫn đang tấy đỏ, giờ Kiều lại bị đẩy vào chốn lầu xanh ô nhục.

Trong cảnh ngộ như thế, Kiều chỉ còn biết lắng nghe tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình. Tâm trạng Kiều trải ra theo cái nhìn cảnh vật. Nhìn lên trên là vầng trăng đơn côi, nhìn xuống mặt đất thì bên là cồn cát nhấp nhô gợn sóng, bên là bụi hồng cuốn xa hàng vạn dặm. Lầu Ngưng Bích là một chấm nhỏ giữa thiên nhiên trơ trọi, giữa mênh mang trời nước. Cái lầu cao ngất nghểu, trơ trọi ấy giam hãm một thân phận trơ trọi. Không một bóng người, không một sự chia sẻ, chỉ có một thiên nhiên câm lặng làm bạn.

Kiều chỉ có một mình để tâm sự, để đối diện với chính mình. Trong cái không gian rợn ngợp và thời gian dài dặc, quẩn quanh mây sớm đèn khuya gợi vòng tuần hoàn khép kín của thời gian, tất cả như giam hãm con người, như khắc sâu thêm nỗi đơn côi khiến Kiều càng thấy bẽ bàng chán nản, buồn tủi.

Sớm và khuya, ngày và đêm Kiều thui thủi một mình nơi đất khách quê người, nàng chỉ còn biết làm bạn với mây và đèn. Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, lòng Kiều dồn tới lớp lớp những nỗi niềm chua xót. Buồn vì cảnh hoang vu, rợn ngợp và buồn vì cái tình riêng khiến lòng nàng như bị chia xé: Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Nguyễn Du từ cảnh vật trước lầu Ngưng Bích đã nói lên những nỗi lòng của Thuý Kiều. Đó là sự cô đơn, vô vọng đến tuyệt đối và đó là những dư vị của bao tháng ngày gian khổ đang sưng tấy. Tạm quên đi những chia xé trong lòng, Kiều nhớ về những người thân:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.

Trái với những quy định phong kiến, Kiều nhớ về người yêu rồi mới nhớ cha mẹ. Trong lúc này, nỗi đau dứt tình người yêu như còn rớm máu, kỉ niệm như còn mới đây thôi. Hơn thế nữa Kiều lại bị Mã Giám Sinh làm nhục, sau đó bị đưa vào chốn lầu xanh nên nỗi đau lớn nhất của nàng lúc này là: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Chính bởi thế mà người đầu tiên nàng nghĩ tới là chàng Kim. Với cha mẹ, nàng đã hi sinh bán mình nên phần nào đã đáp đền được ơn sinh thành. Còn với Kim Trọng, nàng là kẻ phụ tình, lỗi hẹn. Trong tâm cảnh như thế, để Kiều nhớ chàng Kim trước là sự tinh tế của ngòi bút Nguyễn Du. Nhớ tới người yêu là nhớ tới đêm trăng thề nguyền. Vừa mới hôm nào, nàng cùng chàng uống chén rượu thề nguyền son sắc, một lòng cùng nhau một đời mà nay mối tình duyên đã chia lìa đột ngột.

Cảm nhận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 7 

Qua tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du đã gián tiếp miêu tả tâm trạng Kiều bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng ngoài biển xa mênh mông trong buổi chiều ta gợi lên không gian xa lắc của quê nhà và không khí tĩnh lặng, qua đó thể hiện rõ nỗi nhớ quê hương da diết trong lòng Kiều. Còn hình ảnh “hoa trôi man mác” là hình ảnh tả thực về những bông hoa trôi nổi, bấp bênh trên mặt nước, bị sóng biển vùi dập, xô đẩy, qua đó diễn tả tâm trạng buồn tủi và những dự cảm tinh tế về tương lai không biết sẽ đi đâu về đâu của Thúy Kiều?

Ôi cánh hoa mỏng manh như nâng Kiều đang ôm nỗi lo về số phận vô định trên dòng đời. Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” kéo dài đến tận “chân mây” vẫn chỉ một màu xanh đang héo úa ấy đã vẽ lên một cảnh tượng u ám, héo hắt, nó gợi cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn triền miên, vô vọng của Thúy Kiều.

Hai câu thơ cuối cùng tả cảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” gợi lên rất rõ cả hình ảnh, cả âm thanh của phong ba bão táp hung dữ sắp ập đến cuộc đời Kiều, khiến ta cảm thấy nỗi lo sợ hãi hùng trong lòng người con gái tài hóa trước bao tai họa ào ạt giáng xuống đời nàng. Thêm vào đó, Nguyễn Du còn dùng điệp ngữ “buồn trông” đặt ở đầu những câu thơ nhằm liên kết các hình ảnh trong cả đoạn thơ thành một chuỗi cảnh sầu thảm.

