15+ Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc lớp 9 (học sinh giỏi)

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh lớp 9 trên cả nước giúp bạn có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc - mẫu 1

Có nhiều truyền thuyết về các vị anh hùng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nhưng người ta vẫn mãi khắc ghi một truyền kỳ về người anh hùng ở làng Gióng, được truy phong là Phù Đổng Thiên Vương, mà nhân dân Việt Nam ta đời đời nhớ ơn.

Truyền thuyết kể rằng vào đời vua Hùng Vương thứ 6, ở một ngôi làng nhỏ có hai vợ chồng nghèo, sống rất tình nghĩa, phúc đức, cuộc sống khó khăn không khiến họ mệt mỏi hay nản chí thế nhưng tuổi cả hai ngày một lớn mà mong mỏi mãi cũng không có lấy một mụn con cho vui cửa vui nhà. Hai vợ chồng lấy làm buồn lòng lắm, hàng xóm cũng cảm thấy xót xa cho họ. Một hôm trời nắng to, bà lão theo lệ thường ra ruộng làm cỏ, trong lúc đang cặm cụi nhổ cỏ thì bà vợ bỗng nhìn thấy một dấu chân người đặc biệt to lớn. Không biết trời xui đất khiến thế nào bà lại đưa chân mình vào ướm thử, sau chuyện ấy bà cũng quên khuấy đi, ba tháng sau bà bỗng cảm thấy người mệt mỏi, chán ăn, đến thầy lang khám bệnh thì hay tin mình có thai. Khi nghe tin cả hai vợ chồng đều rất đỗi vui mừng mà sung sướng, bởi ước nguyện bấy lâu đã trở thành hiện thực, gia đình nhỏ của hai vợ chồng dần trở nên ấm áp hơn cả, ngày ngày chờ đợi đứa con bé bỏng ra đời trong hạnh phúc. Nhưng lạ thay, đã qua chín tháng mười ngày tròn mà người vợ vẫn chưa trở dạ, hai vợ chồng lấy làm lo lắng, đợi mãi đến khi cái thai được tròn mười hai tháng, thì đứa trẻ mới chịu chui từ bụng mẹ ra. Vừa ra đời người ta đã nhận xét rằng đây là một đứa bé có tư chất hơn người, bởi vẻ thông minh sáng sủa, khôi ngô tuấn tú, vợ chồng ông lão nghe thứ thì lại càng vui mừng hơn cả, đặt cho con cái tên là Gióng, cho dễ nuôi. Cuộc sống một gia đình ba người cứ thế êm đềm trôi đi, nhưng lạ thay mãi đến ba tuổi Gióng vẫn chẳng biết đi biết đứng, cha mẹ đặt đâu thì em ngồi đấy, em cũng chưa hề mở miệng nói một câu nào, điều ấy làm cho hai vợ chồng sốt ruột, bồn chồn không yên vì sợ con mình có bệnh lạ.

Năm ấy, giặc ở phương Bắc tràn vào nước ta xâm lược, giày xéo mảnh đất Lạc Việt, thế giặc mạnh, vua Hùng cùng với các Lạc Hầu, Lạc Tướng rất lấy làm lo lắng. Trước tình hình ấy vua bèn nảy ra một ý, cho sứ giả truyền tin tuyển mộ người tài, đức ra giúp nước. Khi sứ giả vừa loan tin đến đầu làng, thì Gióng bỗng cất tiếng nói: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây giúp con”, người mẹ tuy sửng sốt nhưng vẫn chạy ra mời sứ giả vào. Vào đến nơi, sứ giả chỉ thấy một cậu bé ba tuổi và hai vợ chồng đã tuổi xế chiều, thì lấy làm tức giận, tưởng mình bị đùa giỡn, thế nhưng Gióng đã kịp lên tiếng: “Giặc đã hoành hành khá lâu, ta xin nguyện vì bệ hạ, vì non sông xung phong đánh giặc, khẩn cầu ngài về tâu với nhà vua chế tạo cho ta một chiếc roi sắt từ loại sắt tốt nhất, đảm bảo đánh trăm trận mà không gãy, ban cho ta một con chiến mã bằng sắt nặng ngàn cân và một bộ giáp sắt nặng trăm cân, giáo mác xuyên không thủng. Như thế ta có thể yên tâm diệt giặc”. Sứ giả nghe thế thì lấy làm mừng rỡ vì đích thị đây là nhân trung long phượng, là bậc kỳ tài hiếm có nên mới có thể có khẩu khí hiên ngang, oai hùng của võ tướng như thế. Kể từ ngày gặp sứ giả, Gióng lớn nhanh như thổi, bao nhiêu cơm gạo ăn cũng không đủ, dân làng người nhà nhà chung tay góp cơm, góp gạo cho Gióng ăn, thầm mong chàng sớm ngày đánh tan lũ giặc xâm phạm bờ cõi.

Mười ngày sau, mọi thứ mà Gióng yêu cầu đều được mang tới cả, lúc này đây từ một đứa bé ba tuổi, Gióng đã trở thành chàng trai cao lớn vượt trội, tầm vóc phi phàm, thân hình cao lớn, cơ bắp cuồn cuộn. Chàng mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt, từ biệt quê hương và lên đường diệt giặc, trước khi đi Gióng quay lại nhìn cha mẹ “Kiếp này đa tạ phụ mẫu đã sinh dưỡng!”, rồi hướng thẳng phía trước mà đi, con ngựa sắt vốn tưởng là khối sắt không có linh tính, thế nhưng lúc này đây nó lại phát ra tiếng hí vang trời, rồi phóng vụt đi, chốc lát chỉ còn lại cái bóng mờ mờ của người anh hùng, lẫn trong đám bụi thổi tung. Ngựa chạy một đường đến nơi đóng quân của giặc, ngựa đi đến đâu phun lửa đến đấy, thiêu trụi hết lương thực và lều trại của quân địch, chúng hoảng hồn bỏ cả vũ khí mà chạy thoát thân, kẻ giẫm đạp lên nhau, người thì chết dưới vó ngựa. Tráng sĩ vung roi sắt quất liên hồi vào lũ giặc cướp nước, khiến chúng chết như ngả rạ dưới vó ngựa, thế nhưng giặc quá đông, sau ba ngày chinh chiến thì không may roi sắt gãy làm đôi. Lúc này đây tráng sĩ vừa đuổi giặc đến khu vực có những lũy tre già hàng mấy chục tuổi, ngựa sắt phun lửa làm loài tre ấy trở nên vàng bóng. Nhanh trí, tráng sĩ đã dùng sức mạnh nhổ hẳn cây tre to nhất bên đường làm vũ khí thay roi sắt, kỳ diệu thay vốn chỉ là cây cỏ thế nhưng trên tay tráng sĩ, cay tre bỗng trở nên mạnh mẽ không kém gì so với những thứ vũ khí sắc bén khác. Sau bảy ngày chiến đấu, cuối cùng đất nước ta cũng sạch bóng quân thù, chỉ còn lại hàng vạn xác chết chốn sa trường, khung cảnh tiêu điều tan hoang.

