20+ Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân (hay, ngắn gọn)

Bài văn Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân gồm dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 12 sẽ giúp các bạn sẽ yêu thích và viết văn hay hơn.

Bài giảng: Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân - mẫu 1

"Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim mọi người” Nếu mỗi con người sinh ra để làm tròn nghĩa vụ ấy cho đến suốt cuộc đời thì Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) nhà biên kịch lớn của nền văn học Việt Nam đã làm lên điều ấy bằng tác phẩm "Hồn Trương Ba da hàng thịt" chỉ trong vòng một thời gian ngắn ngủi của đời người từ năm 1981 đến 1983 đặc biệt là với việc trả lời cho câu thơ mình dường như đã bỏ ngỏ "Có những lúc tâm hồn tôi rách nát/… Tôi biết làm gì, tôi biết đi đâu?” qua việc xây dựng cuộc đối thoại của Hồn Trương Ba với xác và người thân tạo nên một xung đột kích mang thước đo chuẩn mực của kịch nói Việt Nam sau này:

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một câu chuyện không mấy tiêu biểu cho thi pháp cổ tích nếu đặt bên cạnh những Tấm cám, Cây tre trăm đốt, Thạch Sanh... ta đã đọc. Tuy nhiên, nhìn từ góc nhìn tự sự, người ta cũng dễ dàng nhận diện những yếu tố cơ bản tạo nên sắc thái cổ tích cho tác phẩm: Đó là nhân vật, tình huống, diễn biến cốt truyện, phép màu mang đến may mắn cho con người... Và mặc dù câu chuyện dân gian này còn phảng phất dấu ấn sáng tác bởi các cụ đồ Nho, nhân vật vua cờ Đế Thích vẫn có thể được coi là một kiểu “Bụt”, “Tiên” giáng thế để cứu vớt, bù đắp cho những mất mát, đau thương cho trần giới. Và với một kiểu nhân vật của môtip những con người hiền lãnh _ Trương Ba vốn là một người làm vườn, một kỳ thủ nhưng lại lâm vào tình huống éo le và kì lạ: đang sống hạnh phúc với gia đình bỗng dưng chết oan rồi được sống lại nhưng phải sống nhờ một thân xác khác, xác người hàng thịt với một bản tính hoàn toàn đối lập. Sự chắp vá này mở đầu cho quá trình xung đột gay gắt giữa hồn và xác. Trương Ba vô cùng đau khổ vì linh hồn thanh cao của ông phải sống lệ thuộc vào cái xác mà ông xem là âm u đui mù, không có tư tưởng, không có cảm xúc. Sự lệ thuộc này làm cho ông dần dần trở thành con người khác, đánh mất những phẩm chất vốn có. Sự thay đổi đó đúng như Huấn Cao đã từng nói với quản Ngục khi cái tốt cái đẹp khải tồn tại sống cùng với cái xấu. "..khó giữ thiên lương cho lành vững, rồi cũng đến nhem nhuốc cả đời lương thiện”

Trọng tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba. Do đó lời thoại ở đây vừa có thể coi là độc thoại vừa có thể coi là đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa chứa đựng mâu thuẫn vừa mang tính hành động, thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến mức cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối thoại đó cùng với thái độ và những lời đối thoại của những người ruột thịt thân yêu nhất đã dẫn đến hành động quyết liệt - kiên quyết chối từ một cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia của Trương Ba. Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật của mình chọn một con đường tưởng như tiêu cực nhưng hết sức cần thiết và đúng đắn: Rời bỏ cõi đời này để được đúng là mình, để giữ trong ký ức những người thân kỷ niệm tốt đẹp về mình. Có nhà nghiên cứu cho rằng “cuộc vật lộn giữa “Hồn Trương Ba” và “Da Hàng thịt” thực chất là cuộc giao tranh giữa hai linh hồn trong một thân xác”.

Sau mấy tháng sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với những người thân trong gia đình và tự xung đột với bản thân mình. Hồn ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy trào ra thành dòng độc thoại đầy nước mắt: “không, không, tôi không muốn sống như thế này nữa. Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi lắm rồi. Ta bắt đầu sợ mi, muốn rời xa cái thân thể kềnh càng thô lỗ ngay tức khắc”.

Bước vào đến cảnh VII hình ảnh Trương Ba hiện lên của một con người đang ngồi "ôm đầu” đã cho người đọc thấy hình ảnh của một con người cô độc hiện lên trước màn ảnh đầy sự đau khổ xâm lấn lại kết hợp cùng lúc của 3 phủ định từ liên tiếp "không… không… không” bằng một giọng điệu dứt khoát một lời độc thoại đầy khẩn thiết khẳng định việc muốn rời bỏ thân xác anh hàng thịt. “Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi lắm rồi”đầy chán nản, ngán ngẩm Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Lời thoại của Hồn là các câu cảm thán, ngắn, lời văn dồn dập, hối thúc. Thể hiện tâm trạng căng thẳng, bức bách đau khổ, dằn vặt, quẫn bách đến cùng cực, không thể chịu đựng dày vò hơn được nữa nên vụt đứng dậy.Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng Nghe Hồn tự độc thoại nói, và đang tự dày vò mình Xác lên tiếng ngay: "Vô ích” chính xác đã chủ động khiêu chiến chiến nhằm dập tắt hoàn toàn khát khao của Trương Ba: “ông không tách ra khỏi tôi được đâu”.

Đang trong sự bế tắc vô vọng ấy Trương ba chợt nghe thấy những lời nói từ xác chỉ biết đáp lại bằng chính sự kinh ngạc vốn có của mình: "A, mày cũng biết nói kia à?” Trương Ba ngạc nhiên, trả lời lại bằng cách đưa ra một câu hỏi sau đó liên tục phản đối xác giọng vẫn còn khinh bỉ. Cách xưng hô mày ta thể hiện rõ sự khinh bỉ, miệt thị đối với xác "Vô lý! Mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù..” Ban đầu buông ra những lời nói mạt xác.Thấy Hồn vừa phủ định vừa khinh miệt mình, Xác khẳng định lại vị trí và tác động, suy nghĩ của mình: “Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến”,và “sức mạnh ghê gớm, lấn át cả linh hồn cao khiết”. Hồn tiếp tục phủ định tiếng nói của Xác: “Mày chỉ là vỏ bề ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc”.

Nghe thấy Hồn đánh giá mình thấp kém, Xác hỏi lại đầy thách thức, giọng thay đổi linh hoạt đầy châm chọc “Có thật thế không?”. Câu hỏi của Xác khiến cho Hồn chùn bước và đuối lý, buộc phải dần nhượng bộ, xác nhận sự ảnh hưởng của Xác: “nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…”

Lại bị Hồn tiếp tục khinh miệt, Xác nhận thức sự lợi lí của mình, nên chuyển sang châm chọc, mỉa mai: "Tất nhiên, tất nhiên."đầy mỉa mai:” Khi ông ở bên nhà tôi… Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại… “Đêm hôm đó, suýt nữa thì…” Đó là cảm giác "xao xuyến” "lâng lâng cảm xúc” mà trước đây Hồn cho là "phàm”. Với bằng chứng cụ thể, Hồn xấu hổ và kiên quyết phủ định: “là mày chứ, chân tay mày, hơi thở mày”. Xác vừa khẳng định vừa hỏi xoáy lại để tấn công tiếp: "Thì tôi có ghen đâu! Ai lại đi ghen với chính thân thể mình…nhưng ta nên thành thực: Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Để thỏa mãn tôi, chẳng nhẽ ông không tham dự chút đỉnh gì?” Như vậy Xác dẫn dắt Hồn vào sự thật không thể phủ nhận – Hồn ít nhiều đã bị vấy bẩn, tha hóa bởi dục vọng của thân xác. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Lí lẽ của Xác khơi trúng điểm đen mà lâu nay vì trú ngụ trong Xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba trong khiết đã bị hóa màu. Hồn đuối lý bất lực bèn la to, ra lệnh áp chế thể xác để che giấu sự lúng túng, bối rối, do sự, yếu thế của mình “Ta…ta… đã bảo là mày im đi!” Lời thoại của Hồn ngập ngừng lí lẽ như bị hụt hơi. Hồn bị dồn vào chân tường để buộc phải công nhận sự chế ngự của Xác. Xác khẳng định một lần nữa: “Hai ta đã hòa làm một rồi”. Xác nhấn vào sự thật đau đớn mà Hồn đang muốn trốn chạy, muốn phủ nhận, đẩy tình huống kịch lên cao trào. Hồn chỉ còn Cố gắng biện minh chống chế cứu vãn: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”. Xác vẫn không buông tha, tấn công bằng sự mỉa mai “Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”. Trước sự thực không sao chối cãi, Hồn phản ứng tiêu cự bằng cách “bịt tai lại”. Đó là nỗ lực chối bỏ trong tuyệt vọng hoàn toàn bế tắc. Xác tiếp tục dùng lời lẽ hiểm hóc sắc lẹm như dao mổ, phanh trần nỗi đau đang tấy mủ trong Hồn. Đó là nhờ sức mạnh của Xác mà Hồn có thể: “tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi”. Mặc dù cố bịt tai, nhưng khi nghe Xác nói như vậy Hồn phải lên tiếng chối bỏ “sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo”. Xác khôn ngoan biết là lỡ lời nên biện minh cho mình bằng những lí lẽ: “là hoàn cảnh” “cũng đáng được quý trọng”, không có tội. Hồn chỉ còn phản ứng yếu ớt: “Nhưng...Nhưng” Nhận biết Hồn bị dồn vào thế bí, Xác đưa ra giao kèo thỏa hiệp để chung sống, giọng ve vuốt mơn trớn xác chủ động đưa trò chơi tâm hồn: "Những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu ông cứ việc đổ tội cho tôi, để cho ông được thanh thản… miến là… ông vẫn làm đủ mọi việc thỏa mãn những thèm khát của tôi: Xác sẽ “ve vuốt” Hồn bằng cách thông cảm với “những trò chơi tâm hồn”, nhận hết mọi điều xấu miễn là Hồn vẫn “làm đủ mọi việc để thỏa mãn thèm khát” của Xác. Nhận thức “lí lẽ ti tiện” của Xác, Hồn than như là tuyệt vọng, bất lực: Trời! đã là một sự chấp nhận số phận trong nỗi đau đớn khôn cùng muốn tìm đường thoát nhưng hoàn toàn vô vọng.

Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.

Quan cuộc đối thoại giữa hồn và xác, xác rõ ràng hiện lên với ưu thế của kẻ nắm giữ sự thắng thế, chứng tỏ được uy quyền chi phối khủng khiếp của nó với linh hồn, nó cũng cho thấy sự ngộ nhận về chính mình khi hồn cho rằng "Ta vẫn có một đời sống riêng trong sạch, nguyên vặn, thẳng thắn…” Linh hồn và thể xác vốn không tách rời được nhau, cuộc tranh đấu giữ hồn và xác là cuộc đấu tranh giữ cao cả và dục vọng, thấp hèn; giữa phần con và phần người. Đó chính là lời cảnh cáo sâu xa của Lưu Quang Vũ: Khi con người sống quá lâu trong môi trường dung tục ắt sẽ bị cái dung tục chi phối, không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng thì đừng đổ tội cho thân xác.Không thể tự an ủi mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn, do đó phải bảo vệ, hoàn thiện nhân cách con người đó là một vấn đề lớn đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội. Đố sẽ là cuộc đấu tranh dai dẳng khi mà con người vẫn còn tồn tại trong xã hội này.

Nếu Lưu Quang Vũ cho Trương Ba kết thúc cuộc đời mình trong sự bế tắc ở đó ta sẽ liên tưởng đến những cái kết trong thời đại của văn học Hiện thực phê phán mà Nam Cao đã viết lên:”Mồn hắn ngáp ngáp, muốn nói, nhưng không nói ra tiếng ", hay cái cảnh Chị Dậu chạy ra ngoài trời "tối đen như mực như cái tiền đồ của chị”… Nhưng bước sang một thời đại mới, và vốn dĩ Lưu Quang Vũ cũng không thuộc lớp nhà văn của Hiện thực phê phán của thời đại mặt trận dân chủ Hiện thực phê phán 30 – 45… Nên cuộc đời Trương Ba tiếp tục được vẽ ra:

Không dừng lại chỉ là đoạn đối thoại ấy bi kịch nối tiếp bi kịch.Bi kịch thứ hai của Hồn Trương Ba là bi kịch không được người thân thừa nhân. Trương Ba không còn là mình nữa nên bị người thân xa lánh đẩy lên cao nỗi đau khổ vốn có của Trương Ba.Nỗi đau khổ, tuyệt vọng của Hồn Trương Ba được đẩy lên khi đối thoại với những người thân:

Vừa dứt cuộc đối thoại, Hồn Trương Ba đang ngồi lặng lẽ bên cái chõng, thì vợ bước vào hỏi: “Cái Gái chưa về hả ông?” Hồn Trương Ba thẩn thờ trả lời: “Chưa” Vợ Trương Ba tiếp tục giải thích: "Nó sang nhà cu Tị từ sớm. Cu Tị bị ốm nặng”. Hồn Trương Ba không giấu sự ngạc nhiên nói: “Ốm Nặng? Vậy mà tôi không biết”. Hai lời thoại đầu chỉ mang tính giao tiếp thông thường chẳng một dấu hiện gì mang đến cơn sóng gió tiếp theo cho Trương Ba lúc này thì từ lời thoại thứ ba: "Ông bây giờ con biết đến ai nữa Cu Tị ốm thập tử nhất sinh… Khổ thằng bé ngoan là thế…Cái thân tôi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh "đã là sự thay đổi hoàn toàn cảm xúc của cái hờn trách, giận dỗi và chua xót của cái tủi thân tủi phận mà bất lực. Không để vợ nói tiếp nữa, Hồn Trương Ba cắt ngang: Sao bà lại nói thế. Nghe chồng nói, người vợ đi thẳng vào vấn đề mà bà đang ấm ức: “Tôi nói thật đấy …Ông Trương Ba ạ, tôi đã nghĩ kĩ …Có lẽ tôi phải đi”. Hồn Trương Ba hỏi lại: “Đi đâu?”. Người vợ tiếp tục nói thực lòng với bao hờn dỗi: “Chưa biết! Đi cấy thuê làm mướn…đi biệt để ông được thảnh thơi…với cô vợ người hàng thịt..Còn hơn là thế này?”. Nghe vợ nói, Hồn Trương Ba chỉ còn biết kêu gào: “Bà! Sao lại đến nông nỗi này?” Vợ: “Chỉ tại bây giờ..ông đâu còn là ông Trương Ba nữa….Thằng Cả đã quyết định bán khu vườn để có tiền mở thêm vốn liếng cửa hàng thịt. Hồn Trương Ba quá ngạc nhiên nói: “Thật sao? Không được!”. Nghe chồng phản đối bà vợ: “Ông bảo không được nhưng tôi biết sự thể sẽ dẫn đến như vậy. Ông sẽ đành ưng chịu như vậy” Người vợ của Trương Ba dù rất mực yêu thương chồng, giàu lòng vị tha nhưng cuối cùng vẫn rơi vào sự bế tắc. Những dấu ba chấm kết hợp với câu cảm thán và các từ rưng rưng …khóc…..diễn tả đầy đủ sự buồn bã, bất lực. Trong cuộc đối thoại với vợ Trương Ba chỉ sử dụng câu ngắn, câu hỏi liên tiếp cùng với đó là các câu cảm thán đã cho thấy sự thảng thốt, ngỡ ngãng tê sót của ông. Cuối đoạn hội thoại với vợ tiếng gọi "Ba!” nấc lên uất nghẹn bởi đó là sự bất lực, đau khổ nghẹn ngào không thể thốt ra thành lời. Kết thúc đợt thoại này Hồn Trương Ba chỉ còn biết ngồi xuống tay ôm đầu.

Khi Hồn Trương Ba ngẩng lên thì thấy Gái đứng trước mặt, Hồn Trương Ba kêu đứa cháu như là cầu cứu: “Gái, cháu!” Đó đã không còn chỉ là lời gọi thông thường nữa mà là tiếng kêu của một trái tim được phát ra từ miệng khát khao có một điểm tựa, sự đồng cảm cầu cứu. Có lẽ lúc ấy Trương ba nhưỡng tưởng đứa cháu gái bé bỏng sẽ xà vào lòng thì trái lại, cái Gái, cháu Trương Ba thì phản ứng quyết liệt và dữ dội: Nó lùi lại nói đã tạo nên một khoảng cách không chỉ về mặt không gian mà còn cả về tâm hồn giữ ông và cháu sau đó lại nói: “Tôi không phải là cháu của ông”. Câu nói như là gáo nước lạnh phũ phàng tạt thẳng vào mặt Hồn Trương Ba. Nhưng Hồn Trương Ba vẫn giữ bình tĩnh dịu giọng nhẫn nhục giải thích,khẳng định: "Ông đúng là ông nội cháu. Nếu ông nội tôi hiện về được sẽ bóp cổ ông”. Hồn Trương Ba vẫn cố ra sức thuyết phục bằng những chứng cứ mặc cho sự đe dọa từ đứa cháu gái: "Sáng nào ông cũng ra cuốc xới chăm chút cây cối ngoài vườn… chỉ có ông nội cháu mới biết quý cây như thế” Cố giải thích cho đứa cháu giải thích thì Trương Ba càng về sau giọng nói càng ngập ngừng ; những dấu ba chấm xuất hiện liên tục đã là sự ngập ngừng bế tắc không giải thích được.Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân.Chính vì quá yêu thương, tôn thơ thì giờ đây nó không thể chấp nhận, cũng không thể nào mở lòng mình đớn nhận con người trước mặt mình cái con người có "bàn tay giết lợn", bàn chân "to bè như cái xẻng" đã khiến cho cái gái không buông tha, tiếp tục kể tội "gãy tiệt cái chồi non", "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, "Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy". Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự kết tội, ruồng bỏ xua đuổi người thân yêu: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!".

Như vậy cái Gái là người yêu thương gắn bó với ông hết mực. Ông chết, đêm nào cũng khóc, nâng niu từng chút kỉ niệm của ông. Bây giờ lại phản ứng dữ dội.Lời lẽ tàn nhẫn, phũ phàng. Chối bỏ, xua đuổi Hồn Trương Ba. Những dấu chấm than liên tiếp với giọt nước mắt vừa khóc vừa chạy Phản ứng quyết liệt của một đứa trẻ vốn tâm hồn trẻ thơ trong trẻo, chỉ có hai màu sáng tối, kiên quyết không chấp nhận cái xấu, cái ác đã khiến Hồn Trương Ba run rẩy, tự nhìn lại mình một lần nữa. Những lời nói của đứa cháu nhỏ, thêm một lần nữa xoáy khoét vào nỗi đau sâu thẳm của ông, để ông cảm nhận thấm thía bi kịch bị chính những người thân yêu chối bỏ.