Hơn nữa, từ “buồn trông” mang hai thanh bằng lặp đi lặp lại bốn lần trong bốn cặp thơ lục bát tạo nên âm hưởng trầm, buồn diễn tả nỗi sầu như kéo dài dằng dặc của nhân vật. Tám câu thơ, bốn hình ảnh thiên nhiên, bốn điệp ngữ đã diễn tả thật phong phú, tinh tế mọi sắc thái nội tâm Thúy Kiều.

Cảm nhận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 8 

Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, cũng là người đã mang văn học của Việt Nam vươn xa ra thế giới qua tác phẩm Truyện Kiều. Tác phẩm là lời phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội phong kiến với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị, là tiếng kêu đau thương của những số phận bị áp bức trong thời kì ấy. Và thông qua đó, ta có thể thấy được lòng thương cảm, tình yêu thương con người sâu sắc của tác giả. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích hay nhất được trích từ tác phẩm này.

Đoạn trích nằm ở phần thứ hai “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi biết mình bị lừa vào chốn lầu xanh, Kiều uất ức định tự vẫn. Tú Bà sợ mất vốn, bèn lựa lời khuyên giải, cho người mua thuốc thang và hứa hẹn khi nàng bình phục, sẽ gả nàng cho một người đàn ông tốt nhưng thực chất là giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích, chờ thời cơ thực hiện âm mưu mới. Đoạn trích là những lời tự bộc bạch, là nỗi lòng cô đơn, buồn tủi của Kiều khi nhớ về người yêu, khi nghĩ về số phận đớn đau của đời mình.

Sáu câu thơ đầu gợi tả thiên nhiên nơi lầu Ngưng Bích với không gian và thời gian:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
…..
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng”

Khung cảnh thiên nhiên được nhìn dưới con mắt của Thúy Kiều. Lầu Ngưng Bích, nơi giam lỏng nàng chính là nơi khóa tuổi xuân của Kiều lại. Hai chữ “khóa xuân” mà Nguyễn Du dành cho Kiều sao mà đớn đau, buồn bã đến thế! Một mình nơi lầu Ngưng Bích bao la, rộng lớn, Kiều chỉ có đám mây cùng với ngọn đèn bầu bạn. Nghệ thuật đối lập: “non xa” – “trăng gần” gợi một không gian rợn ngợp, không một bóng người, chỉ có mình Kiều với nỗi cô đơn, trống trải.

Những cồn cát vàng gối đầu lên nhau, những bụi hồng ở xa kia dù biết Kiều đang chơi vơi, trơ trọi nhưng cũng không thể nào đến gần, bầu bạn với nàng được. Trước khung cảnh đượm buồn của buổi chiều tà, Kiều cảm thấy lòng mình như chia đôi, diễn tả nỗi chua xót, đau đớn của Kiều trong một vòng tuần hoàn khép kín của “mây sớm đèn khuya”. Ngày nào cũng như vậy, vẫn những cảnh vật đó không hề thay đổi, chỉ có lòng người ngày càng buồn hơn.

Chính trong hoàn cảnh cô đơn nơi đất khách quê người, Kiều càng thấy nhớ người yêu:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”

Nhớ người yêu, Kiều nhớ đến khi nàng cùng Kim Trọng uống chén rượu thề dưới ánh trăng, nguyện ở bên nhau đến trọn đời. Ấy vậy mà giờ đây, tất cả chỉ còn là quá khứ. Nàng không thể ở bên người mình yêu, cũng không thể cùng chàng thực hiện lời nguyện ước. Ở bên ngoài kia, Kim Trọng vẫn luôn chờ đợi nàng, chàng đâu hề hay biết lời hứa năm nào đã tan thành mây khói, mà vẫn ngóng trông tin tức về Thúy Kiều.

Càng thương Kim Trọng, Kiều càng đau xót cho thân phận của chính mình, bởi lẽ tấm lòng thủy chung, son sắt của nàng giờ không thể nào gột rửa được:

“Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Sau khi nhớ người yêu, nàng nhớ tới cha mẹ của mình:

“Xót người tựa cửa hôm mai
….
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Ở đây, người đọc có thể cảm thấy một điều vô lí, rằng tại sao Kiều lại nhớ đến người yêu trước khi nhớ về cha mẹ của nàng? Ta có thể hiểu được khi Kiều phải bán mình chuộc cha, hy sinh chữ “Tình” để làm tròn chữ “Hiếu” thì hẳn là ở đây, Kim Trọng là người đau đớn hơn cả. Do đó, Kiều nhớ tới Kim Trọng trước tiên, là áy náy, cảm thấy có lỗi đối với chàng.

Khi nhớ về cha mẹ, Nguyễn Du cho Kiều được thể hiện sự đau xót của nàng “Xót người tựa cửa hôm mai”. Kiều đau đớn bởi vì nàng không thể phụng dưỡng cha mẹ, chăm sóc cha mẹ khi về già. Ở nơi quê nhà, không biết đã có ai thay Kiều quạt cho cha mẹ những khi trời nóng, chăm sóc cha mẹ khi ốm đau hay chưa? Một loạt thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, “cách mấy nắng mưa” cùng điển cổ “Sân Lai”, “gốc tử” cho thấy tài năng tuyệt vời của tác giả.

