Top 30 Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một bài thơ

Tổng hợp trên 30 bài văn Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một bài thơ hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một bài thơ - mẫu 1

Chào thầy/cô cùng toàn thể các bạn. Tôi tên …. Sau đây tôi xin thuyết trình về chủ đề thiên nhiên và con người trong bài thơ Cảnh khuya (Hồ Chí Minh).

Hồ Chí Minh một vị lãnh tụ tài hoa của dân tộc Việt Nam, bên cạnh đó với tài năng của mình người đã sáng tác nên những áng thơ văn vô cùng nổi bật. Trong đó bài thơ Cảnh Khuya là một tác phẩm thơ văn được viết trong thời kì kháng chiến tiêu biểu. Bài thơ là sự miêu tả bức tranh thiên nhiên vào đêm trăng đẹp, qua đó cho ta thấy tâm tư, tình cảm của một chiến sĩ cộng sản luôn hết mình vì nhân dân, vì đất nước.

Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên thật đẹp:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”

Với giọng thơ bình dị, vẻ đẹp của cảnh vật hiện lên trong thơ Hồ Chí Minh vừa có ánh sáng vừa có âm thanh. Thiên nhiên, cảnh núi rừng Việt Bắc vắng vẻ nhưng vô cùng huyền ảo và thơ mộng. Với việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa, nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của “tiếng suối trong”. Vào ban đêm, chỉ với ánh trăng mà nhà thơ cũng có thể thấy được sự trong veo của nước suối. Ánh trăng đêm quả thật rất đẹp, rất sáng. Ánh trăng còn nổi bật hơn ở hình ảnh “trăng lồng cổ thụ” ánh trăng sáng bao quát cả một cây đại thụ lớn kết hợp với tiếng tiếng suối thanh trong như điệu nhạc êm, hát mãi không ngừng.Chỉ với hai câu thơ mở đầu mà bức tranh phong cảnh hiện lên vô cùng sinh động, với thật nhiều màu sắc.     

Sau hai câu thơ tả cảnh, tiếp đến câu thơ thứ ba là sự khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình vô cùng tự nhiên.

“Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,”

Cảnh đêm trăng tuyệt đẹp như bức họa thế kia thì làm sao mà ngủ được. Phải chăng Người đang thao thức về một đêm trăng sáng với âm thanh vang vọng trong trẻo của núi rừng.

“Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

Câu thơ cuối càng làm nổi rõ hơn nguyên nhân không ngủ được của Bác đó là “lo nỗi nước nhà”. Câu thơ cuối nêu lên cái thực tế của nhân vật trữ tình và mở sâu và hiện thực tâm trạng của nhà thơ. Sự độc đáo của thơ Hồ Chí Minh là bài thơ kết thúc với một lời giải thích, vô cùng thẳng thắn và ngắn gọn nhưng cũng rất đáng quý trọng. Nghệ thuật ấy vô cùng chân thực, giản dị, đi thẳng vào lòng người nên cũng là nghệ thuật cao quí, tinh vi nhất.

Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Bài thơ Cảnh Khuya của Hồ Chí Minh miêu tả bức tranh đêm khuya thật đẹp, thật thơ mộng. Nhưng sâu hơn nữa là thể hiện tâm tư, tình cảm của một người chiến sĩ cách mạng luôn hết lòng vì nhân dân, lo cho dân, cho nước.

Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một bài thơ - mẫu 2

Kính thưa cô giáo và các bạn, em tên là…..học sinh lớp………

Sau đây em xin trình bày bài nói của mình về đánh giá nội dung, nghệ thuật của bài thơ “Rằm tháng giêng”. Mời cô và các bạn lắng nghe.

Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ tài ba vĩ đại của dân tộc Việt Nam, lại vừa là một nhà thơ xuất sắc với nhiều tác phẩm có giá trị để lại cho đời. Một trong những tác phẩm ấy phải kể đến bài thơ Rằm Tháng Giêng. Bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên vào đêm trăng mùa xuân, bên cạnh đó là hình ảnh người chiến sĩ ung dung, rạng ngời, một chiến sĩ cộng sản luôn hết mình vì nhân dân, vì đất nước.

Mở đầu bài thơ tác giả miêu tả bức tranh thiên nhiên thật đẹp:

“Rằm xuân lồng lộng trăng soi,

Sông xuân nước lẫn màu trời thêm xuân”.

Bức tranh thiên nhiên với không gian và thời gian tràn ngập vẻ đẹp và sức xuân. "Rằm xuân" là lúc mặt trăng tròn đầy, ánh trăng bao trùm, soi chiếu tỏ vạn vật trong đêm Rằm. Góc nhìn của tác giả mở rộng ra từ mặt sông mở ra lên trời và ánh trăng. Chỉ một nét chấm phá mở ra không gian bao la vô tận vừa có chiều cao của ánh trăng vừa có chiều rộng của sông nước tiếp giáp với bầu trời.