Tráng sĩ sau khi diệt giặc thì thúc ngựa chạy vào rừng sâu, tìm nơi có dòng suối nguồn trong trẻo chưa ai biết đến, tắm rửa sạch sẽ, cởi bỏ lại bộ giáp sắt, như một cách báo cáo hoàn thành sứ mệnh, rồi cưỡi ngựa sắt bay về trời. Vua Hùng để tưởng nhớ công ơn đã phong cho tráng sĩ là Phù Đổng Thiên Vương và cho xây lập đền thờ ngay tại quê nhà, để đời đời được hưởng nhang khói của nhân dân.

Dàn ý Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc

a. Mở đầu truyện

- Giới thiệu bối cảnh, nhân vật chính của câu chuyện

b. Diễn biến truyện

Thuật lại diễn biến các sự kiện trong câu chuyện theo trình tự hợp lí; thể hiện khả năng tưởng tượng và cách kể chuyện sáng tạo; có kết hợp sử dụng các yếu tố miêu tả, biểu cảm trong khi kể chuyện.

- Sự việc 1: Kể lại sự việc thứ nhất.

- Sự việc 2: Kể lại sự việc thứ hai.

- Sự việc 3: Kể lại sự việc thứ ba.

- ....

c. Kết thúc truyện

- Kết thúc phù hợp, gây ấn tượng hoặc gợi suy nghĩ đối với người đọc.

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc - mẫu 2

Ta tên là Khoai, một cái tên giản dị phản ánh bản tính chân thật của ta. Tôi làm công việc thuê cho một gia đình giàu có trong làng, nhưng bởi tính keo kiệt của ông chủ, tôi chỉ nhận được ít đồng lương.

Một ngày nọ, ông chủ gọi tôi đến và nói:

- Hãy làm việc chăm chỉ cày ruộng cho tôi trong ba năm tới, và sau đó tôi sẽ gả con gái cho bạn.

Tôi là người thật thà nên tin tưởng vào lời hứa của ông chủ. Từ đó, tôi làm việc chăm chỉ, không ngại khó khăn, mỗi mùa lúa đều mang lại nguồn thu lớn cho gia đình ông chủ. Khi ba năm đã qua, ông chủ gọi tôi đến và nói:

- Bạn đã làm việc chăm chỉ suốt thời gian qua, giờ hãy đi vào rừng tìm cây tre trăm đốt về, để tôi làm đũa cho cả làng ăn cỗ cưới cho hai con.

Tôi rất vui mừng khi nghe điều này và không do dự mà vào rừng tìm kiếm cây tre trăm đốt. Nhưng việc tìm tre khó khăn đến bất ngờ, không một cây nào đủ trăm đốt. Quần áo tôi bị rách tả tơi, da thịt cũng bị xước sát do gai tre. Lúc buồn bã nhất, bỗng xuất hiện một ông lão như thần tiên và dạy tôi một câu thần chú. Để có cây tre trăm đốt, chỉ cần chặt đủ số đốt và đọc 'Khắc nhập, khắc nhập' ba lần, cây tre sẽ biến thành cây cao trăm đốt. Sau đó, chỉ cần đọc 'Khắc xuất, khắc xuất' ba lần để từng đốt tre rời ra như cũ.

Vui mừng, tôi mang về một trăm đốt tre để chuẩn bị cưới vợ. Nhưng khi trở về, thấy bàn tiệc đã sẵn sàng, tôi phát hiện ra lão đã lừa dối tôi và tổ chức đám cưới khác. Lão còn chê bai tôi chỉ mang về trăm đốt tre chứ không phải cây tre trăm đốt. Tôi liền đọc 'Khắc nhập, khắc nhập' ba lần, cây tre trăm đốt mọc lên, lão và những kẻ khác bị nhập vào thân tre. Sau khi lão nhà giàu van xin và hứa gả con gái cho tôi, tôi mới đọc 'Khắc xuất, khắc xuất' ba lần, để họ rời xa tôi và cây tre.

Cuối cùng, bàn tiệc ấy là dành cho đám cưới của tôi và con gái của ông giàu, chúng tôi sống hạnh phúc bên nhau từ đó đến giờ.

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc - mẫu 3

Nhà tôi nghèo lắm. Vợ chồng tôi làm nghề kiếm củi để nuôi thân. Vất vả cực nhọc lại hiếm hoi nữa. Một hôm tôi vào rừng kiếm củi, khát nước quá, chợt thấy một cái sọ dừa đựng đầy nước trong vắt. Tôi đánh liều, nhắm mắt uống cạn. Về nhà thế là tôi có mang...

Đẻ con ra, tôi buồn lắm. Chỉ là một cục thịt đỏ hỏn, tuy có mắt, có mũi, nhưng chẳng có mình mẩy, chân tay. Định vứt đi, nhưng lòng mẹ không nỡ, dù sao nó cũng là hột máu cắt đôi của mình. Tôi đặt tên con là Sọ Dừa. Có điều lạ là tôi đi đâu nó cũng lăn theo đấy! Một hôm bực mình, tôi nói: “Bằng tuổi mày, con người ta đã biết chăn bò giúp bố mẹ, còn mày thì chẳng được tích sự gì!”. Thương lắm, khi nghe nó nói: “Làm gì chứ chăn bò thì con làm tốt. Mẹ đến nói với phú ông cho con sang ở chăn bò...”

