Top 30 Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm (hay nhất)

Tổng hợp trên 30 bài văn nghị luận phân tích, đánh giá tác phẩm truyện Sự tích Hồ Gươm hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 1

Truyền thuyết dân gian vốn là món ăn tinh thần vô cùng phong phú của dân tộc ta, được lưu truyền từ đời này qua đời khác. Thuở ấu thơ ta lớn lên nhờ những câu chuyện kể của bà, của mẹ, lúc trưởng thành ta lại ru con ngủ bằng chính những câu chuyện hấp dẫn ấy. Có rất nhiều câu chuyện đã trở nên quen thuộc trong lòng mỗi người ví như Tấm Cám, Sọ Dừa, Sơn Tinh Thủy Tinh hay Thánh Gióng,... Tựu chung lại những truyền thuyết, những câu chuyện cổ ấy đều phản ánh chân thực khát khao của nhân dân ta về một cuộc sống tốt đẹp, lương thiện, về việc chế ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm với một niềm tin tích cực. Sự tích Hồ Gươm cũng chính là một truyền thuyết như vậy. Bối cảnh của truyền thuyết diễn ra trong lúc giặc Minh đô hộ nước ta, tuy đã có nghĩa quân Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa chống giặc, nhưng buổi đầu thế lự còn non yếu, nên vẫn thường thua trận. Long Quân thấy nghĩa quân anh dũng, xả thân vì nước nên quyết định cho mượn gươm thần. Tuy nhiên, việc cho mượn gươm Long Quân cũng thiết kế một cách rất tinh tế, như là một thử thách cho Lê Lợi, bởi cái gì dễ có được người ta thường không trân trọng. Hơn thế nữa việc cho mượn gươm có phần thử thách ấy còn giúp Lê Lợi thu nạp được thêm một vị tướng tài là Lê Thận.

Lê Thận ban đầu vốn làm nghề đánh cá, có lẽ Long Quân đã thấy được khí chất anh hùng và tiềm năng của chàng trai miền biển này nên đã cố tình gửi gắm lưỡi gươm cho Lê Thận. Sau ba lần thả lưới ở ba khúc sông khác nhau mà vẫn vớt được cùng một lưỡi gươm kỳ lạ, đen thui, giống một thanh sắt không hơn không kém, Lê Thận đã quyết định đem về dựng ở xó nhà, vì linh cảm của một người thông minh thì gươm này ắt có điều bí ẩn, sau này có thể dùng được. Theo dòng chảy định mệnh, Lê Thận tham gia nghĩa quân Lam Sơn, trở thành phụ tá đắc lực, lập nhiều công lớn, chiến đấu anh dũng, thế nên có lần Lê Lợi đã ghé nhà Lê Thận chơi. Dương như đã nhận ra chủ tướng Lê Lợi, nên lưỡi gươm đen sì, vốn vẫn gác xó nhà lại sáng rực lên bất thường. Lê Lợi cầm lên xem thì thấy hai chữ "Thuận Thiên", như báo trước cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi lãnh đạo là hợp ý trời, được trời cao ủng hộ. Tuy nhiên đến đây những con người trần mắt thịt vẫn chưa thể nào liên hệ đến sự thần kỳ của lưỡi gươm kỳ lạ ấy.

Chỉ đến một lần, nghĩa quân thất thế, Lê Lợi phải chạy một mình vào rừng tránh sự truy lùng của giặc, lúc này đây vô tình phát hiện ra ánh sáng kỳ lạ ở một ngọn cây trong rừng, Lê Lợi tò mò trèo lên xem thì phát hiện một chuôi gươm nạm ngọc cực đẹp. Là người nhanh nhạy Lê Lợi lập tức liên tưởng đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, ông liền đem chuôi gươm ấy về. Qủa đúng như vậy, khi lắp lưỡi gươm vào chuôi gươm thì vừa in, sau nhiều lần thử thách cuối cùng chuôi và lưỡi gươm cũng tìm được nhau, ý trời đã phó thác cho Lê Lợi làm việc lớn. Ngoài ra sự tương hợp của chuôi và lưỡi gươm còn thể hiện một lời nhắc nhở rất hay của Long Quân, rằng muốn làm việc lớn trước hết cần sự đoàn kết, nếu chỉ có chuôi gươm đẹp đẽ thì cũng chẳng thể chém đầu tên địch nào, còn nếu chỉ có lưỡi gươm thì cũng chẳng thể dùng bởi thiếu mất chuôi. Hình ảnh chuôi gươm cũng đại diện cho vị chủ tướng là Lê Lợi người lãnh đạo nghĩa quân, lúc nào cũng phải sáng suốt và mạnh mẽ. Hình ảnh lưỡi gươm là đại diện cho quân đội của ta, tiêu biểu là những vị tướng dưới trướng như Lê Thận, người sẽ giúp Lê Lợi chém đầu từng tên giặc cướp nước. Như vậy sự vừa vặn của chuôi và lưỡi gươm chính là biểu hiện của sự phối hợp ăn ý giữa chủ tướng Lê Lợi và nghĩa quân dưới trướng, đó là sức mạnh tổng hòa làm nên chiến thắng của nhân dân ta.

Từ khi có sự trợ giúp của thanh gươm thần, nghĩa quân ta liên tục thắng trận, quân giặc bị đánh đuổi không còn một mảnh giáp, phải đầu hàng và rút quân về nước trong sự nhục nhã. Có được chiến thắng ấy, một phần là nhờ sự thần kỳ của gươm thần mà Long Quân cho mượn, đồng thời gươm ấy đã mang lại niềm tin và nhuệ khí cho nghĩa quân ta, giúp sức mạnh nghĩa quân tăng gấp bội.

Chuyện sau khi Lê lợi đã lên làm vua, trong một lần du thuyền trên hồ Tả Vọng (hồ Gươm bây giờ), thì có rùa Thần lên đòi gươm về cho Long Quân có nhiều ý nghĩa. Đầu tiên là lý lẽ có mượn có trả, Lê Lợi đã chiến thắng quân Minh, đất nước ta đã yên bình, thanh gươm cũng không còn phận sự gì nữa thì nên được trả về cho chủ cũ. Thứ hai là Long Quân muốn gửi gắm một điều rằng, sự trợ giúp của thần linh âu cũng chỉ là một phần nhỏ, còn nếu muốn vận nước hưng thịnh lâu dài thì phải dựa vào tài trị quốc của Lê Lợi, đừng nên ỷ vào việc có gươm thần mà lơ là cảnh giác, bài học của An Dương Vương vẫn còn sáng mãi cho đến tận bây giờ. Dù bất kỳ lý do nào, Long Quân đòi lại gươm cũng thật xác đáng. Câu chuyện trả Gươm cũng giải thích lý do hồ Tả Vọng còn có tên là hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.

Sự tích Hồ Gươm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn rất phong phú về nghệ thuật Trong truyền thuyết này có hai câu chuyện vừa lồng ghép vừa tách bạch với nhau: câu chuyện mượn gươm và câu chuyện trở gươm. Chúng có nội dung riêng nhưng đồng thời bổ sung nghĩa cho nhau. Không chỉ vậy văn bản là sự kết hợp giữa yếu tố thực và yếu tố tưởng tượng, kì ảo một cách hài hòa, hợp lí. Với sự kết hợp hài hòa các yếu tố kì ảo và sự bền bỉ với các yếu tố lịch sử, Sự tích Hồ Gươm không chỉ giải thích, nguồn gốc ra đời của tên gọi Hồ Gươm. Mà qua câu chuyện này còn nhám ca ngơi, tôn vinh tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân của khởi nghĩa Lam Sơn Tên họ Hoàn Kiếm đồng thời cũng dùng để đánh dấu chiến thắng của dân tộc, thể hiện ước mơ, khát vọng hòa bình của nhân dân.

Truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm là một truyền thuyết có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện lòng tin và khát vọng mạnh mẽ của nhân dân ta về sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Bởi cuộc chiến của nhân dân ta là cuộc chiến vì chính nghĩa, có sự trợ giúp của thần linh, là thuận theo ý trời, những kẻ hung tàn bạo ngược ắt phải thất bại. Sự tích ấy còn là lời lý giải lý thú về những cái tên khác của hồ Gươm.

Dàn ý Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm

1. Mở bài

- Truyền thuyết dân gian vốn là món ăn tinh thần vô cùng phong phú của dân tộc ta, được lưu truyền từ đời này qua đời khác.

- Phản ánh chân thực khát khao của nhân dân ta về một cuộc sống tốt đẹp, lương thiện, về việc chế ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm với một niềm tin tích cực. Sự tích Hồ Gươm cũng chính là một truyền thuyết như vậy.

2. Thân bài

- Hoàn cảnh của truyền thuyết: Nước ta bị giặc Minh xâm lược, nghĩa quân Lam Sơn còn non yếu => Long Quân quyết định giúp đỡ bằng việc cho mượn gươm thần.

- Quá trình gươm thần về với Lê Lợi có nhiều giai đoạn, thể hiện sự thử thách của Long Quân.

+ Lưỡi gươm thì được Lê Thận 3 lần vớt trúng => Thấy kỳ lạ, nên đem về ắt có chỗ dùng. Lúc Lê Lợi đến thăm nhà Lê Thận, lưỡi gươm sáng lên, hiện hai chữ "Thuận Thiên" => Báo trước sự ủng hộ của trời cao, cuộc khởi nghĩa thuận ý trời và vai trò lãnh đạo của Lê Lợi.

+ Chuôi gươm được Lê Lợi tìm thấy => Vai trò lãnh đạo của Lê Lợi lần nữa được khẳng định.

- Sự trợ giúp của gươm thần:

+ Tăng nhuệ khí nghĩa quân

+ Sự thần kỳ giups tiêu diệt giặc

- Việc trả lại gươm:

+ Là điều tất yếu, có mượn có trả

+ Lời căn dặn về vai trò của con người, sự trợ giúp của thần linh chỉ là thứ yếu và có hạn.

+ Giải thích tên gọi của hồ Gươm

3. Kết bài

- Truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm là một truyền thuyết có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện lòng tin và khát vọng mạnh mẽ của nhân dân ta về sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược.

- Sự tích ấy còn là lời lý giải lý thú về những cái tên khác của hồ Gươm.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 2

Trong hệ thống truyền thuyết của nước ta, có lẽ Sự tích Hồ Gươm là truyền thuyết ít mang tính chất tưởng tượng, kì ảo nhất. Đọc tác phẩm ta như được sống lại những năm tháng chiến đấu hào hùng, oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Và càng thêm kính yêu hơn nữa vị anh hùng Lê Lợi đã đem lại độc lập, tự do cho dân tộc.

Giặc Minh lấy cớ phù Trần diệt Hồ mà thực chất là sang xâm chiếm, đô hộ nước ta. Cuộc sống của nhân dân vô cùng khổ cực, bị quân Minh chèn ép, bức hại. Trước tình cảnh lầm than của nhân dân, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Nhưng buổi ban đầu nghĩa quân còn yếu, nhiều lần bị đánh lui. Thấy vậy, Long Quân bèn cho Lê Lợi mượn gươm thần. Nhưng cách Long Quân cho mượn gươm cũng hết sức đặc biệt, ngài không đưa tận tay cho Lê Lợi mà phải trải qua một quá trình gian nan.

Quân cho gươm mắc vào lưới đánh cá của Lê Thận ba lần, Lê Thận lần nào cũng gỡ lấy gươm rồi vứt trở lại sông, qua khúc sông khác thả lưới lại vẫn vớt được lưỡi gươm ấy. Thấy sự lạ, Lê Thận bèn mang gươm trở về. Còn chuôi gươm lại là do vị chủ tướng Lê Lợi lấy được trên cây đa. Cách cho mượn gươm của Long Vương cho thấy rằng đây là thanh gươm thần, bởi vậy không thể trao theo một cách thức dễ dàng mà phải vượt qua thử thách mới có được nó. Không chỉ vậy, hình ảnh lưỡi gươm và chuôi gươm được tìm thấy ở hai địa điểm khác nhau (dưới nước, trên rừng) cũng cho thấy muốn đánh lại kẻ thù thì toàn dân ta phải đoàn kết, hợp nhất, chỉ có như vậy mới tạo nên sức mạnh to lớn đánh đuổi kẻ thù. Chi tiết này giúp chúng ta nhớ lại truyền thuyết Con rồng cháu Tiên khi Lạc Long Quân và Âu Cơ chia năm mươi con lên rừng, năm mươi con xuống biển cai quản các phương, khi có việc thì đoàn kết giúp đỡ nhau.

Như vậy, điều tất yếu ở đây lưỡi gươm phải tìm được ở dưới nước, chuôi gươm phải tìm thấy trên rừng, khi khớp vào nhau thì “vừa như in” thể hiện sự đồng lòng, nhất trí của toàn bộ nhân dân miền ngược và miền xuôi. Ngoài ra chi tiết Lê Lợi nhìn thấy lưỡi gươm và bắt được chuôi gươm còn cho thấy để cuộc đấu tranh đi đến thành công còn cần đến sự anh minh, sáng suốt của người lãnh đạo và người đó chính là vị anh hùng Lê Lợi.