Sau khi nhớ tới người thân, Kiều nghĩ về thân phận của mình. Tám câu thơ cuối là bức tranh thiên nhiên mang âm hưởng trầm buồn:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
….
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Điệp từ “buồn trông” được lặp lại bốn lần ở các câu thơ sáu chữ như trở thành điệp khúc, diễn tả nỗi buồn như đang dâng lên thành từng đợt, tạo thành con sóng lòng của Kiều. Nàng nhìn ra cửa bể, thấy thấp thoáng một bóng người bên cánh buồm của họ. Bóng người cô độc giữa non sông rộng lớn giống như sự đơn côi một mình của Kiều nơi lầu Ngưng Bích này.

Chỉ có điều, nếu Kiều phải ở mãi nơi đây một mình, chưa biết ngày mai, thì người ngư dân đó đang bận rộn trở về đoàn tụ với gia đình sau một ngày làm việc vất vả. Hướng tầm mắt lại gần, Kiều trông thấy những cánh hoa đang trôi dạt, như là lênh đênh, là vô định trước cuộc đời. Những cánh hoa kia y hệt như cuộc đời của Kiều vậy. Cảnh vật cũng như buồn hơn dưới con mắt của Kiều, nàng nhìn đâu đâu cũng thấy bóng dáng những sự vật đơn độc, lẻ loi…

Hai câu thơ cuối là tâm trạng hoang mang, lo lắng, là khi những đợt sóng lòng của nàng trở nên dữ dội hơn:

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Âm thanh của tiếng sóng dồn đến như cơn bão táp của nội tâm, là cực điểm cảm xúc trong lòng Kiều. Kiều sẽ phải làm gì với cuộc đời phía trước đây? Tám câu thơ cuối quả thực là tám câu thơ rất hay, mở ra một bức tranh thiên nhiên đối sóng với tâm trạng của Kiều, qua đó thấy được tài năng tả cảnh cũng như miêu tả tâm lí của nhà thơ.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” với đoạn mở đầu là bức tranh thiên nhiên, kế đến là lời độc thoại của nhân vật và kết thúc lại bằng một bức tranh thiên nhiên. Điệp khúc vòng cho thấy cái nét độc đáo trong cách làm thơ của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, đồng thời gieo vào lòng ta niềm thương cảm sâu sắc trước số phận của nhân vật Kiều.

Cảm nhận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 9 

Trong Truyện Kiều có nhiều đoạn thơ hay miêu tả nỗi cô đơn, nhớ nhà của Kiều, nhưng không đoạn nào thể hiện được tâm trạng bi đát, bế tắc, đơn côi như đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Sau khi biết mình bị bán vào lầu xanh, Kiều đã tự tử, nhưng không chết. Biết Kiều tính cách khẳng khái, cứng rắn, Tú Bà đã cho Kiều ở riêng trong lầu Ngưng Bích để thực hiện một âm mưu khác.

Trong thời gian này, sức khỏe của Kiều mới hồi phục trở lại, nhưng tình cảm lại hết sức cô đơn. Chết thì nàng đã không muốn chết nữa vì sợ bị lụy cho cha mẹ, nhưng sống thì sẽ sống như thế nào, một thân một mình ở nơi hoàn toàn xa lạ, tứ cố vô thân? Đây là đoạn thơ hay nổi tiếng của Truyện Kiều, cực tả nỗi lòng cô đơn, buồn thảm, bi đát đó của nàng Kiều.

Trước hết, Nguyễn Du miêu tả tình cảnh cô đơn của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích bằng cách vẽ ra khung cảnh xung quanh theo con mắt của Kiều:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
…..
Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng

Hai chữ “khóa xuân” rất đẹp nhưng nói lên thực chất Kiều bị giam lỏng. Câu “Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung” cũng rất đẹp, cực tả cảnh cô đơn của Kiều. Lầu Ngưng Bích cao quá, trơ trọi quá, Kiều như chỉ còn “ở chung” làm bạn với “vẻ non xa, tấm trăng gần” (gần trăng vì lầu quá cao). Một cảm giác trơ trọi, rợn ngợp, lơ lửng tràn ngập câu thơ. Nhìn ra xung quanh chỉ thấy một không gian bao la, xa vời: non xa, xa trông, cát vàng, cồn nọ, bụi hồng dặm kia, tịnh không một bóng cây, bóng nhà, bóng người.