Sau hai câu thơ tả cảnh, tiếp đến là hai câu thơ giàu sức gợi hình ảnh:

Giữa dòng bàn bạc việc quân

Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền”

Trong khung cảnh nên thơ ấy, bao la ấy, Người vẫn không quên nhiệm vụ cao cả, không quên được việc quân đang chờ. Khuya rồi mà trăng vẫn ngân nga đầy thuyền. Trăng tràn ngập khắp nơi, tràn cả không gian rộng lớn, vẫn chờ, vẫn đợi cho dù Bác có bận đến đâu. Thuyền lờ lững xuôi dòng trong đêm có trăng đồng hành như một người bạn chung thủy sâu sắc. Ở đây ta thấy được sự giao cảm giữa thiên nhiên với con người. Điều đó làm cho bức tranh thơ trở nên có hơi thở, có linh hồn. Đặt trong hoàn cảnh đất nước còn khó khăn gian khổ, ta vẫn thấy được phong thái ung dung, một tinh thần lạc quan của vị lãnh tụ vĩ đại.

Bằng thể thơ lục bát, hình ảnh thơ cổ điển (trăng) nhưng cũng hết sức gần gũi, bình dị cho người đọc thấy được bức tranh thiên nhiên Tây Bắc khoáng đạt, nên thơ và tình yêu thiên nhiên, lòng yêu nước cũng như phong thái ung dung, lạc quan của Bác. Qua đây chúng ta cũng hiểu thêm tấm lòng yêu dân, yêu nước, yêu thiên nhiên sâu sắc của vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già kính yêu của dân tộc.

Trên đây là bài phát biểu của em về nội dung, nghệ thuật về bài thơ “Rằm tháng giêng”. Cảm ơn cô và cả lớp đã lắng nghe. Mình rất vui khi được nhận những nhận xét và góp ý từ mọi người.

Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một bài thơ - mẫu 3

Chủ tịch Hồ Chí Minh được biết đến không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại, kính yêu của nước Việt Nam mà Người còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà văn hóa lớn. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của Bác phải kể đến là bài thơ Ngắm trăng trích từ “Nhật kí trong tù”.

Mở đầu bài thơ là khung cảnh nơi chốn tù giam:

“Trong tù không rượu cũng không hoa”

Bác đã vẽ ra bức tranh chân thực về cuộc sống của mình: hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn lúc ở trong tù: không rượu, không hoa, có chăng chỉ là những con côn trùng và mùi phân bẩn thỉu. Với tâm hồn thi sĩ như Bác thì một chút hoa và rượu là nguồn cảm hứng tuyệt vời để thi sĩ sáng tác nên cảnh thiếu thốn về vật chất này như một nỗi cực hình.

Tuy nhiên, dù thiếu thốn là vậy nhưng trước cảnh đẹp, trái tim người lại rung động:

“Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ”

Trước cảnh thiếu thốn ở trong tù như thế nhưng cảnh đẹp giữa đêm khuya vắng vẻ đã làm tâm hồn Bác cũng phải xao xuyến khó mà hững hờ. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hẳn rượu và hoa, nhưng tâm hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên.

“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”

Từ phòng giam tăm tối, Bác hướng tới vầng trăng, nhìn về ánh sáng, tâm hồn thêm thư thái. Song sắt nhà tù không thể nào ngăn cách được người tù và vầng trăng. Trăng được nhân hóa như một người bạn tri âm, tri kỉ từ viễn xứ đến chốn ngục tù tăm tối thăm Bác. Hai câu thơ được cấu trúc đăng đối tạo nên sự cân xứng hài hòa giữa người và trăng, giữa ngôn từ, hình ảnh và ý thơ.

Bài thơ mang đến cho chúng ta cái nhìn, cách cảm về một góc độ khác của chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh sự thông minh, trí tuệ giúp nước nhà giành độc lập, Bác còn là một thi sĩ có tâm hồn bay bổng, hòa mình cùng với thiên nhiên, với cảnh đẹp dù trong hoàn cảnh éo le nhất. Nhiều năm tháng qua đi nhưng tác phẩm vẫn giữ nguyên vẹn giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả

Trên đây là bài cảm nhận của em về nội dung và nghệ thuật của bài thơ “Ngắm trăng”, cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe bài trình bày của em!

Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một bài thơ - mẫu 4

Xin chào cô (thầy) và các bạn. Em tên là...