Có được gươm thần, sức mạnh của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, chẳng mấy chốc đã đánh lui được quân địch, khiến chúng phải rút lui về nước. Sức mạnh của thanh kiếm cũng là minh chứng cho ta thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết. Dưới sự lãnh đạo anh minh, sáng suốt của Lê Lợi, sự đồng lòng nhất chí của toàn dân thử thách nào cũng có thể vượt qua, kẻ thù nào cũng có thể đánh thắng.

Quân Minh thảm bại, trở về nước, nhân dân ta được hưởng cuộc sống ấm no, yên bình. Một năm sau, Long Quân sai rùa vàng lên đòi lại gươm thần. Không phải lấy lại ngay lúc quân ta giành chiến thắng mà phải một năm sau, bởi lúc này nước nhà mới ổn định, kinh tế quân sự đã được phục hồi và ngày càng vững mạnh. Hình ảnh rùa vàng hiện lên giữa hồ đớp lấy thanh kiếm rồi lặn xuống hồ sâu, mặt hồ vẫn le lói những ánh sáng. Đây là một chi tiết kì ảo mang tính thiêng liêng, huyền bí. Đồng thời chi tiết này cũng để giải thích tên gọi hồ Hoàn Kiếm (hồ trả gươm). Hồ Hoàn Kiếm gắn liền với chi tiết mang tính huyền bí đã góp phần thiêng liêng hóa một địa danh lịch sử.

Sự tích Hồ Gươm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn rất phong phú về nghệ thuật. Trong truyền thuyết này có hai câu chuyện vừa lồng ghép vừa tách bạch với nhau: câu chuyện mượn gươm và câu chuyện trả gươm. Chúng có nội dung riêng nhưng đồng thời bổ sung ý nghĩa cho nhau. Không chỉ vậy văn bản là sự kết hợp giữa yếu tố thực và yếu tố tưởng tượng, kì ảo một cách hài hòa, hợp lí.

Với sự kết hợp hài hòa các yếu tố li kì, huyền bí với các yếu tố lịch sử, sự tích Hồ Gươm không chỉ giải thích nguồn gốc ra đời của tên gọi Hồ Gươm. Mà qua câu chuyện này còn nhằm ca ngợi, tôn vinh tính chất chính nghĩa, tính chất nhân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tên hồ Hoàn Kiếm đồng thời cũng dùng để đánh dấu chiến thắng của dân tộc, thể hiện ước mơ, khát vọng hòa bình của nhân dân.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 3

Trong hệ thống truyền thuyết của nước ta, có lẽ Sự tích Hồ Gươm là truyền thuyết ít mang tính chất tưởng tượng, kì ảo nhất. Đọc tác phẩm ta như được sống lại những năm tháng chiến đấu hào hùng, oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Và càng thêm kính yêu hơn nữa vị anh hùng Lê Lợi đã đem lại độc lập, tự do cho dân tộc.

Giặc Minh lấy cớ phù Trần diệt Hồ mà thực chất là sang xâm chiếm, đô hộ nước ta. Cuộc sống của nhân dân vô cùng khổ cực, bị quân Minh chèn ép, bức hại. Trước tình cảnh lầm than của nhân dân, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Nhưng buổi ban đầu nghĩa quân còn yếu, nhiều lần bị đánh lui. Thấy vậy, Long Quân bèn cho Lê Lợi mượn gươm thần. Nhưng cách Long Quân cho mượn gươm cũng hết sức đặc biệt, ngài không đưa tận tay cho Lê Lợi mà phải trải qua một quá trình gian nan.

Quân cho gươm mắc vào lưới đánh cá của Lê Thận ba lần, Lê Thận lần nào cũng gỡ lấy gươm rồi vứt trở lại sông, qua khúc sông khác thả lưới lại vẫn vớt được lưỡi gươm ấy. Thấy sự lạ, Lê Thận bèn mang gươm trở về. Còn chuôi gươm lại là do vị chủ tướng Lê Lợi lấy được trên cây đa. Cách cho mượn gươm của Long Vương cho thấy rằng đây là thanh gươm thần, bởi vậy không thể trao theo một cách thức dễ dàng mà phải vượt qua thử thách mới có được nó. Không chỉ vậy, hình ảnh lưỡi gươm và chuôi gươm được tìm thấy ở hai địa điểm khác nhau (dưới nước, trên rừng) cũng cho thấy muốn đánh lại kẻ thù thì toàn dân ta phải đoàn kết, hợp nhất, chỉ có như vậy mới tạo nên sức mạnh to lớn đánh đuổi kẻ thù. Chi tiết này giúp chúng ta nhớ lại truyền thuyết Con rồng cháu Tiên khi Lạc Long Quân và Âu Cơ chia năm mươi con lên rừng, năm mươi con xuống biển cai quản các phương, khi có việc thì đoàn kết giúp đỡ nhau.

Như vậy, điều tất yếu ở đây lưỡi gươm phải tìm được ở dưới nước, chuôi gươm phải tìm thấy trên rừng, khi khớp vào nhau thì “vừa như in” thể hiện sự đồng lòng, nhất trí của toàn bộ nhân dân miền ngược và miền xuôi. Ngoài ra chi tiết Lê Lợi nhìn thấy lưỡi gươm và bắt được chuôi gươm còn cho thấy để cuộc đấu tranh đi đến thành công còn cần đến sự anh minh, sáng suốt của người lãnh đạo và người đó chính là vị anh hùng Lê Lợi.

Có được gươm thần, sức mạnh của nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, chẳng mấy chốc đã đánh lui được quân địch, khiến chúng phải rút lui về nước. Sức mạnh của thanh kiếm cũng là minh chứng cho ta thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết. Dưới sự lãnh đạo anh minh, sáng suốt của Lê Lợi, sự đồng lòng nhất chí của toàn dân thử thách nào cũng có thể vượt qua, kẻ thù nào cũng có thể đánh thắng.

Quân Minh thảm bại, trở về nước, nhân dân ta được hưởng cuộc sống ấm no, yên bình. Một năm sau, Long Quân sai rùa vàng lên đòi lại gươm thần. Không phải lấy lại ngay lúc quân ta giành chiến thắng mà phải một năm sau, bởi lúc này nước nhà mới ổn định, kinh tế quân sự đã được phục hồi và ngày càng vững mạnh. Hình ảnh rùa vàng hiện lên giữa hồ đớp lấy thanh kiếm rồi lặn xuống hồ sâu, mặt hồ vẫn le lói những ánh sáng. Đây là một chi tiết kì ảo mang tính thiêng liêng, huyền bí. Đồng thời chi tiết này cũng để giải thích tên gọi hồ Hoàn Kiếm (hồ trả gươm). Hồ Hoàn Kiếm gắn liền với chi tiết mang tính huyền bí đã góp phần thiêng liêng hóa một địa danh lịch sử.

Sự tích Hồ Gươm không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn rất phong phú về nghệ thuật. Trong truyền thuyết này có hai câu chuyện vừa lồng ghép vừa tách bạch với nhau: câu chuyện mượn gươm và câu chuyện trả gươm. Chúng có nội dung riêng nhưng đồng thời bổ sung ý nghĩa cho nhau. Không chỉ vậy văn bản là sự kết hợp giữa yếu tố thực và yếu tố tưởng tượng, kì ảo một cách hài hòa, hợp lí.

Với sự kết hợp hài hòa các yếu tố li kì, huyền bí với các yếu tố lịch sử, Sự tích Hồ Gươm không chỉ giải thích nguồn gốc ra đời của tên gọi Hồ Gươm. Mà qua câu chuyện này còn nhằm ca ngợi, tôn vinh tính chất chính nghĩa, tính chất nhân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Tên hồ Hoàn Kiếm đồng thời cũng dùng để đánh dấu chiến thắng của dân tộc, thể hiện ước mơ, khát vọng hòa bình của nhân dân.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 4

Đọc truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm”, ta không chỉ được sống lại những năm tháng gian lao và anh dũng của ông cha ta thưở “bình Ngô” mà còn được bồi đắp, nâng cao thêm niềm tự hào dân tộc, được chiêm ngưỡng những di tích lịch sử, văn hóa trên cố đô Thăng Long.

Chàng trai làm nghề đánh cá tên là Lê Thận đã vinh dự được Long Quân trao cho lưỡi gươm báu. Hai lần đầu, Lê Thận chỉ cho đó là “thanh sắt”, một vật tầm thường mắc vào lưới. Mãi đến lẫn thứ ba anh đưa thanh sắt lại cạnh mồi lửa nhìn xem, rồi ngạc nhiên sung sướng reo lên: “Ha ha! Một lưỡi gươm!”. Thanh sắt ấy, lưỡi gươm ấy như biết “bơi” trên sông, vì thế Lê Thận dù đã thay đổi nơi thả lưới ở ba khúc sông khác nhau mà “báu vật” vẫn tìm đến với anh. Chi tiết ấy gợi lên màu sắc li kì, linh nghiệm.

Lê Lợi và mấy người tuỳ tùng đến nhà Thận đã bất ngờ thấy thanh sắt “sáng rực lên” trong túp lều tối om. Khi Lê Lợi cầm lên xem và thấy hai chữ “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi gươm, nhưng mọi người vẫn không biết đó là báu vật. Hình như Long Quân vẫn còn thử lòng người!

Chỉ đến khi bọn giặc Minh truy đuổi vô cùng nguy nan, Lê Lợi bỗng thấy ánh sáng lạ trên ngọn đa, trèo lên lấy xuống mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Ba ngày sau đem tra gươm vào chuôi thì “vừa như in”.

Được gươm thần, các nghĩa sĩ Lam Sơn có thêm niềm tin và sức mạnh chiến đấu. Câu nói của Lê Thận khi dâng gươm báu cho chủ tướng Lê Lợi vang lên như một lời thề:

“Đây là Trời có ý phó thác cho mình công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc!”.

Long Quân trao gươm báu cho nghĩa quân Lam Sơn và Lê Lợi đã làm nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng. Trong tay chủ tướng, lưỡi gươm thần tung hoành khắp các trận địa, quân Minh bị đánh tan tác, bạt vía kinh hồn. Nghĩa quân càng đánh càng mạnh, càng thắng to. Lưỡi gươm thần như đã đem đến cho họ một sức mạnh vô cùng to lớn, xốc tới, đánh tràn ra mãi cho đến lúc không còn bóng một tên giặc nào trên đất nước ta.

Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn sau mười năm gian lao và anh dũng chiến đấu, với lưỡi gươm thần Long Quân trao cho đã hoàn thành sự nghiệp cao cả mà Trời đã phó thác.

Phần cuối truyền thuyết kể lại chuyện Long Quân sai Rùa Vàng bơi theo thuyền ngự của Lê Lợi trên hồ Tả Vọng để đòi lại thanh gươm thần. Chi tiết Rùa Vàng cất tiếng nói và há miệng đớp lấy thanh Gươm rồi lại lặn sâu dưới nước; dưới mặt hồ xanh còn “sáng le lói”, đã tạo nên màu sắc thần kì thiêng liêng của truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm”. Ánh sáng le lói ấy là ánh sáng của lưỡi gươm thần, và đó cũng là ánh sáng của hồn thiêng sông núi, là hào khí Đại Việt rực sáng đến muôn đời.

Truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm” vừa giải thích tên hồ Tả Vọng – Hồ Hoàn Kiếm, một cảnh quan, một di tích lịch sử, văn hoá của cố đô Thằng Long, vừa chỉ rõ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một sự nghiệp cao cả, chính nghĩa thuận theo ý Trời (Thuận Thiên) nên đã toàn thắng. Long Quân đã cho Lê Lợi mượn gươm thần để đánh giặc; giặc nước đuổi xong rồi. Lê Lợi lại trả gươm thần cho Long Quân. Chi tiết ấy đã thể hiện một cách tuyệt đẹp lòng yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta. “Sự tích Hồ Gươm” là một huyền thoại khơi gợi lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc cho mỗi chúng ta.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 5

Ai đã một lần đặt chân đến Hà Nội đều không thể không đến thăm Hồ Gươm. Hồ Gươm như một lẵng hoa xinh đẹp nằm giữa lòng thành phố. Sự tích cái tên Hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với gần ngàn năm lịch sử của đất Thăng Long.

Sự tích Hồ Gươm là một thiên truyện vô cùng đẹp đẽ trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam. Trong việc được gươm và trả gươm của Lê Lợi, yếu tố hiện thực và kì ảo hòa quyện với nhau tạo nên sức hấp dẫn kì lạ. Bằng những hình tượng cực kì đẹp đẽ như Rùa Vàng, gươm thần, truyện ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống giặc Minh xâm lược. Truyện cũng nhằm giải thích nguồn gốc tên gọi của hồ và ca ngợi truyền thống đánh giặc giữ nước oai hùng, bất khuất của dân tộc ta.