An ủi nó, tôi đánh liều sang gặp phú ông. Phú ông ngẫm nghĩ một lát. Thương mẹ con tôi hay là giễu, rồi ông bảo: “Thôi cứ cho nó sang đây! Cứ thử xem đã!”. Thế rồi, cả một đàn bò đông đúc được nó chăn dắt, con nào con nấy béo nung núc. Ai cũng ngạc nhiên. Phú ông tỏ ý bằng lòng.

Phú ông có ba cô con gái, cô út rất hiền và xinh đẹp. Cô út hay đem cơm cho con tôi. Cô út đã yêu và mê nó mới lạ chứ! Sau này, tôi mới biết nhiều lần cô nhìn thấy Sọ Dừa nhà tôi biến thành một chàng trai tuấn tú, nằm trên chiếc võng đào mắc vào hai cành cây, thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Cô út âm thầm chăm sóc nó, có miếng gì ngon, cô cũng kín đáo mang cho nó.

Một hôm, thằng con tôi lăn về nhà, nó bảo: “Mẹ sang hỏi cô út của phú ông cho con!”. Tôi sửng sốt, ai đời “đũa mốc dám chòi mâm son” bao giờ? Tủi phận nghèo hèn, nhưng lại thương con, thôi thì “một liều ba bảy cũng liều”. Nghe tôi nói, phú ông cười mỉa:

“Thế cơ à? Mẹ con bà sắm đủ 10 tấm lụa đào, 10 con lợn béo, 10 vò rượu tăm và một chĩnh vàng cốm đem sang đây làm lễ vấn danh nhé!”.

Tôi xấu hổ ra về. Nghe tôi nói, nó cười bảo: “Mẹ cứ yên tâm. Con sẽ biện đủ”. Sáng hôm sau mẹ con tôi đem sính lễ đến họ nhà gái. Phú ông ngạc nhiên quá. Trót đã hứa rồi, vả lại loá mắt vì của, phú ông cho gọi ba cô con gái lên. Hai cô chị bĩu môi, nguýt! Cô út bẽn lẽn cúi đầu thưa: “Cha đặt đâu con xin ngồi đấy!”. Con trai tôi thành gia thất. Tôi có con dâu, tôi vừa mừng vừa lo... Thật không ngờ, nó cởi lốt Sọ Dừa từ lúc nào. Nó trở thành một chàng trai thông minh, hào hoa, lịch sự. Từ đấy, cùng với vợ chồng nó, ba mẹ con tôi sống rất hạnh phúc. Mấy năm sau, vua mở khoa thi, kén nhân tài làm quan. Con tôi đã dự thi và đỗ Trạng nguyên, vẻ vang quá! Vua lại cử nó đi sứ sang Tàu. Ở nhà, hai cô chị xảo quyệt đã lập mưu dìm cô em út chết đuối. Con dâu tôi bị con cá to nuốt vào bụng. May phúc nhà tôi, nó đã lấy dao rạch bụng cá chui ra rồi dạt vào hoang đảo. Nó lấy đá đánh lửa, nướng cá ăn, chờ thuyền đến cứu. Hai quả trứng nó mang theo đã nở thành đôi gà đẹp lắm, lớn lên gáy rất hay! Một hôm, thuyền con tôi đi sứ về qua đảo. Bỗng nghe gà gáy... Tôi già rồi, lẩn thẩn quên mất tiếng gà gáy... Ờ, tôi nhớ ra rồi. Gà gáy như tiếng người gọi:

“Ò... ó... o

Phải thuyền Quan Trạng rước cô tôi về...”

Vợ chồng nó gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Sau này tôi mới hay là con trai tôi trước khi đi sứ đã để lại cho vợ nó một hòn đá lửa, một con dao, hai quả trứng gà, và dặn phải giắt luôn bên người để phòng thân. Quan Trạng có khác, có tài tiên tri. À, hai cô chị nanh ác sau này đi đâu mất tích.

Ở đời, mẹ hay nói tốt cho con. Tôi quê mùa có chi tôi nói thế. Sọ Dừa - Quan Trạng, chính là con tôi...

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc - mẫu 4

Ngày xửa ngày xưa, ở một khu rừng xa xôi, có một chú Khỉ và một chú Gấu sống gần nhau. Cả hai chú đều thích nhau và trở thành bạn thân. Một ngày, khi họ đang vui chơi, chú Khỉ và chú Gấu bắt đầu tranh cãi về việc ai mạnh mẽ hơn.

Cuộc tranh cãi này dẫn đến một ý tưởng mới: cuộc thi thi đấu sức mạnh giữa chú Khỉ và chú Gấu. Cả hai đều đồng ý với cuộc thi và bắt đầu chuẩn bị. Bài kiểm tra của cuộc thi là đẩy một tảng đá lớn qua một con suối sâu.

Chú Khỉ, do sự linh hoạt và nhanh nhẹn của mình, đã bắt đầu rất tốt. Anh ta nhảy lên tảng đá và cố gắng đẩy nó qua suối. Tuy nhiên, do sự nhẹ nhàng và khéo léo, chú Gấu đã đưa ra một chiến thuật khác: anh ta chen vào dưới tảng đá và đẩy nó lên từ phía dưới.

Chú Khỉ, mặc dù có sức mạnh, nhưng không thể kiểm soát đối tượng lớn và không linh hoạt như chú Gấu. Cuộc đua diễn ra khá lâu và gặp không ít khó khăn, nhưng cuối cùng, chú Gấu với chiến thuật thông minh của mình đã đẩy tảng đá qua suối.

Chú Gấu không chỉ chiến thắng cuộc thi, mà còn giành được sự tôn trọng của chú Khỉ. Chú Khỉ, sau khi nhận ra sự quan trọng của sự thông minh và sự kiên nhẫn, biết ơn chú Gấu và cả hai trở nên thân thiết hơn.

Truyện này mang đến cho chúng ta bài học về sự quan trọng của sự thông minh và kiên nhẫn. Đôi khi, sức mạnh không chỉ đến từ cơ bắp mà còn từ khả năng nghĩ cách và kiên trì.