Chị con dâu ở trong nhà bước ra nghe thấy những lời cuối cùng của Gái. Một mặt chị gọi theo con gái: “Gái, quay lại đây, Gái”. Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt Một mặt chị quay sang nói với Hồn Trương Ba: “Thầy, thầy đừng giận con trẻ …Chỉ tại nó nghĩ thầy không phải là ông nội nó, con dỗ dành thế nào nó cũng không nghe (rưng rưng) khổ thân thầy”. Hồn Trương Ba cảm thấy ấm lòng: “Đến lúc này, cả nhà chỉ một mình con vẫn thương thầy như xưa”. Người con dâu khẳng định thêm: “Hơn xưa nữa…nhưng thầy ơi con sợ lắm…mỗi ngày thầy một đổi khác dần… có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…làm sao giữ được thầy ở lại hiền hậu vui vẻ tốt lành như thầy của chúng con xưa kia”? Hồn Trương Ba lại thất vọng buồn rầu nói: “Giờ thì con cũng…”? Người dâu vội chữa lại nói: “Thầy đừng giận nếu con đã nói điều gì không phải”. “Không ta không giận. Cảm ơn con đã nói thật. Bây giờ thì đi đi, cho ta được ngồi yên một lát”.

Trương Ba như được an ủi phần nào, bởi nhận ra cái Gái rất thương ông, ông nghĩ cô con dâu sẽ là điểm tựa để sẻ chia tâm sự. Nhưng trước những lời nói vừa yêu thương, vừa thẳng thắn của cô con dâu Trương Ba lặng ngắt như đá tảng đau khổ đến cùng cực đầy sợ hãi. Có lẽ lúc ấy Trương Ba giống như người đứng trước một cái vực thẳm sâu hoắm khắc khoải cần một ai đó níu giữ nhưng kết quả vẫn là sự bế tắc đi vào vô vọng.

Tất cả những người ấy: người thì chua xót dằn dỗi, tủi thân (vợ), người hì tức tưởi xua đuổi (cháu) ; người thì lại thấu hiểu sẻ chia (con dâu) nhưng họ nhận ra và đau khổ trước sự thay đổi của Trương Ba. Tuy yêu quý, muốn níu giữ Trương Ba xưa tìm giải pháp để thoát khỏi hoàn cảnh nhưng trớ trêu thay đều bất lực. Đó là bi kịch của Hồn Trương Ba càng bị đẩy lên tới điểm đỉnh. Những người thân thiết nhất cũng không chấp nhận nỗi tình trạng hai mảnh hồn, người bất nhất của chồng, cha, ông mình. Không còn gia đình nền tảng của một sự bấu víu hi vọng vào mặt đất không có ý nghĩa và dường như cũng chẳng còn tồn tại. Trương Bá hiểu mình đã mất tất cả rơi vào trạng thái hoàn toàn cô độc. Đó là bi kịch trong bi kịch!

Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân Không phải ngẫu nhiên, tác giả không đưa anh con trai thực dụng của Trương Ba vào cuộc đối thoại của Trương Ba với những người thân là một hữu ý bởi người con trai của Trương Ba đã bị tha hóa nên có lẽ cái tình yêu dành cho chỉ ít nhiều cũng tha hóa. Các cuộc đối thoại với vợ con dâu và cháu gái càng làm cho Trương Ba đau khổ hơn. Ông hiểu tất những gì mình đã,đang gây ra và có lẽ nếu tồn tại tiếp tục bi kịch ấy sẽ còn tiếp diễn và thiêu chiều hướng tiêu cực hơn nữa. Trương Ba sống làm gì khi mà điều hồn còn sống là để mang lại hạnh phúc cho người thân hoàn toàn trái ngược lại, vô nghĩa lý.

Những câu hỏi liên tiếp "lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình?....chẳng còn cách nào khác” đó thật sự là cuộn xoáy dữ dội đang giằng xé, cuộn xoáy trong lòng Trương Ba để rồi dẫn đến một quyết định từ bỏ thân xác như một mong muốn được giải thoát không chỉ cho mình mà cả người thân. Hồn Trương Ba dứt khoát thắp nhang khấn mời tiên Đế Thích để từ giã sự sống ấy.

Cách lựa chọn cách sống, một cách phục sinh tâm hồn như đã mà dần, tan biến dân ấy mở ra cho Trương Ba những thử thách mới, lựa chọn mới trong cuộc đối thoại với Đế Thích. Nhưng đó chính là cách Lưu Quang Vũ tô đậm lên được vẻ đẹp nhân cách vẫn còn sóng ngời trong mảnh hồn tưởng như đã mờ nhạt ấy.Để rồi Trương Ba đã sống đúng phần người theo nghĩa viết viết hoa của nó.

Dàn ý Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân

1. Mở bài: 

- Giới thiệu tác giả Lưu Quang Vũ

- Giới thiệu tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt"

2. Thân bài:

- Hồn Trương Ba: Bản thân vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch và thẳng thắn.

- Người trong gia đình:

+) Vợ: đau đớn, khóc lóc, nhận ra không còn là chồng mình của ngày xưa.

+) Cháu gái tỏ rõ sự giận dữ, quyết liệt phản đối cho rằng ông mình đã chết.

+) Con dâu: dù có cảm thông, chia sẻ nhưng không còn nhận ra bố chồng mình của trước đây.

=> Tuy mỗi người trong gia đình có ý nghĩa khác nhau nhưng đều có điểm chung là Trương Ba đã thay đổi.

=> Đỉnh điểm của mâu thuẫn được đẩy lên.

3. Kết bài:

- Tác giả

- Tác phẩm

- Giá trị nội dung và nghệ thuật

- Bài học cho bản thân: Sống là chính mình, không chạy theo những lợi ích trước mắt mà quên đi mục đích ban đầu.

Sơ đồ Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân - mẫu 2

Bi kịch của đời người vô vàn đớn đau nhưng bi kịch lớn nhất của đời người đó là bị chối từ ngay trong chính gia đình thân yêu của mình- nơi có những người ruột thịt, thân thiết gần gũi nhất. Hồn Trương Ba trong vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ phải chịu đựng bi kịch bị ruồng bỏ từ chính những người thân trong gia đình mình. Đọc cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân, người đọc hiểu rõ hơn về bi kịch đáng thương của Trương Ba.

Lưu Quang Vũ Vũ là một nghệ sĩ đa tài, tài năng của ông vô cùng đa dạng với hội họa, thi ca, soạn kịch. Đặc biệt, ông là một hiện tượng gây sóng gió trong nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam thế kỷ XIX và được đánh giá là nhà viết kịch tài năng nhất thế kỷ XX. Một trong những vở kịch được đón đợi nhất lúc bấy giờ đó là vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt”.

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được bắt nguồn cảm hứng từ câu chuyện dân gian nhưng được phát triển và thêm thắt tình tiết để truyền tải những ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Trương Ba là một người làm vườn tốt bụng, đặc biệt rất cao cờ. Do tắc trách, Nam Tào gạch nhầm tên Trương Ba, khiến ông phải chết oan. Theo gợi ý của Đế Thích, để sửa sai, Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào thể xác hàng thịt ở làng bên vừa mới chết để được sống lại. Kịch của Lưu Quang Vũ được bắt đầu từ lúc truyện dân gian kết thúc. Không giống như truyện dân gian, hồn Trương Ba sau khi nhập vào xác hàng thịt có thể sống tiếp hạnh phúc, trong kịch Lưu Quang Vũ, hồn Trương Ba rơi vào liên tiếp các bi kịch mà một trong số đó là bi kịch bị gia đình ruồng bỏ, thể hiện trong cuộc đối thoại ngắn mà đầy đau đớn giữa hồn Trương Ba và gia đình.

Sau khi sống nhờ ở xác anh hàng thịt, trong mắt vợ mình, Trương Ba trở thành một kẻ vô tâm, vô tình, chỉ biết đến bản thân, một kẻ vị kỷ, đáng trách. Vợ Trương Ba trước là hờn trách, buồn rầu, cuối cùng đã bộc lộ ý định bỏ đi, báo trước cảnh nhà tan hoang. Đáng buồn hơn, Anh con trai rồi bán mảnh vườn để mở rộng vốn của cửa hàng thịt. Khu vườn của gia đình đâu phải là khu vườn bình thường nó chứa đựng trong đó cả sự sống tâm hồn của Trương Ba. Ở đó đó luôn thấp thoáng hình ảnh một Trương Ba yêu cây, tỉ mẩn chăm sóc từng cái cây ngọn cỏ, nó là biểu tượng cho một Trương Ba thiện lành ngày trước. Việc bán vườn của cậu con trai không thì là bán đất đai và sản của gia đình mình mà còn là bán đi Hương hòa tổ tiên để lại, phũ phàng hơn đó là sự phủ nhận sự tồn tại của một Trương Ba trước đây, điều đó chẳng khác nào nói lên sự có mặt của Trương hiện tại là thừa thãi. Nhưng có lẽ điều khiến cho hồn Trương Ba đau lòng nhất đó là sự phủ nhận của đứa cháu gái cái mà ông yêu quý nhất. Hồn Trương Ba từ ngày sống trong xác anh hàng thịt tuy vẫn là người yêu cây cỏ, muốn chăm bẵm cho cây nhưng với thân hình thô kệch của anh hàng thịt với bàn tay to thô làm gãy cả chồi non, đôi chân dẫm nát cây sâm quý, đặc biệt là khi làm diều cho cu Tị, đôi tay thô đã làm hỏng cả cánh diều ước mơ của con trẻ. Cánh diều biểu tượng cho những khát khao của con trẻ gãy vụn trong bàn tay của Trương Ba cho thấy hành động của Trương Ba không những thô vụng mà còn thô bạo. May thay Trương Ba vẫn nhận được sự cảm thông của người con dâu. Con dâu ông vốn là người nhân hậu, sâu sắc, sẵn nhiều cảm thông thấu hiểu nhưng cho dù thấu hiểu đến đâu đâu chị cũng không khỏi buồn bã hoang mang khi thấy Trương Ba đổi khác, nhoà mờ, lệch lạc hẳn đi. Dường như trong gia đình mình Trương Ba đã trở nên lạc lõng khi rơi vào cảnh vợ bất tin, con trai bất hiếu, cháu bất kính, con dâu có nguy cơ bất lễ.