Bố cục của truyện gồm hai phần: Long Quân cho nghĩa quân mượn gươm thần đánh giặc và sau khi đất nước sạch bóng quân thù, Long Vương đòi lại gươm. Bối cảnh của truyện là thế kỉ XV, giặc Minh sang xâm chiếm nước ta. Chúng coi dân ta như cỏ rác và làm nhiều điều bạo ngược khiến thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Tội ác của chúng quả là trời không dung, đất không tha.

Bấy giờ, ở vùng Lam Sơn tỉnh Thanh Hóa, nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa nhưng vì thế lực còn non yếu nên thua trận liên tiếp. Thấy vậy, Long Quân quyết định cho họ mượn thanh gươm thần để giết giặc. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã được tổ tiên, thần linh giúp đỡ và nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.

Lê Lợi và Lê Thận nhận được gươm thần không phải từ một thế giới xa lạ nào mà ở ngay chính trên quê hương họ. Lê Thận đi kéo lưới ở bến sông, ba lần kéo lên đều chi được một thanh sắt. Lần thứ ba, ông nhìn kĩ thì là một lưỡi gươm. Con số 3 theo quan niệm dân gian tượng trưng cho số nhiều, có ý nghĩa khẳng định và ý nghĩa tạo tình huống, tăng sức hấp dẫn cho truyện. Lê Thận đem lưỡi gươm ấy về cất ở xó nhà rồi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và sau này trở thành người tâm phúc của Lê Lợi. Nhân một hôm đến nhà Lê Thận, chủ tướng Lê Lợi nhìn thấy lười gươm rực lên hai chữ Thuận Thiên (thuận theo ý trời) bèn cầm lên xem nhưng chưa biết đó là gươm thần.

Một lần bị giặc truy đuổi, Lê Lợi cùng một số tướng sĩ phải chạy vào rừng. Bất ngờ, ông nhìn thấy trên ngọn cây có ánh sáng khác lạ. Ông trèo lên xem thử, nhận ra đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi gỡ lấy chuôi gươm mang về. Đem lưỡi gươm Lê Thận bắt được dưới nước tra vào chuôi gươm bắt được trên rừng thì vừa như in.

Không phải tình cờ người xưa để cho Lê Thận bắt được lưỡi gươm từ dưới đáy sông và Lê Lợi bắt được chuôi gươm từ trong rừng thẳm. Hai chi tiết đó có dụng ý nhấn mạnh gươm thiêng là do linh khí của sông núi hun đúc mà thành. Lưỡi gươm dưới nước tượng trưng cho hình ảnh miền xuôi, chuôi gươm trên rừng tượng trưng cho hình ảnh miền núi. Hai hình ảnh ấy kết hợp lại, ý nói ở khắp nơi trên đất Việt, các dân tộc đều có khả năng đánh giặc, cứu nước. Từ đồng bằng sông nước tới vùng núi non hiểm trở, mọi người đều một lòng yêu nước và sẵn sàng đứng lên cứu nước, giết giặc ngoại xâm.

Tuy lưỡi gươm ở nơi này, chuôi gươm ở nơi khác nhưng khi đem lắp vào nhau thì vừa như in. Điều đó thể hiện nghĩa quân trên dưới một lòng và các dân tộc đồng tâm nhất trí cao độ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đánh đuổi ngoại xâm. Gươm thiêng phải được trao vào tay người hiền tài, có lòng yêu nước nhiệt thành, có ý chí cứu nước. Cho nên mới có chi tiết thú vị: Ba lần Thận kéo lưới lên đều chi được một thanh sắt (lưỡi gươm); trong đám người chạy giặc vào rừng sâu, chỉ một mình Lê Lợi nhìn thấy ánh sáng lạ phát ra từ ngọn cây cao, nơi có treo chuôi gươm báu. Và một hôm, khi chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người tùy tòng đến nhà Thận. Trong túp lều tối om, thanh sắt hôm đó tự nhiên sáng rực lên ở xó nhà. Ánh sáng của thanh gươm và hai chữ Thuận Thiên khắc trên gươm như một lời khuyến khích, động viên của thần linh, của tổ tiên đối với Lê Lợi. Thuận Thiên là hợp ý trời. Hãy hành động cứu nước vì hành động đó hợp với lẽ trời. Mà đã hợp lẽ trời thì tất yếu sẽ hợp với lòng người và tin chắc sẽ thành công.

Đằng sau hình ảnh có vẻ hoang đường ấy chính là ý chí của muôn dân. Ý dân là ý trời. Trời trao mệnh lớn cho Lê Lợi cũng có nghĩa là nhân dân tin tưởng, trao ngọn cờ khởi nghĩa vào tay người anh hùng áo vải đất Lam Sơn. Gươm chọn người và người đã nhận thanh gươm, tức là nhận trách nhiệm trước đất nước, dân tộc. Lời nói của Lê Thận khi dâng gươm báu cho Lê Lợi đã phản ánh rất rõ điều đó. Đây là trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm thần này để báo đền tổ quốc.

Như vậy là gươm báu đã trao đúng vào tay người hiền tài, cho nên đã phát huy hết sức mạnh lợi hại của nó. Từ khi có gươm thiêng, nhuệ khi của nghĩa quân Lam Sơn ngày một tăng, đánh đâu thắng đấy, bao phen làm cho quân giặc bạt vía kinh hồn. Sức mạnh đoàn kết của con người kết hợp với sức mạnh của vũ khí thần kì đã làm nên chiến thắng vẻ vang. Chuyện Long Quân cho mượn gươm được tác giả dân gian miêu tả rất khéo. Nếu để Lê Lợi trực tiếp nhận chuôi gươm và lưỡi gươm cùng một lúc thì sẽ không thể hiện được tính chất toàn dân, trên dưới một lòng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến Thanh gươm Lê Lợi nhận được là thanh gươm thống nhất, hội tụ tư tưởng, tình cảm, sức mạnh của toàn dân trên mọi miền đất nước.

Lúc ở nhà Lê Thận, lưỡi gươm tỏa sáng trong góc nhà tối giống như cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn đã được nhen nhóm từ trong nhân dân. Ánh sáng thanh gươm thúc giục mọi người lên đường. Ánh sáng phát ra lấp lánh từ gươm thiêng phải chăng là ánh sáng của chính nghĩa, của khát vọng tự do, độc lập muôn đời. Thanh gươm tỏa sáng có sức tập hợp mọi người. Gươm thần tung hoành ngang dọc, mở đường cho nghĩa quân đánh tràn ra mãi cho đến lúc không còn bóng dáng một tên giặc Minh nào trên đất nước ta.

Đánh tan quân xâm lược, non sông trở lại thanh bình. Lê Lợi lên ngôi vua, đóng đô ở Thăng Long. Một ngày nọ, vua Lê cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp này, Long Quân sai Rùa Vàng đòi lại gươm thần và Lê Lợi hiểu ý thần linh, đã trao gươm cho Rùa Vàng. Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm thần để đánh giặc, nay đất nước đã yên bình thì đồi gươm lại.

Rùa Vàng há miệng đón lấy gươm thần và lặn xuống nước. Gươm và Rùa đã chìm đáy nước, người ta vẫn thấy vật gì sáng le lói dưới mặt hồ xanh. Đấy là ánh sáng của hào quang chiến thắng vẻ vang, ánh sáng của quyết tâm giết giặc bảo vệ tổ quốc. Những hình ảnh thần kì trên đã để lại ấn tượng đẹp đẽ trong lòng bao người. Chi tiết này có ý nghĩa lớn lao: Khi vận nước ngàn cân treo sợi tóc, thần linh, tổ tiên trao gươm báu cho con cháu giữ gìn giang sơn, bờ cõi. Nay đất nước độc lập, bắt đầu giai đoạn xây dựng trong hòa bình thì gươm báu – hùng khí của tổ tiên lại trở về cõi thiêng liêng.

Hình ảnh Lê Lợi trả gươm đã nói lên khát vọng hòa bình của dân tộc ta. Dân tộc Việt Nam yêu hòa bình, không thích chiến tranh nhưng kẻ nào xâm phạm đến chủ quyền độc lập, tự do của đất nước này đều sẽ được một bài học nhớ đời. Việc cho mượn gươm và đòi lại gươm của Long Quân như một lời răn dạy chí tình của ông cha ta đối với vị vua mới Lê Lợi: trừng trị kẻ thù thì phải dùng bạo lực, còn cai trị nhân dân thì nên dùng ân đức.

Lê Lợi nhận gươm trên đất Thanh Hóa nhưng lại trả gươm tại hồ Tả Vọng ở Thăng Long, Nếu Lê Lợi trả gươm ở Thanh Hóa thì ý nghĩa của truyền thuyết này bị giới hạn bởi vì lúc này, Lê Lợi đã là vua và kinh thành Thăng Long là thủ đô, tượng trưng cho cả nước. Việc trả gươm diễn ra ở đây mới thể hiện hết được tư tưởng yêu hòa bình và tinh thần cảnh giác của toàn dân tộc.

Sau việc Lê Lợi trả gươm cho Long Quân, hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm (hay hồ Hoàn Kiếm). Tên hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) có ý nghĩa là gươm thần vẫn còn đó và nhắc nhở tinh thần cảnh giác đối với mọi người, răn đe những kẻ có tham vọng dòm ngó đất nước ta. Tên hồ đánh dấu và khẳng định chiến thắng hoàn toàn của khởi nghĩa Lam Sơn đối với giặc Minh, phản ánh tư tưởng yêu hòa bình đã thành truyền thống của dân tộc ta. Cái tên Hồ Gươm gắn liền với huyền thoại lịch sử ấy sẽ mãi mãi tồn tại với thời gian, với sự ngưỡng mộ của bao thế hệ Việt Nam yêu nước.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 6

Có những tác phẩm nói về lịch sử khiến chúng ta yêu mến và hứng thú nhưng góp phần để tạo ra những hứng thú ấy phải kể đến những sự tích, huyền thoại trong tác phẩm ấy. Có thể nói nó rất quan trọng và mang lại sự hấp dẫn cho những tác phẩm văn học mà nói về lịch sử của nhân dân ta thời bấy giờ.

Sự tích Hồ Gươm là một thiên truyện vô cùng đẹp đẽ trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam. Trong việc được gươm và trả gươm của Lê Lợi, yếu tố hiện thực và kì ảo hòa quyện với nhau tạo nên sức hấp dẫn kì lạ. Bằng những hình tượng cực kì đẹp đẽ như Rùa Vàng, gươm thần, truyện ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống giặc Minh xâm lược. Truyện cũng nhằm giải thích nguồn gốc tên gọi của hồ và ca ngợi truyền thống đánh giặc giữ nước oai hùng, bất khuất của dân tộc ta.

Bài này được chia bố cục thành hai phần đó là phần Long Vương cho Lê Lợi mượn gươm thần và đoạn hai là sau khi đất nước sạch bóng quân thù thì long vương đòi lại gươm thần ấy. Thứ nhất là khi Long Vương cho mượn gươm thần. Bối cảnh của truyện là thế kỉ XV, giặc Minh sang xâm chiếm nước ta. Chúng coi dân ta như cỏ rác và làm nhiều điều bạo ngược khiến thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Tội ác của chúng quả là trời không dung, đất không tha. Chính vì thế mà nhân dân ta căm phẫn lòng chúng ta giận không nguôi nhưng thế lực chúng ta còn yếu. Thấy được điều đó Long Vương đã cho vua Lê Lợi mượn chiếc gươm thần để đánh bay kẻ thù.

Đó là ba lần thả lưới mới thấy được thanh gươm ấy. Có thể nói rằng cách cho mượn của Long Vương thật khéo, không đưa trực tiếp mà diễn ra dưới tình huống kéo lưới. Trên thanh gươm có khắc hai chữ "thuận thiên" là ý trời. Một lần bị giặc truy đuổi, Lê Lợi cùng một số tướng sĩ phải chạy vào rừng. Bất ngờ, ông nhìn thấy trên ngọn cây có ánh sáng khác lạ. Ông trèo lên xem thử, nhận ra đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi gỡ lấy chuôi gươm mang về. Đem lưỡi gươm Lê Thận bắt được dưới nước tra vào chuôi gươm bắt được trên rừng thì vừa như in. Hai hình ảnh đó một ở nước một ở rừng cho thấy linh khí của sông núi hun đúc thành. Thế rồi nhờ thanh gươm ấy mà vua Lê Lợi đã chiến thắng quét sạch những tên xâm lược khốn nạn.

Đến khi quét sạch bóng quân thù trong một lần đi tản mạn trên dòng sông ấy, đến giữa dòng thì thấy một con rùa vàng nổi lên nói là đòi lại thanh kiếm báu. Đó chính là thần Kim Quy ngày nay mà chúng ta vẫn hay gọi. Lê Lợi hoàn lại thanh kiếm và từ đó nơi đây có tên gọi là Hồ Gươm hay là Hồ Hoàn Kiếm.

