Phân tích bài thơ Bài hát về cố hương của Nguyễn Quang Thiều

Câu hỏi Phân tích bài thơ Bài hát về cố hương của Nguyễn Quang Thiều trong bài thơ Bài hát về cố hương thuộc bộ Ngữ liệu ngoài sgk dành cho học sinh lớp 9, lớp 12 đầy đủ câu hỏi đọc hiểu và viết có hướng dẫn chi tiết giúp Giáo viên có thêm tài liệu ôn tập cho học sinh ôn thi Văn vào lớp 10 hoặc Tốt nghiệp THPT đạt kết quả cao. Mời các bạn đón đọc:

Xem thử

Chỉ từ 150k mua trọn bộ 70 Ngữ liệu ngoài sgk lớp 12 phần Thơ bản word có lời giải chi tiết:

Nội dung bài thơ Bài hát về cố hương

BÀI HÁT VỀ CỐ HƯƠNG

(Nguyễn Quang Thiều)

Kính dâng làng Chùa của tôi

Tôi hát bài hát về cố hương tôi
Khi tất cả đã ngủ say
Dưới những vì sao ướt át
Và những ngọn gió hoang mê dại tìm về

Đâu đây có tiếng nói mê đàn ông bên mái tóc đàn bà
Đâu đây thơm mùi sữa bà mẹ khe khẽ tràn vào đêm
Đâu đây những bầu vú con gái tuổi mười lăm như những mầm cây đang nhoi lên khỏi đất
Và đâu đây tiếng ho người già khúc khắc
Như những trái cây chín mê ngủ tuột khỏi cành rơi xuống
Góc vườn khuya cỏ thức trắng một mình

Tôi hát bài hát về cố hương tôi
Trong ánh sáng đèn dầu
Ngọn đèn đó ông bà tôi để lại
Đẹp và buồn hơn tất cả những ngọn đèn
Thuở tôi vừa sinh ra
Mẹ đã đặt ngọn đèn trước mặt tôi
Để tôi nhìn mặt đèn mà biết buồn, biết yêu và biết khóc

Tôi hát bài hát về cố hương tôi
Bằng khúc ruột tôi đã chôn ở đó
Nó không tiêu tan
Nó thành con giun đất
Bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao
Bò quằn quại qua khu mồ dòng họ
Bò qua bãi tha ma người làng chết đói
Đất đùn lên máu chảy dòng dòng

Tôi hát, tôi hát bài ca về cố hương tôi
Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm
Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó
Kiếp này tôi là người
Kiếp sau phải là vật
Tôi xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ
Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi./.

1991

(Nguyễn Quang Thiều, Sự mất ngủ của lửa, NXB Lao Động, Hà Nội, 1992).

Câu hỏi: Anh/ chị hãy viết một bài văn nghị luận (khoảng 600 chữ) phân tích bài thơ “Bài hát về cố hương” của Nguyễn Quang Thiều.

- Đảm bảo yêu cầu về hình thức, dung lượng

+ Viết đúng hình thức bài văn đầy đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài.

+ Đảm bảo dung lượng khoảng 600 chữ.

- Xác định đúng vấn đề nghị luận: Phân tích bài thơ “Bài hát về cố hương” của Nguyễn Quang Thiều.

- Lựa chọn được các thao tác lập luận phù hợp; kết hợp nhuần nhuyễn lí lẽ và dẫn chứng; trình bày được hệ thống ý phù hợp theo bố cục ba phần của bài văn nghị luận. Có thể triển khai theo hướng:

* Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: một cây bút hiện đại, tiêu biểu cho thơ Việt đương đại, với phong cách độc đáo, giàu chất suy tưởng và biểu tượng.

- Dẫn dắt, giới thiệu bài thơ Bài hát về cố hương – một thi phẩm thể hiện nỗi hoài niệm, tình yêu sâu sắc, đầy ám ảnh và da diết với quê hương.

- Nêu luận đề: Bài thơ là tiếng hát xúc động, chân thành và giàu tính triết lí về cố hương – nơi lưu giữ nỗi buồn, ký ức và cả căn cước tâm hồn con người.