Bao nhiêu đó đó đã tô đậm bi kịch sâu sắc của Trương Ba, đó là bi kịch bị ruồng bỏ. Qua bi kịch này, Lưu Quang Vũ muốn nhắn gửi đến đọc vẻ nhiều thời rằng: con người không thể chối bỏ được bản năng Trần thế nhưng còn người không thể chỉ sống còn bằng bản năng. Nếu chỉ sống bằng bản năng con người sẽ bị gia đình ruồng bỏ ngay trong môi trường dễ được dung thứ nhất.

Con người có thể bị xã hội chối từ nhưng không thể bị gia đình ruồng bỏ. Máu mủ ruột thịt chính là những điều không bao giờ có thể xóa nhòa. Nhưng nếu đã chịu bi kịch bị ruồng bỏ từ gia đình, đó là bi kịch lớn nhất của đời người. Bởi vậy, con người phải sống sao để cho dù mất tất cả, gia đình vẫn luôn dang rộng vòng tay chấp nhận ta.

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân - mẫu 3

Lưu Quang Vũ là một trong những nghệ sĩ đa tài bậc nhất của nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại, từ âm nhạc, hội họa, điện ảnh… Trong đó, tên tuổi ông gắn bó sâu sắc với những vở kịch đặc sắc, làm nức lòng biết bao thế hệ bạn đọc, mà tiêu biểu là vở “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Qua cuộc đối thoại độc đáo giữa hồn và xác, nhà soạn kịch đã phác họa nên bi kịch bị tha hóa của Trương ba, hay cũng là tấn bi kịch của những con người bình thường trong cuộc sống bình thường.

Vở “Hồn Trương Ba da hàng thịt” được chắp bút từ năm 1981, nhưng mãi đến 1984 mới được công chiếu. Đây được coi là vở kịch làm nên tên tuổi của Lưu Quang Vũ vang dội khắp các diễn đàn trong và ngoài nước. Đoạn trích trong sách nằm ở phần kết của vở kịch, cũng là lúc xung đột trung tâm được đẩy lên đỉnh điểm. Và chính những xung đột trong cuộc đối thoại giữa hồn và xác đã góp phần tái hiện trước mắt bạn đọc bi kịch bị tha hóa của hồn Trương Ba.

Bi kịch của Trương Ba xuất phát từ sự tắc trách của Nam Tào- khi gạch nhầm tên khiến Trương ba phải chết oan. Để sửa chữa cho lỗi lầm của mình, Nam Tào đã để Trương Ba hồi sinh trong thân xác anh hàng thịt mới chết ở gần nhà, từ đó khởi nguồn cho bao rắc rối và sự tha hóa về nhân lương của nhân vật. Trước đây, trương Ba là một người đàn ông điềm đạm, nho nhã, có thú vui đánh cờ, yêu thương gia đình và rất mực được mọi người yêu quý, kính trọng. Nhưng kể từ khi nhập vào xác anh hàng thịt, mọi bản tính tốt đẹp dần bị xóa nhòa đi mất. Ông dần bị xác hàng thịt chi phối, trở nên thô tục, lỗ mãng. Trương Ba thích bán thịt, ham uống rượu, những nước cờ không còn phóng khoáng mà tủn mủn, vô hồn… Bao thói hư tật xấu bị nhiễm độc đã bị xác hàng thịt vạch trần: cái đêm ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại”; đó là cảm giác xao xuyến tước những món ăn mà trước đây hồn luôn cho là “phàm”; đó còn là lần ông tát thằng con “tóe máu mồm máu mũi”… Hoàn toàn không thấy một Trương Ba hiền lành, hiểu chuyện như trước mà chỉ còn đó một con người với tính cách thô lỗ, hung bạo, phàm tục. Nếu Chí Phèo tha hóa mà không biết mình tha hóa, thì Trương Ba lại nhận thấy rất rõ tình trạng khốn khổ của mình. Cho dù không muốn thừa nhận, cho dù muốn bám víu vào trò chơi tâm hồn thì Trương Ba vẫn không thể phủ nhận sự thật là ông đang đánh mất mình “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta à, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta”. Dù luôn tỏ ra khinh bỉ nhưng thói dung tục phàm thượng của xác hàng thịt, nhưng hồn Trương Ba giờ đây chẳng thể nào phủ nhận hay bao biện cho thói xấu của mình nữa. Ông hoàn toàn đuối lý trước lời buộc tội đanh thép của hàng thịt. Sự tha hóa của Trương Ba là do hòa nhập thiếu kiên định giữa hồn và xác. Ông dù thanh cao nhưng không thể tránh được những dung tục đời thường, sảy chân sa vào bi kịch mà không thể rút ra được. Trương Ba dần bị mọi người xung quanh xa lánh, hắt hủi, kể cả những người ông từng rất tin yêu. Đó là cái giá phải trả cho sự tha hóa nhân tính.

Sau sự tắc trách của Nam Tào, Trương Ba dù được trả lại cuộc sống nhưng đó là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị dung tục đồng hóa. Chỉ qua đoạn đối thoại ngắn gọn giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã tái hiện được sự bi kịch bị tha hóa đánh mất nhân lương của con người giữa đời thường: dù thanh cao thế nào mà sống không có chính kiến thì cũng mau chóng bị nhiễm độc mà hoen ố nhân lương.

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân - mẫu 4

Lưu Quang Vũ là một nhà viết kịch tài năng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Qua Hồn Trương Ba, da hàng thịt, tác giả muốn gửi gắm thông điệp được sống là người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn cố và theo đuổi còn quý giá hơn. Đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và người thân đã góp phần thể hiện được điều đó.

Vở kịch có nội dung chính kể về nhân vật, Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích đã cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa chết. Khi trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, ngay đến gia đình của ông cũng cảm thấy xa lạ... Bản thân Trương Ba cũng đau khổ vì phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt là khi xác anh hàng thịt đã làm cho Trương Ba nhiễm một vài thói xấu. Trước nguy cơ bị tha hóa, ông đã quyết định trả lại xác cho anh hàng thịt, còn mình thì chấp nhận cái chết.

Đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân diễn ra ngay sau đoạn đối thoại của hồn Trương Ba với xác anh hàng thịt. Đối với người vợ, Trương Ba trong xác anh hàng thịt đã dần trở thành một kẻ vô tâm, vô tình, chỉ biết đến bản thân, một kẻ vị kỷ, đáng trách. Bà oán trách chồng, có ý định nơi khác: “ Tôi nói thật đấy... ông Trương Ba ạ, tôi đã nghĩ kĩ: Có lẽ tôi phải đi...Chưa biết! Đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được... đi biệt... (rưng rưng). Để ông được thảnh thơi... với cô vợ người hàng thịt... Còn hơn là thế này…”.

Rồi đến cái Gái, đứa cháu mà ông hết mực yêu thương. Giờ đây, nó cũng không chịu nhận ông mình: “Tôi không phải là cháu ông... Ông nội tôi chết rồi”. Cái Gái yêu quý ông bao nhiêu thì bây giờ nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cư Tị trong cơn sốt mê man vẫn cứ khóc. Với nó, “ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Vì quá yêu thương, tôn thờ ông nội, cái Gái thà tin rằng ông nội đã chết. Chứ nó cũng không chấp nhận một người ông đã thay đổi quá nhiều.

Cuối cùng là cuộc đối thoại với người con dâu. Hồn Trương Ba cảm thấy được an ủi phần nào khi có người đồng cảm với mình. Chị cảm thấy đau đớn, xót xa trước hoàn cảnh của hồn Trương Ba: “Hơn xưa nữa, thưa thầy. Hơn cả hôm thầy mới từ nhà người hàng thịt trở về. Bởi con biết giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm…”. Nhưng chị cũng sợ hãi, lo lắng trước sự thay đổi của bố chồng: “Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”.

Mỗi người trong gia đình từ vợ, con dâu đến cháu gái - họ ở những vị trí khác nhau. Nhưng họ đều nhận ra sự thay đổi của Trương Ba. Điều đó đã khiến cho chính bản thân hồn Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông.

Tóm lại, với nghệ thuật xây dựng tình huống xung đột kịch độc đáo, ngôn ngữ đối thoại đậm chất triết lí, độc thoại nội tâm giúp bộc lộ tính cách nhân vật…, Lưu Quang Vũ đã giúp người đọc cảm nhận được những quan niệm nhân sinh sâu sắc.

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân - mẫu 5

Lưu Quang Vũ là một hiện tượng của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX, là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam. Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một vở kịch nổi tiếng của ông với nhiều tư tưởng nhân văn cao đẹp. Mà đoạn trích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với người thân đã góp phần thể hiện điều đó.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng. Đây là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, được công diễn nhiều lần ở trong nước và ngoài nước. Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích đã cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa chết. Khi trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, ngay đến gia đình của ông cũng cảm thấy xa lạ... Bản thân Trương Ba cũng đau khổ vì phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt là khi xác anh hàng thịt đã làm cho Trương Ba nhiễm một vài thói xấu. Trước nguy cơ bị tha hóa, ông đã quyết định trả lại xác cho anh hàng thịt, còn mình thì chấp nhận cái chết.