Hôm nay, em sẽ giới thiệu tới cô cùng các bạn một tác phẩm tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh - "Tức cảnh Pác Bó" thông qua việc phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật bài thơ.

Trước hết, bài thơ không chỉ khắc họa những ngày sống và làm việc gian khổ ở Pác Bó mà còn gợi được tình yêu thiên nhiên, tinh thần lạc quan của Người. Chủ đề ấy được thể hiện ngay trong câu thơ đầu:

"Sáng ra bờ suối tối vào hang"

Câu thơ đã mở ra cảnh sinh hoạt thường ngày lặp đi lặp lại "sáng ra" - "tối vào" ở hang Pác Bó của Người. Người sống và làm việc mỗi ngày nơi núi rừng có "suối", "hang". Tuy điều kiện sinh hoạt có thiếu thốn nhưng ta cảm nhận được lối sống quy củ, phong thái ung dung và tình yêu thiên nhiên của Người.

Cuộc sống sinh hoạt của Người càng thêm giản dị với những hình ảnh:

"Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng"

Những bữa cơm đơn giản chỉ có "cháo bẹ", "rau măng" nhưng Người luôn mang trong mình tinh thần "vẫn sẵn sàng". Đối lập với sự khó khăn trong cuộc sống là tư thế chủ động, tinh thần lạc quan.

Chủ đề của bài thơ càng thêm nổi bật với những hình ảnh miêu tả công việc thường ngày:

"Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng"

Từ láy tượng hình "chông chênh" gợi cảm giác bấp bênh, không bằng phẳng kết hợp với danh từ "bàn đá" đã khắc họa nơi làm việc tạm bợ của Bác. Thế nhưng, dù gặp bao nhiêu, Người vẫn ngồi đó và kiên trì với công việc "dịch sử Đảng" - công việc có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp Cách mạng của dân tộc ta.

Đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn trong điều kiện sinh hoạt và làm việc, Người luôn hướng tới sự lạc quan, tích cực:

"Cuộc đời cách mạng thật là sang"

Với Người, được làm Cách mạng thì cuộc đời ấy trở nên "sang" biết bao. Từ "sang" như nhãn tự của bài thơ, làm nổi bật chủ đề bài thơ và làm sáng lên phong thái ung dung, tinh thần lạc quan yêu đời, sự vững vàng của Người vào Cách mạng Việt Nam. Qua đó, ta cũng cảm nhận được niềm vui khi được thực hiện công việc lí tưởng ở Người.

Để làm nổi bật chủ đề của tác phẩm, chúng ta không thể nào phủ nhận những đóng góp về đặc sắc nghệ thuật. Giống như các bài thơ thất ngôn tứ tuyệt khác, "Tức cảnh Pác Bó" được triển khai theo bố cục chặt chẽ: khai, thừa, chuyển, hợp. Nhờ có sự kết hợp hài hòa, bốn câu thơ ngắn gọn, súc tích đã thể hiện rõ toàn bộ chủ đề của bài thơ.

Bên cạnh đó, nét độc đáo trong hình thức nghệ thuật của tác phẩm còn được thể hiện qua các hình ảnh đối lập. Đó là sự đối lập trong thời gian sinh hoạt, hoạt động của Người ở Pác Bó "sáng - tối", "ra - vào". Có thể nói, nhà thơ đã rất tinh tế khi sử dụng các cặp từ trái nghĩa trong một câu thơ để diễn tả lối sống đều đặn cùng sự hòa hợp, gắn bó với thiên nhiên núi rừng.

Bài thơ "Tức cảnh Pác Bó" đã giúp chúng ta hiểu thêm về con người của Bác - một vị lãnh tụ suốt đời vì nước, vì dân, vì sự nghiệp Cách mạng của đất nước.

Bài thuyết trình của em đến đây là kết thúc. Em xin cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.

Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một bài thơ - mẫu 5

Chào mọi người, mình là ............... Hôm nay, mình trong vai trò là một nhà báo, mình đến từ toà soạn báo Phong Hoá. Chắc mọi người đều biết đây là tờ báo vô cùng nổi tiếng trong phong trào Thơ mới ở Việt Nam thời bấy giờ. Hôm nay, mình sẽ giới thiệu với các bạn một nhà thơ với phong cách vô cùng kì bí, độc và lạ, các bạn hãy cùng mình khám phá nhé.

Không biết trong bốn mùa, các bạn thích mùa nào nhất? Mỗi khi vào mùa đó, bạn thường cảm thấy như thế nào? Với tôi, mùa xuân có lẽ là khoảng thời gian đẹp đẽ nhất trong năm. Chúng ta đã từng nghe “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải, “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính, nhưng không biết các bạn đã ai từng nghe đến “Mùa xuân chín”? Đó là tên một thi phẩm của người với phong cách vô cùng kì bí, độc đáo và mới lạ mà mình muốn giới thiệu với các bạn. Hàn Mặc Tử.