* Thân bài:

a. Khung cảnh cố hương trong đêm – nền không gian cho nỗi nhớ:

- Mở đầu bài thơ, nhà thơ cất “bài hát” khi “tất cả đã ngủ say”: thời khắc tĩnh lặng nhất, dễ khơi dậy nỗi nhớ.

- Hình ảnh “vì sao ướt át”, “gió hoang mê dại” tạo nên không gian huyền ảo, lãng đãng, thấm đẫm chất thơ và chất mộng.

- Gợi nhắc một miền quê vừa thực vừa hư, nơi ký ức và tâm tưởng giao hòa, là mảnh đất chứa đựng cả tình yêu, bản năng, và sự sống tiếp nối.

b. Cố hương hiện lên với những hình ảnh gần gũi, giàu cảm xúc và biểu tượng:

- Âm thanh và hương vị của đời sống:

+ “Tiếng nói mê đàn ông bên mái tóc đàn bà”, “mùi sữa bà mẹ”, “tiếng ho người già khúc khắc” – gợi một thế giới thân quen, đầy xúc cảm nhân sinh, vòng đời.

- Hình ảnh con gái tuổi dậy thì:

+ “Những bầu vú con gái tuổi mười lăm như những mầm cây” – biểu tượng cho sự sống, sự lớn lên, gắn với đất, với thiên nhiên.

- Cảnh vật quê nhà:

+ “Góc vườn khuya cỏ thức trắng một mình” – hình ảnh rất thơ, gợi nỗi cô đơn, lặng lẽ, như tâm hồn thi sĩ.

c. Ánh sáng của truyền thống và ký ức gia đình:

- Ngọn đèn dầu – vật biểu tượng cho truyền thống, sự kế thừa và nuôi dưỡng tâm hồn:

+ “Ông bà để lại”, “đẹp và buồn hơn tất cả những ngọn đèn” – vừa giản dị vừa thiêng liêng.

+ Mẹ đặt đèn cho con “biết buồn, biết yêu và biết khóc” → ánh sáng của cảm xúc, của nhân tính.

d. Mối gắn bó thiêng liêng với quê hương – bằng máu thịt và linh hồn:

- Tình yêu cố hương được nhà thơ nâng lên tầm tâm linh và bản thể học:

+ “Khúc ruột chôn ở đó”, “thành con giun đất” → sự gắn kết máu thịt với đất đai, âm thầm, bền bỉ.

+ Giun bò qua “mồ dòng họ”, “bãi tha ma người làng chết đói” – gợi ký ức tập thể đau thương và thiêng liêng.

e. Triết lí về vòng đời – khát vọng hóa thân để canh giữ cố hương:

- Nhận thức về quy luật sinh – tử:

+ “Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó” – thân xác trở về với đất, với làng.

+ Mong ước kiếp sau được làm “con chó nhỏ” để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi.”

→ “Nỗi buồn” trở thành báu vật, bởi nó gắn với ký ức, với giá trị hồn cốt của quê hương.

* Kết bài:

- Khẳng định giá trị bài thơ: Bài hát về cố hương không chỉ là lời thơ hoài niệm, mà còn là tiếng nói cảm động về quê hương, về cội nguồn và thân phận con người.

- Nguyễn Quang Thiều đã đem đến một góc nhìn mới mẻ, sâu sắc về tình quê – đầy chất triết lí, biểu tượng và cảm xúc.

- Gợi mở suy nghĩ: Cố hương không chỉ là một địa danh, mà là nơi neo giữ tâm hồn, nơi mỗi người đi đâu cũng hướng về.

Bài viết tham khảo

Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, Nguyễn Quang Thiều là một trong những nhà thơ tiêu biểu với phong cách sáng tác độc đáo, giàu chất suy tưởng, biểu tượng và triết lí. Thơ ông thường xoay quanh các chủ đề về quê hương, cội nguồn, con người và thân phận. Bài hát về cố hương, trích trong tập Sự mất ngủ của lửa, là một thi phẩm đặc sắc thể hiện nỗi hoài niệm sâu sắc về quê hương – nơi neo giữ tâm hồn, ký ức và căn cước của mỗi con người. Bài thơ là khúc hát chan chứa tình yêu, nỗi buồn, sự day dứt và cả những suy tư sâu xa về sự sống – cái chết, về giá trị của nơi chôn nhau cắt rốn.