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc - mẫu 5

Ngày xưa, trong dân gian đã lưu truyền một câu chuyện cảm động kể về một người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh nhưng lại phải chịu một nỗi oan ức lớn đến mức phải gieo mình tự vẫn nơi bến sông chỉ vì người chồng mang tính đa nghi, nhỏ nhen của mình. Câu chuyện mà người ta vẫn thường kể nhau nghe ấy mang tên “Vợ chàng Trương”, nhưng kết cục của câu chuyện dân gian này lại vô cùng bi thảm.

Vì tiếc thương cho nàng người phụ nữ nết na nhưng lại bạc mệnh, Nguyễn Dữ đã mượn cốt truyện trên để viết nên “Chuyện người con gái Nam Xương”. Những chi tiết trong truyện hầu như vẫn được giữ nguyên về cơ bản, nhưng ông đã thể hiện tinh thần nhân đạo của mình bằng cách tạo nên một cái kết đẹp hơn cho người phụ nữ cao đẹp ấy.

Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ xoay quanh cuộc đời và số phận của một người con gái đức hạnh nhưng cảnh đời lại đẩy vào nơi tối tăm của bi kịch - Vũ Thị Thiết. Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, là con của một gia đình làm nông nghèo. Mẹ nàng mất từ sớm, trong nhà chỉ có hai cha con cùng nương tựa lẫn nhau và trải qua những tháng ngày bình lặng, hạnh phúc.

Khi nàng đến tuổi lập gia đình, đã được một chàng Trương vì thấy nàng đẹp người lại đẹp nết nên đã qua hỏi cưới. Nàng không yên tâm để cha già sống cảnh một mình, nhưng vẫn phải đồng ý lấy Trương Sinh trước những lời khuyên của cha. Trước khi nàng được gả đi, cha đã dặn dò nàng sang nhà chồng phải biết hiếu kính với nhà chồng, phải đảm đang việc nhà, làm tròn đạo dâu, đạo vợ. Nếu không, nàng sẽ chịu những điều tiếng không hay.

Một tuần sau, Vũ Thị Thiết đã chính thức trở thành vợ của Trương Sinh. Từ khi bước vào nhà họ Trương, nàng đã coi Trương Sinh là người chồng mà suốt đời mình sẽ yêu thương, gắn bó. Mẹ của chàng cũng chính là mẹ của nàng, nên nàng sẽ chăm sóc và phụng dưỡng như chính người thân máu mủ của mình.

Cuộc sống thời gian đầu hôn nhân cũng được coi là êm ấm. Nhưng rồi, biến cố đã xảy ra và chia cắt nàng với chồng. Cũng chính đây là nguồn cơn dẫn đến nỗi oan sâu nặng của nàng sau này.

Năm ấy, giặc Chiêm xâm lược nước ta, triều đình phải kêu gọi binh lính đi chiến đấu, mà Trương Sinh vì không học nên đã bị bắt đi lính. Buổi chia ly giữa Vũ Thị Thiết với Trương Sinh diễn ra một cách đầy nước mắt bởi sự lưu luyến, không muốn rời xa. Trương Sinh đã dặn dò nàng ở nhà phải chăm sóc, phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo, đảm đương việc nhà chu toàn đợi chàng trở về.

Khi ấy, cả hai sẽ lại được đoàn tụ và cùng xây dựng một mái ấm hạnh phúc cho riêng mình. Dẫu rất buồn rầu, hơn ai hết nàng hiểu rõ sự nguy hiểm của chuyến đi này, và sự ác liệt của chiến tranh nào có buông tha ai bao giờ.

Nàng bày tỏ nguyện vọng của mình trong nước mắt, nàng chẳng cầu chồng mang áo gấm phong hầu trở về, chỉ mong rằng chồng nàng có thể bình an, mạnh khỏe mà quay về đoàn tụ với gia đình: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày trở về mang theo được hai chữ bình yên là đủ rồi…”

Thế rồi, Trương Sinh lên đường ra trận. Trong nhà, Vũ Thị Thiết vừa chăm lo cho mẹ già, lại nuôi nấng cho đứa con nhỏ vừa mới sinh sau khi chồng đi. Nhưng nàng chẳng hề than thở hay trách cứ, nàng chỉ yên lặng chăm lo ruộng vườn, chăm lo người thân. Chuyện gì nàng cũng hoàn thành một cách chu toàn, không cầu được công nhận, chỉ mong ngày chồng trở về.

Mẹ chồng nàng bị ốm nặng, nàng cũng không kêu than mà rời mẹ nửa bước. Nàng cố gắng chăm lo mẹ, động viên mẹ vượt qua bạo bệnh, đợi này chồng trở về. Biết mình không thể qua khỏi cơn bệnh này, mẹ chồng nàng đã nói nàng không cần lãng phí tiền bạc nữa, nhưng nàng vẫn một mực chăm sóc đủ đầy, đến mức mẹ chồng nàng phải hết lời khen ngợi nàng là một người tốt và sau này nàng sẽ được hạnh phúc vì những đức tính tốt đẹp của mình.

Một thời gian sau, mẹ chồng Vũ Thị Thiết mất. Nàng đã lo cho việc hậu sự một cách chu đáo thay cho chồng. Ngôi nhà nhỏ giờ chỉ còn có hai mẹ con. Vì thấm thía nỗi đau không có được sự che chở trọn vẹn của cha và mẹ, nên nàng luôn mong muốn con được hạnh phúc, lại càng không muốn con phải ghen tị với bạn vì có cả cha lẫn mẹ.

Vì thế, nàng đã nghĩ ra một cách, đó là chỉ vào bóng của mình trên tường và dối con rằng đó là ba của Đản. Nhưng nàng cũng chẳng thể ngờ được, lời nói dối để con vơi đi nỗi nhớ cha, cũng giúp mình nguôi ngoai nỗi nhớ chồng lại đẩy nàng vào bi kịch với oan khuất nhất đời.

Trương Sinh trở về, nhưng bé Đản lại không nhận ông là cha. Chàng ta liền nói với Đản rằng mình là cha của bé, nhưng Đản lại kể với Trương Sinh về một người cha tối nào cũng đến thăm mẹ con bé. Vốn tính đa nghi, cộng thêm lời trẻ thơ dại, Trương Sinh liền nổi giận đùng đùng nghi ngờ vợ hư hỏng. Trong cơn giận dữ, Trương Sinh đã lớn tiếng chửi mắng, kết tội và đánh đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà mặc cho nàng cố gắng giải thích và sự bao che của bà con làng xóm.