Sau cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Trương Ba đã xây dựng một cuộc đối thoại tiếp theo, giữa hồn Trương Ba và người thân trong gia đình. Mở đầu là cuộc đối thoại với người vợ của Trương Ba. Vợ Trương Ba thầm trách chồng đã thay đổi: “ Ông bây giờ còn biết đến ai nữa? Cu Tị ốm thập tử nhất sinh, từ đêm qua tới giờ bắt đầu mê man, mẹ nó khóc đỏ con mắt. Khổ! Thằng bé ngoan là thế! Cái Gái thương bạn, ngơ ngẩn cả người... Không hiểu thằng bé có qua khỏi được không, khéo mà... (một lát) Cái thân tôi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh!”. Bà cảm thấy vô cùng đau đớn trước sự thay đổi của Trương Ba: “Ông đâu còn là ông”, một mực muốn rời khỏi gia đình “đi cày thuê làm mướn ở đâu cũng được… đi biệt”. Còn đối với đứa cháu gái mà ông hết mực yêu thương, từng gắn bó và thân thiết với ông nội thì nay lại không chịu nhận ông, cho rằng ông nội của mình đã chết mà thay vào đó là một Trương Ba vô cùng vụng về, thô lỗ: “Ông nội tôi chết rồi. Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông! Ông dám nhận là ông nội, dám đụng vào cây cối trong vườn của ông nội tôi”. Thậm chí còn cấm ông nội: “Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn của ông tôi nữa!... chân ông to bè như cái xẻng, giẫm nát lên cả cây sâm quý mới ươm”. Cuối cùng là với người con dâu. Tuy chị cảm thông cho bố chồng: “Hơn xưa nữa, thưa thầy. Hơn cả hôm thầy mới từ nhà người hàng thịt trở về. Bởi con biết giờ thầy khổ hơn xưa nhiều lắm... (khẽ) Mà u con cũng khổ hơn nhiều lắm. U đã định bỏ đi đâu thật xa, cho thầy được thảnh thơi. Nhà ta như sắp tan hoang ra cả…”. Nhưng chị vẫn thầm trách bố chồng vì sự thay đổi của ông: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhoà mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa... Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”. Chị đã không nhận ra được Trương Ba của trước đây nữa.

Mỗi người trong gia đình ở một vị trí, một thái độ khác nhau nhưng đều có điểm chung là thấy Trương Ba đã thay đổi, không còn nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Và từ đó, Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông. Chính cuộc đối thoại với những người thân trong gia đình khiến Trương Ba cảm thấy dằn vặt, đau đớn. Từ đó, ông đã đưa đến quyết định, sẽ chết đi để trả lại xác cho anh hàng thịt.

Như vậy, cuộc đối thoại đã góp phần thể hiện được tư tưởng của nhà văn. Được sống là người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn cố và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân - mẫu 6

Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ đã gây được tiếng vang lớn. Đặc biệt, qua vở kịch này, tác giả đã cho thấy nỗi đau khổ tuyệt vọng của hồn Trương Ba khi đối thoại với người thân.

Người vợ đã bộc lộ sự buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà “đi đâu cũng được... còn hơn là thế này”. Bà thầm trách Trương Ba đã hoàn toàn thay đổi: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”.

Tiếp đến là cái Gái, đứa cháu nội ông hết mực yêu chiều. Một người đàn ông có thân hình to lớn, cục mịch lại vụng về làm sao có thể là ông của nó được. Chính vì vậy, Nó một mực khước từ tình thân: “Tôi không phải là cháu ông... Ông nội tôi chết rồi”. Cái Gái yêu quý ông bao nhiêu thì bây giờ nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm" trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cư Tị trong cơn sốt mê man vẫn cứ khóc. Với nó, “ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ cái Gái biến thành sự xua đuổi quyết liệt “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! lão đồ tể, cút đi!”.

Đến người con dâu là người sâu sắc, chín chắc, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm khổ hơn xưa nhiều lắm. Những nỗi buồn đau trước cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả như lệch lạc, nhoà mờ dần đi. đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa...”. Tất cả những người thân yêu của hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ ngày chôn xác Trương Ba xuống đất họ đau, họ khổ, nhưng “cũng không khổ bằng bây giờ”

Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với bán thân mình cứ lớn dần... lớn dần, muốn đứt từng, muốn vọt trào. Đặc biệt sau hàng loạt câu hỏi có vẻ tuyệt vọng của chị con dâu: “Thầy ơi, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vỏ tốt lành như thầy của chúng con ngày xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?” thì dường như hồn không thể chịu đựng hơn được nữa.

Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi, cái thân xác không phải của ta ạ... Nhưng lẽ nào ta tại phải chịu thua mày”, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng lẽ không còn cách nào khác!” Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Có thật không còn: cách nào khác? Không cần đến đời sống do mày đem lại! Không cần!” - Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.

Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân đã giúp cho Trương Ba đưa ra những quyết định quan trọng ở sau phần sau tác phẩm. Từ đó, nó cũng góp phần thể hiện tư tưởng nhân văn của đoạn trích.

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân - mẫu 7

“Con người sinh ra không phải để tan biến đi như một hạt cát vô danh. Họ sinh ra để in dấu lại trên mặt đất, in dấu lại trong trái tim mọi người”. Nếu mỗi con người sinh ra để làm tròn nghĩa vụ ấy cho đến suốt cuộc đời thì Lưu Quang Vũ (1948 – 1988), nhà biên kịch lớn của nền văn học Việt Nam đã làm lên điều ấy bằng tác phẩm “Hồn Trương Ba da hàng thịt”. Đặc biệt là nhà văn đã xây dựng cuộc đối thoại của hồn Trương Ba với người thân.

Bi kịch của hồn Trương Ba được Lưu Quang Vũ khắc họa qua đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân là bi kịch không được thừa nhận. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác kết thúc. Hồn Trương Ba trong xác anh hàng thịt đang ngồi lặng lẽ bên cái chõng, thì vợ bước vào hỏi: “Cái Gái chưa về hả ông?” Hồn Trương Ba thẫn thờ trả lời: “Chưa”. Vợ Trương Ba tiếp tục giải thích: “Nó sang nhà cu Tị từ sớm. Cu Tị bị ốm nặng”. Hồn Trương Ba không giấu sự ngạc nhiên nói: “Ốm nặng? Vậy mà tôi không biết”.

Hai lời thoại đầu chỉ mang tính giao tiếp thông thường chẳng một dấu hiệu gì mang đến cơn sóng gió tiếp theo cho Trương Ba lúc này thì từ lời thoại thứ ba: “Ông bây giờ con biết đến ai nữa. Cu Tị ốm thập tử nhất sinh… Khổ thằng bé ngoan là thế… Cái thân tôi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh”. Đây là sự thay đổi hoàn toàn cảm xúc của cái hờn trách, giận dỗi và chua xót của cái tủi thân tủi phận mà bất lực. Không để vợ nói tiếp nữa, Hồn Trương Ba cắt ngang: “Sao bà lại nói thế?”.

Nghe chồng nói, người vợ đi thẳng vào vấn đề mà bà đang ấm ức: “Tôi nói thật đấy… Ông Trương Ba ạ, tôi đã nghĩ kĩ… Có lẽ tôi phải đi”. Hồn Trương Ba hỏi lại: “Đi đâu?”. Người vợ tiếp tục nói thực lòng với bao hờn dỗi: “Chưa biết! Đi cấy thuê làm mướn… đi biệt để ông được thảnh thơi… với cô vợ người hàng thịt… Còn hơn là thế này?”.

Nghe vợ nói, Hồn Trương Ba chỉ còn biết kêu gào: “Bà! Sao lại đến nông nỗi này?”. Đó là sự bất lực, đau đớn của hồn Trương Ba trước lời nói của người vợ. Để rồi người vợ phải lên tiếng giải thích: “Chỉ tại bây giờ… ông đâu còn là ông Trương Ba nữa… Thằng Cả đã quyết định bán khu vườn để có tiền mở thêm vốn liếng cửa hàng thịt”. Hồn Trương Ba quá ngạc nhiên nói: “Thật sao? Không được!”. Nghe chồng phản đối bà vợ: “Ông bảo không được nhưng tôi biết sự thể sẽ dẫn đến như vậy. Ông sẽ đành ưng chịu như vậy”.

Người vợ của Trương Ba dù rất mực yêu thương chồng, giàu lòng vị tha nhưng cuối cùng vẫn rơi vào sự bế tắc. Những dấu ba chấm kết hợp với câu cảm thán và các từ “rưng rưng… khóc…” đã diễn tả đầy đủ sự buồn bã, bất lực. Trong cuộc đối thoại với vợ, hồng Trương Ba chỉ sử dụng câu ngắn, câu hỏi liên tiếp cùng với đó là các câu cảm thán đã cho thấy sự thảng thốt, ngỡ ngãng tê sót của ông. Kết thúc đợt thoại này Hồn Trương Ba chỉ còn biết ngồi xuống tay ôm đầu.

Khi Hồn Trương Ba ngẩng lên thì thấy cái Gái đứng trước mặt. Ông đã kêu đứa cháu như là để cầu cứu: “Gái, cháu!”. Đó đã không còn chỉ là lời gọi thông thường nữa mà là tiếng kêu của một trái tim được phát ra từ miệng khát khao có một điểm tựa, sự đồng cảm cầu cứu. Có lẽ lúc đó hồn Trương Ba tưởng rằng đứa cháu gái bé bỏng sẽ sà vào lòng thì trái lại, cái Gái đã phản ứng quyết liệt và dữ dội: “Nó lùi lại nói đã tạo nên một khoảng cách không chỉ về mặt không gian mà còn cả về tâm hồn giữ ông và cháu sau đó lại nói: “Tôi không phải là cháu của ông”.