“Mùa xuân chín” gây ấn tượng với tôi bởi chính nhan đề của nó. Bởi lẽ, đọc thơ của Hàn Mặc Tử, ta luôn thấy một sự u huyền, mơ mộng, kì bí, đượm buồn và đau thương với những hình ảnh đặc trưng là “máu”, “trăng” và “rượu”. Thế nhưng, “mùa xuân chín” lại mang đến một cảm giác hoàn toàn mới lạ, một không gian tràn đầy sức sống của cảnh xuân và tình xuân. “Chín” vốn là tính từ để chỉ trạng thái của quả cây khi đã đến giai đoạn thu hoạch, ngọt ngào, căng mọng và thơm mát. Với ý nghĩa đó, Hàn Mặc Tử đã tạo nên một “mùa xuân chín” – một mùa xuân tràn đầy sức sống, viên mãn và tròn đầy. Mùa xuân đang ở độ tươi đẹp nhất, rạng rỡ nhất, căng tràn nhựa sống nhất.

Mạch thơ là dòng tâm tư bất định với những chuyển kênh bất chợt: từ ngoại cảnh đến tâm cảnh, từ sắc thu đến tình thu, từ niềm say mê rạo rực đến nỗi bâng khuâng, xao xuyến, từ hiện tại về quá khứ.

Mở đầu bài thơ là bức tranh thiên nhiên tươi mới, ngập tràn ánh sáng, ngập tràn sắc xuân:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.

Thiên nhiên mùa xuân hiện ra ngập tràn sắc vàng của nắng hoà trong làn sương khói mờ ảo, huyền bí. Cách kết hợp từ “khói mơ tan” khiến ta hình dung những làn khói sương như đang hoà tan trong nắng tạo nên một khung cảnh đẹp như mơ. Sắc vàng của nắng càng trở nên rực rỡ với hình ảnh “đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng”. Trong khung cảnh thanh bình, yên ả ấy bỗng nhà thơ bắt gặp tiếng “sột soạt” của “gió trêu tà áo biếc”. “Sột soạt” được đảo lên đầu câu nhằm nhấn mạnh của động của cảnh vật. Gió như đang trêu đùa cùng tà áo biếc đón xuân sang, khiến không khí mùa xuân trở nên sôi động, vui tươi, đầy hứng khởi. Từ mái nhà tranh, nhà thơ di chuyển điểm nhìn đến “giàn thiên lí”. Dấu chấm đặt giữa câu thơ như một sự ngập ngừng, ngắt quãng. Bởi đó là khoảnh khắc thi nhân giật mình nhận ra “bóng xuân sang”. Mùa xuân được hữu hình hoá, có thể quan sát bằng thị giác. Bóng của mùa xuân nhẹ nhàng bước tới như thể đang đứng trước mặt nhà thơ, khiến con người ngỡ ngàng mà chiêm ngưỡng cái sắc xuân tươi đẹp ấy.

Từ điểm nhìn cận cảnh, Hàn Mặc Tử đưa tầm mắt ra xa với cái nhìn viễn cảnh. Không gian mùa xuân được rộng mở với “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. “Sóng” được kết hợp với thảm cỏ xanh mướt khiến bạn đọc hình dung từng lớp cỏ như nối tiếp nhau, trải dài bất tận, sức sống dường như đang căng tràn một cách mãnh liệt. Ý thơ làm ta nhớ đến một câu thơ trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” của Nguyễn Du: “Cỏ non xanh tận chân trời”. Cùng diễn tả một không gian mùa xuân với thảm cỏ xanh mướt trải dài bất tận nhưng cái độc đáo của Hàn Mặc Tử là cách nói “sóng cỏ” gợi ra một sự uyển chuyển, nhẹ nhàng mà mượt mà của những lớp cỏ xuân. Phải chăng sức sống cuộn trào từ bên trong, tạo thành những đợt sóng và kết lại tạo nên một “mùa xuân chín”!