Vì quá đau khổ, nàng lại chẳng có cơ hội nào để giải thích, nên nàng đã đi ra sông Hoàng Giang trẫm mình tự vẫn để giải oan cho chính mình. Khi đó, nàng đã gặp được Linh Phi là vợ của đức Long Quân cứu giúp. Cuộc sống nàng lại bắt đầu với những ngày tháng sống cùng Linh Phi. Tưởng như nỗi đau năm nào đã nguôi ngoai, nào ngờ chỉ cần chạm nhẹ lại vào vết sẹo năm xưa, mọi ký ức lại hiện về

Nàng tình cờ gặp được một người bà con của mình ở đây. Nhớ lại nỗi oan chưa được giải của mình, nàng liền nhờ người đó chuyển lời đến Trương Sinh. Về phần Trương Sinh, sau khi biết được nỗi oan của vợ, Trương Sinh liền lập đàn trên sông Hoàng Giang để giải oan cho sợ. Vũ Thị Thiết hiện về giữa sông. Cảm thấy nỗi oan đã được giải trừ, nàng cũng chẳng hề oán trách chồng mình, nhưng cũng chẳng thiết tha trở về với cuộc sống cũ nữa. Vì thế, nàng đã nói lời cuối với Trương Sinh rồi biến mất trong lòng sông.

Cái kết của câu chuyện này có lẽ không quá có hậu, nhưng nó lại là cách hợp lý nhất giúp cho câu chuyện thêm phần đáng tin và không mất đi kết quả hiện thực. Nhưng dẫu sao, Vũ Nương trong chuyện cũng đã được giải oan. Đó chính là niềm an ủi lớn nhất, mang tính nhân văn sâu sắc nhất. Đồng thời, câu chuyện cũng chính là lời cáo buộc tội ác của xã hội phong kiến bất công, trọng nam khinh nữ đã cướp đi quyền được hạnh phúc của những người phụ nữ đẹp người đẹp nết.

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc - mẫu 6

Ngày xưa, trong dân gian đã lưu truyền một câu chuyện cảm động kể về một người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh nhưng lại phải chịu một nỗi oan ức lớn đến mức phải gieo mình tự vẫn nơi bến sông chỉ vì người chồng mang tính đa nghi, nhỏ nhen của mình. Câu chuyện mà người ta vẫn thường kể nhau nghe ấy mang tên “Vợ chàng Trương”, nhưng kết cục của câu chuyện dân gian này lại vô cùng bi thảm.

Vì tiếc thương cho nàng người phụ nữ nết na nhưng lại bạc mệnh, Nguyễn Dữ đã mượn cốt truyện trên để viết nên “Chuyện người con gái Nam Xương”. Những chi tiết trong truyện hầu như vẫn được giữ nguyên về cơ bản, nhưng ông đã thể hiện tinh thần nhân đạo của mình bằng cách tạo nên một cái kết đẹp hơn cho người phụ nữ cao đẹp ấy.

Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ xoay quanh cuộc đời và số phận của một người con gái đức hạnh nhưng cảnh đời lại đẩy vào nơi tối tăm của bi kịch - Vũ Thị Thiết. Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, là con của một gia đình làm nông nghèo. Mẹ nàng mất từ sớm, trong nhà chỉ có hai cha con cùng nương tựa lẫn nhau và trải qua những tháng ngày bình lặng, hạnh phúc.

Khi nàng đến tuổi lập gia đình, đã được một chàng Trương vì thấy nàng đẹp người lại đẹp nết nên đã qua hỏi cưới. Nàng không yên tâm để cha già sống cảnh một mình, nhưng vẫn phải đồng ý lấy Trương Sinh trước những lời khuyên của cha. Trước khi nàng được gả đi, cha đã dặn dò nàng sang nhà chồng phải biết hiếu kính với nhà chồng, phải đảm đang việc nhà, làm tròn đạo dâu, đạo vợ. Nếu không, nàng sẽ chịu những điều tiếng không hay.

Một tuần sau, Vũ Thị Thiết đã chính thức trở thành vợ của Trương Sinh. Từ khi bước vào nhà họ Trương, nàng đã coi Trương Sinh là người chồng mà suốt đời mình sẽ yêu thương, gắn bó. Mẹ của chàng cũng chính là mẹ của nàng, nên nàng sẽ chăm sóc và phụng dưỡng như chính người thân máu mủ của mình.

Cuộc sống thời gian đầu hôn nhân cũng được coi là êm ấm. Nhưng rồi, biến cố đã xảy ra và chia cắt nàng với chồng. Cũng chính đây là nguồn cơn dẫn đến nỗi oan sâu nặng của nàng sau này.

Năm ấy, giặc Chiêm xâm lược nước ta, triều đình phải kêu gọi binh lính đi chiến đấu, mà Trương Sinh vì không học nên đã bị bắt đi lính. Buổi chia ly giữa Vũ Thị Thiết với Trương Sinh diễn ra một cách đầy nước mắt bởi sự lưu luyến, không muốn rời xa. Trương Sinh đã dặn dò nàng ở nhà phải chăm sóc, phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo, đảm đương việc nhà chu toàn đợi chàng trở về.

Khi ấy, cả hai sẽ lại được đoàn tụ và cùng xây dựng một mái ấm hạnh phúc cho riêng mình. Dẫu rất buồn rầu, hơn ai hết nàng hiểu rõ sự nguy hiểm của chuyến đi này, và sự ác liệt của chiến tranh nào có buông tha ai bao giờ.

Nàng bày tỏ nguyện vọng của mình trong nước mắt, nàng chẳng cầu chồng mang áo gấm phong hầu trở về, chỉ mong rằng chồng nàng có thể bình an, mạnh khỏe mà quay về đoàn tụ với gia đình: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày trở về mang theo được hai chữ bình yên là đủ rồi…”

Thế rồi, Trương Sinh lên đường ra trận. Trong nhà, Vũ Thị Thiết vừa chăm lo cho mẹ già, lại nuôi nấng cho đứa con nhỏ vừa mới sinh sau khi chồng đi. Nhưng nàng chẳng hề than thở hay trách cứ, nàng chỉ yên lặng chăm lo ruộng vườn, chăm lo người thân. Chuyện gì nàng cũng hoàn thành một cách chu toàn, không cầu được công nhận, chỉ mong ngày chồng trở về.