Câu nói như là gáo nước lạnh phũ phàng tạt thẳng vào mặt Hồn Trương Ba. Nhưng Hồn Trương Ba vẫn giữ bình tĩnh dịu giọng nhẫn nhục giải thích, khẳng định: “Ông đúng là ông nội cháu. Nếu ông nội tôi hiện về được sẽ bóp cổ ông”. Hồn Trương Ba vẫn cố ra sức thuyết phục bằng những chứng cứ mặc cho sự đe dọa từ đứa cháu gái: “Sáng nào ông cũng ra cuốc xới chăm chút cây cối ngoài vườn… chỉ có ông nội cháu mới biết quý cây như thế”.

Cố giải thích cho đứa cháu giải thích thì Trương Ba càng về sau giọng nói càng ngập ngừng; những dấu ba chấm xuất hiện liên tục đã là sự ngập ngừng bế tắc không giải thích được. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái, cháu ông giờ đây đã không cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân.

Chính vì quá yêu thương nên giờ đây nó không thể chấp nhận, cũng không thể nào mở lòng mình đớn nhận con người trước mặt mình cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong mảnh vườn của ông nội. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó, “ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”.

Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự kết tội, ruồng bỏ xua đuổi người thân yêu: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi”. Như vậy cái Gái là người yêu thương gắn bó với ông hết mực. Ông mất, đêm nào nó cũng khóc, nâng niu từng chút kỉ niệm của ông. Bây giờ lại phản ứng dữ dội. Những lời nói của đứa cháu nhỏ, thêm một lần nữa xoáy khoét vào nỗi đau sâu thẳm của ông, để ông cảm nhận thấm thía bi kịch bị chính những người thân yêu chối bỏ.

Cuối cùng là cuộc đối thoại với chị con dâu. Sau cuộc đối thoại với cái Gái, chị con dâu ở trong nhà bước ra nghe thấy những lời cuối cùng con. Chị vừa gọi theo con gái: “Gái, quay lại đây, Gái”. Rồi chị lại quay sang nói với Hồn Trương Ba: “Thầy, thầy đừng giận con trẻ… Chỉ tại nó nghĩ thầy không phải là ông nội nó, con dỗ dành thế nào nó cũng không nghe (rưng rưng) khổ thân thầy”. Hồn Trương Ba cảm thấy ấm lòng: “Đến lúc này, cả nhà chỉ một mình con vẫn thương thầy như xưa”.

Người con dâu khẳng định thêm: “Hơn xưa nữa… nhưng thầy ơi con sợ lắm… mỗi ngày thầy một đổi khác dần… có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa… làm sao giữ được thầy ở lại hiền hậu vui vẻ tốt lành như thầy của chúng con xưa kia?”. Hồn Trương Ba lại tiếp tục thất vọng buồn rầu nói: “Giờ thì con cũng…”. Người dâu vội chữa lại nói: “Thầy đừng giận nếu con đã nói điều gì không phải”. “Không ta không giận. Cảm ơn con đã nói thật. Bây giờ thì đi đi, cho ta được ngồi yên một lát”.

Trương Ba như được an ủi phần nào, bởi nhận ra cái Gái rất thương ông, ông nghĩ cô con dâu sẽ là điểm tựa để sẻ chia tâm sự. Nhưng trước những lời nói vừa yêu thương, vừa thẳng thắn của cô con dâu Trương Ba lặng ngắt như đá tảng đau khổ đến cùng cực đầy sợ hãi. Có lẽ lúc ấy Trương Ba giống như người đứng trước một cái vực thẳm sâu hoắm khắc khoải cần một ai đó níu giữ nhưng kết quả vẫn là sự bế tắc đi vào vô vọng.

Như vậy, những người trong gia đình Trương Ba, người tủi thân (vợ), người thì tức tưởi xua đuổi (cháu gái) ; người thì lại thấu hiểu sẻ chia (con dâu) nhưng họ vẫn nhận ra và đau khổ trước sự thay đổi của Trương Ba. Tuy yêu quý, muốn níu giữ Trương Ba xưa tìm giải pháp để thoát khỏi hoàn cảnh nhưng trớ trêu thay đều bất lực. Đó là bi kịch của Hồn Trương Ba càng bị đẩy lên tới điểm đỉnh.

Những người thân thiết nhất cũng không chấp nhận nỗi tình trạng hai mảnh hồn, người bất nhất của chồng, cha, ông mình. Không còn gia đình nền tảng của một sự bấu víu hi vọng vào mặt đất không có ý nghĩa và dường như cũng chẳng còn tồn tại. Trương Ba hiểu mình đã mất tất cả rơi vào trạng thái hoàn toàn cô độc.

Màn đối thoại giữa Trương Ba với người thân giúp ông hiểu tất những gì mình đã, đang gây ra và có lẽ nếu tồn tại tiếp tục bi kịch ấy sẽ còn tiếp diễn và thiêu chiều hướng tiêu cực hơn nữa. Trương Ba sống làm gì khi mà điều hồn còn sống là để mang lại hạnh phúc cho người thân hoàn toàn trái ngược lại, vô nghĩa lý. Từ đó hồn Trương Ba suy nghĩ về việc lựa chọn cách lựa chọn cách sống, một cách phục sinh tâm hồn như đã mà dần, tan biến dân ấy mở ra cho Trương Ba những thử thách mới, lựa chọn mới trong cuộc đối thoại với Đế Thích.

Tóm lại, đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân đã giúp góp phần thể hiện được nhiều điều ý nghĩa.

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân - mẫu 8

Lưu Quang Vũ là một nhà soạn kịch, nhà thơ tài năng bậc nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt là trong giai đoạn sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thành công. Lưu Quang Vũ từng tham gia chiến đấu đồng thời cũng lại sống trong giai đoạn đất nước chuyển mình, còn nhiều khó khăn, thế nên ông là người nhìn rõ nhất bộ mặt của xã hội lúc bấy giờ, tất cả đều được ông đưa vào các sáng tác của mình.

Trong đó ở mảng kịch, Lưu Quang Vũ đạt nhiều thành tựu nhất với gia tài hơn 50 vở kịch chỉ trong khoảng thời gian gần 10 năm sáng tác và hầu hết các tác phẩm đều đã được dựng và công diễn trên các sân khấu lớn nhỏ, nhận được sự ủng hộ và yêu quý của người dân Việt Nam thời bấy giờ. Trong số đó Hồn Trương Ba da hàng thịt là vở kịch dựng lại nhiều nhất và cũng nổi tiếng nhất, điều đó không chỉ đến từ cốt truyện hấp dẫn, kỳ ảo, mà còn nằm ở các giá trị nhân văn, các bài học triết lý mà Lưu Quang Vũ muốn truyền tải đến người đọc, người xem.

Vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt được dựng lại dựa vào một cốt truyện dân gian. Truyện kể về việc sống lại thần kỳ của Trương Ba trong xác hàng thịt sau khi bị Nam Tào gạch nhầm tên trong sổ tử. Câu chuyện kết thúc có hậu khi Trương Ba sống lại, trở về bên người thân trong thân xác của anh hàng thịt.

Trong vở kịch của Lưu Quang Vũ, ông không chỉ đơn thuần nói về cái câu chuyện sống lại hoang đường của hồn Trương Ba trong xác hàng thịt mà đi sâu vào nội tâm của các nhân vật, tinh tế và sáng tạo, mở ra một góc nhìn mới. Vở kịch tập trung khai thác bi kịch của Trương Ba phải sống kiểu chắp vá hồn một đằng xác một nẻo, luôn phải đấu tranh để giữ lại cái sự thanh cao, thánh thiện của tâm hồn, luôn phải chống lại những cái dung tục tầm thường, chống lại sự sai khiến của xác thịt đui mù.

Trương Ba vốn là một người đàn ông hiền lành, chăm chỉ, có một gia đình hạnh phúc, êm ấm, tính tình thanh cao, thích chăm sóc vườn tược, lại có tài chơi cờ, khiến Đế Thích cũng yêu quý mà tìm tới làm bạn. Bi kịch bắt nguồn từ sự tắc trách của Nam Tào khi lỡ tay gạch nhầm tên Trương Ba trong sổ sinh tử khiến ông bị chết oan.

Mãi đến một tháng sau Đế Thích mới biết tin thì đã muộn, nhưng vì quá nuối tiếc người bạn cờ, thế nên ông đã tìm cách thương lượng với Nam Tào cho Trương Ba được sống lại trong xác anh hàng thịt vừa mới chết. Những tưởng Trương Ba sẽ được sống lại một cuộc đời mới, tiếp tục hạnh phúc bên gia đình, vui vầy với vườn tược nhưng không, sự sống lại một cách kỳ lạ, đã đem đến cho Trương Ba và những người thân của ông những bi kịch khốn khổ, xuất phát từ sự thay đổi tính nết, từ những mâu thuẫn giữa hồn và xác.

Trong đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt, lúc này Trương Ba đã bắt đầu nhận ra sự thay đổi của bản thân, ông dần sa ngã, chiều chuộng theo những sở thích của cái xác, mà quên đi những thói quen, những thú vui xưa kia của mình. Sự thực ấy khiến Trương Ba vô cùng đau khổ và dằn vặt khi phải luôn đấu tranh chống lại những ý muốn tầm thường của xác thịt để giữ lại cho mình sự trong sạch, thanh cao một đời gìn giữ.

Trương Ba muốn rời khỏi xác thịt, muốn thoát khỏi bi kịch tha hóa của bản thân. Trương Ba đã có cuộc tranh luận gay gắt xác người hàng thịt, tuy nhiên trong trận tranh cãi ấy, Trương Ba lại trở thành kẻ đuối lý, liên tục bị cái xác vạch trần, mỉa mai, thậm chí là chế giễu, điều đó khiến ông vừa đau khổ vừa căm tức.