Từ cảnh thu, Hàn Mặc Tử bỗng chuyển sang tình thu, bức tranh ngoại cảnh trở về với bức tranh tâm cảnh. Phải chăng, nhà thơ dùng cảnh mở đầu là để nói tình, tả tình? Một cái tình nồng hậu, thiết tha với con người và cuộc đời. Hoà cùng với không khí tươi vui của mùa xuân, ta thấy được cái náo nức trong lòng người:

“Bao cô thôn nữ hát trên đồi
-Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”

“Xuân xanh” là một ẩn dụ để chỉ những cô gái trẻ trung, xinh đẹp. Tuổi xuân của họ tươi đẹp, rực rỡ như mùa xuân của đất trời. Chính vì vậy, niềm vui của những cô thôn nữ hoà trong không khí mùa xuân chính là tình xuân. Cái ửng của nắng phải chăng chính là đôi má ửng hồng của các cô gái khi “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Niềm vui của họ là tình yêu đôi lứa, là sự gắn kết trong hôn nhân đến bạc đầu. “Mùa xuân chín” không chỉ là tiết trời xuân mà còn là tình xuân. Cái “chín” trong tình yêu chính là kết quả nên vợ nên chồng. Niềm hạnh phúc của những cô gái được thể hiện trong “tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi”. Hàn Mặc Tử đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật tài tình. “Tiếng ca” vốn được cảm nhận bằng thính giác, nay được hữu hình hoà trong trạng thái “vắt vẻo”, cảm nhận bằng thị giác. Tiếng hát ca say sưa của con người như có sức hút, cao vút đến lưng chừng núi thể hiện niềm thiết tha yêu đời mãnh liệt. Dư âm của tiếng hát dường như còn ngập ngừng mà “vắt vẻo lưng chừng núi” tạo nên một âm thanh vang vọng khắp không gian

Từ âm thanh cao vút, hổn hển như lời của nước mây bỗng trở thành những lời thầm thì nhỏ bé:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”

Câu thơ phảng phất tính tượng trưng, siêu thực trong thơ Hàn Mặc Tử. Đại từ “ai” xuất hiện như “bóng ai đậu bến sông trăng đó” (Đây thôn Vĩ Dạ) đầy bí ẩn. “Tiếng ca” vốn vang xa khắp núi rừng nay thu lại chỉ dành cho “ai”. Đó có thể là người thương, cũng có thể là với chính bản thân mình. Để rồi, khi tâm tình, sẻ chia, con người có thể lắng nghe được những “ý vị và thơ ngây” trong lòng mình. Tuy nhiên, câu thơ cũng mang theo nỗi buồn, niềm nuối tiếc của người thi sĩ trước “mùa xuân chín”. Bởi “xuân chín” rồi cũng là lúc “xuân tàn”, cái đẹp rồi cũng sẽ tàn phai. “Đám xuân xanh ấy” rồi cũng “theo chồng bỏ cuộc chơi”. Tuổi xuân tươi đẹp của người thiếu nữ rồi cũng có điểm kết. Ta thấy dâng lên trong lòng nhà thơ một nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến, muốn níu giữ cái hương sắc tươi đẹp của cuộc đời. Để rồi, kết thúc bài thơ, Hàn Mặc Tử hoá thân trong một người “khách xa”, bày tỏ nỗi nhớ nhung của mình:

“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
-Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.

Trước “mùa xuân chín”, lòng “khách xa” bỗng trào dâng nỗi nhớ làng quê thân thương. Nhớ làn nắng ửng, nhớ đôi mái nhà tranh, nhớ tà áo biếc và nhớ cả giàn thiên lý. Đó là một không gian làng quê mộc mạc, giản dị, gần gũi mà chan chứa nghĩa tình. Và trong không gian ấy, hình ảnh người chị gánh thóc trở thành trung tâm của nỗi nhớ. “Chị ấy” là một cách nói phiếm chỉ. Đó có thể là một người dân lao động bình thường nơi thôn quê của tác giả, cũng có thể là một người thân quen gần gũi, hoặc cũng có thể là cô người yêu của thi nhân. Người con gái xuất hiện trong nét đẹp lao động với tư thế gánh thóc, hoà cùng ánh nắng vàng bên bờ sông trắng. Một khung cảnh hiện lên thật thơ mộng, lãng mạn biết bao!