Mẹ chồng nàng bị ốm nặng, nàng cũng không kêu than mà rời mẹ nửa bước. Nàng cố gắng chăm lo mẹ, động viên mẹ vượt qua bạo bệnh, đợi này chồng trở về. Biết mình không thể qua khỏi cơn bệnh này, mẹ chồng nàng đã nói nàng không cần lãng phí tiền bạc nữa, nhưng nàng vẫn một mực chăm sóc đủ đầy, đến mức mẹ chồng nàng phải hết lời khen ngợi nàng là một người tốt và sau này nàng sẽ được hạnh phúc vì những đức tính tốt đẹp của mình.

Một thời gian sau, mẹ chồng Vũ Thị Thiết mất. Nàng đã lo cho việc hậu sự một cách chu đáo thay cho chồng. Ngôi nhà nhỏ giờ chỉ còn có hai mẹ con. Vì thấm thía nỗi đau không có được sự che chở trọn vẹn của cha và mẹ, nên nàng luôn mong muốn con được hạnh phúc, lại càng không muốn con phải ghen tị với bạn vì có cả cha lẫn mẹ.

Vì thế, nàng đã nghĩ ra một cách, đó là chỉ vào bóng của mình trên tường và dối con rằng đó là ba của Đản. Nhưng nàng cũng chẳng thể ngờ được, lời nói dối để con vơi đi nỗi nhớ cha, cũng giúp mình nguôi ngoai nỗi nhớ chồng lại đẩy nàng vào bi kịch với oan khuất nhất đời.

Trương Sinh trở về, nhưng bé Đản lại không nhận ông là cha. Chàng ta liền nói với Đản rằng mình là cha của bé, nhưng Đản lại kể với Trương Sinh về một người cha tối nào cũng đến thăm mẹ con bé. Vốn tính đa nghi, cộng thêm lời trẻ thơ dại, Trương Sinh liền nổi giận đùng đùng nghi ngờ vợ hư hỏng. Trong cơn giận dữ, Trương Sinh đã lớn tiếng chửi mắng, kết tội và đánh đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà mặc cho nàng cố gắng giải thích và sự bao che của bà con làng xóm.

Vì quá đau khổ, nàng lại chẳng có cơ hội nào để giải thích, nên nàng đã đi ra sông Hoàng Giang trẫm mình tự vẫn để giải oan cho chính mình. Khi đó, nàng đã gặp được Linh Phi là vợ của đức Long Quân cứu giúp. Cuộc sống nàng lại bắt đầu với những ngày tháng sống cùng Linh Phi. Tưởng như nỗi đau năm nào đã nguôi ngoai, nào ngờ chỉ cần chạm nhẹ lại vào vết sẹo năm xưa, mọi ký ức lại hiện về

Nàng tình cờ gặp được một người bà con của mình ở đây. Nhớ lại nỗi oan chưa được giải của mình, nàng liền nhờ người đó chuyển lời đến Trương Sinh. Về phần Trương Sinh, sau khi biết được nỗi oan của vợ, Trương Sinh liền lập đàn trên sông Hoàng Giang để giải oan cho sợ. Vũ Thị Thiết hiện về giữa sông. Cảm thấy nỗi oan đã được giải trừ, nàng cũng chẳng hề oán trách chồng mình, nhưng cũng chẳng thiết tha trở về với cuộc sống cũ nữa. Vì thế, nàng đã nói lời cuối với Trương Sinh rồi biến mất trong lòng sông.

Cái kết của câu chuyện này có lẽ không quá có hậu, nhưng nó lại là cách hợp lý nhất giúp cho câu chuyện thêm phần đáng tin và không mất đi kết quả hiện thực. Nhưng dẫu sao, Vũ Nương trong chuyện cũng đã được giải oan. Đó chính là niềm an ủi lớn nhất, mang tính nhân văn sâu sắc nhất. Đồng thời, câu chuyện cũng chính là lời cáo buộc tội ác của xã hội phong kiến bất công, trọng nam khinh nữ đã cướp đi quyền được hạnh phúc của những người phụ nữ đẹp người đẹp nết.

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc - mẫu 7

Truyện cổ tích Tấm Cám là một câu chuyện có từ rất lâu, và đã đồng hành với biết bao thế hệ trẻ em Việt Nam ta.

Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật chính là cô Tấm dịu dàng, nết na. Cô Tấm mồ côi mẹ từ sớm. Cha sau khi đi bước nữa không lâu thì qua đời, dể cô sống một mình với bà dì ghẻ và người con riêng của bà là Cám. Biết bao đau khổ của đời Tấm đều do hai mẹ con độc ác này gây nên.

Suốt những năm tháng tuổi thơ đến khi lớn lên, Tấm bị dì ghẻ bắt làm việc quần quật suốt ngày, lại chịu cảnh mắng nhiếc, thiếu thốn đủ đường. Một lần, dì ta lấy chiếc yếm đào mới để tổ chức cho Tấm và Cám thi mò cua bắt ốc. Dĩ nhiên với tính chăm chỉ của mình, phần hơn sẽ phải nghiêng về Tấm. Ngờ đâu Cám gian xảo đã bày mưu lừa Tấm đi gội đầu sạch sẽ, để cướp giỏ tôm cua về nhà trước. Chờ Tấm lên bờ thì trong giỏ chỉ còn mỗi con cá bống nhỏ xíu. Tấm bật khóc nức nở, thì ông Bụt hiện lên và dặn dò cô mang cá bống về nuôi.

Tấm nuôi cá trong cái giếng sau nhà. Hôm nào cũng mang cơm ra cho cá ăn, và hát bài hát riêng của mình thì bống mới ngoi lên. Ngờ đâu, mụ dì ghẻ độc ác đã rình mò và nghĩ ra kế xấu. Mụ ta lừa Tấm đi chăn trâu ở đồng xa, rồi ở nhà bắt chước Tấm gọi cá bống lên và ăn thịt. Ăn xong, mụ chôn xương cá ở góc bếp. Chờ đến lúc Tấm về nhà, mang cơm ra giếng, gọi bống lên thì chỉ còn cục máu đỏ tươi mà thôi. Buồn bã, Tấm bật khóc nức nở. Ông Bụt lại hiện lên, chỉ cho Tấm lấy nắm thóc cho gà ăn, để nó bới đất tìm xương cá bống cho. Rồi ông dặn Tấm chôn xương vào bốn chiếc bình, đặt ở chân giường.