Cuộc đối thoại giữa hồn và xác kết thúc trong sự bế tắc và đau khổ của Trương Ba, chuyển cảnh sang cuộc đối thoại giữa ông và những người thân trong gia đình, lúc này đây người ta lại thấy được một bi kịch khác của nhân vật này, bi kịch bị chính những người thân yêu nhất chối bỏ.

Thoạt đầu chính là người vợ kết tóc của Trương Ba, sau một thời gian chứng kiến quá nhiều sự thay đổi chóng mặt của chồng, bà trở nên chán nản và đau khổ, chính lẽ đó bà muốn bỏ nhà đi thật xa để không còn phải thấy cảnh chồng mình ngày càng trở nên khác lạ, tha hóa theo những thói xấu, tầm thường dung tục như biến thành một người khác, cũng để cho Trương Ba được sống cuộc đời mà ông muốn. Trương Ba nghe thấy thế thì thấy sững sờ và càng trở nên bàng hoàng trước sự thay đổi của người vợ kết tóc.

Đến khi gặp cô cháu gái mà ông yêu quý nhất, phản ứng của cô bé lại càng khiến ông trở nên đau khổ đến tột cùng, cô bé đã thẳng thừng từ chối tình cảm của ông. Nó chối bỏ ông nội của mình trong thân xác của anh hàng thịt chỉ bởi lẽ nó thấy ông thay đổi quá, không còn khéo léo, yêu cây, yêu vườn như xưa mà trở thành kẻ tội đồ phá hoại hết tất cả những cây cỏ mà ông nội của nó trước đây đã dày công gây dựng.

Rồi nghiêm trọng nhất là việc ông đã phá hỏng chiếc diều mà cu Tị yêu thích nhất, giờ thằng bé lại ốm nặng, điều đó khiến cái Gái buồn khổ vô cùng. Nó vì quá thương người ông trước kia, vì thương cu Tị mà đã lớn tiếng trách móc “Ông xấu lắm! Ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể!”. Những lời nói tuyệt tình ấy dường như giáng một cú thật mạnh vào lòng Trương Ba khiến ông bàng hoàng và đau đớn vô cùng, đồng thời cũng ngày càng nhận thức rõ rệt sự thay đổi của bản thân đã đem đến những tấn bi kịch kinh hoàng cho biết bao con người trong gia đình và cả ông.

Cho đến khi gặp người con dâu, Trương Ba mới chính thức hiểu rõ được bản thân mình đã thay đổi đến độ nào, thông qua đoạn thoại “mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòe mờ dần đi,… đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Những lời tâm sự ấy, đã khiến Trương Ba hoàn toàn bình tĩnh trở lại, ông đã thức tỉnh, nhận ra sự sa ngã nghiêm trọng của bản thân, đồng thời tìm cách để giải thoát cho bản thân, cũng như mở nút thắt cho tấn bi kịch của gia đình do sự sống lại kỳ dị của ông đã gây ra.

Trương Ba tìm gặp Đế Thích nói với ông bạn cờ của mình những trăn trở trong lòng, bày tỏ mong muốn được rời khỏi xác hàng thịt, ông không muốn sống cuộc sống hồn này xác kia đầy đau khổ nữa, muốn tìm lại chính mình, tìm lại một Trương Ba trong sạch, thanh cao được mọi người yêu quý, tôm trọng chứ không phải cái cảnh bị chối bỏ đầy đau lòng.

Ông không còn coi trọng việc sống chết, được mất ở đời, Trương Ba quyết định từ bỏ cuộc đời hồn một đằng xác một nẻo ở nhân thế, để được trở lại là một Trương Ba toàn vẹn, được sống và chết là chính bản thân mình, không bị bất kỳ thế lực nào chi phối.

Hồn Trương Ba da hàng thịt là một vở kịch chứa đựng nhiều ý nghĩa và giá trị nhân văn tốt đẹp khi thông qua câu chuyện sống lại đầy kỳ dị trong xác anh hàng thịt của hồn Trương Ba để khẳng định chân lý về sự tồn tại thống nhất giữa linh hồn và thể xác. Mà một khi vượt ra ngoài chân lý ấy, cố gắn ghép, chắp vá một cách gượng ép, chống lại quy luật nhân sinh đều sẽ gây ra những bi kịch đau khổ, nó không chỉ là bi kịch cho một người mà là tất thảy những ai có liên quan.

Bên cạnh đó Lưu Quang Vũ còn muốn đem đến bài học về việc con người luôn phải liên tục đấu tranh với bản thân, với sự thèm muốn những thứ dung tục, tầm thường, để không ngừng hoàn thiện bản thân, giữ được một tâm hồn cao đẹp, thánh khiết, để lại tiếng thơm đến muôn đời sau.

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân - mẫu 9

Lưu Quang Vũ (1948-1988) là nhà thơ, nhà văn và nhà soạn kịch nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại, và đặc biệt thành công trong thể loại kịch nói.

Dù có đời sáng tác không dài chỉ trong khoảng 10 năm, thế nhưng Lưu Quang Vũ đã để lại cho nền văn học nước nhà tới gần 50 vở kịch có giá trị, phản ánh rõ những thực trạng của đất nước và con người đương thời, đặc biệt là ở giai đoạn những năm 80, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nhưng con người vẫn chưa kịp thích nghi còn bị chi phối bởi những điều cũ dẫn tới tình trạng mâu thuẫn giữa cá nhân và tập thể.

Trong số nhiều vở kịch được dàn dựng của Lưu Quang Vũ thì Hồn Trương Ba da hàng thịt là vở kịch nổi tiếng và được dựng lại nhiều nhất. Tác phẩm thu hút người đọc người xem không chỉ ở cốt truyện hấp dẫn mà còn nằm ở những triết lý sống rất sâu sắc được thể hiện thông qua các nhân vật, về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, về lối sống thanh bạch, về mối quan hệ tình cảm giữa con người với nhau,… tất cả đã làm nên sức hấp dẫn qua nhiều năm của tác phẩm.

Bối cảnh câu chuyện xảy ra trong một tình huống dở khóc dở cười của nhân vật Trương Ba, mà sau đó nó đã diễn tiến dần trở thành bi kịch tồi tệ nhất trong cuộc đời ông cũng như đối với cả gia đình ông. Trương Ba vốn là một nông dân có cuộc đời viên mãn, sống hiền lành bên vợ con và các cháu, ông không chỉ khéo léo trong công việc vườn tược mà còn là một người có tài đánh cờ rất hay. Cũng chính nhờ cái tài đánh cờ ấy mà ông trở thành người bạn tâm giao của Đế Thích, hai người thường xuyên đấu cờ với nhau rất vui vẻ.

Tuy nhiên thật không may rằng, trên Thiên Đình trong lúc Nam Tào và Bắc Đẩu xem xét sổ sinh tử đã vô tình gạch nhầm tên của Trương Ba khiến ông phải nhận cái chết oan ức. Đúng lúc ấy, Đế Thích lại đi vắng thế nên không thể cứu sống được Trương Ba, đến lúc trở về thì bạn cờ của ông đã chết được một tháng, phần hồn tuy còn nhưng xác đã hỏng cả, không thể cứu vãn.

Để cố cứu bạn mình Đế Thích bèn thương lượng với Nam Tào cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt mới chết. Trương Ba cuối cùng cũng sống lại, thế nhưng thay vì hạnh phúc sung sướng khi được đoàn tụ với gia đình thì ông lại lâm vào những bi kịch không hồi kết, bi kịch của việc hồn một đằng xác một nẻo!

Trương Ba sống lại một cách “kỳ dị”, đồng thời phải đối diện với hai gia đình, hai người vợ, mà nói cách nào ông cũng không thể bỏ bên này đến bên kia. Đồng thời ngoài sự giằng xé thân tình, Trương Ba còn phải chịu đựng sự giằng xé giữa tâm hồn và thể, ông luôn phải tranh đấu quyết liệt với những ham muốn tầm thường của xác thịt để bảo vệ cái phần hồn thánh khiết mà ông vẫn tự hào.

Sau màn tranh cãi nảy lửa giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, và phần thắng thuộc về cái xác, Trương Ba rơi vào cảnh trầm tư, với hàng vạn nỗi đau khổ trong lòng. Đang lúc ấy, người vợ của ông về đến, và nói ra ý định ra đi của mình, điều này lại tiếp tục mở ra một bi kịch khác trong câu chuyện – bi kịch tan ra của một gia đình.

Người vợ bấy lâu vẫn gắn bó với Trương Ba, sau khi chứng kiến sự thay đổi quá nhiều của người chồng, không còn là người chồng trước đây mà bà yêu quý, tôn thờ nữa, nên bà muốn dứt áo ra đi, để mắt không trông thấy thì không còn đau khổ nữa, cũng để cho Trương Ba được thanh thản làm những việc mình muốn. Thêm vào đó là câu chuyện người con trai của Trương Ba muốn bán đi khu vườn, vốn là tâm can của ông để hành nghề mổ lợn, ấy thế là khu vườn nơi lưu dấu biết bao nhiêu kỷ niệm của gia đình, là nơi một tay Trương Ba săn sóc tỉ mẩn cũng sắp tiêu tán mất.

Trương Ba đối diện với từng sự việc ấy chỉ biết ôm đầu đau khổ, khi ông nhìn thấy đứa cháu gái mình thương yêu nhất, ông đã như tìm được ngọn cỏ cứu mạng, thế nhưng sự lạnh lùng, chối bỏ của đứa cháu đã như cắt vào tim của Trương Ba, khiến ông đau đớn khôn nguôi. Cái Gái không chịu nhận người trước mắt là ông nội, trong mắt nó Trương Ba trong xác hàng thịt là một kẻ thô lỗ cục cằn, bàn chân to bản đã xéo nát hết cả đám sâm quý mới ươm, đôi tay giết lợn đã làm gãy tiệt cả cái chồi non mới nhú.