Như vậy ta thấy chuyện Long Quân cho mượn gươm được tác giả dân gian miêu tả rất khéo. Nếu để Lê Lợi trực tiếp nhận chuôi gươm và lưỡi gươm cùng một lúc thì sẽ không thể hiện được tính chất toàn dân, trên dưới một lòng của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến. Thanh gươm Lê Lợi nhận được là thanh gươm thống nhất, hội tụ tư tưởng, tình cảm, sức mạnh của toàn dân trên mọi miền đất nước.

Sau việc Lê Lợi trả gươm cho Long Quân, hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ Gươm (hay hồ Hoàn Kiếm). Tên hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) có ý nghĩa là gươm thần vẫn còn đó và nhắc nhở tinh thần cảnh giác đối với mọi người, răn đe những kẻ có tham vọng dòm ngó đất nước ta. Tên hồ đánh dấu và khẳng định chiến thắng hoàn toàn của khởi nghĩa Lam Sơn đối với giặc Minh, phản ánh tư tưởng yêu hòa bình đã thành truyền thống của dân tộc ta.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 7

Về với Hà Nội yêu dấu, ai cũng một lần muốn ghé thăm Hồ Gươm xinh đẹp, nơi từng đã trải qua biết bao thăng trầm lịch sử, cảnh vật huy hoàng đều đã nhuốm màu của thời gian. Nhưng mặt hồ vẫn trong xanh, như một tấm gương ngọc, yên bình nằm giữa vòng tay của thủ đô, in sâu trong ký ức người dân nơi đây với câu chuyện Sự tích Hồ Gươm.

Bằng những lời văn ly kỳ, hấp dẫn Sự tích Hồ Gươm đã khái quát một cách ngắn gọn về công cuộc chống quân Minh xâm lược, qua đó ca ngợi sự anh hùng, tinh thần chiến đấu anh dũng, lòng tự tôn dân tộc sâu sắc của quân dân ta thuở bấy giờ. Chi tiết tặng gươm là biểu trưng cho tư tưởng tuân mệnh trời đã có từ hàng ngàn năm nay, trời cao có mắt, vốn rất sáng suốt, hễ là việc chính nghĩa thì thần phật sẽ giúp đỡ, phù hộ bằng một cách nào đó, và người làm việc chính nghĩa luôn chiến thắng mặc dù có phải gặp nhiều khó khăn vất vả. Đây cũng là mô típ và kết cấu thường thấy trong văn học phương Đông, rất đặc sắc, những kiến thức lịch sử dễ dàng đi sâu lòng người đọc người nghe và để lại ấn tượng sâu sắc, cho ta những bài học đạo đức đầy tính nhân văn.

Thuở ấy, giặc Minh nhân lúc nhà Hồ trong cơn nhiễu loạn, mượn cớ sang nước ta với âm mưu xâm lược, đồng hóa biến nước ta thành thuộc địa của chúng, dưới sự đàn áp, bóc lột tàn nhẫn của quân giặc đời sống nhân dân vô cùng khốn đốn, khổ cực, nghĩ mà đau xót. Nghĩa quân Lam Sơn lúc bấy giờ, đứng đầu là chủ tướng Lê Lợi đã đứng lên khởi nghĩa, tuy nhiên trong những năm đầu, nghĩa quân gặp rât nhiều khó khăn. Lực lượng còn non yếu, chưa có người tài ra giúp sức, thiếu quân lương, vũ khí, luôn phải lẩn trốn, tránh bị quân Minh phát hiện để chờ kế lâu dài.

Biết được tình cảnh ấy, lại khâm phục lòng yêu nước, anh hùng của nghĩa quân mà tiêu biểu là Lê Lợi, Long Quân bèn cho mượn gươm thần để giúp nghĩa quân đánh đuổi giặc Minh. Tuy nhiên, ở đời muốn có được thành tựu thì cần phải chịu chút thử thách, Long Quân không chọn cách đưa gươm trực tiếp cho Lê Lợi, mà lại khéo léo thông qua Lê Thận, vốn là một người chài cá, quanh năm lam lũ, qua ba lần vớt được gươm, chàng trai này đã nhận ra có điểm diệu kỳ bèn giữ lại sau ắt có chỗ dùng tới, quả là nhìn xa trông rộng. Không biết sự kiện vớt gươm có ảnh hưởng gì đến chí hướng của Lê Thận hay không nhưng không lâu sau anh đã gia nhập nghĩa quân và trở thành tướng tài dưới trướng của Lê Lợi, lập rất nhiều công lao, cuộc chiến cũng thuận lợi hơn vì có những người tài giúp sức.

Trong một lần ghé nhà Lê Thận, Lê Lợi bỗng phát hiện lưỡi gươm phát sáng ở một góc nhà, trên đó còn có chữ “Thuận Thiên”, dịch ra là thuận theo ý trời, muốn nói rằng gươm này là được trời ban tặng, để giúp làm việc chính nghĩa. Giữa không gian tăm tối ấy, gươm bỗng phát sáng rực rỡ, có lẽ đã nhận ra vị minh quân Lê Lợi, vầng sáng ấy là sự cổ vũ từ thần linh, tổ tiên, tỏ rõ con đường chống quân xâm lược vốn đang khó khăn ngặt nghèo. Chi tiết ly kỳ này có thể xem là điềm báo đầu tiên cho sự thành công vang dội của công cuộc chống quân Minh xâm lược. Tuy có điểm thần kỳ nhưng vì chưa có chuôi nên gươm vẫn phải nằm chờ, chờ một thời cơ chín muồi hơn.

Ít lâu sau, trong một trận đánh quân ta thất thế phải rút lui, trên đường tháo chạy Lê Lợi vô tình thấy trên ngọn cây có một chuôi gươm nạm ngọc đang phát sáng trong rừng, bằng đầu óc nhanh nhạy và trí nhớ của một vị minh quân Lê Lợi lập tức nghĩ đến lưỡi gươm có chữ “Thuận Thiên” ngày đó ở nhà Lê Thận. Từ đó gươm đã có chuôi, phát huy được sức mạnh cường đại, đưa nghĩa quân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, khiến quân Minh nhiều phen kinh hồn bạt vía, cuối cùng bại trận thảm hại mà trở về nước. Gươm là biểu trưng cho sức mạnh “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, trên thuận trời cao, dưới hợp ý dân, việc Lê Thận vớt được lưỡi gươm ở dưới sông, Lê Lợi lại nhận được chuôi ngọc ở trên rừng là ẩn ý sâu xa về sự dung hòa hai yếu tố sông và núi là biểu trưng cho “địa lợi” đồng thời là sự hòa hợp giữa nhân dân và nghĩa quân. Chi tiết gươm và chuôi vừa khít mang ý nghĩa của sự đoàn kết, tương trợ, gắn bó không rời giữa quân và dân ta, cả nước một lòng dẹp tan giặc Minh.

Con đường nhận gươm cũng trải qua nhiều gian nan giống với việc chinh chiến chống quân Minh xâm lược, có câu “dục tốc bất đạt”, chuyện gì cũng cần có một con đường và kế sách vẹn toàn, cái gì có một cách dễ dàng thì khó bền lâu, bởi ta thường không xem trọng. Đây cũng có thể xem là bài học mà Long Quân muốn gửi gắm cùng với việc ban gươm thần để giúp nghĩa quân chiến thắng kẻ thù, đem về hòa bình và độc lập cho Đại Việt.

Dẹp tan quân xâm lược, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, một năm sau khi đất nước đã ổn định, Long Quân sai Rùa thần lên đòi Lê Lợi trả lại gươm, ý muốn nói phúc trạch tổ tiên, thần linh đã giúp đỡ giữ nước, về sau công cuộc cai trị chỉ còn trông cậy vào sự nỗ lực của bậc minh quân như Lê Lợi và các trung thần cùng nhau gánh vác. Ánh sáng le lói nằm sâu dưới lòng hồ, sau khi rùa ngậm gươm biến mất như là ánh hào quang của chiến tích huy hoàng, là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, mãi mãi vẫn còn in sâu trong tâm trí nhân dân Đại Việt ta.

Lê Lợi trả gươm đại diện cho lòng yêu mến hòa bình, ý muốn sống trong thanh bình, an cư lạc nghiệp của nhân dân ta, gươm đã về với nơi linh thiêng, hy vọng tổ tiên sẽ mãi phù hộ cho đất nước, cho dân tộc được thịnh vượng, không phải sống trong cảnh lầm than, đổ máu.Sự tích Hồ Gươm là một truyện mang nhiều yếu tố kỳ ảo, gắn liền với lịch sử dân tộc trong cuộc kháng chiến với quân Minh xâm lược của Lê Lợi.

Truyện là niềm tự hào, đồng thời ca ngợi tinh thần anh dũng trong công cuộc chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta, tấm lòng kiên cường ấy đã cảm động đến tổ tiên, thần linh, được thần linh phù hộ giúp đỡ vượt qua khó khăn. Hồ Tả Vọng đổi tên thành Hồ Gươm, như nhắc nhở con dân ta tuyệt đối không thể quên những trang sử hào hùng của dân tộc, đồng thời phản ánh khát vọng hòa bình, cùng tinh thần cảnh giác cao độ với những thế lực đang nhòm ngó nước ta.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 8

Nhắc tới Hà Nội là nhắc tới vùng đất chứa đựng nhiều sự tích văn hóa và lịch sử lâu đời. Hà Nội đang vươn mình đón chào những thành tự mới trong cả văn hóa, kinh tế lẫn chính trị xã hội. Ai đã một lần đặt chân đến Hà Nội thì địa điểm đầu tiên không đâu khác ngoài Hồ Gươm hay 36 phố phường. Vậy là người Việt Nam bạn biết Hồ Gươm có một sự tích mà nó gắn ngay trong chính cái tên gọi của nó Hồ gươm hay là Hồ Hoàn Kiếm.

Nói về kho tàng văn học dân gian của nước ta, nếu không nhắc tới sự tích Hồ Gươm thì thật là thiếu sót. Sử dụng yếu tố hoang đường, kỳ ảo để làm tăng thêm phần kịch tính và hấp dẫn cho thiên truyện này, nhất là qua hai lần nhận gươm và trả gươm của Lê Lợi. Hình ảnh chiếc gươm thần dùng để giết giặc, con rùa vàng để ngầm cho chúng ta hiểu đây là cuộc chiến chính nghĩa, ai dám xâm phạm nước Nam thì đều phải nhận lấy hậu quả bại trận như thế này. Truyện như một bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh xâm lược cũng như viết lên một thiên truyện đẹp về nguồn gốc của Hồ gươm.

Lấy bối cảnh đất nước dưới thời vua Lê Lợi trị vì, khi bọn giặc Minh tìm đủ mọi cách để thau tóm nước ta. Truyện được thành 2 phần rõ rệt: lúc vua nhận lấy gươm thần và khi trả gươm về cho Long Quân. Long Quân là nhân vật trong tượng tưởng của nhân dân. Cuộc khởi nghĩa là cuộc chiến chính nghĩa vì nước vì dân nên được tổ tiên giúp đỡ và phù hộ. Trong một lần, sau khi bị quân địch đánh bại vua đành phải lùi vào rừng để bảo vệ tính mạng rồi tiếp tục chiến đấu thì vô tình nhặt được lưỡi chuôi gươm nạm ngọc khi thấy ánh sáng kỳ lạ phát ra từ cây, nhớ ra chiếc gươm mà Lệ Thận vớt được dưới biển liên mang cho Lê Lợi, như dự đoán của Lê Lợi, chúng vừa vặn và đồng nhất với nhau.

Hai chi tiết trục vớt được gươm và Lê Lợi nhặt được chuôi gươm không hề đơn giản chỉ là sự ngẫu nhiên mà qua đó thể hiện được sự dung hòa của đất trời, lòng vua và lòng yêu nước của cả toàn dân tộc được cả trời đất chứng giám và thấu tận trời xanh. Con người trong cùng dân tộc thì luôn hướng về nhau. Chuôi gươm tượng trưng cho nhân dân ở miền ngược, còn lưỡi gươm tượng trưng cho nhân dân miền xuôi, dù có khó khăn như thế nào cũng luôn đồng lòng, cùng vua giữ bờ sông một cõi.

Cái gì cũng cần cho trao cho người có tài và đủ hiền đức mới có thể dựng nên nghiệp lớn. Gươm thần trao cho Lê Lợi là đúng chủ ý của cả toàn dân tộc Việt Nam, sứ mệnh giữ nước, đánh giặc, đưa non sông thu về một mối của Lê Lợi là đúng với lòng dân, luôn được nhân dân tin tưởng. khi đất nước rơi vào tình trạng lâm nguy thì chỉ có trên dưới đồng lòng, nhất trí thì mới hoàn thành được sứ mệnh.