Ít lâu sau, nhà vua mở hội tuyển vợ, con gái khắp nơi xúng xính váy áo để đi trảy hội. Tấm cũng hớn hở theo. Cô xin dì ghẻ cho được đi trảy hội. Ngờ đâu, bà ta bắt cô phải nhặt hết một đống đầy hạt gạo, hạt đỗ lẫn vào nhau xong mới được đi hội. Đau khổ, lần nữa Tấm lại òa khóc. Ông Bụt lại hiện lên lần nữa, gọi đàn chim sẻ đến giúp Tấm. Nhờ vậy, cô nhanh chóng hoàn thành xong công việc dì ghẻ giao. Nhưng bây giờ, cô lấy gì mặc để đi hội, khi cô chỉ toàn những bộ trang phục cũ rích? Thấy cô băn khoăn, ông Bụt bảo cô lấy những chiếc bình ở chân giường lên. Chao ôi, bên trong là bộ váy và đôi hài lộng lẫy. Mặc lên, Tấm đẹp như một nàng công chúa vậy.

Có váy áo, Tấm cảm ơn ông Bụt rồi hớn hở đến hội. Lúc đi qua sông, cô đánh rơi một bên giày xuống nước. Người đến hội đông quá, cô không sao xuống tìm giày được. Đúng lúc đó, voi của vua đi ngang qua, vướng chiếc giày nên mãi chẳng chịu đi. Vua cho lính xuống mò lên, ngắm đôi giày một lát, vua ra chỉ: Ai đi vừa chiếc giày ấy, sẽ được làm vợ vua. Biết bao cô gái đến thử vận may, nhưng chẳng ai vừa cả. Đến lượt Tấm, cô vừa đi thử là vừa ngay như in. Thế là Tấm trở thành hoàng hậu.

Tuy trở thành vợ vua, nhưng cô Tấm vẫn giữ nguyên những đức tính chăm chỉ ngày nào. Năm đó, đến giỗ cha, cô xin vua được trở về quê lo giỗ. Về nhà, cô tự tay mình chuẩn bị một mâm cũng tươm tất để thờ cha. Đến lúc sau, mụ dì ghẻ nhờ Tấm trèo lên cây hái buồng cau. Rồi nhân lúc cô ở trên cau thì chặt gốc, khiến cô ngã xuống ao rồi qua đời.

Nhờ phép lạ, Tấm không chết mà hóa thành vàng anh bay vào cung vua. Vua quý vàng anh lắm, đi đâu cũng mang theo. Điều này khiến Cám - kẻ mặc áo của Tấm vào cung để thay chị hầu vua ghen tức vô cùng. Nhân một hôm vua đi vắng, Cám bắt chim ăn thịt, rồi vứt lông chim ở góc vườn. Từ đống lông chim ấy, mọc lên một cây xoan cao lớn xum xuê lạ thường. Ở dưới bóng mát của cây, vua cảm thấy rất thoải mái, nên cho lính mắc võng dưới cây rồi thường xuyên ra đó nghỉ ngơi. Ghen tức với cây xoan, chờ vua đi tuần, Cám cho người chặt cây làm thành khung cửi. Nhưng mỗi lần Cám dệt vải, khung cửi lại kêu lên kẽo cà kẽo kẹt những tiếng chửi mắng đáng sợ khiến cô ta khiếp vía. Nên cô ta cho người đốt khung cửi thành tro, rồi đem ra đổ ở ngã tư thật xa cung vua.

Cám cứ tưởng thế là xong nên hả hê lắm. Ngờ đâu từ đống tro ấy, mọc lên một cây thị to lớn, rồi cây cho ra một quả thị duy nhất, tỏa hương thơm ngát. Có bà bán nước ở gốc cây thấy vậy đã xin cây cho lấy trái thị về nhà để ngửi, và hứa là không ăn quả. Thế là quả thị rớt vào bị của bà. Từ hôm đó, chờ bà cụ đi vắng, cô Tấm từ trong quả thị bước ra, giúp bà việc nhà, cơm nước. Bà cụ thấy lạ, nên rình xem và phát hiện ra cô. Bà đã ôm chầm lấy Tấm và xin được nhận cô làm con nuôi. Từ đó, hai người trở thành mẹ con của nhau.

Một hôm, nhà vua đi tuần về, nghỉ chân ở quán nước của bà cụ. Nhìn những miếng trầu cánh phượng hệt như vợ têm, vua liền mời người têm trầu ra gặp mặt. Khi nhìn thấy nhau, hai người mừng mừng tủi tủi, ôm chầm lấy nhau trọng hạnh phúc. Sau đó, Tấm theo vua về cung, chung sống hạnh phúc. Còn mẹ con Cám thì bị đuổi đi biệt xứ, không bao giờ trở về nữa. Thật xứng đáng cho hai kẻ độc ác.

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc - mẫu 8

Tối nay là lễ Nô-en rồi. Bé Gioan muốn có một món quà để tặng chị gái mình - người chị đã nuôi bé từ sau khi mẹ mất.

Buổi chiều, cô bé dừng lại ở một cửa hàng, áp trán vào tủ kính, chăm chú nhìn từng đồ vật như muốn tìm kiếm thứ gì đó. Bỗng em ngẩng đầu lên hỏi chủ cửa hàng: “Cháu có thể xem chuỗi ngọc lam này không ạ?".

Pi-e lấy chuỗi ngọc đưa cho cô bé. Cô bé khen chuỗi ngọc đẹp quá rồi bảo anh gói lại. Pi-e ngạc nhiên hỏi là ai sai cô bé đi mua. Cô bé vui vẻ đáp: “Cháu mua tặng chị cháu nhân dịp lễ Nô-en. Chị ấy đã nuôi cháu từ sau khi mẹ cháu mất”.