Sự vụng về tệ hại ấy đã khiến đứa bé căm ghét đến tận cùng, đối với nó kẻ trước mắt này đang phá hoại hết tất cả những gì mà ông nó dày công gây dựng, chăm sóc cả đời. Rồi cả việc Trương Ba làm hỏng cái diều của cu Tị, thằng bé hàng xóm đang bị ốm nặng gần hấp hối, điều đó càng khiến cái Gái ấm ức và tức giận hơn. Con bé bỏ chạy, để lại Trương Ba thẫn thờ và ngơ ngác, thì người con dâu xuất hiện, cô vẫn kính trọng và thương cha chồng như xưa.

Và hơn ai hết cô chính là người thấu hiểu tất cả những nỗi đau và bi kịch của mọi người trong gia đình này, đồng thời cũng thẳng thắn chỉ ra những sự đổi khác của Trương Ba sau khi từ cõi chết trở về, “mọi thứ cứ lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi chính con cũng không nhận ra thầy nữa,…”

Những câu nói từ tận đáy lòng ấy đã thức tỉnh Trương Ba, để ông hoàn toàn chấp nhận sự thay đổi đáng sợ của mình, cũng từ đó nhìn rõ được căn nguyên của mọi bi kịch đó chính là sự tham lam sự sống, sự chắp vá gượng ép, khiên cưỡng khi mà hồn và xác chẳng có chút sự tương đồng nào cả. Từ đó hướng nhân vật đến cách tháo gỡ bi kịch, thoát khỏi cảnh đau khổ vì những sai lầm bấy lâu nay.

Hồn Trương Ba da hàng thịt là một tác phẩm có sức hấp dẫn và sâu sắc với nhiều triết lý nhân sinh được lồng ghép. Khẳng định sự thống nhất và liên quan chặt chẽ giữa phần hồn và phần xác, hai thứ vốn phải luôn đi chung, không thể tách rời, khẳng định tất mọi sự chắp vá xiên xẹo chỉ đều đem đến sự vô lý và nhiều bi kịch. Đồng thời tác phẩm cũng cổ vũ con người luôn hướng tới việc hoàn thiện nhân cách, phẩm giá, chiến thắng những cám dỗ tệ hại, lên án lối sống trong ngoài bất nhất, không lành mạnh.

Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và người thân - mẫu 10

Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt vốn là một câu chuyện dân gian có từ lâu đời đã được tác giả Lưu Quang Vũ xây dựng thành một vở kịch nói hiện đại, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân văn sâu sắc. Vở kịch được công diễn nhiều lần trong và ngoài nước, được dư luận đánh giá tà một trong những vở kịch làm nện tên tuổi Lưu Quang Vũ.

Nội dung vở kịch tóm tắt như sau; Trương Ba là một người làm vườn có tài chơi cờ tướng. Vì sự nhầm lần của Nam Tào (vị quan trên Thiên đình trông coi về việc sinh tử của con người dưới trần gian) nên Trương Ba chết oan. Để sửa sai Nam Tào cùng Đế Thích (tiên cờ) làm cho Trương Ba sống lại trong thân xác anh hàng thịt. Mọi chuyện rắc rối xảy ra từ đây. Trương Ba bị làm phiền liên tục, bị người thân sợ hãi, xa lánh. Bản thân Trương Ba cũng, rất “khó chịu vì phải sống trong thân xác không phải của mình”.

Cuối cùng ông đã quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt và chấp nhận cái chết thực sự để giải thoát cho mình. Đoạn trích là đoạn kết, tập trung phản ánh tư tưởng chủ đề của vở kịch: Bi kịch của con người khi bị đặt vào nghịch cảnh phải sống nhờ, sống tạm và trái tự nhiên khiến tâm hồn nhân hậu bị tha hóa trước sự lấn át của thể xác phàm tục, thô lỗ. Vẻ đẹp tâm hồn của người lao động trong cuộc đấu tranh chống lại sự giả tạo và dung tục, bảo vệ quyền được sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.

Cả gia đình Trương Ba bị cuốn vào bi kịch bởi những điều lộn xộn, tréo ngoe do hồn một đằng xác một nẻo gây ra. Vợ Trương Ba thì trách móc chồng: ông bây còn biết đến ai nữa! Cu Tị ốm thập tử nhất sinh, từ đêm qua tới giờ bắt đầu mê man, mẹ nó khóc đỏ con mắt. Khổ! Thằng bé ngoan là thế!

Cái Gái thương bạn, ngơ ngẩn cả người… Không hiểu thằng bé có qua khỏi được không, khéo mà… Cái thân tôi thì sao trời lại không bắt đi cho rảnh! Bà muốn bỏ nhà mà đi. Bà nói như khóc: Tôi nói thật đấy… ông Trương Ba ạ, tôi đã nghĩ kĩ: Có thể tôi phải đi.. Đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng được… đi biệt. Để ông được thảnh thơi… với cô vợ người hàng thịt.. Còn hơn là thế này… Tôi biết, ông vẫn là người hết lòng thương yêu vợ con… Chỉ tại bây giờ… ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa…

Cái Gái, đứa cháu nội yêu quý của Trương Ba cũng tỏ thái độ gay gắt : Tôi không phải là cháu của ông! ông nội tôi chết rồi. Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông! Ông dám nhận là ông nội, dám đụng vào cây cối trong vườn của ông nội tôi.

Khi hồn Trương Ba cố gắng thanh minh:… sáng nào ông cũng ra cuốc xới chăm chút cây cối ngoài vườn, cháu không thấy sao: Chỉ có ông nội cháu mới biết quý cây như thế… thì cái Gái lại càng gào lên căm giận: Quý cây! Hừ, tôi phải rình lúc này, cà nhà đi vắng hết để đến nói với ông: Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn ông tôi nữa! Ông mà quý cây à? Sáng qua, tôi để ý lúc ông chiết cây cam, bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cà cây sâm quý mới ươm! Ông nội tôi đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy?

Chị con đâu của Trương Ba là người hiểu ông, thương ông nhất. Lúc đầu, chị chấp nhận tình cảnh trớ trêu của cha chồng vì thân xác tuy là của anh hàng thịt thô kệch nhưng tâm hồn ông vẫn thuần hậu như xưa. Chị nói: Thầy vẫn dạy chúng con : Cái bên ngoài có quan trọng gì, chì có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao sáng của con người ta là đáng kể. Nhưng đến lúc này, chị cũng thấy vừa thương vừa sợ.

Chị đau đớn, day dứt khi phải thật tình bộc bạch suy nghĩ của mình với cha chồng: …thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa… Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giờ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi! Chị con dâu đã nhận xét rất đúng, rất đầy đủ về tình cảnh nan giải của Trương Ba lúc này.

Lời nói của chị con dâu chứa đựng sự thực phũ phàng có tác dụng thức tỉnh hồn Trương Ba, thúc đẩy ông tới một sự lựa chọn một hành động đau xót nhưng quyết liệt. Đoạn độc thoại thể hiện sự dằn vặt khổ sở của hồn Trương Ba khi phải đối điện với chính mình.

Trương Ba tự đặt ra và trả lời những câu hỏi của lương tâm: Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm đủ mọi cách để lấn át ta… Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng còn cách nào khác”. Mày nói như thế hả? Nhưng có thật ta không còn cách nào khác? Không cần cái đời sống do mày mang đến. Không cần!

Sự giằng xé trong tâm trạng Trương Ba được tác giả vở kịch thể hiện tự nhiên, sinh động và chân thật. Muốn thoát khỏi tình huống khó xử và khó chịu như thế này, Trương Ba chì còn một cách là chấp nhận cái chết vĩnh viễn.

Hành động trả lại thân xác cho anh hàng thịt của Trương Ba là hành động đúng đắn, dũng cảm và hợp đạo lí. Điều đó khẳng định rằng: Một linh hồn dù tốt đẹp đến đâu nhưng phải trú ngụ trong một thể xác khác thì cũng không thể nào thấy thoải mái vì mặc cảm giả dối. Sống như thế thì không phải là sống theo đúng ý nghĩa của từ này mà chỉ là sự tồn tại đơn thuần mà thôi. Trương Ba chết nhưng tâm hồn tốt đẹp cua ông sẽ sống mãi trong tình yêu mến và nỗi tiếc nhớ của gia đình, bạn bè; làng xóm. Chết nhưng lại là vẫn sống.

Đoạn trích Hồn Trương Ba da hàng thịt tập trung cao độ tính chất triết lí và tư tưởng nhân văn của vở kịch có nguồn gốc dân gian này. Lưu Quang Vũ đã đưa vào vở kịch quan niệm đúng đắn về cách sống: Trước hết, mình hãy là mình. Cuộc sống của cá nhân chỉ thực sự. Có ý nghĩa khi biết sống vì niềm vui và hạnh phúc của mọi người vì sự tốt đẹp của cuộc đời.

Tư tưởng triết lí về con người của Lưu Quang Vũ vừa biện chứng vừa lạc quan, cao thượng. Tất cả những điểu đó được thể hiện bằng tài năng sáng tạo hiếm có của tác giả khiến vở kịch có sức cuốn hút lạ thường đối với khán giả. Lưu Quang Vũ xứng đáng là nhà biên kịch xuất sắc của sân khấu Việt Nam hiện đại.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 hay, ngắn nhất khác:


Các loạt bài lớp 12 khác