Việc long quân bảo rùa vàng đi lấy lại gươm thần chính là lời nhắc nhở cho vị vua mới Lê Lợi của chúng ta: việc đánh giặc nên dùng bạo lực thì mới có thể giải quyết được, nhưng khi trì vị đất nước yêu chuộng hòa bình, không thích chiến tranh thì hãy nên dùng hồng đức của mình để cai trị thì dân mới phục được. Tuy Lệ Thận nhận gươm trên đất Thanh Hóa nhưng lại trả ở trên sông Tả Vọng, Hà Nội,điều này một lần nữa nhắc về sự ra đời của tên gọi hồ Gươm và hồ Hoàn Kiếm, nếu trả ngay trên đất xứ Thanh thì bị giới hạn về mặt không gian.

Tên gọi Hồ Hoàn Kiếm như là lời cảnh báo cho những kẻ tham lam luôn tìm mọi cách chống phá và thâu tóm nước ta. Nước Việt Nam luôn yêu chuộng hòa bình, đấu tranh giữ nước và dựng nước là truyền thống quý báu của ta cần được gìn giữ và phát huy.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 9

Có lẽ, khi nhắc đến Hà Nội mọi người đều nghĩ ngay đến Lăng Bác, Chùa Một Cột…. hay là Hồ Gươm còn gọi là Hồ Hoàn Kiếm. Cái tên Hồ Gươm hay Hồ Hoàn Kiếm đã không quá xa lạ đối với mỗi người dân Việt. Truyện cổ tích “ Sự tích Hồ Gươm” là một thiên truyện đặc sắc trong kho tàng văn học Việt Nam, giải thích rõ nguồn gốc của cái tên Hồ Hoàn Kiếm thông qua những chi tiết và nhân vật gắn liền với lịch sử xây dựng đất nước.

Câu chuyện xoay quanh việc nhận được gươm và trả gươm của Lê Lơi, những chi tiết kỳ ảo và hiện thực xen lẫn nhau, đẩy cho cốt truyện lên cao trào, tạo cho người đọc cảm giác chờ đợi kết quả. Với những hình tượng đẹp đẽ như Gươm thần, Rùa vàng…. truyện ca ngợi tính chất chính nghĩa, nhân đạo và chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi lãnh thổ đất nước dưới sự chỉ đạo của Lê Lợi.

Bố cục của câu chuyện được chia làm hai phần rõ ràng, có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Phần thứ nhất là Long Quân cho nghĩa quân mượn gươm thần để đánh giặc, phần thứ là người cho Rùa Vàng đến để đòi lại gươm khi đã đánh đuổi được giặc Minh, đất nước trở lại yên bình.

Bấy giờ ở Lam Sơn, Thanh Hóa, quân Minh kéo người sang xâm lược nước ta, nghĩa quân ta dựng cờ khởi nghĩa để chống lại quân địch, vì lực lượng còn non yếu nên đã nhiều lần thất bại. Như chúng ta đã biết, giặc Minh là một lũ khốn nạn, chúng coi nhân dân ta như cỏ rác, quyết tâm tiêu diệt quân ta, tội ác của chúng không thể nào tha thứ được.

Nhận thấy được nghĩa quân ta thất bại liên tục trước kẻ thù, Long Quân đã quyết định cho nghĩa quân ta mượn gươm thần giết giặc, mang lại sự yên bình cho quần chúng nhân dân. Được sự hưởng ứng nhiệt tình của nhân dân cùng với sự giúp sức của thần linh, nghĩa quân đã nhanh chóng tiêu diệt địch, cướp kho lương thực của địch. Từ đó nhân dân ta được ăn no mặc ấm.

Gươm thần xuất hiện bằng cách nào? Trong một lần đánh bắt cá ở sông, Lê Thận cả ba lần đều vớt lên được một thanh sắt. Lấy làm kì lạ, ông nung nó dưới lửa và thấy phát sáng từ đó phát hiện ra lưỡi gươm. Còn Lê Lợi trong một lần trốn chạy quân địch, ông đã phát hiện ra chuôi gươm ở trên ngọn cây và ông nhớ đến có một lưỡi gươm ở nhà Lê Thận. Kỳ lạ thay, chuôi gươm và lưỡi gươm trùng khít vào nhau. Từ đó, nhờ sự giúp sức của gươm thần mà nghĩa quân đi đến đâu, giặc chết đến đấy.

Chi tiết lưỡi gươm xuất hiện dưới nước, chuôi gươm xuất hiện trên rừng, đó như là một lời nhắc nhở chúng ta, cho dù bất cứ ở nơi đâu đi chăng nữa, dân tộc Việt Nam là một, các dân tộc đều có khả năng đánh giặc, cứu nước. Từ đồng bằng cho tới vùng nước non hiểm trở, chỉ cần có lòng yêu nước và tinh thần không chịu khuất phục trước kẻ thù thì ai cũng có thể đứng lên cứu nước. Nếu có sự đồng lòng và tinh thần đoàn kết thì không có bất kì đất nước nào có thể xâm phạm đến độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lanh thổ Tổ quốc. Ngoài ra, qua chi tiết lưỡi gươm và chuôi gươm ở hai nơi khác nhau nhưng khi ghép lại thì vừa khít chứng tỏ nghĩa quân ta trên dưới một lòng, chỉ cần như vậy là đã đánh thắng được kẻ thù.

Sau khi đánh đuổi được giặc Minh, đất nước trở lại yên bình, dân có cơm ăn áo mặc thì Long Quân sai Rùa Vàng đến đòi lại gươm. Sau việc trả gươm, hồ Tả Vọng được đổi tên thành Hồ Gươm hay còn gọi là Hồ Hoàn Kiếm. Với những chi tiết kỳ ảo, không có thật, tác giả dân gian đã dệt nên một câu chuyện thú vị, lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, để lại cho con cháu chúng ta nhiều bài học vô cùng quý báu.

Qua truyện “ Sự tích Hồ Gươm”, chúng ta như hiểu thêm về thời kì dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Các thế hệ sau phải biết tiếp nối truyền thống cha ông, đoàn kết một lòng bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 10

Trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, có rất nhiều truyện cổ tích hay và ý nghĩa, chúng ta không thể không kể đến “Sự tích Hồ Gươm”.

Nước ta lúc bấy giờ đang bị giặc Minh đô hộ, Lê Lợi cùng quân Lam Sơn dựng cờ khởi nghĩa nhưng do ban đầu mới thành lập, đội quân còn yếu thế nên thường bị thua. Chính vì vậy mà Đức Long Quân đã quyết định cho đội quân mượn thanh gươm để giết giặc. Có một người đánh cá tên là Lê Thận, thả lưới ba lần và kéo lên đều là một thanh sắt nhưng nhìn kĩ thì đó là một lưỡi gươm. It lâu sau đó, Lê Lợi bị giặc đuổi vào rừng, trong lúc đêm tối, Lê Lợi thấy có ánh sáng lạ trên ngọn cây. Ông lấy xuống xem thử thì đó là chuôi gươm nạm ngọc.

Ông nhớ đến lưỡi gươm của Lê Thận, mang ra ướm thì vừa như đúc. Hai chi tiết nhặt được lưỡi gươm ở dưới nước và chuôi gươm ở trên rừng có ý nghĩa sâu sắc và thiêng liêng, nó là sự kết hợp sức mạnh của trời đất, rừng biển tạo nên, đó còn là sức mạnh của người dân miền xuôi và miền ngược hợp thành chống giặc ngoại xâm. Tuy lưỡi gươm và chuôi gươm ở hai nơi khác nhau nhưng khi ướm lại thì vừa như đúc, điều đó thể hiện tinh thần đồng lòng, đồng tâm hiệp lực sẵn sàng đứng lên cứu nước.

Lê Lợi là người tài, giàu lòng yêu nước và thông minh nên được Đức Long Quân trao cho thánh gươm. Ánh sáng của hai chữ Thuận Thiên phát sáng cả khu rừng thể hiện sự hợp tình, hợp lí, hợp với ý trời. Hành động cứu nước đúng đắn, được trời ủng hộ, khích lệ, đó là sự động viên tinh thần cho Lê Lợi đứng lên khởi nghĩa và chắc chắn sẽ giành thắng lợi. Phía sau chi tiết kì ảo thì đó là ý nguyện của nhân dân. Đó là trách nhiệm cũng như trọng trách cao quý mà nhân dân trao cho người có tài,có chí cho đấng anh minh là việc lớn, đồng thời nó còn thể hiện sự tin tưởng, một lòng của nhân dân theo bước chân Lê Lợi đứng lên khởi nghĩa.

Gươm thần trao đúng người tài, vì vậy mà mọi cuộc càn quét của quân giặc đều thất bại dưới thanh gươm của ta, đánh đâu thắng đấy, quân giặc chết hàng loạt, làm cho bọn chúng bao phen điêu đứng làm nên sức mạnh vẻ vang. Thanh gươm thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc, ý chí quật cường của dân ta, mang đến cho dân ta nền độc lập tự chủ.

Khi đã hoàn thành sứ mệnh, Lê Lợi trả lại thanh gươm. Đánh tan bọn giặc, Lê Lợi lên ngôi vua và đóng đô ở Thăng Long. Một ngày nọ Lê Lợi du thuyền rồng ở hồ Tả Vọng. Nhân dịp này, Đức Long Quân sai Rùa Vàng đến đòi lại gươm thần. Lê Lợi hiểu ý, khi Rùa Vàng ngoi lên, Lê Lợi thả thanh gươm xuống, rùa há miệng đón lấy và lặn xuống nước. Hình ảnh Lê Lợi trả lại thanh gươm cho Rùa sau khi đất nước yên bình, không còn bóng kẻ thù thể hiện ý chí, khát vọng của nhân dân ta không thích phải cầm đao kiếm, không thích chiến tranh và sự chết chóc, mong muốn được hòa bình.

Lê Lợi trả gươm ở hồ Tả Vọng, chính vì vậy mà sau này hồ này được lấy tên là hồ Hoàn Kiếm, tức là hoàn trả lại gươm, nhắc nhở mọi người cần đề phòng, có tinh thần cảnh giác đối với thế lực thù địch có tham vọng thâu tóm nước ta. Hồ Hoàn Kiếm là nơi đánh dấu và khẳng định chiến thắng vẻ vang của khởi nghĩa Lam Sơn cũng như tài năng lãnh đạo của Lê Lợi.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 11

Truyện cổ tích nằm trong kho tàng truyện cổ dân gian của nước ta. Nó nói lê ước mơ, tâm tư tình cảm của người dân Việt Nam từ thời kỳ xưa truyền cho đời nay. Là những bài học bổ ích để thế hệ con cháu có thể rút ra kinh nghiệm cho riêng mình.

Sự tích Hồ Gươm là một câu chuyện vô cùng nổi tiếng trong kho tàng truyện cổ của nước ta. Câu truyện cổ tích này kể về việc vua Lê Lợi được rùa vàng cho mượn kiếm thần đánh tan giặc ngoại xâm. Chính yếu tôi hư cấu, kỳ ảo đã làm nên sức hấp dẫn của truyện cho tới thế hệ hôm nay mọi người vẫn còn yêu thích truyện này. Bối cảnh truyện viết về những năm thế kỷ XV khi quân Minh sang xâm lăng nước ta, chúng reo cái chết lên những người dân vô tội, coi dân ta như nô lệ của mình, coi nước ta như cỏ rác.

Câu chuyện kể rằng cho một người làm nghề kéo lưới một đêm nọ anh chàng Thuận đi kéo lưới thấy nặng tay anh ta tưởng là đánh được mẻ cá lớn nên mừng lắm. Nhưng kéo lên chỉ là một thanh sắt. Anh lại quăng xuống sông. Nhưng ba lần liên tiếp anh chàng Thuận đều kéo được thanh sát lấy làm lạ nên anh Thuận mới lấy lửa soi kỹ thì nhận ra đó là thanh gươm.

Chiến tranh xảy ra, Thuận gia nhập quân Tây Sơn của Lê Lợi đánh giặc, nhưng do binh mỏng, lực yếu nên quân ta phải chạy thoát thân trong lúc nguy cấp thì Thuận đã dâng hiến thanh gươm của mình cho Lê Lợi.

Lê Lợi cầm lấy và khắc lên thanh gươm hai chữ “Thuận Thiên” có nghĩa là ý trời. Khi Lê Lợi cầm thanh gươm lên tay ngay lập tức thanh gươm phát sáng, sắc nhọn không còn là một thanh sắt han rỉ nữa. Gươm vung tới đâu thì đầu giặc rơi tới đó, khiến cho quân giặc vô cùng khiếp sợ uy danh của Lê Lợi tháo chạy về nước. Quân ta thoát cảnh xâm lăng.

Một hôm nhân cảnh đất nước thái bình, Lê Lê đi thuyền rồng trên sông ngắm cảnh nhân dân thái bình, thịnh vượng khi ông đang đi thì bỗng có một chú Rùa nổi lên xin lại thanh gươm hôm nào. Lê Lợi liền rút thanh gươm đang mang trên mình trao trả cho Rùa thần. Rùa thần ngậm gươm rồi lặn xuống đáy sông để lại một ánh sáng xanh. Từ đó, người ta gọi hồ đó là Hồ Gươm, hay chính là Hồ Hoàn Kiếm, nơi Lê Lợi đã trao trả thanh gươm quý báu cho rùa thần.