Như vậy, bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử có sự hài hoà của sắc xuân, tình xuân. Một nét đặc trưng tiêu biểu làm nên sự độc đáo của “Mùa xuân chín” cũng như ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử chính là sự kết hợp tài tình giữa cái cổ điển và cái hiện đại. Trước hết, ta bắt gặp thơ Hàn Mặc Tử có những điểm giao thoa với thể thơ Đường luật, tạo nên một nét thơ phảng phất phong vị cổ điển, trang trọng. “Mùa xuân chín” được sáng tác theo thể thơ bảy chữ, ngắt nhịp 4/3. Thất ngôn và ngắt nhịp 4/3 là đặc trưng tiêu biểu của thơ Đường luật. Ngoài ra, cách gieo vần cuối những câu thơ 1, 2, 4 cũng là một điểm giao thoa với thể thơ Đường luật. Đó là những yếu tố làm nên phong vị cổ điển trong thơ Hàn Mặc Tử. Về tính hiện đại, thi sĩ họ Hàn là người chịu nhiều ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực. Một trong những đặc điểm tiêu biểu của thơ tượng trưng siêu thực đó là tạo nên những hình ảnh huyền ảo, kì bí, thậm chí là ma mị bằng những kết hợp từ mới mẻ, độc đáo thông qua nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Có thể thấy ngòi bút của Hàn Mặc Tử đã đạt đến trình độ điêu luyện trong việc sáng tạo nên những kết hợp từ ngữ mới: mùa xuân chín, bóng xuân sang, đám xuân xanh, tiếng ca vắt vẻo, nghe ra ý vị và thơ ngây. Tất cả những gì trừu tượng, không thể cảm nhận bằng mắt thường đã được nhà thơ hữu hình hoá một cách thật tài tình, độc đáo. Những nét thơ mới lạ tạo nên tính hiện đại rất riêng trong thơ Hàn Mặc Tử. Hoà cùng với dòng phát triển của Thơ mới trong thời bấy giờ, thơ Hàn Mặc Tử đã tạo ra một lối rẽ riêng - tinh tế, độc đáo và mới lạ.

Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người. “Chín” trong tình thương, “chín” trong nỗi nhớ về con người, cuộc đời và quê hương. Nổi bật hơn hết là một tấm lòng khát khao giao cảm với cuộc đời, trân trọng cái đẹp và ý thức nâng niu, giữ gìn những gì tinh tuý, đẹp đẽ của cuộc đời. Khao khát ấy trở thành sợi chỉ xuyên suốt trong những sáng tác của Hàn Mặc Tử, tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc, để tư tưởng trong những dòng thơ còn âm vang mãi cho đến hiện tại.

Phần giới thiệu của tôi đến đây là kết thúc. Cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe. Nếu có câu hỏi và thắc mắc gì, mong mọi người hãy đề đạt. Tôi rất mong có thể trao đổi và lí giải những băn khoăn của mọi người.

Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một bài thơ - mẫu 6

Em chào cô và các bạn. Em tên là Hiếu. Hôm nay, em xin được trình bày bài nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật "Thu hứng" - Đỗ Phủ.
Trong những ngày thu năm 766, nhà thơ Đỗ Phủ đã sáng tác bài thơ "Thu hứng" (Bài 1). Đây là bài đầu tiên nằm trong chùm tám bài thơ thất ngôn bát cú có nhan đề chung là "Thu hứng". Bài thơ đã khắc họa khung cảnh thiên nhiên và bức tranh sinh hoạt của con người khi thu đến, đồng thời thể hiện nỗi nhớ quê hương sâu đậm của Đỗ Phủ.
Các bạn ạ, khi đọc bài thơ này, chúng ta dễ dàng thấy được mạch cảm xúc của bài thơ: đi từ tâm trạng trước không gian thiên nhiên đến cảm nhận về khung cảnh sinh hoạt của con người.
Trong bốn câu thơ đầu, nhà thơ Đỗ Phủ đã phác họa bức tranh thiên nhiên mùa thu ảm đạm, hắt hiu. Không gian rộng lớn của rừng phong được bao trùm bởi làn sương trắng xóa "Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm". Xa xa kia, núi Vu, kẽm Vu với những vách núi cao lớn đã thu hút tầm nhìn của nhân vật trữ tình. Hai địa danh này dường như cũng u ám, mờ mịt bởi làn sương dày đặc "Núi vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt". Từ láy "hiu hắt" càng làm cho không gian núi rừng trở nên hoang sơ, lạnh lẽo. Ở hai câu thơ tiếp theo "Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng/ Tái thượng phong vân tiếp địa âm", nhà thơ đã chuyển tầm nhìn của mình xuống dòng sông. Giữa lòng sông, sóng tung những dòng nước cuồn cuộn như muốn bao trùm lấy bầu trời. Đặc biệt, gió mây ở trên cao như đang sà xuống, làm cho mặt đất càng thêm âm u. Tất cả các cảnh vật với những sắc thái khác nhau đã tạo nên bức tranh thiên nhiên mùa thu tiêu điều, hiu hắt.
Tiếp đến, ở bốn câu thơ cuối, Đỗ Phủ khéo léo bộc lộ nỗi nhớ quê hương da diết của mình. Đứng trước khung cảnh sinh hoạt của con người, nhà thơ không thể ngăn nổi nỗi xúc động. Hai lần khóm cúc nở hoa cũng là hai năm xa nhà của Đỗ Phủ "Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ". Không chỉ vậy, hình ảnh con thuyền lẻ loi như gợi ra lênh đênh của kiếp người "Cô chu nhất hệ cố viên tâm". Câu thơ cũng đã làm nổi bật hoàn cảnh cô đơn của tác giả nơi đất khách. Nỗi nhớ quê nhà càng thêm da diết khi nhà thơ nghe thấy âm thanh rộn ràng của dao thước may quần áo mùa rét và sự dồn dập của tiếng chày nện vải.
Qua bài thơ, nhà thơ đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên và khung cảnh sinh hoạt của con người trong tiết trời thu ảm đạm, hắt hiu. Đồng thời, từ cảnh vật ấy, nhà thơ khéo léo bày tỏ nỗi nhớ thương quê nhà của mình.
Bên cạnh những thành công về nội dung, chúng ta không thể phủ nhận những đóng góp trong hình thức nghệ thuật của "Thu hứng" (Bài 1). Bài thơ sử dụng ngôn từ hàm súc, giàu sức gợi. Ngoài ra, cách gieo vần, ngắt nhịp, phép đối cùng lối viết tả ít gợi nhiều đã khơi gợi nỗi nhớ quê nhà một cách tinh tế của nhà thơ.
Trên đây là bài trình bày của em về Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật "Thu hứng" - Đỗ Phủ. Em xin cảm ơn cô và các bạn đã theo dõi, lắng nghe!

Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một bài thơ - mẫu 7

Em chào cô và các bạn. Em xin tự giới thiệu, em tên là Hà Anh. Sau đây, em xin trình bày những ý kiến của mình về bài nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật "Mùa xuân chín".
Các bạn ơi, chắc hẳn mỗi người chúng ta đã từng đọc hoặc học về một bài thơ viết về mùa xuân đúng không nào? Mình nhớ chúng ta đã từng học đoạn trích "Cảnh ngày xuân" (trích "Truyện Kiều" - Nguyễn Du) và bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của nhà thơ Thanh Hải. Hôm nay, mình sẽ giới thiệu tới các bạn một bài thơ cũng viết về mùa xuân, nằm trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức với cuộc sống. Đó là bài thơ "Mùa xuân chín" của tác giả Hàn Mặc Tử.
Đọc nhan đề bài thơ, mình thấy sự kết hợp tinh tế giữa danh từ "mùa xuân" với động từ chỉ trạng thái "chín". Nhan đề ấy đã khiến mình hình dung về khung cảnh mùa xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ ngoại cảnh đến tâm cảnh. Mạch cảm xúc ấy được khắc họa rõ nét qua các hình ảnh thơ và ngôn ngữ tinh tế.
Đầu tiên, ở khổ thơ thứ nhất, hình ảnh thơ "làn nắng ửng", "khói mờ tan", "bóng xuân sang" đã gợi ra khung cảnh mùa xuân ấm áp. Biện pháp nhân hóa "gió trêu tà áo biếc" kết hợp với từ láy "sột soạt" và phép đảo ngữ "Sột soạt gió trêu tà áo biếc" cho thấy những tinh tế trong quan sát của nhà thơ khi xuân đến. Ngọn gió không còn là vật vô tri vô giác mà trở nên sống động với âm thanh tình tứ, đang trêu đùa tà áo biếc. Ngoài ra, biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác "bóng xuân sang" còn góp phần miêu tả dáng điệu nhẹ nhàng của mùa xuân.
Trên nền thiên nhiên mùa xuân căng tràn sức sống còn xuất hiện hình ảnh con người "Bao cô thôn nữ hát trên đồi". Lắng nghe tiếng hát ấy, nhân vật trữ tình càng thêm tiếc nuối trước độ xuân thì của người con gái "- Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,/ Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc cuộc chơi". Biện pháp ẩn dụ "xuân xanh" kết hợp cùng các từ láy "hổn hển", "vắt vẻo" và biện pháp nhân hóa "tiếng ca vắt vẻo", so sánh "hổn hển như lời nước mây" đã mang đến cho người đọc vẻ duyên dáng của người con gái. Vẻ đẹp ấy hòa trong tiếng hát trầm bổng, thiết tha như tô đậm khung cảnh thiên nhiên căng tràn sức sống.
Đặc biệt, trong khổ thơ cuối, mình cảm nhận được tâm trạng chùng xuống của nhân vật trữ tình - "khách xa". Từ láy "bâng khuâng" gợi ra cảm xúc lâng lâng, xen chút buồn tiếc nuối trong lòng. Nhưng rồi, nhân vật trữ tình lại có sự chuyển biến đột ngột trong cảm xúc khi "sực" nhớ làng và "- Chị ấy, năm nay còn gánh thóc/ Dọc theo bờ sông trắng nắng chang chang?". Câu hỏi cuối bài thơ cùng đại từ nhân xưng không cụ thể "chị ấy" đã phác họa nỗi niềm cô đơn, hụt hẫng cùng tấm lòng nhớ quê hương của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Qua bài thơ "Mùa xuân chín", mình thấy được nét độc đáo trong hình thức nghệ thuật như cách tổ chức ngôn ngữ và hình ảnh thơ độc đáo, kết hợp với nhiều biện pháp nhân hóa, cách gieo vần chân ("vàng-sang, "trời-chơi",...). Bên cạnh đó, bài thơ đã vẽ nên bức tranh mùa xuân từ những chất liệu như âm thanh, hình ảnh, màu sắc sống động của thiên nhiên và con người. Đọc bài thơ, chúng ta không khỏi rung động trước tình yêu thiên nhiên tha thiết cùng khát khao giao cảm với đời, với người của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
Bài trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn cô và các bạn đã lắng nghe.

Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật của một bài thơ - mẫu 8

Chào cô và các bạn học sinh lớp 10A1, em tên là Đại Dương. Hôm nay, em xin trình bày bài nói và nghe: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật một bài thơ hai-cư Nhật Bản.
Các bạn ơi, không biết trong ba bài thơ thuộc "Chùm thơ hai-cư Nhật Bản" được học ở chương trình Ngữ văn 10 - Kết nối tri thức thì các bạn thích bài thơ nào nhất? Đối với mình, mình ấn tượng với bài thơ đầu tiên. Đây là bài thơ do nhà thơ Ba-sô sáng tác.
Theo mình tìm hiểu, Ba-sô (1644-1694) là nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Nhật. Ông có đóng góp lớn trong việc hoàn thiện thơ hai-cư. Bài thơ hai-cư của ông mà mình muốn giới thiệu tới mọi người hết sức ngắn gọn:
"Trên cành khô
cánh quạ đậu
chiều thu."
Có thể thấy, khi đọc bài thơ, các bạn dễ dàng phát hiện ra hình ảnh trung tâm của bài thơ là "con quạ". Con quạ này đang đậu ở một cành cây khô. Cụm từ "trên cành khô" gợi cho chúng ta không khí man mác buồn của trời thu. Cảnh vật dường như đang lụi tàn, héo mòn theo thời gian. Bức tranh mùa thu trở nên tĩnh lặng, chỉ có một màu ảm đạm, u ám và thiếu sức sống. Trong buổi chiều thu ấy, đứng trước khung cảnh thiên nhiên như vậy, con người thêm cô độc, lẻ loi mà lâng lâng cảm xúc trong lòng.
Bên cạnh đặc sắc về nội dung, mình còn ấn tượng với những độc đáo trong hình thức nghệ thuật của bài thơ. Có thể nói, đây là lần đầu tiên mình được đọc và học một bài thơ ngắn như vậy. Chắc hẳn mọi người cũng giống như mình đúng không? Tuy dung lượng bài thơ khá ngắn, chỉ có ba câu, mỗi câu khoảng 2-3 tiếng nhưng đã làm nổi bật tâm trạng của nhà thơ. Nếu các bạn để ý thì sẽ phát hiện ra các chữ đầu dòng ở câu thơ 2, 3 không được viết hoa. Điều này giúp bài thơ giống như một câu chuyện kể, một lời bộc bạch tâm sự của con người. Ngoài ra, hình ảnh thơ cũng rất gần gũi, thân thuộc với mỗi chúng ta. Hình ảnh "cành khô", "con quạ" mang đậm tính tượng trưng cho thiên nhiên mùa thu. Nét độc đáo về nghệ thuật còn được thể hiện trong việc tác giả sử dụng ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc. Bài thơ chỉ với 8 tiếng nhưng đã gợi cho người đọc khung cảnh mùa thu và bức tranh tâm trạng của con người.
Có thể nói, đọc bài thơ hai-cư của Ba-sô đã giúp mình tiếp thu thêm kiến thức về thể thơ hai-cư độc đáo của Nhật Bản. Từ đây, mình sẽ chăm chỉ đọc sách và bồi dưỡng tri thức để khám phá nhiều điều thú vị từ nền văn học của các quốc gia khác.
Như vậy, bài thuyết trình của em về: Giới thiệu, đánh giá về nội dung và nghệ thuật một bài thơ hai-cư Nhật Bản đến đây là kết thúc. Em rất mong sẽ nhận được lời nhận xét của cô và những ý kiến đóng góp của các bạn để bài thuyết trình ngày càng hoàn thiện.

Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 10 hay khác:


Giải bài tập lớp 10 Chân trời sáng tạo khác