Về thời gian, sớm làm bạn với mây, khuya làm bạn với đèn, thức ngủ một mình thui thủi triền miên, thật là bẽ bàng – ngao ngán và vô vọng. Nhưng nàng buồn về cảnh một phần, một phần khác buồn hơn là vì tình. Đó là hai nỗi buồn chia sẻ tâm hồn nàng.Thứ hai, nhà thơ cực tả nỗi lòng nhớ nhung, thương xót đối với người thân. Người đầu tiên được nhớ trong giờ phút cô quạnh ấy là Kim Trọng, người tình mà nàng đã nặng lòng thề hẹn:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ

Trong tâm trí nàng vẫn còn như in hình ảnh hai người cùng uống rượu thề nguyền dưới trăng: “Đinh ninh hai miệng một lời song song”. Kiều thương nhất là việc Kim Trọng vẫn chưa biết Kiều đã thuộc về người khác, vẫn đang ngày đêm trông chờ nàng một cách uổng công.Hết thương Kim Trọng, nàng lại thương mình:

Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

“Tấm son” đây là tấm lòng thủy chung, son sắt của Thuý Kiều đối với Kim Trọng. Nói bao giờ mới quên được mối tình có nghĩa là chẳng bao giờ quên được. Kế đến là nhớ thương cha mẹ già:

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt lồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

“Tựa cửa” là hình ảnh của ngóng trông. Nàng tưởng tượng cha mẹ đang tựa cửa ngóng trông nàng về. Và giờ đây ai là người “quạt nồng ấp lạnh” cho cha mẹ. Nàng cảm thấy thời gian xa nhà đã rất lâu: “Cách mấy nắng mưa”, và tưởng như thấy cha mẹ đã già (“có khi gốc tử đã vừa người ôm”). Hiển nhiên là Kiều cũng nhớ hai em, song chàng Kim và cha mẹ vẫn là mối tình cảm tha thiết nhất, gắn bó nhất.

Cuối cùng, Kiều nhìn đến cảnh trống trải, xa vắng mà nghĩ đến thân phận. Đây là những câu thơ réo rắt bậc nhất về nỗi buồn luôn lạc, bơ vơ. Mỗi câu như gợi lên một nỗi buồn thảm, hãi hùng lắng sâu trong vô thức:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
…..
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Tám câu thơ, mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn sâu thẳm. “Buồn trông” là buồn nhìn xa, cũng như buồn nhìn trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại, nhưng trông mà vô vọng. Hình như nàng mong một cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng xa xa, không rõ, như là một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc một xa. Nàng lại trông một ngọn nước mới, từ cửa sông ra biển, ngọn sóng xô đẩy theo cánh hoa phiêu dạt, không biết về đâu. Kiều ngồi trên lầu cao làm sao thấy được cánh hoa trên dòng nước.

Cảm nhận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 10 

Nguyễn Du đã trải qua mười năm gió bụi, sống trong thời đại “một phen thay đổi sơn hà”, chứng kiến bao đổi thay ghê gớm “thương hải biến vi tang điền” để rồi đã viết ra những vần thơ mà như có máu chảy trên đầu ngòi bút. Đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích “ là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất của “Truyện Kiều” qua đó đã tái hiện hình ảnh Kiều trong cuộc sống nơi chốn lầu xanh.

Mở đầu đoạn trích là bức tranh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích”

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

….

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Câu thơ mở đầu “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân”, cái tên “Ngưng Bích” vốn là cái tên rất đẹp nhưng lại là nơi “khóa” tuổi xuấn củ Kiều. Kiều như con chim phải sống trong lồng. Nàng từ lầu Ngưng Bích trông ra và thấy “vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung”, đó là hình ảnh của những dãy núi trải dài. Xung quanh là “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”. Khung cảnh có gì đó rất hoang vắng, rợn ngợp và không có bóng người.

Trong khung cảnh đó, Kiều thấy “bẽ bàng”- một tâm trạng đau đớn, tủi thẹn cho thân phận sống nơi lầu Ngưng Bích của chính mình. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” để chỉ vòng thời gian cứ thế lặp lại hay cũng chính là cảnh Kiều đang bị giam hãm. “ Như chia tấm lòng” để chỉ một trái tim đang bị chia cắt…

Trong hoàn cảnh ấy, Kiều nhớ đến người yêu của mình là Kim Trọng đang ngày đêm mong ngóng đến người yêu:

“ Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trông mai chờ

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Nàng nhớ lại cái đêm mà hai người dưới ánh trăng đã cùng thề nguyền:

“ Vầng trăng vằng vặc giữa trời

Đinh ninh hai mặt một lời song song”

vậy mà nay, chính nàng lại là người phá vỡ lời thề ấy. Nàng hình dung ra rằng lúc này đây Kim Trọng cũng đang ở quê nhà ngóng  chờ nàng. Câu hỏi tu từ “tấm son gột rửa bao giờ cho phai” cùng từ “son”diến tả tâm trạng đau đớn đến tột cùng của nàng.

Rồi nàng nhớ về cha mẹ của mình:

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Nàng nhớ Kim Trọng trước rồi mới nhớ đến cha mẹ, điều này là hoàn toàn hợp lý bởi với cha mẹ, Kiều đã bán mình để chuộc cha, như vậy chữu “hiếu” phần nào đã được báo đáp. Điển tích, điển cổ “quạt nồng ấp lạnh”, “Sân Lai cách mấy nắng mưa” nói về tấm lòng hiếu thảo của người con gái đối với cha mẹ, nàng băn khoăn không biết giờ này có ai thay mình để chăm sóc cho cha mẹ hay không.