Câu chuyện này nó lên tinh thần yêu nước cũng như việc chúng ta đánh giặc ngoại xâm đến cả Long Vương cũng thương tình giúp đỡ thể hiện tinh thần chính nghĩa thuộc về ta. Còn giặc Minh là lũ cướp nước gây ra chiến tranh phi nghĩa, nên bị trời trừng phạt.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 12

Tìm hiểu, suy ngẫm về chùm truyền thuyết cổ xưa xuất hiện trong thời đại các vua Hùng dựng nước như Con Rồng cháu Tiên; Thánh Gióng; Sơn Tinh, Thuỷ Tinh… chúng ta thấy các nhân vật và sự kiện lịch sử đã được nhào nặn, kì ảo hoá, lí tưởng hoá khiến cho chất thực mờ đi, chất mộng mơ, lãng mạn, tưởng tượng hiện rõ. Tiếp sau các truyén thuyết đẫm chất mộng, chất thơ ấy, tổ tiên chúng ta sáng tác nhiều truyền thuyết tiêu biểu mang nhiều yếu tố sự thật lịch sử hơn. Một trong những tác phẩm tiêu biểu có cốt lõi lịch sử nổi bật là truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm.

Đây là loại truyền thuyết vừa giải thích nguồn gốc một địa danh vừa tôn vinh những danh nhân, những anh hùng nổi bật trong lịch sử có công với dân, với nước. Sự tích Hồ Gươm là một trong hàng trăm sáng tác dân gian về Lê Lợi và khởi nghĩa Lam Sơn ở thế kỷ XV. Tuy tác phẩm mang cốt lõi lịch sử nổi bật, nhưng vẫn có những chi tiết kì ảo, tưởng tượng đặc sắc, toát và nhiều ý nghĩa. Đọng lại trong suy ngẫm và cảm xúc của người kể, người nghe truyền thuyết này là hình ảnh thanh kiếm "Thuận Thiên". Nói khác đi, đây là câu chuyện "Trời trao gươm báu, việc lớn ắt thành công".

1. Vì sao đức Long Quân cho mượn gươm?

Qua truyền thuyết, chúng ta hiểu rằng: Lúc bấy giờ giặc Minh đô hộ nước ta, làm nhiều điều bạo ngược, nhân dân ta : trời đất và lòng người – căm giận chúng đến tận xương tuỷ. Ở vùng Lam Sơn, Lê Lợi đã tạp hợp những người dân có nghĩa khí nổi dậy chống giặc. Những ngày đầu, nghĩa quân lực yếu, lương thảo ít, thanh thế chưa cao, nhiều lần bị thua trận. Đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn gươm thần để giết giặc. Như vậy, trời đã thấu hiểu việc đời, lòng dân. Việc làm của nghĩa quân Lam Sơn hợp ý trời, được tổ tiên, thần linh ủng hộ, giúp đỡ. Nhưng cách ủng hộ, giúp đỡ ấy không đơn giản, dễ dàng mà nhiều thử thách, đòi hỏi con người phải thông minh, phải giàu bản lĩnh và có quyết tâm cao.

2. Cách Long Quân cho mượn gươm, Lê Lợi nhận gươm và tổ chức chiến đấu như thế nào?

a) Từ trong lòng nước, lưỡi gươm đến tay người dân. Chàng Lê Thận đánh cá, ba lần quăng chài thả lưới, kéo lưới vẫn chỉ thấy thanh sắt lạ "chui vào lưới mình". Đưa thanh sắt cạnh mồi lửa, chàng nhận ra một lưỡi gươm. Vậy là, người dân bình thường ấy đã được sông nước tặng vũ khí, thôi thúc chàng lên đường tham gia nghĩa quân. Nhưng "lưỡi gươm" kia vẫn ngủ im. Kể cả lúc chủ tướng Lê Lợi cầm lên xem, thấy hai chữ "Thuận Thiên" khắc sâu vào lưỡi gươm, mọi người vẫn không biết đó là báu vật. "Thuận Thiên" nghĩa là "hợp lòng trời, thuận với ý trời". Có thể Lê Lợi hiểu nghĩa của hai chữ đó, nhưng chưa thấu tỏ được ý thiêng, thâm thuý của thần linh. Đây cũng là một câu đố, một thứ thách, đòi hỏi trí thông minh, sự sáng tạo của con người.

Trong các truyền thuyết trước, đã xuất hiện những "bài toán", câu đố. Đến truyện này, câu đố hiện lên ở một vật thiêng bằng chữ thánh hiền khiến cho cả nhân vật trong truyện và người đọc chúng ta băn khoăn, hồi hộp. Câu đố tiếp tục xuất hiện, thần linh tiếp tục thử thách. Lần này sự thử thách không đến với dân mà hiện ra trước mắt người chủ tướng. Trên đường lui quân, Lê Lợi bỗng thấy "có ánh sáng lạ trên ngọn cây đa… trèo lên mới biết đó là một cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận…". Ít ngày sau "khi đem tra gươm vào chuôi thì vừa như in".

Như vậy là trải qua một quá trình thử thách, thần linh đã phát hiện được người đủ tài đủ đức, có trí sáng, lòng thành để trao gươm báu. Ta thử ví dụ, sau khi vớt được thanh sắt – lưỡi gươm, chàng ngư dân Lê Thận không gia nhập nghĩa quân, không chiến đấu dũng cảm để được Lê Lợi quý mến, gần gũi và chủ tướng Lê Lợi khi nhìn thấy cái chuôi gươm nạm ngọc không nhớ tới lưỡi gươm nhà Lê Thận… thì sự việc sẽ ra sao ? Có thể nói, từ trong lòng nước, lưỡi gươm vào tay người dân rồi từ trên rừng sâu, núi cao, chuôi gươm thôi thúc chủ tướng để hoàn thiện một thanh gươm, để hoà hợp ý trời và lòng dân, dũng khí của quân và trí sáng của tướng, hoà hợp lực lượng miền xuôi, sông nước và lực lượng người dân miền núi, rừng già. Điều này gợi nhớ lời dặn xưa của bố Rồng, mẹ Tiên "kẻ miền núi, người miền biển, khi có việc gì thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn…".

Các chi tiết xung quanh việc cho mượn gươm, việc nhận gươm và hai chữ "Thuận Thiên" khắc trên gươm lung linh màu sắc kì ảo, toả sáng biết bao ý nghĩa sâu xa. Tất cả đã đọng lại rồi ngân lên trong câu nói của Lê Thận khi dâng gươm cho Lê -Lợi: "Đây là Trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh eươm thần này để báo đền Tổ quốc !". Sáng tạo câu chuyện trao gươm "Thuận Thiên" như thế, nhân dân ta khẳng định tính chất chính nghĩa và tôn vinh vai trò, uy tín, tài năng phẩm chất người chủ tướng, vị minh công, người anh hùng Lê Lợi trong công cuộc kháng chiến chống giặc Minh lúc bấy giờ.

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn

Ta gắng chí khắc phục gian nan.

Sau này, trong bản hùng văn Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã thâu tóm sự việc trời trao gươm, dân gửi niềm tin và ý chí, quyết tâm đánh giặc của Lê Lợi bằng hai câu văn đặc sắc như thế. Không rõ truyền thuyết Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm có trước, hay bài hùng văn của Nguvễn Trãi có trước ? Điều chắc chắn rằng, đối với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nói chung, cá nhân Lê Lợi nói riêng, nhân dân ta dã tôn vinh bằng những hình ảnh, chi tiết, sự việc, lời văn đẹp nhất.

b) Sau khi nhận được gươm thần, nhận sứ mệnh thiêng liêng của Trời Đất và muôn dân, Lê Lợi cùng nghĩa quân đã bừng lên một sức sống mới. "Nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng…, thanh gươm thần tung hoành khấp các trận địa… Uy thế của nghĩa quân vang khắp nơi… Họ… xông xáo đi tìm giặc… Gươm thần mở đường cho họ đánh… cho đến lúc không còn bóng một tên giặc nào trên đất nước". Đoạn truyện ở cuối phần một của áng truyền thuyết không có sự việc nào nổi bật mà chỉ là mấy lời trần thuật ngắn gọn. Nhưng lời văn đi liền một mạch, tốc độ lời kể, giọng kể chuyển dộng mỗi lúc một nhanh, dồn dập, sôi nổi… nghe thật hào hùng, sảng khoái. Âm hưởng áng văn chương truyền miệng dân gian như đồng vọng với âm hưởng tác phẩm văn học viết của danh nhân văn hoá Nguyễn Trãi lúc bấy giờ:

Đánh một trận sạch không kình ngạc

Đánh hai trận tan tác chim muông

Cơn gió to trút sạch lá khô

Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ…

(Bình Ngô đại cáo)

Đúng là "Trời trao gươm báu, việc lớn ắt thành công"!

3. Việc lớn thành công rồi, gươm thần trả lại Long Quân như thế nào? Việc ấy có ý nghĩa gì?

Hoàn cảnh diễn ra việc trả gươm khá đặc biệt. Đất nước thanh bình, nhân dân sống yên vui, vua và quần thần được tạm nghi ngơi, dạo mát, ngắm cảnh trên mặt hồ, cái lẵng hoa xanh mát, con mắt ngọc long lanh giữa kinh thành. Hồ có tên là Tả Vọng, có lẽ vì hồ nằm ở phía trái cung vua, nhìn về cung điện. Một cái tên bình thường không có gì đặc sắc. Điều đặc sắc là "Khi thuyền rồng tiến ra giữa hồ, tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi mặt nước". Trong khi đó lưỡi gươm thần đeo bên người đức vua "tự nhiên động đậy…". Và Rùa nói được tiếng người : "Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân! Vua nâng gươm hướng về phía Rùa Vàng… Rùa há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước…", việc trả gươm diễn ra mau chóng, toàn là những chi tiết kì ảo, vừa như có thật, lại vừa như không thật, vừa là chuyện con người lại vừa là chuyện của thần thánh. Nghe chuyện và tưởng tượng, chúng ta không khỏi bàng hoàng, suy ngẫm.

Vậy việc trả gươm trên hồ Tầ Vọng, sau được đổi thành Hồ Gươm, hồ Hoàn Kiếm có ý nghĩa gì? Trước hết việc ấy phản ánh tư tưởng, tình cảm yêu hoà bình của dân tộc ta. Khi có giặc ngoại xâm, cả thần lẫn người, tổ tiên và con cháu hợp sức vung gươm đánh giặc, khi đất nước thanh bình, chúng ta "treo gươm", "cất gươm", "trả gươm" về chốn cũ. Việc ấy cũng có nghĩa là: chúng ta "trả gươm" cho thần thánh, nhờ giữ hộ để "gươm" tạm nghỉ ngơi hoá thân vào khí thiêng non nước. Bọn giặc hãy coi chừng! Hồ Tả Vọng, bên cạnh hoàng cung, nay có tên là "Hoàn Kiếm" sẽ lưu giữ thanh gươm "Thuận Thiên" giữa lòng Tổ quốc, mãi mãi lưu giữ chiến công của nghĩa quân Lam Sơn, thường xuyên nhắc nhở nhân dân nhớ ơn người xưa và cảnh giác trước kẻ thù xâm lược. Tên hồ và "ánh sáng le lói dưới mặt hồ xanh" như trong truyền thuyết kể muôn đời toả sáng các ý nghĩa đó.

Vậy đấy, truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm là câu chuyện Trời trao gươm báu, việc lớn của muôn dân ắt sẽ thành công. Bằng những chi tiết tưởng tượng, kì ảo (như gươm thần, Rùa Vàng) kết hợp những sự việc khá hấp dẫn của một áng văn tự sự dân gian, tác phẩm ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo ở đầu thế kỉ XV. Truyện cũng nhằm giải thích tên gọi hồ Hoàn Kiếm, đồng thời thể hiện khát vọng hoà bình của dân tộc ta. Bạn ơi ! Nếu ở Hà Nội, hay ở bất cứ nơi nào trên Tổ quốc ta, ở đâu trên thế giới, có dịp tới thăm Hồ Gươm, hồ Hoàn Kiếm, hãy lắng nghe, hãy kể cho nhau nghe câu chuyện thần thánh cho mượn gươm, rồi đòi trả lại gươm… bạn nhé!

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 13

Có vẻ như “Sự tích Hồ Gươm” là truyền thuyết mang ít nhất đặc tính đặc trưng của những câu truyện truyền thuyết nước ta – tính kì ảo và tưởng tượng. Người đọc có thể dễ dàng thấy mình như được sống và trải nghiệm câu truyện đó – câu truyện về những năm tháng đấu tranh đầy oanh dungg của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Hơn nữa, qua câu truyện này, người đọc càng thêm biết ơn người đã mang đến sự độc lập, tự do cho đồng bào – vị anh hùng Lê Lợi.