Pi-e mỉm cười, vỗ vai cô bé: “Thế cháu có bao nhiêu tiền?”. Cô bé hồn nhiên mở chiếc khăn tay ra, đổ lên bàn một nắm xu và nói nhỏ: “Cháu đã đập con lợn đất đấy!”.

Pi-e cảm động, trầm ngâm nhìn cô bé. Rồi vừa lúi húi gỡ mảnh giấy ghi giá tiền, anh vừa hỏi: “Cháu tên gì?”. Cô bé lễ phép đáp: “Cháu tên là Gioan ạ!”. Pi-e cẩn thận gói chuỗi ngọc vào trong bao lụa đỏ, đặt vào tay cô bé và không quên dặn dò: “Đừng đánh rơi nhé!". Cô bé mỉm cười rạng rỡ, chạy vụt đi. Cô đâu biết chuỗi ngọc này Pi-e dành để tặng vợ chưa cưới của mình, nhưng rồi một tai nạn giao thông đã cướp mất người anh yêu quý.

Ngày Nô-en nên khách mua hàng rất đông. Ai cũng vui, làm cho Pi-e càng thêm đau lòng. Khi người khách cuối cùng bước ra, anh thở phào nhẹ nhõm. Thế là qua được năm nay! Nhưng anh đã lầm.

Cửa lại mở, một thiếu nữ bước vào. Cô lấy từ trong túi xách ra một chuỗi ngọc lam và hỏi anh: “Chuỗi ngọc này có phải của tiệm ông không ạ?”. Pi-e gật đầu đáp phải. Thiếu nữ hỏi tiếp: “Thưa... có phải là ngọc thật không?". Pi-e nói rằng tuy nó không phải là thứ ngọc quý nhất nhưng nó là ngọc thật. Thiếu nữ kia vẫn gặng hỏi: “Thế ông có nhớ là đã bán chuỗi ngọc này cho ai không?”. Người chủ tiệm xác nhận rằng đã bán nó cho một cô bé tên Gioan để cô tặng chị gái của mình.

Dường như chưa hết thắc mắc, thiếu nữ lại hỏi về giá của chuỗi ngọc lam. Pi-e trả lời là anh không khi nào nói giá tiền của quà tặng. Thiếu nữ băn khoăn: "Gioan chỉ có ít tiền tiêu vặt. Làm sao em mua nổi chuỗi ngọc này?”. Như hiểu suy nghĩ của người thiếu nữ đang đứng trước mặt nên Pi-e mỉm cười bảo: “Cô bé đã trả giá rất cao. Bằng toàn bộ số tiền em ấy có”

Hai người đều im lặng. Tiếng chuông từ một giáo đường gần đó đã bắt đầu vang lên ngân nga, báo hiệu đêm lễ bắt đầu. Thiếu nữ nhìn Pi-e với ánh mắt chưa tin hẳn: ‘‘Nhưng tại sao ông lại làm như vậy?”.

Pi-e đưa chuỗi ngọc cho cô gái và nói: “Hôm này là ngày Nô-en. Tôi không có ai để tặng quà. Cho phép tôi đưa cô về nhà và chúc cô một lễ Nô-en vui vẻ nhé!".

Thiếu nữ khẽ gật đầu. Trong tiếng chuông đổ hồi thúc giục. Pi-e và thiếu nữ cùng nhau bước qua một năm mới với hi vọng tràn trề.

Viết một truyện kể sáng tạo dựa trên một truyện đã đọc - mẫu 9

Một đứa trẻ khoảng mười tuổi đang trên đường về nhà, hướng về thành phố X ở Nga. Đột nhiên, một ông cụ ăn xin xuất hiện, đứng trước mặt cậu bé.

Ông cụ với gương mặt già nua, đau khổ, đôi mắt sáng lên với nỗi đau, nước mắt giàn giụa. Bộ quần áo rách rưới trong cái lạnh giá của thời tiết, đôi môi xám xịt, tái đi vì lạnh, hàm răng run cầm cập vào nhau. Nhìn ông cụ, cậu bé thấy xa xôi. Cuộc sống nghèo đói khiến con người ta khốn khổ, thảm thiết đến như vậy à? Thực sự đáng thương! Chao ôi, cuộc sống thật đầy những sự bất công, những bi kịch.

Ông cụ với đôi bàn tay tội nghiệp, những vết loang lổ, bẩn thỉu, đặt trước mặt cậu bé, thì thầm lời cầu xin sự giúp đỡ trong cơn đói. Cậu bé, trong tình trạng bối rối, cố gắng mò từ túi này sang túi kia nhưng đồng nào cũng vô vọng. Chiếc đồng hồ mà cậu bé thường đeo quên tại nhà, trong túi áo bây giờ không giá trị gì. Đôi bàn tay của ông cụ vẫn kiên nhẫn chờ đợi, ánh mắt chứa đựng một chút hy vọng nhỏ. Trong tình huống này, cậu bé không biết phải làm thế nào, lo lắng rằng cụ sẽ buồn, sẽ thất vọng. Cậu bé nắm chặt lấy đôi bàn tay đang run lẩy bẩy, hôn lên và thủ thỉ với cụ:

- Cụ ơi, xin cụ đừng giận cháu. Lúc này cháu chẳng có gì để chia sẻ với cụ cả. Người ăn xin nhìn cậu bé với vẻ âu yếm, đôi mắt đỏ ngầu, nước mắt trào ra, khiến cụ không thể phát âm một từ. Giọng nói của cụ đầy xúc động, nghẹn ngào:

- Cháu là một đứa bé tốt. Ông cảm ơn cháu, điều đó đã có ý nghĩa lớn với ông.

Cậu bé cảm thấy trái tim mình lắng lại, ấm áp. Dường như, cậu vừa nhận được điều gì đó quan trọng từ ông cụ ăn xin. Rời khỏi địa điểm đó, trái tim của cậu bé không ngừng nhắc nhở hình ảnh ông cụ ăn xin, gầy guộc giữa cái lạnh buốt của ngày đông. Có một lực lượng nào đó thúc đẩy cậu bé nhanh chóng quay về nhà, sau đó lại đến nơi cậu vừa gặp ông cụ khốn khổ.

Xem thêm các bài văn mẫu 9 Chân trời sáng tạo hay khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 9 hay khác:


Giải bài tập lớp 9 Chân trời sáng tạo khác