Từ đó, nàng buồn cho kiếp đời của mình:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

…..

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Điệp ngữ “buồn trông” được lặp lại như một bản nhạc trầm buồn. Nàng nhìn ra xa mà chỉ thấy hình ảnh con thuyền “thấp thoáng”- hay đó cũng chính là thân phận Kiều? “ Hoa trôi man mác biết là về đâu?”. Câu hỏi tu từ cùng hình ảnh ẩn dụ “hoa” vốn là biểu tượng cho cái đẹp hay cũng chính là hình ảnh người con gái bị cuộc đời xô đẩy? Và ngọn cỏ thì nhuốm một màu tâm trạng của lòng người – “rầu rầu”.

Qua đoạn trích, ta đã phần nào hiểu được số phận của nàng Kiều. Kiếp đoạn trường của nàng lênh đênh, cuộc đời của nàng đầy sóng gió. Nguyễn Du viết những câu thơ này, chắc chắn phải từ một trái tim nhân đạo, yêu thương những phận tài hoa mà bạc mệnh…

Cảm nhận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 11 

Đề tài về người phụ nữ luôn là nỗi trăn trở của các nhà thơ lớn. Không chỉ khắc họa những nét đẹp trong tâm hồn, tính cách mà các nhà thơ còn cảm nhận rõ được nỗi bất hạnh của người phụ nữ. Và Nguyễn Du đã rất thành công khi chọn người phụ nữ làm đề tài trong tác phẩm của mình với kiệt tác dựa theo cốt truyện của Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm ở Trung Quốc đó là Truyện Kiều.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích được trích trong tác phẩm đó là một đoạn trích hay và giàu cảm xúc. Bằng ngòi bút tả cảnh ngụ tình nhà thơ đã diễn tả tâm trạng của Thúy Kiều trong hoàn cảnh bị giam cầm, nỗi nhớ Kim Trọng, nhớ gia đình và đặc biệt là tâm trạng của Kiều trước cảnh vật ở lầu Ngưng Bích.

Mở ra trước mắt người đọc là thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
….
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Câu thơ mở đầu: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân” lầu Ngưng Bích cao, đẹp, cái tên nghe cũng thật hay: Ngưng Bích. Nhưng chính nơi đây lại là nơi “khóa xuân” tức là khóa kín tuổi xuân của Thúy Kiều nàng chẳng khác nào bị giam lỏng. Đứng trên lầu cao hướng tầm mắt ra xa nàng nhìn thấy:

“Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.”

Nhìn ra xa là những phía dãy núi chạy dài ngước mắt lên trông thấy tấm trăng rất gần. Trông ra xung quanh là bốn bề bát ngát rộng lớn có những cồn cát cứ nối tiếp nhau chạy dài. Gió thổi, cuốn lên bụi hồng. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà thơ cảnh thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích hiện lên thật đẹp, sống động nó có thể là thực hay mang tính ước lệ.

Cảnh được nhìn từ xa đến gần, từ cao xuống thấp nhưng lại hoang vắng rợn ngợp không một tiếng người, không có cả một tiếng chim hót. Cảnh thiên nhiên tác động đến tâm trạng của con người:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”

Từ “bẽ bàng” nói đến tâm trạng xấu hổ, tủi thẹn của nàng Kiều khi bị giam cầm ở lầu Ngưng Bích. Trong hoàn cảnh cô đơn nàng Kiều chỉ có thể bầu bạn với mây buổi sớm, đèn buổi khuya nhưng hai người bạn ấy nàng chỉ có thể ngắm mà không thể tâm sự, giãi bày khiến cho Kiều cảm thấy cô đơn. Thành ngữ, cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ “mây sớm đèn khuya” chỉ về vòng tuần hoàn của thời gian.

Dường như thời gian và không gian đều đang giam hãm Thúy Kiều nàng không thể nào thoát ra được. “Nửa tình” là nói đến tình cảnh của Kiều bị giam cầm nơi lầu Ngưng Bích xa gia đình, chia tay với mối tình đầu. Còn “nửa cảnh” là nói đến cảnh thiên nhiên trong tâm trạng buồn, đau khổ nàng muốn tìm đến thiên nhiên để giãi bày nhưng nó lại hoang vắng, xa vời.

Nửa tình nửa cảnh như hòa vào là một làm cho trái tim nàng đau đớn như bị chia cắt. Bị giam cầm nơi lầu Ngưng Bích Kiều cảm thấy cô đơn, nhớ người mình đã từng thề non, hẹn biển:

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
….
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Nỗi nhớ Kim Trọng nàng nhớ những đêm ngồi dưới ánh trăng cùng nhau thề nguyện sẽ bên nhau trọn đời. Nàng tưởng ở quê nhà Kim Trọng vẫn mong ngóng mình trở về. Các động từ – vị ngữ: “tưởng”, “trông”, “chờ”, “bơ vơ”, “gột rửa”, “phai” đã liên kết thành một hệ thống ngôn ngữ độc thoại biểu đạt nội tâm nhân vật trữ tình.