Để sang xâm lăng nước ta, quân Minh đã lấy lý do phù Trần diệt Hồ. Vì thế, cuộc sống của nhân dân lâm vào cảnh lầm than khi họ luôn luôn bị quân Minh đè nén và bức hiếp. Không thể chịu nổi cảnh đồng bào bị chèn ép, Lê Lợi đã phất cờ khởi nghĩa. Vốn nghĩa quân của ông chưa đủ mạnh nên đã thất bại nhiều lần, Long Quân thấy vậy nên đưa Lê Lợi mượn gươm thần nhưng không đưa trực tiếp mà qua một quá trình không hề dễ dàng.

Đầu tiên, Long Quân làm chiếc gươm mắc vào lưới đánh cá của Lê Thận ba lần. Vì lúc nào cũng vớt được lưỡi gươm dù có đã vứt trở lại sống mất lần nên ông bèn mang gươm trở về. Chuôi gươm thì được chính tay vị chủ tướng Lê Lợi mang về từ cây đa. Ta có thể dễ dàng thấy được vốn thanh gươm là gươm thần nên Long Vương không thể nào cho Lê Lợi mượn một cách dễ dàng được.

Ngoài ra, cách thử thách của Long Vương rất đặc biệt và ý nghĩa. Sự đồng lòng, hợp nhất của nhân dân trước quân địch đã được thể hiện qua hình ảnh lưỡi gươm và chuôi gươm được tìm ở hai nơi khác nhau là ở dưới nước và trên rừng. Hình ảnh này cũng khiến người đọc liên tưởng đến truyền thuyết “Con rồng cháu Tiên” – Lạc Long Quân và Âu Cơ chia năm mươi con lên rừng và năm mươi con xuống biển để cai quản các khu vực rồi lúc cần sẽ hợp sức lại mà giúp đỡ nhau.

Ta có thấy rõ được hai yếu tố không thể thiếu để tìm được hai phần của thanh gươm chính là nước và rừng, hơn nữa hai thứ đó lại còn “vừa như in” – điều ấy càng làm nổi bật hơn sự một lòng cùng nhau đánh giặc của nhân dân miền xuôi và ngược. Bên cạnh đó, ta còn có thể rút ra được rằng, vị thủ lĩnh của trận đấu này đã được chỉ định. Đó là một vị tướng lĩnh tài ba và đầy sáng suốt – vị anh hùng Lê Lợi.

Khi đã nắm trong tay được gươm thần, sức lực của đội quân đã tăng lên đáng kể, quân địch cứ thế dần dà bị đánh bại và phải kéo quân về nước. Một lần nữa, sức mạnh của thanh gươm khẳng định cho sự đồng lòng đoàn kết của dân tộc, kèm theo đó là sự chỉ đạo đầy sáng suốt và tài tình của Lê Lợi đã giúp cho dân tộc vượt qua được khó khăn và kẻ địch.

Sau khi quân Minh lui về nước, nhân dân ta lại được sống trong sự ấm no và hòa bình. Đến tận một năm sau, khi đất nước đã ổn định về các mặt thì Long Quân mới phái rùa vàng đi đòi lại gươm thần. Chi tiết rùa vàng nổi lên ngay giữa hồ ngậm lấy thanh kiếm rồi lặn xuống và rồi trên mặt hồ vẫn lấp lánh những ánh sáng là một chi tiết đậm chất kì ảo và thiêng liêng. Chính chi tiết này đã phần nào giải thích được cho tên gọi của hồ – hồ Hoàn Kiếm.

Không chỉ đặc biệt ở mặt nội dung, về nghệ thuật, “Sự tích Hồ Gươm” cũng được lồng ghép tài tình khi sử dụng hai câu chuyện trả gươm và mượn gươm. Mặc dù hai câu chuyện có nội dung khác nhau nhưng không hề hoàn toàn tách biệt mà bổ sung ý nghĩa cho nhau. Ngoài ra, “Sự tích Hồ Gươm” còn là một bản ca hòa hợp  hoàn hảo giữa những nốt nhạc của sự kì ảo và những nốt nhạc của yếu tố thực.

Sự kết hợp hài hòa của các yếu tố huyền bí với yêu tố lịch sử đã không chỉ giải thích được lý do ra đời cái tên của Hồ Gươm mà còn làm tôn lên sự chính nghĩa, tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 14

Các truyền thuyết kể lại về thời đại Hùng Vương, nhân vật xuất hiện thường là những nhân vật thần thoại. Càng về sau, nhân vật xuất hiện trong truyền thuyết thường là các vị anh hùng có ghi trong lịch sử dân tộc, nhân vật thần thoại chỉ xuất hiện ở những tình huống đặc biệt nhất. Đây là nhân vật Long Quân, Rùa Vàng trong truyền thuyết kể về công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm vào thời Hậu Lê, với ý nghĩa là giải thích địa danh hồ Hoàn Kiếm.

Nhân vật thần thoại xuất hiện trong truyền thuyết này là Long Quân và Rùa Vàng, còn nhân vật chính có trong sử sách là giặc Minh xâm lược và lãnh tụ nghĩa quân Lê Lợi. Từ năm 1407 đến năm 1427, triều đại nhà Minh bên Trung Quốc xua quân xâm lược và đô hộ đất nước ta. Bọn chúng rất tàn bạo và dã man. Như Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo, bọn chúng:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

“Dân ta phải khổ nhục trăm đường, tiếng oan không kêu ca được” (Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim - trang 204).

Mở đầu truyền thuyết: Sự tích hồ Gươm cũng ghi lại tội ác ấy của quân Minh. Tất nhiên không cam tâm đứng nhìn quân giặc chém giết hành hạ dân mình nên “nghĩa quân nổi dậy chống lại chúng”, nhưng nhiều lần bị thua. “Thấy vậy, đức Long Quân quyết định cho nghĩa quân mượn thanh gươm thần để họ giết giặc”. Người xưa tin rằng tổ tiên luôn phù hộ cho con cháu thoát khỏi hoàn cảnh ngặt nghèo. Đây là một đặc điểm về văn hóa tâm linh của người phương Đông nói chung, và người Việt nói riêng. Từ chi tiết có tính thần kì ấy mà xuất hiện các chi tiết thần kì khác ở các nhân vật tiếp theo. Trước hết là việc kéo lưới của ngư dân Lệ Thận. Kéo lưới lần thứ nhất, “chàng chỉ thấy có một thanh sắt” thay vì một mẻ cá to. Lần thứ hai cất lưới ở một chỗ khác, chàng cũng cất được thanh sắt ấy. Lê Thận vất bỏ thanh sắt xuống nước rồi tiếp tục thả lưới ở chỗ khác nữa. Lần thứ ba, cũng lại cất được thanh sắt ấy. “Lấy làm lạ, Thận đưa thanh sắt lại cạnh mồi lửa nhìn xen. Bỗng chàng reo lên: - Ha ha! Một lưỡi gươm!”.

"Lưỡi gươm” cũng chỉ là thanh sắt bình thường nếu Lê Thận không gia nhập nghĩa quân, và Lê Lợi không đến thăm nhà Lê Thận. Một hôm, chủ tướng Lê Lợi đến thăm nhà Lê Thận. “Trong túp lều tối om, thanh sắt hôm đó tự nhiên sáng rực lên ở xó nhà. Lấy làm lạ, Lê Lợi cầm lên xem và thấy có hai chữ “Thuận Thiên” khắc sâu vào lưỡi gươm”. Trên đường tránh giặc, Lê Lợi đi ngang qua một khu rừng. Chủ tướng thấy ánh sáng lạ trên ngọn cây đa, bèn trèo lên xem thì thấy chuôi gươm nạm ngọc. “Nhớ đến lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi rút lấy chuôi giắt vào lưng”. Ba ngày sau, Lê Lợi gặp lại mọi người, kể cho họ nghe, rồi “tra gươm vào chuôi thì vừa như in”.

Lúc đó, “Lê Thận nâng gươm lên ngang đầu nói với Lê Lợi: - Đây là Trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đen xương thịt của mình theo minh công, cùng lớp thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc”. Người đời sau nghĩ gì về những chi tiết thần kì ấy? Khu rừng chắc có nhiều người đi qua, nhưng tại sao chuôi gươm chỉ phát sáng khi Lê Lợi bước tới đó? Tại sao Lê Lợi không phát hiện luôn cả lưỡi gươm lẫn chuôi gươm? Chuôi gươm là phần dùng cầm để chiến đấu hoặc để chỉ huy. Có lẽ Long Quân đã biết Lê Lợi có mạng đế vương nên mới cho gặp chuôi gươm, còn Lê Thận gặp được lưỡi gươm Thuận Thiên. Trước mặt quân sĩ, Lê Thận thành kính dâng gươm cho Lê Lợi, và cho rằng “Đây là Trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn” há chẳng phải là đòn tâm lí làm cho thanh thế và nhuệ khí của nghĩa quân ngày một tăng sao? Long Quân là một vị thần khởi đầu dân tộc bao giờ cũng sáng suốt, khi giúp con cháu bao giờ Ngài cũng đặt sự vật, sự việc vào đúng hoàn cảnh, đúng người như đặt thanh gươm Thuận Thiên vào tay Lê Lợi để Lê Lợi chỉ huy nghĩa quân đánh đuổi giặc Minh.

Truyền thuyết kể tiếp việc “Gươm thần mở đường cho lọ đánh tràn ra mãi, cho đến lúc không còn bóng một tên giặc nào trên đất nước”. Phần cuối của truyền thuyết là cảnh vua Lê Lợi trả lại gươm thần. Khung cảnh hồ Tả Vọng lúc ấy cũng thật kì ảo. Hiện tượng Lê Lợi trả gươm cho Rùa Vàng cũng vậy, nhưng cũng rất phù hợp với hiện tượng kì ảo trong việc trao gươm thần. Hãy tưởng tượng cảnh rùa há miệng đớp lấy thanh gươm. “Gươm và rùa đã chạm đáy nước, người ta vẫn còn thấy vật gì sáng le lói dưới mặt hồ xanh”. Đấy cũng là hình ảnh giải thích việc đổi tên hồ Tả Vọng thành hồ Hoàn Kiếm, và thể hiện lòng yêu hòa bình của người Việt Nam.
Tóm lại, truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm xuất hiện vào thời trung đại tuy có những hình ảnh kì ảo nhưng tính chất lịch sử rõ ràng hơn bởi có sự xuất hiện của những nhân vật thực có ghi trong sử sách. Thông qua việc giải thích hồ Tả Vọng đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm, truyền thuyết chỉ ra rằng cuộc chiến đấu có chính nghĩa thì sẽ chiến thắng. Chính nghĩa ấy chính là sự khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam ở bất kì thời đại nào.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 15

“Sự tích Hồ Gươm” là một trong những câu chuyện nằm trong hệ thống truyền thuyết về khởi nghĩa Lam Sơn ca ngợi đề cao người anh hùng Lê Lợi. Đồng thời, truyện còn đề cao tinh thần toàn dân đoàn kết một lòng chống lại giặc ngoại xâm và tư tưởng chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đồng thời là lời giải thích về tên gọi của hồ Hoàn Kiếm nhuốm màu sắc thần kì.

Truyện được mở đầu vào thời điểm nguy nan của đất nước: giặc Minh đang đô hộ nước ta với những chính sách tàn bạo, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra những liên tiếp gặp thất bại vì nhiều khó khăn. Truyện kể về việc Lê Lợi được Đức Long Quân cho mượn gươm thần là một hạt nhân trong chuỗi truyện kể về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đề cao người anh hùng Lê Lợi và tính chất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Thông qua hình tượng thanh gươm thần, truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm” đã ca ngợi tinh thần đoàn kết chiến đấu, chủ nghĩa anh hùng tập thể, sự gắn bó đoàn kết cộng đồng. Sức mạnh toàn dân đánh giặc đã được khúc xạ qua nhãn quan thần kì hóa của người xưa với sự xuất hiện của thanh gươm thần. Thanh gươm chính là đại diện cho sức mạnh thần kì của dân tộc ta. Long Quân đã cho nghĩa quân mượn gươm với sự phân tách: lưỡi gươm được Lê Thận bắt được dưới biển và chuôi gươm được Lê Lợi phát hiện trên ngọn cây đa (núi rừng), khi hợp lại thì vừa như in, tạo thành thanh gươm sáng rỡ hai chữ “Thuận Thiên” và đem đến những chiến công lừng lẫy, vang dội của nghĩa quân Lam Sơn. Thanh gươm thần đã làm sức mạnh của nghĩa quân tăng lên gấp bội, thể hiện sức mạnh thần kì về truyền thống anh hùng của dân tộc và sự nhất trí, đồng lòng của nhân dân ta trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, từ miền ngược đến miền xuôi, từ vùng núi đến miền biển. Gươm ngời sáng hai chữ Thuận Thiên đã đề cao vai trò của người anh hùng- chủ tướng Lê Lợi, đồng thời cho thấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là hoàn toàn chính nghĩa và thuận với ý trời.