Người đọc bắt gặp một không gian quen thuộc và đầy chất thơ ngay từ những câu mở đầu. Đó là thời khắc đêm khuya, khi “tất cả đã ngủ say”, chỉ còn lại những “vì sao ướt át” và “gió hoang mê dại tìm về”. Không gian ấy như một tấm nền mờ ảo gợi nên nỗi nhớ da diết. Trong tĩnh lặng của đêm, mọi âm thanh và hình ảnh của quê hương – những điều tưởng chừng rất nhỏ bé và bình dị – lại hiện lên sống động và đầy ám ảnh: “tiếng nói mê đàn ông bên mái tóc đàn bà”, “mùi sữa bà mẹ khe khẽ tràn vào đêm”, “tiếng ho người già khúc khắc”… Tất cả tạo nên một bức tranh cố hương vừa gần gũi, vừa huyền hoặc, giàu chất nhân sinh.

Bài thơ là một bản hòa ca giữa quá khứ và hiện tại, giữa con người và ký ức. Tác giả gợi lên hình ảnh ngọn đèn dầu – một biểu tượng đầy cảm xúc: “Ngọn đèn đó ông bà tôi để lại”, “đẹp và buồn hơn tất cả những ngọn đèn”. Với thi sĩ, ánh sáng ấy không chỉ soi sáng bóng tối mà còn chiếu rọi tâm hồn con người. Người mẹ đã đặt ngọn đèn ấy trước mặt đứa trẻ mới sinh – một cử chỉ mang tính biểu tượng cho việc truyền lại cảm xúc: “Để tôi nhìn mặt đèn mà biết buồn, biết yêu và biết khóc”. Qua đó, nhà thơ khẳng định giá trị của nỗi buồn như một phần thiết yếu trong nhân cách và cảm thức con người.

Nỗi nhớ quê trong bài thơ không chỉ là cảm xúc mà còn gắn bó với thân thể và linh hồn. Hình ảnh “khúc ruột tôi đã chôn ở đó” trở thành một biểu tượng thiêng liêng: nó hóa thân thành “con giun đất”, âm thầm bò qua bờ ao, qua mồ mả tổ tiên, qua “bãi tha ma người làng chết đói”. Đó là một sự trở về nguyên thủy – nơi đất mẹ ôm lấy con người, nơi ký ức tập thể được lưu giữ qua bao thế hệ.

Cao trào của bài thơ là khát vọng hóa thân đầy xúc động: “Tôi xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ / Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi”. Nỗi buồn – vốn bị xem là cảm xúc tiêu cực – ở đây lại được tôn vinh như một báu vật. Bởi nó lưu giữ những kỷ niệm, những đau thương, những hình ảnh thân quen của cố hương. Trong triết lí nhân sinh của nhà thơ, sự tồn tại có ý nghĩa nhất là khi ta được sống – dù dưới bất kỳ hình hài nào – để gắn bó, để bảo vệ những điều thiêng liêng của quê nhà.

Bài hát về cố hương không chỉ là một bản tình ca buồn về quê hương, mà còn là lời khẳng định mạnh mẽ giá trị tinh thần của cội nguồn trong cuộc sống mỗi con người. Với ngôn ngữ đầy biểu tượng, hình ảnh ám ảnh và xúc cảm chân thành, Nguyễn Quang Thiều đã tạo nên một không gian thơ đậm chất nhân văn và sâu sắc. Bài thơ khiến người đọc không khỏi thổn thức, bởi ai trong chúng ta rồi cũng có một quê hương để nhớ, để yêu và để nguyện gắn bó suốt cả kiếp người.

Xem thêm các câu hỏi Đọc hiểu và Viết trong bài thơ Bài hát về cố hương chọn lọc, hay khác:

Xem thêm bộ ngữ liệu ngoài sách giáo khoa lớp 9, lớp 12 phần Thơ chọn lọc, hay khác:


Đề thi, giáo án các lớp các môn học