Kiều nhớ người yêu khôn nguôi, xót xa cho mối tình đã nặng lời thề son sắt mà bị tan vỡ! Nàng cảm thấy hổ thẹn với Kim Trọng vì không giữ trọn lời thề năm xưa mà giờ đây không thể nào quay lại được nữa. Nhớ Kim Trọng rồi nàng lại nhớ về gia đình:

“Xót người tựa cửa hôm mai
….
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”

Nhớ cha mẹ lại bắt đầu bằng chữ “xót” nàng xót xa khi tưởng tượng ra cảnh cha mẹ mình mỗi sớm mỗi chiều người mẹ đứng tựa cửa trông chờ con về nhưng đó là sự chờ đợi trong vô vọng. Trong lòng nàng tự hỏi “Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ chỉ hành động của người con mùa hè nóng nực thì quạt cho cha mẹ ngủ, mùa đông trời lạnh thì ủ ấm chỗ cha mẹ nằm và giờ đây ai có thể làm việc đó thay nàng.

Cứ nghĩ đến điều đó mà lòng nàng cảm thấy buồn, lo lắng. Viết về nỗi nhớ cha mẹ của người con xa quê nhà thơ đã đưa vào những điển tích “Sân Lai, gốc tử” nói về việc làm của người con hiếu thảo không những phụ dưỡng sớm hôm mà còn nhảy múa cho cha mẹ vui.

Còn với nàng Kiều đang bị giam cầm nơi lầu Ngưng Bích bơ vơ trên đất khách quê người giờ đây không phụ dưỡng được cha mẹ sớm hôm thời gian cứ trôi kể cả “gốc tử đã vừa người ôm” nàng không thể làm tròn bổn phận của người con. Nghĩ đến điều này mà nàng cảm thấy xót xa ân hận nhưng với nàng Kiều ta thấy nàng đã làm tròn bổn phận khi bán mình cứu cha. Nỗi nhớ người thân rồi cũng qua đi để rồi nàng lại trở về thực tại:

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.”

Trong tâm trạng buồn hướng tầm mắt về nơi cửa bể là không gian rộng lớn chỉ có trời với biển. Không gian ấy lại đặt vào thời điểm chiều hôm gợi lên trong lòng nàng nỗi nhớ quê hương nhớ về người thân yêu. Trên mặt biển rộng lớn nàng còn nhìn thấy con thuyền và cánh buồm thấp thoáng ở phía xa.

Cảm nhận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 12 

Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đúng là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Nguyễn Du đã đặt nhân vật Thúy Kiều vào cảnh ngộ ấy để cho Kiều tự bộc lộ tâm trạng của mình. Trong giờ phút mà bên ngoài tưởng như yên tĩnh này thì chính trong lòng nàng Kiều đang ngổn ngang, tăm tối.

Tất cả những gì xảy ra trước đó lại được tái hiện, để rồi chỉ còn lại cảm giác đau buồn, nhớ thương vô hạn xoáy sâu vào tâm can nàng.Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé.

Cả một không gian mênh mông, hoang vắng không một bóng người, không một tiếng chim, càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
….
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.

Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lòng mình thế ấy: “Trống trải, đơn côi”:

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Nàng tự đối thoại với lòng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lời thề nguyền dưới ánh trăng vằng vặc, nàng hình dung được nỗi sầu muộn, chờ mong của chàng và tự hứa với lòng mình giữ trọn mối tình chung thủy.

Có lẽ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc chia ly không nói với nhau được một lời, nổi oan gia quá ư đột ngột: “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng…Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.

Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã “liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân”, cứu được cha, em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng lúc này nàng vẫn cảm thấy xót xa, cảm thấy chưa xứng là phận làm con. Bởi lúc cha mẹ già yếu, mình không được chăm sóc, không được hầu hạ:

“Xót người tựa của hôm mai

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô định. Buồn biết bao khi phải mãi mãi xa cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà không được phụng dưỡng sớm hôm. Nỗi buồn đó đang thức dậy trong lòng Thúy Kiều “Xuân xanh đang tuổi đến tuần cập kê” một cô thiếu nữ sắc, tài vẹn toàn, vốn đa tình, đa cảm. Một nỗi buồn mênh mông như đè nặng, bao quang lấy nàng. Nhìn vào đầu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nỗi buồn của nàng thì như cố định.

Nàng cảm nhận được những gì sẽ đến với mình, đối với người con gái họ Vương tài-sắc này như một định mệnh không sao thoát được! Từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng nàng Kiều lại quay về với chính cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình.