Trong tác phẩm việc Đức Long Quân cho Rùa vàng đòi lại gươm và vua Lê trả gươm là chi tiết mang yếu tố thần kì, rất đặc trưng cho truyền thuyết. Sự xuất hiện của Rùa Vàng đã thể hiện ý nghĩa của thần Kim Quy trong tâm thức dân gian. Rùa là hình tượng gắn liền với đời sống vật chất và tâm linh của người Việt cổ. Hình tượng thần Kim Quy cũng đã xuất hiện trong truyền thuyết “ An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy”, ban cho vua móng vuốt làm lẫy nỏ thần. Còn trong truyền thuyết “Sự tích Hồ Gươm”, hình aarnh Rùa Vàng hiện lên đòi gươm giữa hồ Tả Vọng như sự tiếp nối truyền thống trong mạch nguồn tư tưởng, tinh thần dân tộc. Rùa Vàng cùng với Long Quân là hiện thân, là ý niệm ẩn dụ của người xưa về sức mạnh tinh thần của tổ tiên bảo trợ cho hòa bình, độc lập dân tộc. Việc Long Quân cho Rùa Vàng đòi lại gươm và vua Lê trả gươm là chi tiết mang nhiều ý nghĩa biểu trưng đất nước đã thanh bình, việc hoàn lại gươm báu là ẩn dụ cho việc cất bỏ binh đao, thể hiện ý niệm ẩn dụ về khát vọng hòa bình.

Câu chuyện “Sự tích Hồ Gươm” còn là lời giải thích của nhân dân ta về tên gọi của hồ, xuất hiện sau tên gọi Tả Vọng và gắn liền với những sự tích, chiến công của người anh hùng Lê Lợi. Từ đó, Hồ Gươm trở thành biểu tượng cho các phương diện tiêu biểu trong truyền thống, văn hóa, lịch sử của thủ đô Hà Nội.

Như vậy, thông qua nhãn quan thần kì hóa cùng trí tưởng tượng phong phú của nhân dân ta, tác phẩm “Sự tích Hồ Gươm” ra đời đã thể hiện tinh thần đoàn kết chống giặc ngoại xâm, tinh thần yêu nước và làm nổi bật hình tượng của người anh hùng Lê Lợi. Câu chuyện này còn thể hiện sự khúc xạ, cách giải thích của nhân dân đối với tên gọi của hồ Hoàn Kiếm.

Nghị luận phân tích, đánh giá Sự tích Hồ Gươm - mẫu 16

Truyền thuyết về Hồ Gươm xoay quanh việc Lê Lợi được Long Quân cho mượn thanh gươm thần ở đất Lam Sơn – Thanh Hóa để đánh đuổi giặc Minh và việc Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại thanh gươm ở hồ Tả Vọng – Hà Nội khi nước nhà đa được độc lập. Truyện được kể lại bằng những chi tiết li kì, hoang đường, nhưng vẫn có cái lõi sự thật lịch sử. Đó là Lê Thận ở Mục Sơn, bạn làng chài của Lê Lợi, đánh cá trên bờ sông Mục và được một lưỡi gươm. Đó là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đánh thăng giặc Minh của Lê Lợi. Đó còn là hồ Tả Vọng, sau thế kỉ XV mói đổi tên là Hồ Hoàn Kiếm… Cái thực và cái ảo hòa quyện với nhau, tạo nên ý nghĩa và sức hấp dẫn của truyện.

Truyền thuyết về Hồ Gươm đã sử dụng một mô típ quen thuộc mô típ trao gưom thẩn giúp người anh hùng cứu dân cứu nước, như truyền thuyết “Thanh gươm ông Tú” trong tiểu thuyết Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc hay “Truyện Nguyễn Huệ được gươm thần”m. trong hệ thống truyền thuyết về Nguyền Huệ. Ở trayện này, mô típ đẹp và giàu ý nghĩa đó được găn với sự nghiệp cứu nước của người anh hùng áo vải đất Lam Sơn và Lê Lợi, tạo nên hình tượng trung tâm: gươm thần tỏa sáng! 1. Lê Lợi được gươm thần.

Lê Thận và Lê Lọi được gươm thần không phải ở một thế giới siêu nhiên kì ảo, mà ở những địa điểm rất thực, ngay trên quê hương của họ. Lê Thận gặp lưỡi khi kéo lưới. Lê Lợi được chuôi gươm trên đường chạy giặc trong rừng. Gươm thần là tượng trưng cho sức mạnh cứu nước của nhân dân ta. Lưõi gươm ở dưới nước, chuôi gươm trên rừng: điều đó cũng có nghĩa là khả năng cứu nước ở khắp nơi, từ miền sông nước đến vùng rừng núi đều một lòng cứu nước. Có dị bản kể rằng thanh gươm Lê Lợi nhận được thì lưỡi ở đáy sông, chuôi gưom từ trong lòng đất, vỏ gươm trên ngọn cây. Một thanh gươm từ ba chiều không gian qui tụ lại. Gươm chờ người, chọn người mà dâng và người đã nhận gưom báu. Đoạn kể Lê Thận được lưõi gưom rất hấp dân: hai lần chàng đã vứt đi và cuối cùng gươm vân chui vào lưới. Chỉ có gươm thần thì mới như vậy và ở đây, gươm đã tìm đúng đến người để trao (cũng giống như chuôi nạm ngọc đã đến với Lê Lợi trên ngọn cây đa trong rừng).

Chuyện được gươm đã kì lạ, khi khớp lại còn kì lạ hơn. Lưỡi gươm dưới nước, chuôi gươm trên rừng, hai vật xa nhau là vậy, tưởng không có gì liên quan tới nhau, nhưng khi khớp lại thì vẩn như in, đã nói lên nguyện vọng của dân tộc là sự nhất trí. Việc giúp đỡ của Tròi, của vua Rồng Lạc Long Quân của Rùa Vàng… khăng định thêm nhat trí đó. Các bộ phận của gươm khốp vào nhau, đây là hình ảnh dân tộc trên dưới đồng lòng, họp nhau tạo thành sức mạnh cứu nước.

Nhưng ai là ngưòi được nhận gươm thiêng? Chính là Lê Lọi, ngưòi anh hùng áo vải đất Lam Sơn. Trước khi đến với Lê Lợi, các bộ phận của gươm đều qua tay thần linh. Gươm lây từ đát và nước. Đất nước, dân tộc đã rèn thanh gươm báu đó, cất giấu nó đi, để khi cần thì trao cho người anh hùng. Gươm sáng ngòi hai chữ “Thuận Thiên ” – có nghĩa là họp ý trời. Thuận Thiên chỉ là cái vỏ hoang đường để nói lên điều sâu kín là ý muôn dân. Trời tức dân tộc, nhân dân đã trao cho Lê Lợi trách nhiệm. Nhận gươm là nhận sứ mạng đánh giặc cứu nước. Trao gươm cho Lê Lọi, nhân dân đã khăng định vai trò “minh chủ” của ông trong cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn.

Thanh gươm nhà Lê Lợi đâu phải là gươm thường, mà là gươm thần, là khí thiêng của đâ't tròi, sông núi, là khát vọng niềm tin, sự đoàn kết trên dưới một lòng của nhân dân khắp mọi miền đất nước kết thành. Gươm thần chỉ núi núi tan, chỉ sông sông cạn. Sức mạnh của nó là vô địch. Vì vậy mà nó tỏa ánh sáng khác thường. Lúc ở nhà Lê Thận, gươm tỏa sáng ở góc nhà tối. Cuộc khỏi nghĩa chống quân Minh không phải bắt đầu từ triều đình mà bắt đầu từ chốn thôn cùng ngõ hẻm, từ núi rừng Lam Sơn. Chính từ nhân dân, cuộc khởi nghĩa đã được nhóm lên. Thanh gươm tỏa sáng như thúc giục lên đường.

Lúc Lê Lơi bị giặc đuổi trong rừng, chuôi gươm cũng tỏa ra một ánh sáng lạ trên ngọn cây đa. Anh sáng đó củng cố niềm tin, đem đến sức mạnh cho người anh hùng trong những ngày cuộc kháng chiến còn gian nan vất vả. Thanh gươm tỏa sáng có sức tập hợp người xung quanh Lê Lợi. Lệ Thận nhận được gươm thần cho nên đã lôi kéo được rất nhiều người theo mình. Anh sáng của thanh gươm là ánh sáng của chính nghĩa. Lúc chiến đấu, gươm sáng rực biểu hiện tinh thần, khí thế sức mạnh của nghĩa quân. Gươm thần tung hoành ngang dọc, mở đường cho nghĩa quân đánh tràn ra mãi, cho đến lúc không còn bóng một tên giặc trên đất nước. Khi gươm được trả cho Rùa Vàng: ánh sáng vẩn còn le lói như ánh sáng của chính nghĩa, hào quang của thắng lợi còn lưu lại mãi muôn đời.

Dân gian đã sáng tạo nên trong truyền thuyết này hình tượng “gươm thần tỏa sáng” vừa đẹp vừa dồi dào ý nghĩa để huyền thoại hóa câu chuyện người anh hùng áo vải đất Lam Sơn lảnh đạo nhân dân đánh tháng giặc Minh xâm lược. “Gươm thân tỏa sáng” trở thành biểu tượng của sức mạnh nhân dân chống ngoại xâm đã được miêu tả bằng những chi tiết hoang đường, những chữ dùng trang trọng, càng tôn thêm vẻ trang nghiêm và thiêng liêng cho câu chuyện kể, đem đến cho ngưòi đọc niềm tự hào mảnh liệt về một dân tộc anh hùng trong một thời kì rực rỡ chiến công không thể nào quên.

Mô típ “trao gươm thần” ta có thể gặp ở nhiều truyện, nhưng chi tiết “trả gươm thần” thì đường như chỉ có ở truyền thuyết này – đó là nét độc đáo và nên thơ của truyện. Đất nước đã thanh bình, nhưng sao Rùa Vàng lại đòi gươm và nhà vua lại trả gươm? Xây dựng chi tiết này, truyện muôh nêu lên một tư tưởng, tình cảm lớn đã thành truyền thong của dân tộc ta là yêu hòa bình. Rùa Vàng theo lệnh Long Quân đòi lại gươm thần vì nhiệm vụ đánh giặc của Lê Lợi đã hoàn thành và nhà vua trả gươm thần củng vì lẽ đó. Đất nước đã hết giặc giã. Không cần cầm gươm nửa mà cần dụng cụ sản xuất. Lê Lợi vân là hoàng đế, tiếp tục xây dựng đất nước. Nhưng ánh gươm dưới mặt hồ xanh vân le lói hào quang chính nghĩa và chiến thắng, vẫn sẵn sàng khí thế quyết tâm đánh giặc. Cảnh trả gươm thần cũng được nhân gian huyền thoại hóa như câu chuyện gươm thần, nhưng các chi tiết hoang đường ở đây thật là sáng tạo và tinh tế (lưỡi gươm tự nhiên động đậy, rùa biết nói, đớp lây thanh gươm nhanh như căt…) đã dựng nên một cảnh tượng trang nghiêm và thiêng liêng ít thấy. Cảnh tượng này có khác gì một buổi bàn giao nhiệm vụ của hai thời kì kịch sử để đưa dân tộc bước sang một trang mới?

Truyền thuyết về Hồ Gươm là huyền thoại về ngưòi anh hùng cứu nước Lê Lợi đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi giặc Minh đem lại nền độc lập tự chủ cho đất nước. Dân tộc anh hùng đó cũng là dân tộc thiết tha yêu hòa bình. Lê Lọi đã nhận được gươm thần để chiến thăng giặc Minh nhưng cũng đã trả lại gươm báu khi đất nước thanh bình. Truyện ngòi lên ánh sáng của thanh gươm thần – ánh sáng của chính nghĩa, của niềm tin, của chiến thắng – đã tô điểm thêm vẻ đẹp của người anh hùng cứu nước, ca ngọi sức mạnh kháng chiến của nhân dân. Sử dụng một cách sáng tạo mô tip trao gươm thần cho người anh hùng cứu dân, cứu nước nhưng lại có thêm chi tiết trả “gươm thần” rất độc đáo và thú vị, các tác giả dân gian đã làm cho câu chuyện thêm li kì, hấp dân, chủ đề truyện thêm sâu sắc, trọn vẹn, đã giải thích cái tên Hồ Gươm một cách thật nên thơ và có ý nghĩa. Hồ’Gươm vốn đã đẹp lại càng đẹp thêm vì nó gắn với những trang sử vàng chói lọi của cha ông và ngưòi anh hùng áo vải đất Lam Sơn. Hô Gươm đã đi sâu vào lịch sử dân tộc, bởi chính lịch sử dân tộc đã làm đậm thêm tên hồ bằng một truyền thuyết dân gian đẹp và thi vị…

Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 10 hay khác:


Giải bài tập lớp 10 Chân trời sáng tạo khác