Mỗi một cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều gợi lên trong tâm trí của nàng một nét buồn. Và Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Thúy Kiều được ngòi bút bậc thầy-Nguyễn Du mỗi lúc lại càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo “Buồn trông”…”Buồn trông cửa bể chiều hôm”…”Buồn trông ngọn nước mới sa”…”Buồn trông nội cỏ rầu rầu”.”Buồn trông gió cuốn mặt duềnh”

Từng cảnh vật dưới con mắt của Kiều đều nhuộm một nỗi buồn khó tả, cũng có trời nước, nhưng mây trời thì nhàn nhạt, dòng nước thì mải miết cuốn trôi những cành hoa rơi. Cùng với gió, sóng nhưng là “gió cuốn”, “sóng xô” giữa cái mênh mông của biển trời, lại vào lúc hoàng hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con thuyền, một cánh buồm thấp thoáng phía xa “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.

Cảm nhận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 13 

Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn miêu tả nội tâm nhân vật thành công nhất Truyện Kiều, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đoạn thơ cho thấy cảnh ngộ cô đơn, buồn tủi và tấm lòng thủy chung, hiếu thảo của Thúy Kiều.

Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích nằm trong phần gia biến và lưu lạc của Truyện Kiều. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Thúy Kiều đã bị hắn lừa bán vào lầu xanh của Tú Bà, do kiên quyết không chấp nhận cuộc sống ô nhục chốn lầu xanh, Tú Bà đã quyết định cho Thúy Kiều ra sống ở lầu Ngưng Bích:

“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

…..

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

Thông qua câu thơ đầu tiên, ta có thể xác định được vị trí và điểm nhìn của nàng Kiều, đó chính là trước lầu Ngưng Bích, đứng trông ra núi non hùng vĩ, không gian mở đầy rộng lớn, mênh mông trái ngược hoàn toàn với lầu Ngưng Bích. “Khóa xuân” ở đây ta có thể hiểu đó là một không gian khép kín, nơi có thể buộc chặt tự do, khóa chặt tuổi xuân của nàng Kiều.

Mở ra trước tầm mắt của Kiều là vẻ non xa tấm của ánh trăng gần ở chung. Cảnh vật như ẩn như hiện, như xa mà như gần, không gian rộng lớn, hùng vĩ nhưng lại hoang vắng, tịch mịch đến rợn người “Bốn bề bát ngát xa trông”.

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

….

Tin sương luống những rày trông mai chờ”

Từ khi sống ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều luôn tự suy ngẫm, dằn vặt về bản thân cũng như đau khổ trước những biến cố đã xảy ra với bản thân mình, thường trực trong nàng là tâm trạng xấu hổ buồn tủi trước sự ô nhục mà bản thân đã trải qua, cùng với đó là nỗi nhớ nhung da diết với chàng Kim. Thúy Kiều nhớ về lời thề nguyền dưới ánh trăng năm nào. Khi quyết định phá vỡ lời thề, Thúy Kiều vẫn chưa có cơ hội gặp lại chàng Kim để nói lời từ biệt, do vậy mà nàng luôn đau đáu trong lòng sự day dứt, đau khổ khi nghĩ về chàng Kim.

“Xót người tựa cửa hôm mai

…..

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Cùng với nỗi nhớ chàng Kim là nỗi nhớ hướng về cha mẹ. Thúy Kiều đau xót khi nghĩ về cha mẹ đã lớn tuổi nhưng ngày ngày vẫn tựa cửa đợi con “Xót người tựa cửa hôm mai”. Nàng đau khổ khi không thể ở bên chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi về già, không thể thực hiện bổn phận, trách nhiệm của một người con, quạt cho cha mẹ khi trời nóng, hay sưởi ấm chăn cho cha mẹ khi trời trở lạnh.

Hình ảnh Sân Lai là một điển tích trong văn học cổ Trung Quốc, nói về người con có hiểu là Lai Tử người nước Sở thời xuân thu, tuy đã già những vẫn còn nhảy múa ở ngoài sân cho cha mẹ vui lòng. Mượn hình ảnh Lai Từ vừa thể hiện được sự day dứt của Thúy Kiều vừa thể hiện tấm lòng hiếu thảo của nàng đối với cha mẹ.

“Buồn trông ngọn nước mới xa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Dù trong hoàn cảnh đau khổ nhất, Thúy Kiều cũng nghĩ về người khác trước khi nghĩ về bản thân mình. Đau khổ với những nỗi nhớ để khi quay về với thực tại thì nàng lại xót xa nhận ra sự bẽ bàng, đau khổ của bản thân.

Như Nguyễn Du từng viết trong Truyện Kiều “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, như đồng cảm với tâm trạng của nàng Kiều, cảnh vật cũng thấm đượm sự u buồn, không những thế nó còn dự báo về tương lai đầy bão tố của nàng trước mắt. Đó là hình ảnh ngọn nước mới xa, hình ảnh cánh hoa nổi trôi, là ngọn cỏ rầu rầu, là màu xanh của chân mây nhưng lại không gợi ra được sự sống.

Như vậy, qua đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích ta có thể thấy được tài năng hơn người của Nguyễn Du trong việc khắc họa nội tâm nhân vật cùng với đó là bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy của ông.

Cảm nhận đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích – mẫu 14 

Không chỉ là bậc thầy trong tả người, Nguyễn Du còn có biệt tài trong tả cảnh. Khung cảnh ông miêu tả đã đạt đến mực mẫu mực, cổ điển, nói lên tâm trạng, cảm xúc của nhân vật. Tình và cảnh trở thành hai yếu tố bổ sung làm nên chất riêng cho sáng tác Nguyễn Du. Và tình cảnh ấy đã được ông kết hợp hài hòa để phản ánh tâm trạng của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.

Mỗi một bức tranh trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích gắn liền với một tâm trạng của Thúy Kiều. Bức tranh đầu tiên là khung cảnh thiên nhiên hoang vắng, mênh mông, rợn ngợp:

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

Sau khi bị lừa và nhốt vào lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều tự hiểu được hoàn cảnh của bản thân. Là một cô gái trẻ, ấy vậy mà nàng lại bị “khóa xuân” sống trong cung cấm, không được giao tiếp với bên ngoài, nàng bị giam lỏng. Khung cảnh thiên nhiên bao la, hoang vắng: núi xa, trăng sáng, cồn vàng, những bụi cỏ trải dài hết tầm mắt. Kiều vừa bị lừa phỉnh, vừa bị đánh đập la mắng, định tự tử mà không thành, nay bị giam ở lầu Ngưng Bích.

Trong khung cảnh ấy, tâm trạng của con người làm sao cho hết buồn, hết cô đơn, tủi cực, lòng nàng ngổn ngang trăm bề, tìm ra xa, rồi đi về gần để mong có được hơi ấm cuộc sống, nhưng cuối cùng lại chỉ làm bạn với canh khuya. Nàng đau đớn thắt lòng, chẳng thể làm tìm nguồn vui ở hiện tại nàng đành lòng nhớ về quá khứ, nhớ về người thân. Nàng nhớ về Kim Trọng:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai

Nhưng nhớ về Kim Trọng càng làm nàng đau đớn hơn. Những kỉ niệm trong sáng, đẹp đẽ của mối tình đầu ùa về, làm thắt lại trái tim nhỏ bé của nàng. Nàng tự trách mình đi không một lời báo trước để chàng Kim vẫn ngày đêm mong ngóng. Bao giờ nàng mới có thể quên được đi mối tình trong sáng, đẹp đẽ đó. Sau khi nhớ về Kim Trọng, Thúy Kiều nhớ về cha mẹ già, tuổi cao sức yếu không có người chăm lo:

“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.

Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” cùng với điển cố “sân Lai”, “gốc tử” đã cực tả nỗi nhớ thương cũng như lòng hiếu thảo của Kiều. Cụm từ “cách mấy nắng mưa” vừa nói được sức mạnh của bao mùa mưa nắng, vừa nói đến sự tàn phá của thiên nhiên đối với cảnh vật và con người.

Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Giọng thơ rưng rưng lệ, nỗi đau của nàng Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người. Nàng dường như quên đi cảnh ngộ của bản thân để lo nghĩ cho những người thân yêu. Bức tranh thiên nhiên thứ hai là tám câu thơ cuối, khi nàng trở về với thực tại phũ phàng trước mắt mình:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Khung cảnh về chiều, với cánh buồm bé nhỏ ẩn hiện giữa khung cảnh mênh mông sóng nước. Con thuyền càng trở nên lẻ loi, đơn độc hơn. Nó cũng chính như cuộc đời của Kiều, đơn độc trên bước đường đời đầy truân chuyên, chẳng biết khi nào mới có thể đoàn tụ cùng gia đình.

Rồi đôi mắt nàng hướng về những ngọn nước mới sa, những nhành hoa mỏng manh trôi dạt, rồi tự hỏi không biết chúng sẽ trôi về đâu. Nhìn những cánh hoa tàn lụi, nàng lại càng buồn hơn vì thấy hình ảnh của chúng mình trong đó, lênh đênh, vô định giữa sóng gió cuộc đời. Đây cũng chính là hoàn cảnh tội nghiệp, đáng thương của nàng. Số phận của mình không được làm chủ, bị đưa đẩy, vùi dập. Tâm trạng cô đơn, bơ vơ càng được tô đậm hơn nữa.

Nhìn ra một hướng khác cũng chỉ có nội cỏ bủa vây bốn phía. Màu xanh tàn tạ, héo úa, nhạt nhòa, đâu còn màu xanh non tươi tốt, mỡ màng đến tận chân trời của cảnh ngày xuân nữa. Màu xanh này gợi lên trong Kiều nỗi buồn vô vọng bởi cuộc sống quẩn quanh, bế tắc. Hai câu thơ cuối cùng cả tình và cảnh đã đạt đến độ điêu luyện. Nỗi buồn mỗi lúc một tăng, dồn dập xô tới. Tiếng sóng ầm ầm đó cũng chính là biết bao phong ba bão táp đổ ập xuống cuộc đời Kiều. Lúc này không còn là lo âu mà là sự kinh sợ, dần rơi vào vực thẳm bất lực.

Bài giảng: Kiều ở lầu Ngưng Bích - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay, ngắn nhất khác:


Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học